Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

bài tiểu luận đề tài tự kỷ ở trẻ em việt nam ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 23 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI</b>

<b>KHOA TÂM LÝ - GIÁO DỤCBài tiểu luận </b>

<b>Học phần: Sinh lý học hoạt động thần kinhGiảng viên hướng dẫn: Cô Lê Thị Tuyết</b>

<b>Đề tài: Tự kỷ ở trẻ em Việt Nam ngày nay</b>

<b>NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN: 1</b>

Bùi Thị Hạnh - 725614024

Phạm Thị Hương Giang – 725614021 Ngô Minh Hòa – 725614028

Nguyễn Thùy Linh – 725614046

<i>Hà Nội, 2023</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>I. Lý do chọn đề tài:</b>

Bệnh tự kỷ là một trong những vấn đề quan trọng và đầy thách thức trong lĩnh vực y tế và giáo dục hiện nay. Với số lượng trẻ em bị tự kỷ tăng đáng kể trong những năm gần đây, việc hiểu rõ nguyên nhân và cách ứng phó với bệnh tự kỷ trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Vì vậy, việc nghiên cứu về bệnh tự kỷ ở cấp độ Thạc sĩ có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển của cả cá nhân nghiên cứu và cộng đồng xã hội.

Trước tiên, nghiên cứu về bệnh tự kỷ sẽ giúp hiểu rõ hơn về các nguyên nhân gây ra bệnh, nhờ đó chúng ta có thể ngăn ngừa và chữa trị bệnh hiệu quả hơn. Hiện nay, người ta chỉ biết rất ít về nguyên nhân chính xác của bệnh tự kỷ, và việc tiến hành nghiên cứu sẽ đóng một vai trị quan trọng trong việc khám phá những nguyên nhân tiềm ẩn và tìm ra các biện pháp phịng ngừa. Kết quả từ nghiên cứu sẽ giúp các nhà chức trách y tế và giáo dục phát triển các chương trình và chính sách hiệu quả hơn để giúp đỡ những người bị tự kỷ.

Thứ hai, nghiên cứu về bệnh tự kỷ cung cấp cơ hội để phát triển các phương pháp chăm sóc và giáo dục phù hợp cho những người bị tự kỷ. Việc nắm vững các phương pháp và kỹ năng giảng dạy phù hợp sẽ giúp những người làm việc trong lĩnh vực y tế và giáo dục có khả năng cung cấp sự hỗ trợ và chăm sóc tốt nhất cho những người bị tự kỷ. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cung cấp cơ hội để phát triển các biện pháp trị liệu và phòng ngừa mới, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và khả năng thích ứng xã hội của những người bị tự kỷ.

Cuối cùng, nghiên cứu về bệnh tự kỷ sẽ tạo ra những chun gia có chất lượng và kiến thức chun mơn cao trong lĩnh vực này. Những người nghiên cứu có thể đóng vai trị quan trọng trong việc giảng dạy, hướng dẫn và thực hiện các dự án nghiên cứu liên quan đến bệnh tự kỷ. Đồng thời, họ cũng góp phần vào việc nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của cộng đồng xã hội về bệnh tự kỷ, giúp loại bỏ các định kiến và tạo đất nền thuận lợi cho việc giúp đỡ và chăm sóc những người bị tự kỷ. Tóm lại, việc

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

nghiên cứu về bệnh tự kỷ ở cấp độ Thạc sĩ khơng chỉ đáng giá vì sự phát triển cá nhân mà cịn vì lợi ích xã hội. Với sự tăng nhanh của số lượng người mắc bệnh tự kỷ, việc hiểu rõ hơn về bệnh này và phân tích sự ảnh hưởng của nó là cần thiết.

<b>II. Mục đích nghiên cứu:</b>

Mục đích nghiên cứu về trẻ tự kỷ ở Việt Nam là để tìm hiểu thêm về tình trạng tự kỷ ở trẻ em trong nước, hiểu rõ hơn về những khó khăn và thách thức mà nhóm trẻ tự kỷ đang phải đối mặt và đưa ra các hướng giải quyết phù hợp.

Trẻ tự kỷ, hay còn được gọi là rối loạn tự kỷ, là một trong những loại rối loạn phát triển trí tuệ phổ biến nhất trên thế giới. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ trẻ tự kỷ trên thế giới đã tăng lên gấp đôi trong thập kỷ qua và hiện nay đang ảnh hưởng đến khoảng 1/160 trẻ em. Tuy nhiên, nghiên cứu về trẻ tự kỷ tại Việt Nam vẫn chưa được đủ quan tâm và phát triển.

Một trong những mục đích chính của nghiên cứu về trẻ tự kỷ là để đưa ra các thông tin cụ thể về tình trạng của nhóm trẻ này ở Việt Nam. Hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào cung cấp đầy đủ thông tin về tỷ lệ và đặc điểm của trẻ tự kỷ tại Việt Nam. Qua việc nghiên cứu, chúng ta sẽ có cái nhìn rõ ràng hơn về số lượng trẻ tự kỷ, tỷ lệ nam/nữ, phân bố địa lý và những đặc điểm chung của nhóm trẻ này. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho việc đưa ra chính sách và biện pháp hỗ trợ phù hợp cho trẻ tự kỷ ở Việt Nam.

Mục đích khác của nghiên cứu về trẻ tự kỷ ở Việt Nam là để xác định những khó khăn và thách thức mà nhóm trẻ tự kỷ đang phải đối mặt. Trẻ tự kỷ thường gặp khó khăn trong việc giao tiếp, tương tác xã hội, và thích nghi với mơi trường xung quanh. Gia đình và giáo dục cần có kiến thức và kỹ năng cần thiết để giúp trẻ tự kỷ phát triển toàn diện. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn lực và kiến thức về trẻ tự kỷ ở Việt Nam vẫn còn hạn chế. Qua việc nghiên cứu, chúng ta sẽ có cái nhìn rõ ràng về những khó khăn

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

và thách thức này, từ đó xây dựng những chương trình hỗ trợ và đào tạo phù hợp để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhóm trẻ tự kỷ.

Cuối cùng, mục đích của nghiên cứu về trẻ tự kỷ ở Việt Nam là để đề xuất các hướng giải quyết phù hợp. Qua việc nghiên cứu, chúng ta sẽ tìm hiểu về những phương pháp hỗ trợ và giáo dục đã được áp dụng ở các nước phát triển và sự hiệu quả của chúng trong việc cải thiện cuộc sống của trẻ tự kỷ. Đồng thời, chúng ta cũng có thể nghiên cứu và đề xuất những phương pháp tương thích và phù hợp với hồn cảnh và văn hóa Việt Nam. Điều này sẽ góp phần khơng nhỏ vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống của trẻ tự kỷ, giúp họ phát triển tối đa tiềm năng của mình và tích cực tham gia vào xã hội.

Tóm lại, mục đích nghiên cứu về trẻ tự kỷ ở Việt Nam là để tìm hiểu và khai thác thêm về tình trạng và khó khăn của nhóm trẻ này trong nước, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp để cải thiện chất lượng cuộc sống của trẻ tự kỷ và gia đình họ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>PHẦN NỘI DUNG</b>

<b>I. Khái niệm và triệu chứng:</b>

<b>1. Khái niệm:</b>

Theo Leo Kanner một nhà tâm thần học người Mỹ, người đầu tiên nhận định tự kỷ năm 1943. Ơng mơ tả: “Tự kỷ như một chứng rối loạn tâm thần hiếm gặp ở trẻ em, thường xuất hiện sau 2 tuổi rưỡi”, ông coi tự kỷ như là một “bệnh”, như một đối tượng điều trị y học.

Vào ngày 21/01/2008, Liên hợp quốc đã đưa ra khái niệm về tự kỷ: “Tự kỷ là một loại khuyết tật phát triển tồn tại suốt đời, thường được thể hiện ra ngoài trong 3 năm đầu, hệ quả của rối loạn thần kinh ảnh hưởng đến trẻ em ở nhiều quốc gia, không phân biệt giới tính, chủng tộc hoặc điều kiện kinh tế - xã hội, và đặc trưng bởi khiếm khuyết trong tương tác xã hội, các vấn đề giao tiếp bằng lời nói và khơng lời, có các hành vi, sở thích hạn hẹp và định hình lặp lại.”

Còn theo DSM-5: “Tự kỷ là sự phát triển khơng bình thường hay một sự giảm sút rõ rệt, hoạt động bất bình thường đặc trưng trong ba lĩnh vực: quan hệ xã hội, giao tiếp, tác phòng thu hẹp định hình.”

Bài tiểu luận chúng tôi theo khái niệm của DSM-5.

<b>2. Triệu chứng:</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Bất thường ngôn ngữ: Những đứa trẻ tự kỷ thường khó khăn trong giao tiếp, nói ngọng, nói chậm, khó diễn đạt điều mình nói ra, nhiều đứa trẻ chỉ nhại lại lời người lớn..., không biết trả lời khi được hỏi, không tường thuật lại được câu chuyện được người lớn kể, được nghe, lời nói. Khi giao tiếp thì giọng khó nghe, thiếu cảm xúc, nói nhanh, hét, cáu gắt.

Bất thường hành vi: Trẻ tự kỷ thường có những hành vi xấu hổ như mất kiểm sốt hành vi, quay vịng trịn, nhìn vào tay, nheo mắt, lắc lư, nhảy và chạy xung quanh. Đó là những khn mẫu có thể nhận thấy, ví dụ: làm việc một mình, ln ngồi một chỗ, nằm cùng một tư thế, thích cùng một bộ quần áo, lặp đi lặp lại những lời nói giống nhau đều là những dấu hiệu cảnh báo.

Thích thu hẹp mình: Những người bị tự kỷ thường thích đơn độc một mình khơng thích tiếp xúc nhiều với người khác, họ thường làm một mình việc gì đó rất lâu và kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Ví dụ như: vẽ tranh, sáng tác nhạc, làm những bài toán số, ngắm một thứ gì đó, đọc sách,.... Thường những người tự kỷ họ sẽ rất dễ nóng giận khơng kiềm được cảm xúc của bản thân nhất là khi muốn được thứ gì đó mà người bên cạnh khơng hiểu.

Thiếu kỹ năng tương tác xã hội: Những người bị tự kỷ thường không giao tiếp nhiều, họ thường đơn độc một mình vì vậy thường khơng có kỹ năng tương tác với xã hội. Thường khá chậm trong việc ứng xử mọi thứ, những kí hiệu ra dấu trong giao tiếp họ tiếp nhận khá chậm và nhiều lúc không hiểu do họ ít có sự giao tiếp bằng ngơn ngữ cơ thể. Điều này cũng tạo nên sự nóng nảy dẫn đến những hành vi mất kiểm sốt của họ.Vì ít giao tiếp với mọi người nên họ cũng sẽ ít quan tâm đến cảm xúc, suy nghĩ của người bên cạnh và làm mọi thứ theo sở thích của bản thân. Những người tự kỷ họ thường khơng thích những nơi đơng người, nơi mới mẻ, họ thích ở những nơi quen thuộc an tồn với bản thân hơn.

Rối loạn cảm giác: Những người bị tự kỷ cảm giác của họ rất nhạy cảm. Ngay cả khi nghe động quá to cũng kiến họ hoảng sợ chui vào đâu đó hoặc giật mình che tai, la

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

lớn lên. Ánh sáng quá mạnh sẽ trốn đi hoặc bịt mắt lại. Đặc biệt rất nhạy cảm khi bị người khác động vào người hoặc một số bộ phận dễ nhạy cảm như vai, bụng,...

Rối loạn ăn uống: Biểu hiện ở sự việc khơng thích ăn, hay bị nơn, kén ăn hoặc lười ăn. Khi ăn nhiều trẻ phải cắt nhỏ thịt, rau củ quả ra để dễ ăn. Các loại sữa sẽ là thường được ưu tiên. Họ cũng là người kén ăn hoặc ăn chậm, ăn nhưng không nhai.

Hành vi chống đối – biểu hiện bệnh tự kỷ ở trẻ: Người tự kỷ thường hay có hành vi chống đối, Họ chống đối với những thay đổi xã hội và môi trường sống. Khi mọi thứ thay đổi quá nhanh hoặc đột ngột hơn khơng thích ứng được thì sẽ có những phản ứng tiêu cực, bùng nổ tức giận.

Có một số khả năng đặc biệt: Ở một số trường hợp đặc biệt, người bị tử kỷ có khả năng nhớ nhanh và lâu dài như nhớ một dãy số trong thời gian ngắn, họ nhìn qua một đồ vật nhớ ln, xác định vị trí nhanh. Ngồi ra, họ cịn có khả năng tập trung tuyệt vời.

<b>II. Thực trạng trẻ tự kỷ ở Việt Nam:</b>

Nghiên cứu tự kỷ ở trẻ em ở ba tỉnh thành phố phía bắc Việt Nam (Hà Nội, Hồ Bình, Thái Bình) trên 17.277 trẻ năm 2017.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Khác 65 1.378 0,556 2.818

Từ số liệu này ta thấy tỷ lệ mắc ASD ở trẻ em từ 18 đến 30 tháng tuổi theo đặc điểm nhân khẩu bị xã hội. Tỷ lệ mắc ASD ở thành thị (1,238%) cao hơn đáng kể so với ở nông thôn (0,580%). Tỷ lệ mắc ASD cao hơn đáng kể ở trẻ có mẹ làm nơng dân (1,054%) so với trẻ có mẹ làm nhân viên chính phủ (0,497%).

Tỷ lệ mắc ASD ở trẻ em được tìm thấy trong nghiên cứu này khá giống với tỷ lệ mắc ASD trung bình trên thế giới (0,76%). Tỉ lệ mắc ASD ở trẻ em ở Việt Nam thấp hơn so với các nước có thu nhập cao (ví dụ 2,41% ở trẻ em và thanh thiếu niên ở Mỹ năm 2014–2016 ,1% ở Phần Lan và Thụy Điển và 1,5% ở Đan Mạch năm 2011). Cũng như ở châu Á (ví dụ 1,8% ở trẻ em Nhật Bản năm 2008, và 2,6% ở trẻ em 7 đến 12 tuổi ở Hàn Quốc. Tỷ lệ mắc ASD ở trẻ em Việt Nam được tìm thấy trong nghiên cứu này tương tự với con số 0,9% ở Ấn Độ năm 2015.

Tỷ lệ mắc ASD ở bé trai cao hơn ở bé gái. Điều này phù hợp với những phát hiện trước đây từ các quốc gia khác. Cuộc thảo luận về giới cũng có thể cần được xem xét lại vì nó phức tạp và vẫn chưa được điều tra kỹ lưỡng trên phạm vi quốc tế. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc ASD cao hơn ở trẻ em sống ở môi trường thành thị. Điều này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu khác trên thế giới.

Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ mắc ASD ở trẻ nhỏ cao hơn so với báo cáo từ các nghiên cứu trước đây ở Việt Nam, cho thấy khả năng tỷ lệ mắc ASD có thể đang gia tăng ở Việt Nam, như đã được đề xuất bởi các nghiên cứu ở các quốc gia khác. Mối tương quan đáng kể về ASD ở trẻ em là môi trường thành thị, giới tính nam và nghề nghiệp của mẹ (nông dân). Cần phải nghiên cứu những rủi ro cụ thể tiềm ẩn liên quan đến giới tính nam, sống ở thành thị và có mẹ là nơng dân để phát triển các chiến lược phòng ngừa khả. Bất kể nguyên nhân cơ bản của ASD là gì, rõ ràng cũng cần phải

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

phát triển các chương trình sàng lọc/phát hiện, chẩn đốn hiệu quả hơn và rộng rãi hơn cho ASD ở Việt Nam.

<b>III. Chẩn đoán và phân loại tự kỷ ở trẻ tự kỷ1. Chẩn đoán:</b>

<b>a. Tiêu chuẩn chẩn đoán:</b>

Dựa vào mô tả của Kanner và Asperger:

Bệnh tự kỷ đã có từ rất lâu trong lịch sử. Y học xếp những bệnh này chung với chậm phát triển trí tuệ hay tâm thần phân liệt. Năm 1943 tại Mỹ, bác sĩ Leo Kanner đã mô tả và nhận xét về bệnh tự kỷ. Đối với những đứa trẻ có đặc điểm cơ lập, xa cách. Ơng gọi những đặc điểm đó là hội chứng tự kỷ (Autism).

Trẻ tự kỷ có một vài đặc điểm sau (Theo Kanner): ● Muốn được ở một mình, khơng thích giao tiếp.

● Thờ ơ với hầu hết các kích thích từ mơi trường.

● Thường xun làm theo trình tự, thích lặp lại các hành động quen thuộc.

● Khơng thích sự thay đổi.

● Ngơn ngữ biểu hiện sự bất thường khác biệt hoặc khơng có ngơn ngữ.

● Một số trẻ có trí nhớ rất tốt hoặc khả năng về toán học vượt trội.

● Thiếu sự tiếp xúc về mặt tình cảm với mọi người.

● Biểu hiện hàng ngày về các chọn lựa rất giống nhau về tính tỉ mỉ và tính kỳ dị.

● Thích xoay trịn các đồ vật và thao tác thực hiện rất khéo léo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

● Ghi nhớ không gian và đồ vật rất tốt. Nhưng lại khó khăn trong việc học tập các môn học khác.

● Thường không thể hiểu những hành vi giả vờ và những hành vi cần sự đoán trước.

● Chỉ hiểu nghĩa đen của câu nói.

● Sự vận động thường hay lặp lại một cách đơn điệu, tạo ra tiếng động.

● Các hoạt động tự phát bị giới hạn sự đa dạng.

Theo Asperger, những trẻ có triệu chứng "Autism" thường có đặc điểm sau: ● Cách tiếp cận xã hội khơng thích hợp.

● Có sở thích đặc biệt với một số chủ đề cụ thể.

● Thường nói chuyện một mình, cách nói chuyện đơn điệu, khơng thích giao tiếp mặc dù giỏi về ngữ pháp và từ ngữ.

● Yếu kém trong việc phối hợp các động tác vận động.

● Trình độ nhận thức có thể ở những mức độ khác nhau: thấp, trung bình, cao. Nhưng thường gặp khó khăn trong q trình học tập các môn học. ● Thiếu ý thức về lẽ phải.

● Cảm thấy thích thú về những con số, chữ viết.

● Tồn tại những vấn đề nghiêm trọng trong quá trình tương tác xã hội.

● Gặp khó khăn trong việc điều khiển giọng nói.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

● Nói những điều không liên quan tới chủ đề.

● Xúc cảm nghèo nàn.

⇨ Ngày nay hai triệu chứng này đều nằm trong nhóm rối loạn phát triển lan tỏa thuộc hai hệ thống chẩn đốn mang tính quốc tế là DSM và ICD.

<b>1b. Tiêu chí chẩn đốn tự kỷ của DSM:</b>

Theo DSM-5, chẩn đốn trẻ có rối loạn phổ tự kỷ phải dựa trên những điều kiện quy định thuộc 5 nhóm A, B, C, D, E như sau:

⮚ Nhóm A: Khiếm khuyết về tương tác xã hội và giao tiếp xã hội với 3 tiêu chuẩn:

● Trẻ không biết cách bắt chuyện và nhập vào chủ đề câu chuyện, cách trả lời rất khác thường. Không biết rung động, chia sẻ tình cảm. Trẻ có biểu hiện thờ ơ, vô cảm trước những tác động từ môi trường.

● Trẻ gặp vấn đề khiếm khuyết trong việc bày tỏ những hành vi, cử chỉ, qua sự giao tiếp bằng mắt. Không thể hiểu những điệu bộ cần đoán và diễn đạt chúng, hoặc bày tỏ cảm xúc trên nét mặt.

● Ngoại trừ cha mẹ và những người chăm sóc ni dưỡng, trẻ gặp nhiều khó khăn trong việc kết bạn và duy trì tình bạn. Trẻ khơng thể thay đổi thực hiện những hành động theo sự địi hỏi của người khác trong những hồn cảnh khác nhau, thiếu khả năng chơi giả vờ.

⮚ Nhóm B: Những giới hạn, lặp lại, rập khuôn hành vi, hoạt động và sở thích( 2 trong 4 dấu hiệu)

● Trẻ thường xuyên lặp lại lời nói, hành động và cách sử dụng đồ vật theo hình thức dập khn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

● Trẻ kiên quyết muốn giữ nguyên thói quen hàng ngày và chống lại sự thay đổi.

● Trẻ thích thú và có niềm đam mê với một trong số những chủ đề của đời sống( ví dụ: các hình vẽ, những con số,..).

● Một vài tác động thuộc về giác quan trẻ không phản ứng hoặc phản ứng rất mạnh mẽ( ví dụ: các em thường nhìn chiếc quạt đang quay, khi bị đau vẫn khơng có phản ứng).

⮚ Nhóm C: Những dấu hiệu trên phải biểu hiện tại thời điểm khi trẻ cịn nhỏ. ⮚ Nhóm D: Những biểu hiện trên gây hạn chế và đối nghịch khả năng sinh hoạt

hàng ngày của trẻ.

⮚ Nhóm E: Những triệu chứng trên khơng thể giải thích được do sự chậm phát triển hay khuyết tật trí tuệ ở trẻ.

<b>2. Phân loại trẻ tự kỷ:a. Phân loại theo mức độ:</b>

- Tự kỷ mức độ nhẹ: Trẻ có khả năng giao tiếp tốt, quan hệ xã hội tốt nhưng chỉ khi được nhắc nhở hoặc khi cần. Trẻ biết chia sẻ tình cảm, sở thích nhưng thường có xu hướng thích một mình. Giao tiếp bằng mắt, giao tiếp khơng lời nhưng không thường xuyên. Trẻ hiểu ngôn ngữ nhưng gặp khó khăn trong việc diễn đạt.

- Tự kỷ mức độ trung bình: Khả năng giao tiếp của trẻ rất hạn chế. Quan hệ với người thân rất tốt. Khi chơi với bạn bè trẻ chỉ quan tâm tới đồ chơi. Rất hạn chế giao tiếp bằng mắt và giao tiếp không lời, chỉ dừng lại ở mức biết lắc đầu, gật đầu, chỉ tay. Các kỹ năng xã hội đơn giản như mặc quần áo, tự ăn. Trẻ chỉ bắt chước hoặc làm theo yêu cầu khi cảm thấy có hứng thú. Khả năng tập trung kém.

- Tự kỷ mức độ nặng: Khả năng giao tiếp của trẻ rất kém. Không giao tiếp bằng mắt và giao tiếp không lời rất hạn chế, chỉ kéo tay người khác. Trẻ thường nói linh tinh, khả năng bắt chước rất hạn chế. Thường hay chơi một mình, trẻ rất tăng động, khơng quan tâm hoặc ít quan tâm tới mọi thứ xung quanh. Có hứng thú đặc biệt với những sự

</div>

×