Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

phân tích bài thơ chim hải âu charles baudelaire theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.88 MB, 21 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI </b>

KHOA NGỮ VĂN

<b>HỌC PHẦN: THỂ LOẠI VÀ TÁC GIA TIÊU BIỂU VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC </b>

<small>I.KHÁI NIỆM VỀ THỂ LOẠI THƠ: ... 3 </small>

<small>II. ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ:... 3 </small>

<small>II.1, Đặc trưng nội dung của thơ: ... 3 </small>

<b><small>II</small></b><small>.2. Đặc trưng về hình thức của thơ:... 4 </small>

<small>III. TÁC GIẢ CHARLES PIERRE BAUDELAIRE & TÁC PHẨM ... 5 </small>

<small>“CHIM HẢI ÂU”... 5 </small>

<b><small>III.1</small></b><small>,Tác giả ... 5 </small>

<b><small>III</small></b><small>.2 Tác phẩm “Chim hải Âu”... 8 </small>

<small>IV. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “CHIM HẢI ÂU” THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI: . 10 </small> <b><small>IV.1 </small></b><small>Đặc trưng về nội dung ... 10 </small>

<b><small>IV.</small></b><small>2. Đặc trưng về hình thức. ... 15 </small>

<small>V. TỔNG KẾT... 20 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>3 </small>

<b>I.KHÁI NIỆM VỀ THỂ LOẠI THƠ: </b>

-Thơ là một hình thức sáng tác văn học đầu tiên của lồi người. Chính vì vậy mà có một thời gian rất dài thuật ngữ thơ được dùng chỉ chung cho văn học. Thơ có lịch sử lâu đời như thế nhưng để tìm một định nghĩa thể hiện hết đặc trưng bản chất của nó cho việc nghiên cứu thơ ngày nay thì thật khơng dễ. Có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những quan điểm khác nhau về thơ. Theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học khái quát được những đặc trưng cơ bản của thơ: : "Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngơn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu". Thời cổ đại, thơ có nghĩa rộng, bao hàm toàn bộ văn học. Vào thời cận, hiện đại, thơ có nghĩa hẹp, chỉ riêng loại hình sáng tác phản ánh đời sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh, có nhịp điệu.

<b>II. ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ: II.1, Đặc trưng nội dung của thơ: </b>

II.1.1, Thơ là thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức:

Tính trữ tình là đặc trưng nổi bật nhất của nội dung thơ. Vần nhịp đều cần cho thơ nhưng chưa phải là bản chất của thơ. Thơ không miêu tả sự vật bên ngồi, khơng kể các sự vật sự việc xảy ra mà chỉ biểu hiện các xúc động nội tâm, những tình cảm, cảm nhận của con người trước sự việc, giúp ta hiểu con người chủ thể ở bên trong. Thơ không phải là sự bộc lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp. Tình cảm trong thơ là tình cảm được ý thức, được siêu năng, tình cảm được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ, gắn liền với khối cảm của sự tự ý thức về mình và về đời.

Tình cảm là sinh mệnh của thơ, đó là sự rung động mãnh liệt ở bên trong, sự giày vò, chấn động trong tâm hồn, là thứ tình cảm mà nhà thơ phải lắng nghe từng cung bậc, từng cảm xúc ẩn sau bên trong tâm hồn mình: khổ đau, vui sướng, hay cả những nỗi tuyệt vọng. Thơ ca khởi phát từ tâm hồn người, đó là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc, là khúc hát của tâm hồn. Nếu các tác phẩm tự sự (tiểu thuyết, truyện ngắn, ký...) thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả thơng qua việc tái hiện một cách khách quan các hiện tượng đời sống với những tình huống, sự kiện, diễn biến thì thơ ca – một thể loại tiêu biểu của loại hình trữ tình lại hướng vào thể hiện thế giới nội tâm, hiện thực bên trong tâm hồn con người với những rung cảm tinh tế, sâu sắc trước cuộc sống mn màu. Tình cảm trong thơ không tự dưng nảy sinh mà được gợi hứng, xuất phát từ một hồn cảnh, tình huống, sự việc, sự kiện…cụ thể trong cuộc sống. Tình cảm trong thơ phải là tình cảm lớn, tình cảm đẹp, tình cảm cao thượng, thấm nhuần bản chất nhân văn, chính nghĩa.Tình cảm trong thơ có sự cá thể hóa. Thơ bao giờ cũng biểu hiện cái tơi tác giả của nó, qua từng trang thơ người đọc được tiếp xúc với một cá tính, một cuộc đời, một tâm hồn. Thơ gắn với ý niệm về cái tơi thi nhân của nhà thơ vì vậy mỗi bài thơ, câu thơ

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>luôn thể hiện rõ ràng những quan điểm, những nét riêng mà chỉ nhà thơ đó mới có ii II.1.2, Thơ là nghệ thuật của trí tưởng tượng </b>

Nếu tình cảm là sinh mệnh thì tưởng tượng là đơi cánh của thơ. Thơ địi cơ đúc để rồi trong một phút nổ ra như tiếng sét. Thơ không có trí tưởng tượng như bể cạn hết nước” (Chế Lan Viên). “Chẳng có thơ nào khơng có nhạc, song chẳng có thơ nào khơng có tưởng tượng” (La Fontaine).Trí tưởng tượng là tiền đề cho sáng tạo thơ vừa làm nên sức mạnh nội tại cho thơ, tự do, phóng khống, linh hoạt, mạnh mẽ, giàu cá tính.

Người nghệ sĩ vận dụng trí tưởng tượng để sáng tạo nên những hình ảnh thơ mới lạ, vừa cô đúc vừa giàu cảm xúc. Tưởng tượng tạo nên sự liên kết giữa cảm xúc, ý, ngoại vật và phát huy những năng lực tinh thần với những ấn tượng, kinh nghiệm, mơ ước... để lựa chọn hình ảnh, nhạc điệu, ý... cho phù hợp. Những hình ảnh phong phú, mới mẻ của thơ ca có sức hấp dẫn người đọc, nâng đỡ, bồi đắp tâm hồn con người.

Nhưng tưởng tượng mà không xa rời, thốt ly đời sống. Nhà văn có vốn hiểu nhiều biết rộng, trang bị cho mình thế giới quan, nhân sinh quan là cơ sở chắc chắn để cho trí tưởng tượng mình bay bổng nhưng lại khơng vượt ra ngồi quỹ đạo của đời sống cũng như quy luật và quy tắc phản ánh của nghệ thuật.

<b>II.2. Đặc trưng về hình thức của thơ: </b>

II.2.1 Thơ biểu hiện bằng biểu tượng, ý tượng:

Thơ biểu hiện bằng biểu tượng mang nghĩa, các ý tượng hình ảnh có ngụ ý. Biểu tượng cho phép thơ nắm bắt thẳng những hình ảnh nổi bật nhất, cô đọng nhất, giàu hàm ý nhất của đời sống vào mục đích biểu hiện. Mỗi loại thơ có những biểu tượng riêng. Mỗi nhà thơ có những biểu tượng khơng lặp lại. Các biểu tượng trong thơ nảy sinh nhờ sức liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo mạnh mẽ của nhà thơ.

II.2.2 Ngôn từ thơ cấu tạo đặc biệt

Ngôn ngữ trong thơ là ngơn ngữ đã được cách điệu hịa cũng như bước chân trong điệu vũ so với bước đi thường.Bước đi thường có mục đích chính là di chuyển từ nơi này đến nơi khác, tính chất nhịp nhàng, duyên dáng, uyển chuyển, đúng nhạc không quan trọng lắm.Nhưng bước đi trong điệu vũ không phải chỉ để đi mà chủ yếu nhằm diễn tả ý tưởng, tình cảm, là phương tiện diễn đạt nội dung nghệ thuật. Tùy nội dung khác nhau mà có bước khoan thai, dìu dặt, có bước thoăn thoắt, có bước phân vân. Ngơn ngữ thơ cũng vậy.Ngôn ngữ thơ không chỉ thực hiện chức năng thông báo, cung cấp thông tin như ngôn ngữ thông thường mà nhằm thực hiện chức năng truyền cảm, biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất định.Vì vậy, ngơn ngữ trong thơ được cách điệu hóa, khơng giống ngơn ngữ thơng thường.Tính cách điệu hóa của ngơn ngữ có những biểu hiện cụ thể sau:

* Ngơn từ có nhịp điệu: Sự phân dịng của lời thơ nhằm mục đích tạo thành những đơn vị nhịp điệu. Cuối mỗi dòng đều là chỗ dừng của nhịp điệu.Các thể thơ khác nhau lại có cách tạo nhịp điệu khác nhau.

*Ngôn từ thơ không có tính liên tục và tính phân tích như ngơn từ văn xi, ngược lại nó có tính nhảy vọt, gián đoạn, tạo thành những khoảng lặng giàu ý nghĩa.

* Ngơn từ thơ giàu nhạc tính với những âm thanh luyến láy, những từ trùng điệp, sự phối hợp bằng trắc và những cách ngắt nhịp có giá trị gợi cảm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>5 </small>

- Cấu tạo đặc biệt của ngôn ngữ thơ cịn tạo nên một đặc tính nữa là làm cho thơ vừa có hình vừa có nhạc. thơ là sự tổng hợp của hình và nhạc. Hình của thơ do ý nghĩa của ngôn từ dựng lên, nhạc của thơ sinh ra từ âm thanh của ngôn ngữ. Hình của thơ lắng đọng, nhạc của thơ ngân vang. Mỗi lời thơ, khổ thơ, bài thơ cất lên đều nhạc, sáng hình.

Đặc trưng nội dung gắn chặt với đặc trưng hình thức của thơ, khơng thể tách rời. Khi phân tích thơ, cần bám sát nội dung và hình thức của thơ.

<b>III. TÁC GIẢ CHARLES PIERRE BAUDELAIRE & TÁC PHẨM “CHIM HẢI ÂU” </b>

<b>III.1,Tác giả III.1.1 Tiểu sử </b>

Baudelaire được sinh ra tại Pháp, vào ngày mùng chín tháng tư năm 1821 , là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng nhất đến nền văn học Pháp của thế ký XIX. Thậm chí, Victor Hugo đương thời cịn cơng nhận Baudelaire là tác gia lớn nhất của nền thơ ca Pháp thế kỷ XIX. Ông thuộc trường phái chủ nghĩa tượng

Năm 1827, cha ơng qua đời. Sau đó, mẹ ơng tái hôn và gửi ông vào một trường nội trú. Ông cùng gia đình tới Ấn Độ vào năm 1841. Khoảng một năm sau đó, ơng trở về Paris, đối mặt với cuộc sống thiếu thốn và bắt đầu sáng tác. Ơng có tham gia cuộc Cách mạng năm 1848 để kết thúc nền Quân chủ tháng Bảy. Trong thời kỳ này, ông gặp một phụ nữ đẹp tên là Jeanne Duval, và chính người này đã đem nhiều cảm xúc và thi hứng cho ông. Năm 1867, ông qua đời sau một thời gian ốm nặng.

Nhiều cơng trình của Baudelaire đã được xuất bản sau khi ông qua đời, cũng như mẹ ông đã hoàn trả nhiều khoản nợ đáng kể đã ám ảnh cuộc đời ông. Cuối cùng phu nhân Caroline đã nhìn thấy giá trị trong sự nghiệp văn chương của con mình. "Tơi thấy rằng con trai tơi, sau tất cả các lỗi lầm của mình, cuối cùng cũng có chỗ đứng trong văn học". Người mẹ ấy đã sống thêm bốn năm nữa sau sự ra đi của Baudelaire. Thiên tài đau khổ cả đời chờ đợi tình thương tuyệt đối từ mẹ mình, ít ra đã có được điều ơng mong chờ nhất khi ông rời khỏi cuộc sống

<b>III.1.2 Sự nghiệp </b>

Baudelaire là một trong những nhà cải cách lớn nhất của toàn bộ lịch sử văn học Pháp. Thơ ca của ông chịu ảnh hưởng của các nhà thơ lãng mạn Pháp của thế kỷ XIX trước đó, học tập từ cả phái Thi sơn. Về sau ông nhìn thấy những hạn chế ở cả hai trào lưu trên.

Từ 1839 đến 1841, ông trở thành người bạn thân thiết với nhóm Normande École (Trường phái Norman), một nhóm các nhà thơ sinh viên hâm mộ Gustave Levavasseur, Philippe de Chennevières, và Ernest Prarond. Đầu năm 1842, Prarond khẳng định đã nghe Baudelaire ngâm thơ một số bài mà sau đó đã được xuất bản trong Les Fleurss du mal. Baudelaire được cho là đã tham gia trong một ấn phẩm tập thể với Levavasseur, Prarond, và một người khác tên là Dozon. Nhưng Baudelaire đã rút lại những đóng góp

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

của mình, bởi vì Levavasseur muốn sửa chữa, biên tập lại những sáng tác của Baudelaire.

Những bài thơ đầu tiên được đăng trên báo của Baudelaire lại xuất hiện bằng tên người khác. Cụ thể là mười một bài thơ xuất bản giữa năm 1844 và 1847 trên tờ L'Artiste dưới tên của Privat d'Anglemont – một người bạn văn chương của Baudelaire – được cho là của Baudelaire, và trong thực tế chín trong số những bài thơ này, vốn được góp nhặt phiên bản Pléiade tuyển tập những tác phẩm của Baudelaire xuất bản 1975 1979, đã -được xác định chắc chắn là của Baudelaire21. Bài thơ đầu tiên -được xuất bản dưới tên riêng của Baudelaire xuất hiện trong L'Artiste ngày 25 tháng năm 1845, đó là bài sonnet A Une Dame Creole (Tới một người phụ nữ ở Creole), để kỷ niệm vẻ “nhợt nhạt” và “quyến rũ” đáng yêu của bà Autard de Bragard, một người tình Baudelaire gặp được trong chuyến đi tới Ấn Độ Dương. Những tác phẩm được đăng tải chính thức tiếp theo của Baudelaire phải đợi đến sáu năm sau đó, vào năm 1851.

Mặc dù các bài phê bình trong Salon de 1845 (1845) đã không được chú ý bởi các nhà phê bình, tuyển tập phê bình Salon de 1846 được xuất bản sau đó đã gây ấn tượng tốt. Trong tác phẩm quan trọng Salon de 1846, Baudelaire hướng mũi nhọn phê bình tập trung vào người nghệ sĩ và đặt nền tảng cho những ý tưởng về nghệ thuật mà ông tiếp tục phát triển trong Salon de 1859, xuất bản lần đầu tiên trong tháng sáu và tháng bảy năm đó.

Năm 1847, ơng xuất bản tiểu thuyết duy nhất của ông, La Fanfarlo, một sáng tác mang tính chất tự truyện dựa trên đó có một anh hùng bị tra tấn có tên là Samuel Cramer. Ơng đã viết một số ít các bài tiểu luận và đánh giá cho các tạp chí khác nhau.

Trong năm 1854 và 1855 những bản dịch đầu tiên tác phẩm của Poe của Baudelaire đã được cơng bố trên tờ Le Pays. Đó là một tác phẩm dịch rất tỉ mỉ, Baudelaire đã phải đi tìm các thủy thủ nói tiếng Anh để trau dồi thêm vốn từ vựng hàng hải của mình. Trong tháng sáu năm 1857, phiên bản đầu tiên của Les Fleurss du mal được xuất bản bởi nhà xuất bản của Auguste Poulet-Malassis.Baudelaire tiếp tục sự nghiệp với các ấn phẩm thơ in rải rác vào những năm 1860. Năm 1862, ông cho đăng 20 bài thơ văn xuôi trên tờ La Presse.

Sự nghiệp của Baudelaire, khơng tính đến thơ ca, cịn bao gồm một tiểu thuyết, một bản dịch rất có ảnh hưởng từ tác phẩm của nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe, những đánh giá rất có chính kiến đối với nghệ thuật đương thời, nhiều mục tạp chí, và các tiểu luận phê bình trên nhiều đối tượng. Những gì ơng để lại đã có một ảnh hưởng to lớn đến cả chủ nghĩa hiện đại (modernism) trong văn học và nghệ thuật sau này. Không chỉ là một thiên tài của văn học Pháp thế kỷ XIX, Charles Baudelaire luôn là một trong những nhân vật quan trọng trong lịch sử văn học thế giới.

Ông để lại sự nghiệp của một nhà phê bình văn học, nghệ thuật rất có phong cách, một nhà viết tiểu thuyết và một dịch giả đầy tài ba. Những thành tựu ấy chứng minh một cuộc đời hoạt động văn học vơ cùng tích cực và sơi nổi, giúp ơng có điều kiện tiếp cận, học tập từ chủ nghĩa lãng mạn, đến phái Thi sơn, và cuối cùng dừng chân Những di . sản từ sự nghiệp của ông ảnh hưởng khơng chỉ đến văn học Pháp mà cịn đến toàn châu Âu, đến nhiều phần khác nhau của văn học thế giới. Ơng khơng chỉ là một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ vĩ đại mà còn là một nhà tư tưởng, dẫu sống một cuộc đời tăm tối, nhiều đau khổ, nhưng luôn trăn trở rất nghiêm túc về định mệnh của nghệ thuật và thơ ca.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>7 </small>

<b>III.1.3. Quan điểm nghệ thuật của Charles Baudelaire Nghệ thuật là ám gợi: </b>

Thơ ông không đi vào lối thơ vô cảm, nghiêng về trau chuốt hình thức ngơn ngữ của phái Thi Sơn, cũng như không quá tập trung vào việc miêu tả cảm xúc của thi phái lãng mạn. Ơng chủ trương lối thơ gợi chứ khơng tả, một thứ thơ phải kết hợp được ở đó cả cảm xúc và trí tuệ. Đầu tiên, Baudelaire quan niệm: “Nghệ thuật thuần túy là gì, theo quan niệm mới? Là tạo ra một sức mạnh kỳ diệu gợi cảm, chứa đựng cả đối tượng lẫn chủ động, ngoại giới và tâm hồn nghệ sĩ”. Theo Baudelaire nghệ thuật là “ám gợi” (suggestion), có thể ám gợi bằng ngơn ngữ, hình ảnh, âm thanh, thơng qua đó người đọc có thể liên tưởng đến một thế giới sâu xa hơn hoặc đưa lại những rung động tinh vi của đời sống tinh thần, tâm linh. Baudelaire chủ trương tạo ra những kết hợp từ mới, nhà thơ là người biết gia công từ để biến ngôn ngữ trở thành một thứ ma lực gợi cảm. Ngôn ngữ trong thơ là ngôn ngữ gợi cảm chứ không phải miêu tả thông thường, hạn chế ngơn từ khái niệm, để thơ có thể tác động trực tiếp đến giác quan và đưa lại cho người đọc thơng tin về hình ảnh sự vật. Bỏ qua lối mòn của thơ ca truyền thống miêu tả thế giới hiện hữu và bộc lộ cảm xúc dâng trào, ngôn ngữ trong thơ Baudelaire phá vỡ cấu trúc thông thường bằng cách vận dụng cách sắp đặt từ mới

<b>không theo quy luật miêu tả mà theo quy luật liên tưởng bất ngờ đầy tính trực giác. </b>

Baudelaire cho rằng thơ phải tạo ra ngôn từ mới, hoặc cấp cho từ những ý nghĩa mới khác với ngơn từ thơng thường, thốt khỏi thân phận là vật phụ thuộc của lý tính chỉ làm nhiệm vụ truyền đạt thông tin hoặc mô tả một cách rõ ràng sự vật, mà ngôn từ tự bản thân nó đã có giá trị độc lập. Từ có sức mạnh nội tại chứ khơng chỉ thuần túy là

<b>phương tiện diễn đạt, từ chính là thơ. </b>

Với quan niệm nghệ thuật là ám gợi, thơ Baudelaire đề cao biểu tượng. Biểu tượng khơng cịn xa lạ trong văn học, tuy nhiên đến Baudelaire biểu tượng trong thơ có nội hàm và sắc thái khác biệt so với các trường phái trước đó. Khơng phải ngẫu nhiên mà Baudelaire được mệnh danh là “ông vua biểu tượng” của thơ Pháp mà ông chính là người tiên phong khai thác một cách rộng rãi nhất ưu thế của biểu tượng trong sáng tạo nghệ thuật. Baudelaire từng nói: “Chỉ có tưởng tượng là mang đầy chất thơ”. Bởi thế hình ảnh sử dụng trong thơ Baudelaire vơ cùng phong phú, mang đặc tính gợi cảm khiến thơ mở ra một thế giới vô hạn

<b> Nghệ thuật là khám phá và diễn đạt thế giới mới </b>

Phải nói rằng bản chất của thơ Baudelaire là khám phá và diễn đạt thế giới mới bí ẩn và vơ tận. Ơng khơng hài lịng với thơ mơ tả thế giới hữu hình, bề mặt, mà ơng quan niệm nhà thơ là người được trao quyền năng khám phá thế giới bí ẩn vơ hình ẩn sâu sau thế giới hữu hình, khám phá những địa hạc tâm linh và vũ trụ kỳ bí ẩn sâu sau

<b>lớp vỏ bọc vật chất. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Thơ Baudelaire trở thành một mĩ học mới, không chỉ gắn liền với cảm nhận và khao khát của nhà thơ trong mục đích khám phá và diễn đạt thế giới thống nhất, trọn vẹn, mà thơ còn là nơi ở đó con người được thốt ra khỏi cái tầm thường của đời sống vật chất hạn hẹp, để hướng đến thế giới mới đầy mị lực. Quan niệm mới ấy của

<b>Baudelaire đã ảnh hưởng đến nhiều nhà thơ thế hệ sau. </b>

Trong thơ Baudelaire, khả năng khám phá và diễn đạt thế giới mới không tách rời tư duy tượng hợp và năng lực trực giác. Ông là người đầu tiên đề cập một cách rộng rãi sự tương hợp giữa các giác quan trong sáng tạo nghệ thuật. Theo Phùng Văn Tửu, “Baudelaire muốn ta lưu tâm đến mối tương quan huyền bí tạo nên sự thống nhất âm u và sâu xa của vũ trụ vượt ra ngoài sự cảm nhận hời hợt của các giác quan thông thường”

<b> Sáng tạo nghệ thuật là hành trình cơ đơn và xả thân của người nghệ sĩ </b>

Baudelaire cho rằng: “Một số đơng người nói rằng mục đích của thơ ca là một sự giáo huấn nào đó, rằng thơ ca phải trau dồi lương tâm, hoặc trau dồi phong tục, hoặc cuối cùng chỉ ra một cái gì đó hữu ích… Nhưng thơ ca khơng có mục đích nào khác, và sẽ khơng có bài thơ nào vĩ đại, cao q, thực sự xứng đáng với tên gọi bài thơ, bằng một bài thơ được viết ra chỉ vì cái thú làm một bài thơ… Thơ ca không thể đồng hóa với khoa học hoặc với luân lý, dù phải chịu tội chết hoặc bị bỏ rơi: nó khơng lấy chân lý làm đối tượng, nó chỉ là chính nó”. Baudelaire đã sớm bộc lộ rõ quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật khi cho rằng nhà thơ phải là người sáng tạo ra

<b>một thứ thơ “thuần khiết”. </b>

Sự cô đơn và lạc lõng giữa xã hội của người thi sĩ không phải là những biểu hiện kỳ quặc của những tâm hồn “suy đồi” mà chính là sự tiên liệu nền nghệ thuật mới và đi trước thời đại khiến nhiều người khó chấp nhận. Khơng ở đâu xa, ngay chính Tập thơ Hoa của nỗi đau từ khi mới ra đời năm 1857 đã bị giới cầm quyền cấm lưu hành, tác giả bị phạt tiền và bị kết án “đã làm tổn hại tới nền đạo đức chung”. “Tội” của Baudelaire chính là đã đi trước thời đại mình, hướng đến một nền nghệ thuật mới đồng thời dũng cảm thể hiện nó bất chấp những rào cản của luật pháp, đạo đức chung của xã hội trưởng giả nặng tư duy duy lợi và của thói quen thưởng thức cái Đẹp đã từ lâu trở thành lối mòn. Sở dĩ Baudelaire “người thi sĩ bị ruồng bỏ” (Le - poète maudit - chữ dùng của Verlaine) bị xã hội cự tuyệt bởi ông đã có những khám phá độc đáo và có lối diễn đạt quá mới mẻ về thế giới và đời sống hoàn toàn xa lạ với nền nghệ thuật nặng tư duy duy lý bấy lâu. Sự xả thân vì nghệ thuật của ơng dễ dàng nhận thấy trong toàn bộ tập thơ Hoa của nỗi đau từ nội dung đến hình thức diễn đạt.

<b>III.2 Tác phẩm “Chim hải Âu” Nguyên tác </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>9 </small> L’albatros

Souvent, pour s’amuser, les hommes d’équipage Prennent des albatros, vastes oiseaux des mers,

Qui suivent, indolents compagnons de voyage, Le navire glissant sur les gouffres amers. À peine les ont-ils déposés sur les planches, Que ces rois de l’azur, maladroits et honteux,

Laissent piteusement leurs grandes ailes blanches Comme des avirons trner à cơté d’eux.

Ce voyageur ailé, comme il est gauche et veule! Lui, naguère si beau, qu’il est comique et laid!

L’un agace son bec avec un brûle-gueule, L’autre mime, en boitant, l’infirme qui volait!

Le Poète est semblable au prince des nuées Qui hante la tempête et se rit de l’archer;

Exilé sur le sol au milieu des huées, Ses ailes de géant l’empêchent de marcher.

(Charles Baudelaire)

<b>Dịch thơ: </b>

“Có nhiều khi những chàng thủy thủ Bắt để chơi những chú hải âu

Cánh to lơ lửng theo sau Trên vực nước mặn con tàu đại dương

Vừa bị ném trên sàn tàu gỗ Chim hải âu vua của trời xanh Kéo đôi cánh trắng mông mênh Như đơi chèo nặng bên mình xấu xa

Chim trời kia hôm xưa đẹp thế Sao ngày nay tiểu tụy buồn cười!

Người ghẹo mỏ, kể mỉa mai Bước đi tập tễnh tung trời bấy nay-

Là thi sĩ như chim trời ấy Ưa bão giông, chẳng ngại cung tên

Đọa đày giữa đám ghét ghen, Nặng đôi cánh rộng, không quen bước thường”

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

(Bản dịch của Vũ Đình Liên)

<b>III.2.1, Hoàn cảnh sáng tác: </b>

Trong kho tàng thơ ca của Baudelaire, tập thơ đề là “Ác hoa” (Fleurs du mal) là tuyệt tác hơn cả. Tập thơ ấy như luyện như đúc không biết bao nhiêu tư tưởng kỳ lạ, phản chiếu cho ta những chốn thâm sơn cùng cốc trong chân thân mộng cảnh của người đời với lắm bài ý tứ thâm trầm.

Bài thơ “Chim hải âu” hình thành từ một sự cố trong chuyến đi lênh đênh trên Ấn Độ Dương năm 1841. Tác phẩm được bắt đầu viết năm 1842 nhưng mãi đến năm 1859 mới

1859 và in lần đầu trong cuốn Les Fleurs du mal của Baudelaire. Bài thơ thuộc phần thứ hai trong tập thơ này. Đây được đánh gia là phần quan trọng nhất của bài thơ gồm 75 bài thơ .

<b>III.2.2 Nội dung: </b>

Bài thơ “ Chim Hải Âu” gồm 16 dòng, được chia thành 4 đoạn. Bài thơ khắc họa hình tượng chim hải âu. Lần đầu tiên nhà thơ cảm thấy những cánh hải âu bay lượn trên bầu trời mênh mông giữa biển khơi sao mà đẹp, nhưng rồi những cánh chim trời - ơng hồng của biển khơi - lại lếch thếch vụng về thảm bại trên sàn tàu làm trò đùa cho các thủy thủ. Trong nỗi đau khổ, cô đơn, chán chường, tuyệt vọng, nhà thơ đã chọn chim hải âu tượng trưng cho nhà thi sĩ, lúc hải âu tự do bay lượn tượng trưng cho thi sĩ được tự do sáng tác với những lý tưởng của bản thân, lúc chim hải âu thảm bại, làm trò đùa cho tên thủy thủ cũng là nỗi đau khổ của nhà thơ khi bị người đời xỉa xói, đánh mất đi tự do của mình

<b>IV. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “CHIM HẢI ÂU” THEO ĐẶC TRƯNG </b>

THỂ LOẠI:

<b>IV.1 Đặ trưng về n i dung c </b> ộ

<b>IV.1.1 Bài thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức và chất thơ của thơ. </b>

Bài thơ “Chim hải âu” hình thành từ cảm hứng trong chuyên đi lênh đênh trên Ấn Độ Dương. Lần đầu tiên nhà thơ cảm thấy những cánh hải âu bay lượn trên bầu trời mênh mông giữa biển khơi sao mà đẹp, nhưng rồi những cánh chim trời ơng hồng của biển - khơi lại lếch thếch vụng về thảm bại trên sàn tàu làm trò đùa cho các thủy thủ. Trong - nỗi đau khổ, cô đơn, chán chường, tuyệt vọng. Tác phẩm “Chim hải âu” của Baudeliare cũng được ra đời.

Bài thơ không miêu tả sự vật bên ngoài, mà biểu hiện các xúc động nội tâm, những tình cảm, cảm nhận của con người trước sự việc, giúp ta hiểu con người chủ thể bên trong. Baudelaire đã gửi gắm những tâm sự, trăn trở của mình một cách vơ cùng đặc biệt, kì diệu – qua những cánh chim hải âu. Bốn khổ thơ – 16 dòng, Baudelaire không nhằm miêu tả

</div>

×