Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Pháp luật hiện hành điều chỉnh việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 179 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM </b>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HỒ CHÍ MINH </b>

<b>ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ </b>

<b>TÊN ĐỀ TÀI: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ĐIỀU CHỈNH VIỆC GÓP VỐN BẰNG GIÁ TRỊ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀO DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM </b>

<b>CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: PGS.TS. HỒ XUÂN THẮNG ĐƠN VỊ: KHOA LUẬT KINH TẾ </b>

<b>TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>

Tác giả xin cam đoan những nội dung trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở này là kết quả nghiên cứu do chính bản thân thực hiện, mọi thông tin tham khảo mà tôi sử dụng đều trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định hiện hành.

<b>Chủ nhiệm đề tài </b>

<b> PGS.TS. Hồ Xuân Thắng </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>PHẦN MỞ ĐẦU ... 1</b>

<b>1. Lý do chọn đề tài: ... 1</b>

<b>3. Mục đích nghiên cứu của đề tài: ... 4</b>

<b>4. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu: ... 5</b>

<b>5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ... 6</b>

<b>6. Kết cấu đề tài ... 6</b>

<b>Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐIỀU CHỈNH VIỆC GÓP VỐN BẰNG GIÁ TRỊ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀO DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM ... 9</b>

<b>1.1. Khái quát chung về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp ... 9</b>

<i><b>1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền sử dụng đất và giá trị quyền sử dụng đất ... 9</b></i>

<i><b>1.1.2. Khái niệm, đặc điểm góp vốn vào doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh ... 20</b></i>

<i><b>1.1.3. Khái niệm, đặc điểm góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào hoạt động kinh doanh ... 26</b></i>

<b>1.2. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật điều chỉnh góp vốn bằng giá quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp ... 30</b>

<i><b>1.2.1. Giai đoạn từ năm 1986 đến trước khi Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành ... 31</b></i>

<i><b>1.2.2. Giai đoạn từ khi Luật đất đai năm 1993 đến trước thời điểm sửa đổi Luật đất đai năm 1998 có hiệu lực từ ngày 01/1/1999 ... 32</b></i>

<i><b>1.2.3. Giai đoạn từ ngày 01/01/199 đến ngày Luật sửa đổi Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. ... 34</b></i>

<i><b>1.2.4. Giai đoạn kể từ ngày 01/7/2004, đến ngày sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai 2018 cho đến nay ... 36</b></i>

<b>1.3. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp ... 38</b>

<i><b>1.3.1. Xác định giá trị quyền sử dụng đất đủ điều kiện để góp vốn vào doanh nghiệp ... 39</b></i>

<i><b>1.3.2. Chủ thể quan hệ góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp ... 59</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i><b>1.3.2.1. Chủ thể góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp</b></i>

<b> ... 591.3.3.2. Chủ thể nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng vào doanh nghiệp ... 69</b>

<i><b>1.3.3. Hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh ... 72</b></i>

<i><b>1.3.4. Trình tự thủ tục góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh ... 79</b></i>

<b>Kết luận Chương 1 ... 86Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH GÓP VỐN BẰNG GIÁ TRỊ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀO DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ... 88</b>

<b>2.1. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật điều chỉnh việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp của tổ chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh... 88</b>

<i><b>2.1.1. Thực trạng áp dụng quy định điều chỉnh quyền của người sử dụng đất là các tổ chức kinh tế trong nước góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. ... 89</b></i>

<i><b>2.1.2. Thực trạng áp dụng quy định điều chỉnh quyền của người sử dụng đất là Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. ... 99</b></i>

<b>2.2. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp của cá nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí </b>

<b>Minh ... 105</b>

<i><b>2.2.1. Thực trạng áp dụng quy định về điều kiện giá trị quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân góp vốn vào doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. ... 106</b></i>

<i><b>2.2.2. Thực trạng áp dụng quy định về điều kiện giá trị quyền sử dụng đất của người sử dụng đất là Người Việt Nam định cư ở nước ngồi góp vốn vào doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. ... 117</b></i>

<b>Kết luận Chương 2 ... 131CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GÓP VỐN BẰNG GIÁ TRỊ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀO DOANH NGHIỆP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ... 133</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của pháp luật điều chỉnh về góp </b>

<b>vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp. ... 133</b>

<i><b>3.1.1. Cơ sở thực tiễn phải hoàn thiện quy định của pháp luật điều chỉnh về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp ... 133</b></i>

<i><b>3.1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý phải hoàn thiện quy định của pháp luật điều chỉnh về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp. ... 137</b></i>

<b>3.2. Phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật điều chỉnh về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp. ... 147</b>

<i><b>3.2.1. Tăng cường công tác giám sát của Quốc hội đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai hoàn thiện quy định của pháp luật điều chỉnh về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp. ... 147</b></i>

<i><b>3.2.2. Tăng cường công tác điều hành của chính phủ đối với việc thực hiện chính sách pháp luật về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai hoàn thiện quy định của pháp luật điều chỉnh về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp. ... 149</b></i>

<b>3.3. Một số kiến nghị cơ bản hoàn thiện quy định của pháp luật điều chỉnh việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp ... 156</b>

<i><b>3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến thực trạng áp dụng quy định pháp luật về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp của tổ chức ... 156</b></i>

<i><b>3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến thực trạng áp dụng quy định pháp luật điều chỉnh về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp của cá nhân ... 159</b></i>

<i><b>3.3.3. Kiến nghị khắc phục những bất cập liên quan đến việc xác định đất khơng có tranh chấp khi góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp ... 163</b></i>

<b>Kết luận chương 3 ... 165</b>

<b>KẾT LUẬN CHUNG ... 167</b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 169</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: </b>

Dưới góc độ của khoa học pháp lý trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại điều 167 Luật đất đai năm 2013 góp vốn quyền sử dụng đất của Người sử dụng đất được sắp xếp thứ tự sau các quyền cơ bản như: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp. Quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất là một quyền rất quan trọng trong giao dịch dân sự để phát triển kinh tế xã hội và nó xuất phát từ việc thể chế hóa chính sách pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người sử dụng đất trong bản Hiến pháp và Bộ Luật dân sự hiện hành. Tuy nhiên, để thực hiện hóa quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thì rất cần phải có những văn bản cụ thể để điều chỉnh bảo đảm quyền và lợi ích của người sử dụng đất. Pháp luật kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nói

<i>riêng mà cụ thể là Luật doanh nghiệp 2020 có quy định “Góp vốn là việc góp tài sản để </i>

<i>tạo thành vốn điều lệ của cơng ty”. Ngồi ra tại khoản 27 điều 4 Luật doanh nghiệp </i>

<i>2020, có xác định “Phần vốn góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc </i>

<i>cam kết góp vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần vốn góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh.” Trên thực tế thì các chủ thể tham gia giao dịch thực hiện quyền </i>

góp vốn thường rất lúng túng, khơng biết lựa chọn hình thức góp vốn nào, góp bằng quyền sử dụng đất hay góp bằng giá trị quyền sử dụng đất, góp để thành lập pháp nhân mới hay góp khơng thành lập pháp nhân. Chính các cơng chứng viên cũng lúng túng khi cơng chứng dạng hợp đồng này và đặc biệt khi xảy ra tranh chấp rất khó giải quyết. Mặt khác, quy định về quyền sử dụng đất đủ điều kiện để góp vốn rất khó xác định việc đất khơng có tranh chấp là khơng có tranh chấp pháp lý hay khơng có tranh chấp thực tế đang tiềm ẩn rất nhiều khó khăn đối với các tổ chức, cá nhân nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để kinh doanh nhằm mục đích sinh lời hiện nay. Đặc biệt các tranh chấp trong quá trình quyền sử dụng đất đã được góp vào doanh nghiệp xảy ra nhiều phức tạp biến động liên quan đến quyền sở hữu chung tài sản trước đó, trong đó có chủ thể tham gia giao dịch dân sự là người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Quy định này vẫn chưa được hồn thiện nên điều chỉnh việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp ở Việt Nam gặp khơng ít khó khăn, bất cập trong thực tiễn. việc nghiên cứu lý

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

luận và thực tiễn quy định của pháp luật góp phần điều chỉnh tốt nhất việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp trên phạm vi cả nước trong đó có địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hết sức cần thiết.

<i><b> Chính những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật hiện hành điều chỉnh việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp ở Việt Nam” để </b></i>

nghiên cứu, tìm hiểu sâu về quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất của người sử dụng

<b>đất trong hoạt động kinh doanh làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: </b>

Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất là một đề tài mới và Tác giả cho rằng việc tập trung nghiên cứu phát triển điểm mới của đề tài dưới góc độ kinh tế của đất đai là một điều rất cần thiết. Bởi vì trước đó các nhà nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu góp vốn bằng quyền sử dụng đất, có ít cơng trình nghiên cứu tồn diện về vấn đề góp vốn

<b>bằng giá trị quyền sử dụng đất, cụ thể như sau: Về các luận án: </b>

1. Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà nội do NCS Lê Thị Châu

<i>(2001), "Xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở </i>

<i>nước ta",. NCS Lê Thị Châu phân tích cơ sở xác lập, thực hiện và chấm dứt tài sản góp </i>

vốn cũng như tài sản thực có trong q trình hoạt động của Công ty Cổ phần và Công ty TNHH. Các hạn chế mà tác giả đã chỉ ra về định giá tài sản khi góp vốn vào cơng ty theo góc nhìn lý luận và thực tiễn, đồng thời cũng phân tích những bất cập về từng loại tài sản góp vốn. Luận văn này chưa đề cập tới vấn đề góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất từ lý luận đến thực tiễn.

<i> 2. Luận án tiến sĩ luật học: "Hợp đồng thành lập Công ty ở Việt Nam" luận án </i>

tiến sĩ luật học năm 2004, của NCS Ngô Huy Cương, Viện khoa học và xã hội Việt Nam. Luận án đã nghiên cứu về vấn đề thành lập công ty ở Việt Nam thông qua một quy ước ban đầu giữa các hành viên được thừa nhận là bản hợp đồng công ty có nét đặc thù trước khi cơ quan đăng ký kinh doanh cho phép hình thành. Tuy nhiên quy định của pháp luật lúc bấy giờ chưa đề cập đến vấn đề điều chỉnh hợp đồng thành lập công ty và quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất cũng nhiều hạn chế bởi luật đất đai năm 2003. Do đó, tác giả sẽ đưa ra những kiến nghị mới về các chế định góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để thành lập pháp nhân và thể nhân, phù hợp với những nội dung mới của luật đất đai năm 2013 và luật doanh nghiệp năm 2020.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i> 3. Nguyễn Quang Tuyến, đề tài Luận án tiến sĩ luật học năm 2003: "Địa vị </i>

<i>pháp lý của người sử dụng đất trong các giao dịch dân sự, thương mại về đất đai", tại </i>

trường Đại học luật Hà nội. Trong luận án này NCS đã đề cập đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất như chuyển nhượng, cho thuê và cho thuê lại, thế chấp, thừa kế, góp vốn quyền sử dụng đất. Luận án đã nêu lên những bất cập của Bộ luật dân sự năm 1995 và Luật đất đai năm 1993 khi chưa có các quy định chi tiết cho vấn đề góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ góp vốn chưa được quy định rõ ràng, thống nhất để chính việc này. Cho nên, tác giả sẽ kế thừa để phát triển trong đề tài của mình theo hướng hồn thiện của khía cạnh pháp lý về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.

<i> 4. Sỹ Hồng Nam “Pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất”, Luận án tiến </i>

sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội năm 2016. Luận án này đã tập trung nghiên cứu theo chế định luật đất đai 2013 có liên kết tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật khác như Hiến pháp 2013, Bộ Luật dân sự năm 2015. Cho nên tương đối hồn chỉnh về lĩnh vực góp vốn bằng quyền sử dụng đất, nhất là xác định rõ được điều kiện quyền sử dụng đất được góp vốn, chủ thể góp vốn, chủ thể nhận góp vốn, trình tự thủ tục góp vốn, định giá và hợp đồng góp vốn. Nhưng trong luận án tiến sĩ này không nghiên cứu theo chiều hướng phân khúc của thị trường nên không làm rõ giá trị quyền sử dụng đất khi góp vốn của tổ chức, cá nhân. Tác giả sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu của Luận án này vào việc triển khai đề tài của mình theo góc độ giá trị quyền sử dụng đất phù hợp với quan hệ nội bộ của tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở nước ta trên cơ sở chứng minh thực trạng góp vốn bằng giá trị sử dụng đất từ những vụ việc diễn ra trong thực tế các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

<b> . Các bài báo có liên quan đến đề tài nghiên cứu: </b>

<i>- Bùi Phương Minh (2015), "Giải pháp góp vốn bằng quyền sử dụng đất </i>

<i>phù hợp với pháp luật Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (số chuyên đề tháng 2), </i>

tr. 56-57.

<i>- Sỹ Hồng Nam (2015), "Góp vốn bằng quyền sử dụng đất hay góp vốn </i>

<i>bằng giá trị quyền sử dụng đất", Tạp chí Khoa học Kiểm sát, (số 01), tr. 42-44. </i>

<i> - Nguyễn Thị Nga (2012), "Hồn thiện pháp luật về quyền góp vốn bằng quyền </i>

<i>sử dụng đất", Tạp chí Tài ngun và Mơi trường, (số 12), tr. 28-30. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i> - Lưu Quốc Thái (2013), Bàn về vấn đề "chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị </i>

<i>quyền sử dụng đất" trong Luật đất đai năm 2013, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 8), </i>

tr. 65-70.

<i> - Ngô Thị Phương Thảo (2015), "Vấn đề nơng dân góp vốn bằng quyền sử dụng </i>

<i>đất", Tạp chí Tài ngun và Mơi trường, (số 3), tr. 9 – 11. </i>

<i> - Tuấn Đạo Thanh (2010), "Những vướng mắc khi cơng chứng hợp đồng góp vốn </i>

<i>bằng giá trị quyền sử dụng đất", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư Pháp, (số 8), tr. </i>

<b> Về sách tham khảo, chuyên khảo, giáo trình có liên quan đến đề tài nghiên cứu: </b>

Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã đọc các quyển sách sau:

- Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của tác giả Đỗ Văn Đại,

- Giáo trình Luật đất đai của Trường đại học luật thành phố Hồ Chí Minh và của Đại học Luật Hà nội nhà xuất bản công an nhân dân năm 2018;

- Vốn hóa đất đai của tác giả Nguyễn Đình Bồng;

- Chế độ pháp lý về sở hữu và quyền tài sản đối với đất đai của tác giả Phạm Văn Võ;

-Những vấn đề pháp lý về thị trường quyền sử dụng đất ở Việt Nam tác giả Lưu Quốc Thái..v.v.

- Đỗ Văn Đại (Chủ biên) 2012, sách chuyên khảo: Giao dịch và giải quyết tranh chấp giao dịch về quyền sử dụng đất Nhà xuất bản Lao động.

Ngồi ra, tác giả cịn đọc những sách khác có liên quan đến đề tài để nghiên cứu.

<i>3. Mục đích nghiên cứu của đề tài: </i>

Đề tài tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Một là, làm rõ hơn những vấn đề lý luận chung về giá trị quyền sử dụng đất là một loại tài sản trong pháp luật dân sự và là một tài sản đặc biệt khi người sử dụng đất góp vốn vào hoạt động kinh doanh sinh lời bằng giá trị quyền sử dụng đất theo một quy chế riêng của văn bản hợp nhất Luật đất đai năm 2018, văn bản hợp nhất Luật kinh doanh bất động sản 2020 và Luật doanh nghiệp 2020.

Hai là, tìm hiểu và phân tích quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất: như các loại đất đủ điều kiện được quyền góp vốn, chủ thể được quyền góp vốn, chủ thể được quyền nhận góp vốn, hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp cũng như trình tự thủ tục của việc góp vốn.

Ba là, tìm hiểu thực trạng áp dụng quy định pháp luật trong quá trình thực hiện việc góp vốn đối với chủ thể góp vốn, chủ thể nhận góp vốn, hệ quả sau thời điểm góp vốn và đề tài cũng tìm hiểu một số tình huống trong thực tiễn ở thành phố Hồ Chí Minh liên quan đến việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Từ đó đưa ra những giải pháp để triển khai thực hiện hồn thiện góp phần nâng cao giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.

<b>4. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu: - Phạm vi nghiên cứu: </b>

Đề tài góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong pháp luật hiện hành có thể được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau như bộ luật dân sự, luật đất đai và luật doanh nghiệp của các tổ chức, cá nhân thuộc khối doanh nghiệp tư nhân, không nghiên cứu các doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Tác giả chọn hướng tiếp cận tài sản góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để định giá trước và sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp để đi vào hoạt động kinh doanh.

Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về các chủ thể tham gia quan hệ góp vốn, điều kiện quyền sử dụng đất đem góp vốn, hợp đồng góp vốn, trình tự thủ tục góp vốn của các tổ chức, cá nhân vào hoạt động kinh doanh tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Phạm vi thời gian: Nghiên cứu từ năm 2015 đến nay.

<b>- Phương pháp nghiên cứu: </b>

Khi thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để nghiên cứu. Cụ thể:

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Trong chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề chung của pháp luật về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp kết hợp với phương pháp lịch sử và tư duy logic nhằm làm sáng tỏ nội hàm, bản chất pháp lý của các khái niệm, nội dung quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hiện hành nói riêng điều chỉnh về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh sinh lời trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Trong chương 2 và chương 3, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, bình luận, đồng thời kết hợp với phương pháp so sánh để làm rõ những bất cập của pháp luật trong thực tiễn. Ngoài ra, Tác giả cũng sử dụng phương pháp phân tích tình huống, đánh giá những ưu điểm, hạn chế để kịp thời khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng phương pháp trình bày, quy nạp và diễn dịch khi triển khai cụ thể từng nội dung của đề tài

<b>.5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài </b>

1- Đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn khi phân tích sâu nội dung quy định của pháp luật về giá trị quyền sử dụng đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta theo hướng giá trị kinh tế của quyền sử dụng đất.

2 - Đề tài cũng có thể giúp các chủ thể có nhu cầu góp vốn, nhận phần vốn góp hoặc nhà quản trị kinh doanh có cái nhìn khoa học hơn về giá trị quyền sử dụng đất để vận dụng phù hợp, thống nhất chung trong thực tiễn.

3- Giúp các nhà hoạch định chính sách pháp luật có cái nhìn chuẩn hơn trong việc sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành liên quan đến góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp để thúc đẩy hoạt động kinh doanh thương mại nhằm mục đích sinh lời

4- Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu của Sinh viên, Học viên đang nghiên cứu học tập và Giảng viên giảng dạy tại trường đại học Ngân hàng cũng như trong các cơ sở đào tạo Luật trên phạm vi cả nước.

<b>6. Kết cấu đề tài </b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, bố cục đề

<i>tài gồm ba chương, với nội dung cụ thể như sau: </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>Chương 1: Những vấn đề chung điều chỉnh việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất ở Việt Nam . </i>

Trong nội dung chương này tác giả làm rõ các khái niệm quyền sử dụng đất, giá trị quyền sử dụng đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để làm rõ hơn bản chất cũng như đặc điểm của từng vấn đề liên quan đến lý luận. Trong nội dung chương này đề tài cũng nêu khái qt về q trình hình thành quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất ở Việt Nam. Đây là vấn đề thuộc phạm trù lịch sử nhằm giới thiệu những thơng tin có giá trị của đề tài phục vụ trong việc nghiên cứu sau khi đề tài đã được nhà trường thẩm định. Phần nội dung quy định của pháp luật hiện hành về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, Tác giả đã tiếp cận theo phương diện phân tích, chứng minh làm rõ 5 vấn đề cơ bản thuộc phạm trù lý thuyết, chứng minh cho việc điều chỉnh hoạt động góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp của nước ta là một thể thống nhất từ trung ương đến địa phương, cụ thể là: i) Xác định quyền sử dụng đất đủ điều kiện để góp vốn; ii).Định giá xác định giá trị quyền sử dụng đất khi góp vốn vào doanh nghiệp; iii) Chủ thể góp vốn, nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; iv). Hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp; v). Trinh tự thủ tục góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp

<i>Chương II: Thực trạng áp dụng quy định pháp luật điều chỉnh việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. </i>

Tại chương này, Tác giải phân tích, bình luận theo góc nhìn của người nghiên cứu trước thực trạng những thuận lợi, khó khăn, bất cập trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp của các tổ chwucs, cá nhân trên đại bàn thành phố Hồ Chí Minh thơng qua một số tình huống thực tế diễn ra từ năm 2015 đến nay theo 5 vấn đề cơ bản như: i) Xác định quyền sử dụng đất đủ điều kiện để góp vốn; ii).Định giá xác định giá trị quyền sử dụng đất khi góp vốn vào doanh nghiệp; iii) Chủ thể góp vốn, nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; iv). Hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp; v). Trinh tự thủ tục góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp. Để làm sáng tỏ vấn đề nêu trên, Tác giả cố gắng lựa chọn lồng ghép một số vụ việc và một số bản án cụ thể để phân tích, chứng minh những bất cập liên quan đến việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong thực tiễn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<i>Chương III. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. </i>

Trong nội dung chương này, Tác giả mạnh dạn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng quy định của pháp luật về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Mà cụ thể là: - Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp; - Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp; - Một số kiến nghị cơ bản góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp. Những nội dung tại chương 3 này có mối liên hệ biện chứng khoa học mật thiết với chương 1 và chương 2, thể hiện sự tương thích khoa học trong một đề tài nghiên cứu khoa học thuộc ngành Luật kinh tế hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>Chương 1 </b>

<b>NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐIỀU CHỈNH VIỆC GÓP VỐN BẰNG GIÁ TRỊ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀO DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM 1.1. Khái quát chung về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh </b>

<i><b>nghiệp </b></i>

<i><b>1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền sử dụng đất và giá trị quyền sử dụng đất </b></i>

Ở nước ta, cụm từ “Quyền sử dụng đất” (QSDĐ) và góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất là hai khái niệm chưa được định nghĩa cụ thể, chính thức trong Luật thực định.

Nhìn nhận theo phương diện pháp lý, lần đầu tiên trong Bộ luật dân sự năm 1995 các nhà làm luật chỉ đề cập cụm từ “quyền sử dụng” chứ khơng có khái niệm “quyền sử

<i>dụng đất”. Định nghĩa ấy được hiểu như sau: Quyền sử dụng là quyền của chủ sử dụng </i>

<i>khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Người khơng phải là chủ sử dụng cũng có quyền sử dụng tài sản trong các trường hợp được chủ sử dụng chuyển giao quyền sử dụng hoặc do pháp luật quy định</i><small>1</small>. Trong suốt quá trình thực hiện quyền sử dụng của công dân, vấn đề này được kế thừa phát huy để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn khái niệm “quyền sử dụng” của Bộ luật dân sự năm 2005. Mãi đến năm 2015, khi mà Bộ luật dân sự được quốc hội ban hành, cụm từ này cũng được thống nhất về cách

<i>hiểu phù hợp với thực tiễn giao dịch trong nền kinh tế thị trường. Theo đó, Quyền sử </i>

<i>dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho người khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật<small>2</small></i>. Như vậy Bộ luật dân sự là văn bản gốc để ban hành các văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh mối quan hệ xã hội liên quan đến quyền sử dụng đất. Tất cả đều khơng có khái niệm cụ thể, nó chỉ được hiểu chung đó là quyền sử dụng tài sản và mặc nhiên quyền sử dụng đất chính là quyền tài sản. Điểm mới ở đây là BLDS năm 2015 ghi nhận một cách rõ ràng trong quy định chung, chứ không ghi nhận trong một chế định cụ thể giống như BLDS năm 2005”<b><small>3</small></b>

<small> 1 Xem điều 198, Bộ luật dân sự năm 1995 </small>

<small>2 Xem Điều 189, Bộ luật dân sự năm 2015 </small>

<small>3</small><i><small> Xem Đỗ Văn Đại (Cb), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb Hồng Đức, H. 2016, </small></i>

<i><small>tr. 126 </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Việc làm rõ nội hàm bản chất của quyền sử dụng đất cũng như khái niệm, đặc điểm góp vốn bằng giá trị QSDĐ trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết và là tiền đề hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu tiếp theo của đề tài.

<i><b>Thứ nhất: Khái niệm và đặc điểm quyền sử dụng đất * Khái niệm quyền sử dụng đất </b></i>

<i>Theo phương diện khoa học pháp lý, từ điển luật học xác định: "Quyền sử dụng </i>

<i>đất là quyền của các chủ thể được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi ích từ việc sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê hoặc được chuyển giao từ chủ thể khác thông qua việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho”</i><small>4</small><i>. </i>

Từ trước đến nay, quyền sử dụng đất không được định nghĩa cụ thể trong các văn bản pháp luật đất đai, thực chất, rất nhiều nhà nghiên cứu tập trung khai thác các quy định của pháp luật liên quan đến khái niệm quyền sử dụng đất như Bộ Luật dân sự, Luật đất đai nhưng vẫn chưa thống nhất được khái niệm chung về quyền sử dụng đất. Do đó, khó thống nhất chung trong cách hiểu về thuật ngữ này trong thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến đất đai. Tác giả cho rằng, để khoa học hơn, khi nghiên cứu khái niệm “quyền sử dụng đất” cần nghiên cứu theo 03 hướng tiếp cận khác nhau về quyền sử dụng

<i>đất, như sau: (i) quyền sử dụng đất là vật quyền; (ii) quyền sử dụng đất là một trong </i>

<i>những nội dung của QSH và (iii) quyền sử dụng đất là tài sản<small>5</small></i>

<i>Quan niệm tiếp cận thứ nhất coi quyền sử dụng đất là một vật quyền: </i>

Vật quyền là một khái niệm có nguồn gốc xuất hiện đầu tiên trong lịch sử lồi người chính là bộ Luật la mã cổ đại. Cho đến nay, thuật ngữ “vật quyền” cũng gặp nhiều khó khăn trong q trình tìm hiểu, nghiên cứu để thống nhất cách hiểu cụ thể về nó. Theo cuốn từ điển Luật học thì vật quyền là quyền trực tiếp trên vật và có tác dụng mang lại cho người có quyền tồn bộ hoặc một phần tiện ích kinh tế đó. Cũng theo nội dung giải thích về vật quyền thì vật quyền bao gồm hai loại, vật quyền chính và vật quyền phụ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Trong thực tiễn, vật quyền được hiểu theo hai nghĩa khác nhau:

- Một là theo nghĩa chủ quan thì vật quyền là quyền của một chủ thể nhất định đối với một tài sản. Theo nghĩa này thì vật quyền là quyền đối với vật, khác với trái quyền là quyền của một người yêu cầu một người khác thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định (quyền đối nhân).

– Hai là theo nghĩa khách quan thì vật quyền là tồn bộ các quy phạm pháp luật quy định về vật với tư cách là đối tượng của vật quyền, nội dung của các loại vật quyền, căn cứ phát sinh, chấm dứt các loại vật quyền, nguyên tắc thực hiện, bảo vệ vật quyền, các hạn chế mà người có vật quyền phải tuân thủ khi thực hiện các quyền năng của mình,… Thừa kế những nội dung này thì Bộ luật dân sự 2015 có những quy định về vât quyền, đó là quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản, do vậy rất nhiều quan điểm không đồng ý với cách tiếp cận quyền sử dụng đất là một vật quyền.

Ở lĩnh vực đất đai thì đất đai khơng phải là vật do con người tạo ra mà là do con người tác động làm biến đổi đất đai theo nhu cầu sử dụng của chính mình. Hiến pháp nước ta quy định, chỉ có Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đất đai, cịn NSDĐ khơng có QSH đất đai, nhưng có quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất không thể là vật cụ thể mà là quyền tài sản. Cách tiếp cận quyền sử dụng đất là vật quyền sẽ không logic giữa lý luận lẫn thực tiễn, nghĩa là cơ sở lý luận mà văn bản gốc là Hiến pháp 2013 cũng như các văn bản luật chuyên ngành khác cũng xuất phát từ thực tiễn để khẳng định quyền sử dụng đất là quyền của mọi người dân trên cơ sở đất đai là của nhà nước.

Quan niệm tiếp cận thứ hai, coi quyền sử dụng đất là một nội dung của QSH. Tác giả đồng ý với nội dung giáo trình Luật đất đai của Đại học Luật Hà Nội khi bàn về quyền sở hữu đất đai hiện nay. Tức là quyền sử dụng đất đất đai là quyền ban đầu, còn quyền sử dụng đất là quyền phát sinh được xuất hiện sau đó. QSH đất đai là một loại quyền trọn vẹn, đầy đủ, còn quyền sử dụng đất là một loại quyền khơng trọn vẹn, khơng đầy đủ.

Ở góc độ so sánh cụm từ “quyền sử dụng đất và quyền sử dụng” giữa LĐĐ và BLD được xuất hiện lần đầu tại điều 198 BLDS năm 1995 của nước ta, quy định như

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i>sau: “Quyền sử dụng là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi </i>

<i>tức từ tài sản. Người khơng phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản trong các trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng hoặc do pháp luật quy định”<small>6</small>. </i>

Trước khi luật đất đai hiện hành ra đời, trong giáo trình luật đất đai của trường Đại

<i>học Luật Hà Nội có quan điểm cho rằng: “Quyền sử dụng đất của Nhà nước phát sinh </i>

<i>dựa trên cơ sở Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đất đai nên quyền sử dụng đất này là vĩnh viễn, trọn vẹn và không bị ai hạn chế, còn quyền sử dụng đất của NSDĐ xuất hiện khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép nhận chuyển QSDĐ hoặc công nhận quyền sử dụng đất... và phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Vì vậy, quyền sử dụng </i>

<i>đất của họ bị Nhà nước hạn chế bởi diện tích, thời hạn và mục đích sử dụng... Nếu quyền sử dụng đất của Nhà nước mang tính gián tiếp và trừu tượng thì ngược lại, quyền sử dụng đất của người sử dụng lại mang tính chất trực tiếp và cụ thể” </i><small>7</small>.

Như vậy, quyền sử dụng đất của NSDĐ được phát sinh từ QSH của Nhà nước. Tại vì quyền sử dụng đất là quyền phát sinh từ QSH nên NSDĐ có các quyền năng, mà nội dung của các quyền năng này rất gần với QSH. Cho đến thời điểm hiện nay, khi áp dụng văn bản hợp nhất Luật đất đai năm 2018 trong thực tiễn, quan điểm đó cũng được kế thừa và phát huy cả trong quy chuẩn pháp lý cũng như thực tiễn, quyền sử dụng đất chính là QSH đất đai một cách hạn chế. Dưới góc nhìn từ chủ sở hữu là Nhà nước đối với một thửa đất cụ thể Tác giả đồng quan điểm với lập luận khi cho rằng: trên thửa đất ấy cùng có hai chủ thể là (i) chủ sở hữu là Nhà nước và (ii) NSDĐ. Nghĩa là NSDĐ có các quyền nhưng phải tuân thủ và tôn trọng các quyền của chủ sở hữu, ví dụ như sử dụng đất đúng mục đích, đúng quy hoạch, trong trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất thì phải được chủ sở hữu đồng ý, xây dựng cơng trình trên đất mà loại cơng trình đó theo quy định của pháp luật về xây dựng phải xin phép, thì NSDĐ phải xin phép.

Cách tiếp cận thứ hai coi quyền sử dụng đất là tài sản:

<small> </small>

<small>6 Trong BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 khái niệm quyền sử dụng có sự thay đổi “Quyền sử dụng là </small>

<i><small>quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho người khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật”, nghĩa là đã bỏ cụm từ “..là quyền của chủ sở hữu....” </small></i>

<small>việc bỏ cụm từ này là cần thiết và phù hợp. Bởi lẽ, từ BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 đều xây dựng thành ba điều luật độc lập quy định về: Quyền sử dụng; Quyền sử dụng của chủ sở hữu và Quyền sử dụng của người không phải là chủ sở hữu. Như vậy, trong mối liên hệ về quyền sử dụng nói chung được quy định trong BLDS thì có thể hiểu chung nhất về quyền sử dụng đất là quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ đất đai. </small>

<small>7Giáo trình luật đất đai, Trường Đại học Luật - Hà nội, Nxb. Công an nhân dân, 2010, tr.95, 96 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng ta khẳng định quyền sử dụng đất

<i>là “một loại tài sản và hàng hố đặc biệt, nhưng khơng phải là quyền sở hữu, được xác </i>

<i>định cụ thể phù hợp với từng loại đất, từng đối tượng và hình thức giao đất, cho thuê đất”</i><small>8</small><b>. Với nhiệm vụ thể chế hóa chủ trương đường lối của Đảng, tại Điều 115 BLDS </b>

<i>năm 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài </i>

<i>sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Việc BLDS năm 2015 không sử dụng cụm từ “có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự” nhằm thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo đổi mới, sáng suốt của Đảng ta khi </i>

xác định tài sản có thể chuyển giao trong tất cả các giao dịch của đời sống, phù hợp với xã hội hiện đại như ngày nay<small>9</small>.

<i> Tác giả đồng quan điểm khi định nghĩa về quyền sử dụng đất: “Có thể khẳng </i>

<i>định rằng, QSDĐ trong pháp luật đất đai hiện hành là một khái niệm mà nghĩa gốc của các từ đơn lẻ hợp thành không đủ sức để thể hiện hết nội dung và bản chất của nó” </i><small>10</small>. Tiếp theo những băn khoăn về khái niệm quyền sử dụng đất hiện tại, ngày 30 tháng 8 năm 2021, tại hội nghị dự thảo báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới. Tại hội nghị này, nhằm mục đích triển khai thực hiện nghị quyết đại hội Đảng tồn quốc lần thứ 13, Đảng và Chính phủ thống nhất tập trung làm rõ nội hàm của sở hữu toàn dân về đất đai, nội hàm của nhà nước thống nhất quản lý về đất đai cũng như bổ sung thêm

<small> </small>

<small>8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (ngày 31/10/2012), Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại </small>

<small>9 Kể từ thời điểm Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực thi hành, quyền tài sản được xác định là một dạng tài sản có </small>

<i><small>quy định đặc thù. Cụ thể, theo điều 181 BLDS năm 2005, “quyền tài sản là quyền giá trị được bằng tiền và có thể </small></i>

<i><small>chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Điều 181 BLDS năm 2005 quy định một trong những điều kiện để trở thành quyền tài sản thì đối tượng đó phải có khả năng chuyển giao trong giao dịch dân sự. Điều này dẫn đến nhiều quyền có giá trị về vật chất nhưng pháp luật có những quy định không cho phép chuyển giao (như quyền mua nhà ở tái định cư hoặc quyền đòi bồi thường do xâm phạm tới yếu tố nhân thân nên gây ra </small></i>

<small>10</small><i><small> Lưu Quốc Thái (2016) “Những vấn đề pháp lý về thị trường Quyền sử dụng đất Việt Nam”, Nhà xuất </small></i>

<i><small>bản Hồng Đức, TP.HCM, Sđd tr.30. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

những nội dung để đảm bảo sở hữu tồn dân về quyền sử dụng đât có thể vận hành hiệu quả trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Qua phân tích nêu trên Tác giả có thể đưa ra khái niệm về quyền sử dụng đất như

<i>sau: “QSDĐ là quyền tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân phát sinh trên cơ sở </i>

<i>quyết định giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc từ các giao dịch nhận chuyển quyền sử dụng đất. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt quyền sử dụng đất phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành” </i>

<i>* Đặc điểm của quyền sử dụng đất </i>

Đặc điểm pháp lý của quyền sử dụng đất ở nước ta được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:

<i>Thứ nhất, quyền sử dụng đất gắn liền với quyền năng của chủ sở hữu đất đai trong </i>

<i><b>nền kinh tế thị trường </b></i>

Đặc điểm này xuất phát từ hiến định, văn bản pháp lý cao nhất của nước ta, trong đó khẳng định Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai. Do đó, Nhà nước có đầy đủ ba quyền năng đối với đất đai, đó chính là: quyền sử dụng, quyền chiếm hữu và quyền định đoạt. Với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước thực hiện chức năng chủ yếu đối với đất đai là chức năng thống nhất quản lý đối với đất đai và chức năng điều phối đối với đất đai. Ở nước ta việc phân cấp quản lý đất đai thống nhất ở trung ương là Chính phủ, ở địa phương là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành và cấp quận huyện. Bên cạnh đó, với tư cách là chủ sở hữu đối với đất đai, quản lý Nhà nước cịn có phân cấp theo lĩnh vực an minh, quốc phòng đầy đủ ba quyền năng đối với tài sản thuộc sở hữu của mình: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Như vậy việc phân cấp trong quản lý đất đai có tính tương thích với quy định tại Điều 158 Bộ luật Dân sự năm

<i>2015 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định </i>

<i>đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”. Có thể nhận thấy, đất đai chính là </i>

tài sản, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đối với tài sản là đất đai, Nhà nước có quyền

<i>sử dụng đất. Theo Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền sử dụng là </i>

<i>quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Và chủ thể có quyền sử </i>

dụng đối với tài sản bao gồm chủ sở hữu và người không phải là chủ sở hữu.

<i>Thứ hai, quyền sử dụng đất mang đặc tính cơ bản là một loại quyền tài sản </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Tất cả các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, quyền sử dụng đất do Nhà nước trực tiếp quản lý và triển khai thực hiện theo sự điều chỉnh của pháp luật. Nghĩa là quyền sử dụng đất được điều chỉnh bởi những quy định của pháp luật, trong đó quyền tài sản đối với quyền sử dụng đất chỉ thuộc về Nhà nước mà thôi. Cụ thể, Nhà nước không trực tiếp sử dụng tất cả diện tích đất đai trên tồn lãnh thổ mà Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân sử dụng đất thơng qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Khi Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất là tổ chức, cá nhân cụ thể nào đó thì quyền sử dụng đất lại được coi là tài sản lưu thông trong xã hội và mặc nhiên được xác định là một loại quyền tài sản.

<i>Xác định về tài sản, tại điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Tài sản là </i>

<i>vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Xác định về quyền tài sản là quyền sử dụng </i>

<i>đất, điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được </i>

<i>bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Như vậy, dưới góc độ pháp lý, quyền sử dụng đất được coi là một </i>

loại quyền tài sản. Loại tài sản này rất đặc biệt, đó là tài sản được xác lập trên một loại tài sản có tên gọi riêng biệt là đất đai.

Quyền sử dụng đất mang đặc tính là một loại quyền tài sản thể hiện rõ ở Điều 54 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ”. Trên tinh thần đó, tại Điều 167 văn bản hợp nhất Luật đất đai năm 2018

<i>quy định: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, </i>

<i>cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này”. Khi được Nhà nước trao quyền sử dụng đất, Người sử dụng đất </i>

có quyền tự mình khai thác cơng dụng từ đất hoặc được thực hiện các giao dịch đối với quyền sử dụng đất của mình theo quy định của Luật Đất đai và Bộ luật Dân sự.

Do đó, quyền sử dụng đất trở thành đối tượng của giao dịch trong nền kinh tế thị trường với đầy đủ ý nghĩa của cung và cầu quyết định. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, quy định trên đã dẫn đến nhiều cách hiểu không thống nhất. Điều 54 Hiến pháp quy định

<i>người sử dụng đất có quyền “chuyển” quyền sử dụng đất, thực hiện quyền, nghĩa vụ theo </i>

quy định của Luật, còn Điều 167 Luật Đất đai hiện hành quy định cụ thể người sử dụng

<i>đất có quyền “chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế </i>

<i>chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất”. Tác giả khơng đồng tình với ý kiến nêu trên, </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

bởi vì: theo quy định của Điều 54 Hiến pháp năm 2013 thì quyền chuyển quyền sử dụng đất chứ khơng phải chuyển nhượng. Vấn đề đặt ra ở đây là được chuyển quyền sử dụng đất bao gồm quyền thực hiện tất cả các giao dịch nhằm mục đích chuyển dịch quyền sử dụng đất từ chủ A sang cho chủ thể B và các chủ thể khác. Ngoài ra, với cách hiểu “thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật”, người sử dụng đất có thể thực hiện quyền thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn, tặng cho, thừa kế và các giao dịch kinh tế sinh lời khác như cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật đất đai là hoàn toàn hợp lý. Rõ ràng, từ quy định của Hiến pháp là văn bản gốc mang tính nhất quán trong quy định pháp luật làm cơ sở để các văn bản luật chuyên ngành khác xây dựng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức,

<i>cá nhân thực hiện quyền tài sản của mình là quyền sử dụng đất. </i>

<i><b>Thứ hai: Khái niệm, đặc điểm của giá trị quyền sử dụng đất * Khái niệm của giá trị quyền sử dụng đất </b></i>

Ngay từ thời điểm chuyển đổi nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, luật đất đai năm 1987 ra đời khẳng định có văn bản luật thúc đẩy bước đầu đổi mới ở nước ta. Theo nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, Luật Đất đai năm 1987 còn mang nặng tính chất của cơ chế “xin- cho” nên đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cụ thể như: việc tính thuế trong giao dịch đất đai rất khó khăn vì Nhà nước chưa thừa nhận quyền sử dụng đất có giá trị. Tức là chưa coi đất đai là một sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao để trao đổi từ hàng sang tiền và trở thành hàng theo thuyết kinh tế học. Văn bản quy phạm pháp luật đó chưa quy định rõ những cơ sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh về quan hệ đất đai trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong q trình tích tụ tập trung sản xuất trong nông nghiệp và phân công lại lao động trong nông thôn nên chưa trao quyền cho người sử dụng đất dịch chuyển quyền sử dụng đất. Do đó, giá trị quyền sử dụng đất khơng được khái niệm ở trong văn bản luật này cũng là vấn đề khá dễ hiểu.

Lần đầu tiên, khái niệm giá trị quyền sử dụng đất được thừa nhận tại khoản 24

<i>Điều 4 Luật đất đai năm 2003, như sau: Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền </i>

<i>của quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định. Sau một thập kỷ tồn tại, áp dụng luật này có nhiều bất cập cần thiết phải sửa đổi, </i>

bổ sung cho phù hợp với tiến trình phát triển đất nước cũng như địi hỏi tính tất yếu của thị trường cần xem xét giá trị kinh tế của đất đai. Quốc hội khóa 13 đã thống nhất sửa

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

đổi một số nội dung của Luật đất đai để đáp ứng nhu cầu hội nhập nền kinh tế thế giới của nước ta, trong đó vẫn kế thừa khái niệm giá trị quyền sử dụng đất làm quy tắc xử sự chung thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tại khoản 20 điều 3 văn bản hợp nhất

<i>Luật đất đai năm 2018, quy định Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền </i>

<i>sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định. Tác </i>

giả cũng đồng quan điểm với một số nhà nghiên cứu khi cho rằng, giá trị quyền sử dụng đất là tiền sử dụng đất mà người sử dụng đã trả cho Nhà nước hoặc tiền thuê đất phải trả cho toàn bộ thời gian thuê làm căn cứ để được vay vốn của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam hoặc để được góp vốn liên doanh vào doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời bằng quyền sử dụng đất. Điều này đã khẳng định giá trị kinh tế của đất đai trong nền kinh tế thị trường, ở đó đất đai được xem là một loại tài sản (hàng hóa) để chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, thế chấp và góp vốn.

Trong hệ thống luật pháp của nước ta đã thừa nhận đất đai thuộc sở hữu toàn dân,

<i>giá cả đất đai là dựa trên chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho nên “Giá đất là giá trị </i>

<i>của quyền sử dụng đất tính trên một đơn vị diện tích đất đai ”</i><small>11</small>. Khi xác định giá đất một loại đất nào đó thì được hình thành trong 3 trường hợp: i) Do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định giá theo Khoản 1 Điều 114 của văn bản hợp nhất Luật đất đai năm 2018; ii) Do đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất; iii) Do người sử dụng đất thỏa thuận về giá đất với những người có liên quan khi thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.

Như vậy xét giá trị quyền sử dụng đất, trên thị trường giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nước ta ln có 2 loại giá, đó là giá thị trường và giá quy định của Nhà nước. Giá quy định của Nhà nước được sử dụng để thực hiện mối giao dịch giữa Nhà nước và người sử dụng đất. Giá đất trên thị trường cũng như các loại hàng hoá khác trong cơ chế thị trường được hình thành và vận động theo các quy luật sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.

<i>* Đặc điểm của giá trị quyền sử dụng đất. </i>

<i>Thứ nhất: Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất được điều chỉnh bằng pháp luật </i>

<small> </small>

<small>11 Tại Khoản 19 Điều 3 của Luật Đất đai năm 2013 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Với đặc điểm này, chúng ta có thể hiểu giá trị là cái mà người ta dùng làm cơ sở để xem xét một vật có lợi ích tới mức nào đối với con người. Ở góc độ kinh tế học, theo từ điểm bách khoa toàn thư, giá trị là một khái niệm trừu tượng, là ý nghĩa của sự vật trên phương diện phù hợp với nhu cầu của con người. Tạm thời có thể xem giá trị kinh tế của sự vật liên quan mật thiết đến ba mặt chính yếu của nhu cầu là sản xuất, tiêu thụ, sở hữu, của chủ thể kinh tế ở bất kỳ cấp bậc nào có thể là cá nhân, cơng ty, nhà nước, toàn thế giới.

Ở lĩnh vực đất đai, khơng có khái niệm “đất có giá trị” mà chỉ có khái niệm “quyền sử dụng đất” có tính định dạng quyền tài sản và “giá trị của quyền sử dụng đất” phải được tính ra bằng tiền của vật chất kinh tế. Quyền sử dụng đất của một người sử dụng đất được quy đổi ra bằng một vật khác nào đó trong đời sống mà khơng phải bằng tiền thi đó khơng phải là giá trị quyền sử dụng đất. Giá trị quyền sử dụng đất cũng chính là

<b>giá trị của tiền tệ và thực chất là số lượng hàng hóa và dịch vụ mua được bằng một đơn </b>

<i>vị của tiền tệ. Nói một cách khác giá trị của tiền tệ là nghịch đảo của giá cả hàng hóa, được so sánh ngang hàng với tiền. Tiền tệ có giá trị khơng phải vì nó có giá trị tự thân </i>

mà vì những gì tiền tệ có thể trao đổi được trong thực tiễn theo nhu cầu của đời sống con người. Ví dụ Nhà Ơng A có diện tích đất là 200 M2, đầu năm 2022 Ông A thắng lớn về giá trị quyền sử dụng đất vì ơng ấy bán đất thu về 20 cây vàng, giá vàng tháng 1/2022 trên thị trường quy đổi bán ra thị trường là 5 triệu một chỉ. Do đó, giá trị quyền sử dụng đất 200 m2 của nhà Ông A là một tỷ đồng (VNĐ). Như vậy tiền có giá trị phải dựa trên cơ sở hàng hóa có giá trị, khi hàng hóa có giá trị thì mặc nhiên phải được lấy tiền tệ làm quy chuẩn để đem ra so sánh, quy đổi. Theo từ điển bách khoa toàn thư, tiền là vật ngang giá chung để trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Tiền được mọi người chấp nhận sử dụng, do Nhà nước phát hành và bảo đảm giá trị bởi các tài sản khác như vàng, kim loại quý, trái phiếu, ngoại tệ. Thế giới ngày nay, tiền thường được nghiên cứu trong các lý thuyết về kinh tế cũng như trong triết học và xã hội học. Theo khoa học pháp lý, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Như vậy, giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất phải được điều chỉnh bởi các quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành mà cụ thể tại Điều 115 BLDS năm 2015

<i>quy định quyền sử dụng đất là quyền tài sản của người sử dụng đất và quyền tài sản là </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

quyền trị giá được bằng tiền<small>12</small>. Đứng ở góc độ quản lý nhà nước về đất đai, Luật đất đai hiện hành cũng quy định rõ chế định giá đất, tài chính về đất và bán đấu giá quyền sử dụng đất. Như vậy, mọi giao dịch, hoạt động liên quan đến quyền sử dụng đất của người sử dụng đất phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật về giá đất như khung giá đất, bảng giá đất và giá đất cụ thể theo từng loại đất và từng địa phương nhưng không được trái với sự quản lý của Chính phủ.

<i>Thứ hai: Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất được điều chỉnh bởi quy luật cung cầu của thị trường </i>

Phải thừa nhận rằng, giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền thể hiện trong các giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại đều sát giá thị trường. Giá thị trường của quyền sử dụng đất mang tính giá trị hiện hữu tài sản của người sử dụng đất thông qua cung cầu trên thị trường mà ở đó quyền sử dụng đất là quyền tài sản thứ cấp do thị trường quyết định còn được gọi là giá thực tế. Cũng giống như giá đất theo quy định của pháp luật điều chỉnh thì giá đất theo quy luật cung cầu của thị trường cũng là giá trị của quyền sử dụng đất tính trên một đơn vị diện tích đất. Giá quyền sử dụng đất hay cịn gọi là giá đất là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất do Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất. Ở góc độ dân sự, giao dịch về quyền sử dụng đất được hiểu là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên đối với quyền sử dụng đất. Nghiên cứu thực tiễn cho thấy, các loại hình giao dịch quyền sử dụng đất được quy luật cung cầu thị trường tạo ra trong nền kinh tế ở nước ta. Những giao dịch như chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, góp vốn, thế chấp, cho thuê, cho thuê lại đều có chung một đặc điểm giá trị đất hay giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền do thị trường quyết định. Ví dụ giá trị quyền sử dụng đất khu đất vàng Thủ Thiêm thành phố Thủ Đức được đem bán đấu giá theo sát giá thị trường mà Tập đoàn bất động sản Tân Hoàng Minh trúng giá 2.45 tỷ VNĐ một mét vuông. Điều này khẳng định tính đúng đắng trong việc xác định giá quyền sử dụng đất hay còn gọi là giá đất là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất do Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất. Giao dịch quyền sử dụng đất của người sử dụng đất được hình thành ln được xem là có giá bằng tiền do thị trường quyết định bởi cung cầu thì chính là lúc quyền sử dụng đất của người

<small> </small>

<small>12</small><i><small> “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu </small></i>

<i><small>trí tuệ, QSDĐ và các quyền tài sản khác”. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

sử dụng đất được điều chỉnh bởi quy luật cung cầu của thị trường. Nếu giá trị đất của người sử dụng đất mà tách khỏi giá trị vật chất cung cầu của thị trường thì khơng bao giờ được tính bằng tiền và tất yếu không được thừa nhận là giá trị quyền sử dụng đất sát giá thị trường. Cho nên, giá trị quyền sử dụng đất trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới ở nước ta có đặc điểm là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất được điều chỉnh bởi quy luật chung cung – cầu của thị trường.

<b>1.1.2. Khái niệm, đặc điểm góp vốn vào doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh </b>

<i><b>Thứ nhất: Khái niệm góp vốn vào doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh </b></i>

Xét đến nguồn gốc xuất hiện của khái niệm góp vốn vào hoạt động kinh doanh khơng thể khơng xem xét theo góc độ của việc xuất hiện nhà nước, trong đó pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội như việc góp vốn vào kinh doanh phát triển kinh tế xã hội của mọi quốc gia. Bắt kịp với việc phát triển kinh tế chuyển đổi từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống pháp luật kinh tế của nước ta đã được bổ sung nhiều chế định mới để điều chỉnh, trong đó là Luật về công ty (gọi tắt là Luật công ty 1990) Tại điều 1 Luật cơng ty có quy

<i>định: Cơng dân Việt Nam đủ 18 tuổi, tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân </i>

<i>thuộc các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội có quyền góp vốn đầu tư hoặc tham gia thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần theo quy định của Luật này (Luật công ty 1990). Tuy nhiên, trong văn bản luật đầu tiền điều chỉnh hoạt động kinh </i>

tế này khơng có cụm từ khái niệm “góp vốn vào hoạt động kinh doanh” để làm quy tắc xử sự thống nhất chung cho mọi chủ thể trong xã hội.<small>13</small>

Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, lao động và tài nguyên của đất nước, tạo thêm việc làm, bảo hộ lợi ích hợp pháp của người góp vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển

<small> </small>

<small>13</small>T<small>ại điều 9 Luật công ty 1990 quy định về phần vốn góp, như sau: Một là: Phần vốn góp của mỗi thành viên có thể bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng, tài sản bằng hiện vật hoặc bằng bản quyền sở hữu công nghiệp. Hai là: Phần vốn góp bằng hiện vật hoặc bản quyền sở hữu công nghiệp phải được Đại hội đồng thành lập xem xét, chấp thuận, định giá và được ghi vào Điều lệ cơng ty; phần vốn góp này phải được nộp đủ ngay khi cơng ty chính thức thành lập. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

kinh tế; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh, Luật công ty 1990 đã được thay thế bới Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995. Xét ở góc độ quyền góp vốn vào doanh nghiệp của doanh nghiệp nhà nước để kinh doanh thì Luật

<i>doanh nghiệp nhà nước năm 1995 quy định chủ thể này có quyền được “góp vốn cổ </i>

<i>phần theo quy định của pháp luật”</i><small>14</small>. Nghĩa là trong văn bản pháp luật này chỉ trao quyền cho doanh nghiệp nhà nước góp vốn cổ phần chứ khơng trao quyền góp vốn bằng các loại tài sản khác vào doanh nghiệp. Đây là một quy định hạn chế quyền trong góp vốn. Nói về khái niệm góp vốn vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 cũng khơng có khái niệm góp vốn cổ phần cũng như khơng có khái niệm góp vốn vào doanh nghiệp.

Song song với việc điều chỉnh của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 trong nền kinh tế thị trường, Quốc hội ban hành Luật doanh nghiệp năm 1999 điều chỉnh hoạt động kinh doanh của khối doanh nghiệp tư nhân. Theo khoản 4 điều 3 Luật doanh nghiệp 1999, khái niệm góp vốn được xác định làm quy tắc xử sự chung thống nhất thì điểm khối doanh nghiệp không sử dụng ngân sách nhà nước hay cịn gọi là khơng sử dụng và

<i>hình thành tài sản cơng trong thị trường. Khái niệm "Góp vốn" được hiểu là việc đưa tài </i>

<i>sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của cơng ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, cơng nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ cơng ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty. Để chuẩn bị tham </i>

gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời, văn bản luật này đã hợp nhất Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 và Luật doanh nghiệp năm 1999 thành một văn bản chung áp dụng thống nhất với hai khối doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường đó là khối doanh nghiệp nhà nước và khối doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời khái niệm “góp vốn” được các nhà làm luật kế thừa đúng nội dung tại khoản 4 điều

<i>3 Luật doanh nghiệp năm 1999. Nghĩa là, góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở </i>

thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty.

Trong q trình hội nhập kinh tế thị trường mang tính tồn cầu hóa ở nước ta, Luật doanh nghiệp năm 2005 tuy có đóng góp rất lớn để điều chỉnh hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời của các chủ thể kinh doanh. Nhưng bên cạnh đó luật này cũng

<small> </small>

<small>14tại điểm h khoản 1 điều 7 Luật doanh nghiệp nhà nước</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

đã bộc lộ nhiều bất cập cản trở quá trình hội nhập kinh tế thế giới ở nước ta nên tại kỳ họp thứ 8 khóa 13, ngày 26 tháng 11 năm 2014 Quốc hội thông qua Luật doanh nghiệp năm 2014 để thay thế Luật doanh nghiệp 2005. Xét theo quy định tại khoản 13 điều 4

<i>Luật doanh nghiệp 2014, khái niệm “góp vốn” được hiểu như sau: Góp vốn là việc góp </i>

<i>tài sản để tạo thành vốn điều lệ của cơng ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập. Khái </i>

niệm này có sự khác biệt với trước đây, bản chất góp vốn chính là góp về tài sản, sự hình thành vốn của cơng ty thơng qua góp vốn của các thành viên để thuộc sở hữu chung của công ty hoặc của chủ sở hữu. Sự khác biệt hơn trong khái niệm của Luật doanh nghiệp 2014 so với Luật doanh nghiệp năm 2005 đó chính là góp vốn để tạo thành vốn điều lệ của cơng ty. Ngồi ra, khái niệm góp vốn trong Luật doanh nghiệp 2014 cũng liệt kê cụ thể hơn mục đích góp vốn vào hoạt động kinh doanh so với Luật doanh nghiệp

<i>2005, đó là “góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh </i>

<i>nghiệp đã được thành lập”. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các chủ thể tham gia </i>

“góp vốn” vào doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời theo sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp 2020 được Quốc hội khóa 14 thơng qua ngày 17/6/2020. Khái niệm “góp vốn” trong văn bản Luật hiện hành này được các đại biểu Quốc hội thống nhất trong cách hiểu làm quy tắc xử sự áp dụng chứng từ trung ương

<i>đến địa phương trong cả nước. Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của </i>

<i>cơng ty, bao gồm góp vốn để thành lập cơng ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của cơng ty đã được thành lập<small>15</small></i>. Nếu như trong quy định của Luật doanh nghiệp 2014 góp vốn là để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập thì trong quy định của Luật doanh nghiệp hiện hành góp vốn là góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm góp để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập. Vốn được hiểu chung là tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty khi thành lập hoặc khi công ty đã đi vào hoạt động cần bổ sung thêm vốn là nguồn tài sản để hoạt động. Tài sản để góp vốn vào cơng ty ở đây được hiểu những tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai<small>16</small>. So sánh với khái niệm góp vốn trong quy định của Luật doanh nghiệp

<small> </small>

<small>15 Khoản 18 điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2020 </small>

<small>16 Điều 105 Bộ Luật dân sự năm 2015 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

năm 2014 thì Luật doanh nghiệp hiện hành cũng làm rõ hơn việc góp vốn vào tổ chức kinh doanh đó là cơng ty chứ khơng phải góp vào vốn điều lệ của doanh nghiệp. Như vậy, khái niệm góp vốn trong Luật doanh nghiệp năm 2020 đã loại trừ doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ, chỉ có bốn loại doanh nghiệp là cơng ty là những chủ thể có quyền góp vốn vào điều lệ. Rõ ràng việc pháp luật phân định rõ góp vốn thể hiện bằng sự liên kết giữa các thành viên hoặc cổ đông trong công ty là cần thiết phải tạo thành vốn điều lệ nhằm mục đích để hoạt động sinh lời. Tác giả hoàn toàn đồng ý với khái niệm rất khoa học này, bởi nó phù hợp với thực tiễn phát triển của các tổ chức kinh tế và hoàn thiện của hành lang pháp lý để xác định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp là cơng ty có liên quan đến việc góp vốn tạo thành tài sản chung để hoạt động kinh doanh, thương mại phát triển công ty trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.

<i><b>Thứ hai: Đặc điểm góp vốn vào doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh Một là: Góp vốn vào doanh nghiệp là góp bằng tài sản </b></i>

Luật Doanh nghiệp 2020 đã đưa ra định nghĩa góp vốn đề cập tới việc góp vốn bằng tài sản và có thể liệt kê các loại tài sản được góp vốn theo quy định của pháp luật hiện hành. Có thể nhận thấy, các quy định này còn mở ra một khoảng rộng cho các bên trong hợp đồng thành lập công ty hoặc khi công ty đã đi vào hoạt động họ vẫn có quyền tự do thoả thuận xác định những loại tài sản khác được góp vốn. Bộ Luật dân sự đã thống nhất trong cách hiểu về tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Ngồi ra, tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai<small>17</small>. Ở góc độ kinh doanh, đây là những loại tài sản hợp pháp lưu thông trên thị trường và được quyền đưa vào kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. So sánh với các nước trên thế giới, hầu hết các nước đều có khuynh hướng quan niệm tài sản bao gồm: bất động sản hữu hình, bất động sản vơ hình và động sản hữu hình, động sản vơ hình. Ví dụ: Bộ luật Dân sự Quebec (Canada) xác định: "Tài sản, hoặc hữu hình hoặc vơ hình, được chia thành bất động sản và động sản" (Điều 899); Theo Bộ luật Dân sự của Tiểu Bang Louisiana (Hoa Kỳ), tại điều 448, có quy định: Tài sản được phân chia thành tài sản chung, tài sản công và tài sản tư; tài sản hữu hình và tài sản vơ hình và động sản và bất động sản<small>18</small>. Xét từ giá trị kinh tế của tài

<small> 17 Điều 105 Bộ Luật dân sự năm 2015 </small>

<small>18 Nguyễn Diễn, Các hình thức góp vốn vào doanh nghiệp và quyền, nghĩa vụ của người quản lý doanh nghiệp, trong 205 NXB Công An Nhân dân năm 2016 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

sản, có thể’ nói tất cả các vật chất liệu và các quyền mà có thể khai thác mang lại giá trị kinh tế hay có thể trị giá được bằng tiền đều có thể được coi là tài sản dùng để góp vốn.

Tác giả đồng ý với nhiều nhà nghiên cứu khi cho rằng: Góp vốn bằng tài sản là hình thức góp vốn quan trọng nhất, bởi vì khơng có tài sản thì cơng ty không thể thực hiện được các hoạt động kinh doanh, thương mại để sinh lời. Về nguyên tắc, mọi tài sản đều có thể góp vào điều lệ của cơng ty để gia tăng quy mô vốn thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, tài sản đó ln lệ thuộc vào sự thỏa thuận cụ thể giữa các thành viên hoặc cổ đơng góp vốn bằng hợp đồng vào cơng ty. Thực tế, tài sản góp vốn có thể ở bất kỳ dạng vật chất hay các quyền vô hình thì với điều kiện các tài sản này phải là các tài sản có giá trị kinh tế cao và có thể được chuyển giao trong giao lưu dân sự một cách hợp pháp. Bởi vì, bản thân góp vốn đã là một hành vi chuyển giao tài sản, do đó phải tuân thủ những quy tắc chung có liên quan tới việc chuyển giao tài sản. Trên thế giới, căn cứ vào việc chuyển giao, người ta có thể thấy chia các hình thức góp vốn bằng tài sản thành một số loại để nghiên cứu. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tài sản để góp vốn có thể phân định bằng việc góp

<b>vốn bằng tiền, góp vốn bằng vật chất liệu và góp vốn bằng quyền, cụ thể như: </b>

- Góp vốn bằng tiền có tính chất giống với việc bỏ tiền ra mua quyền lợi trong công ty. Tuy nhiên những người góp vốn ban đầu chính là những người tạo ra những

<i>quyền lợi ấy, những người góp thêm vốn điều lệ của cơng ty đã được thành lập thì quyền </i>

lợi trong cơng ty khơng bằng như người góp tài sản vào vốn điều lệ ban đầu của cơng ty. Khi đã cam kết góp vốn bằng tiền mà khơng góp hay góp khơng đúng thời hạn luật định thì người cam kết bị coi là đã nợ cơng ty khoản tiền cam kết. Việc góp vốn hay trả nợ vốn này có thể thực hiện bằng các phương tiện thanh tốn<small>19</small>.

- Góp vốn bằng vật chất liệu hay hiện vật hoặc đồ vật thực chất là góp vốn bằng quyền sở hữu đồ vật hay vật phẩm mà có thể là bất động sản hữu hình hoặc động sản hữu hình. Việc góp vốn này gần giống với việc bán hay đổi đồ vật để lây quyền lợi cơng ty, có nghĩa là người góp vốn thu được quyền lợi hợp pháp, bình đẳng trong cơng ty, cịn cơng ty sẽ nhận được quyền sở hữu vật chất liệu mà thành viên hoặc cổ đơng đã góp. Việc cơng ty trở thành chủ sở hữu của vật góp vốn buộc cơng ty đó phải có tư cách

<small> </small>

<small>19</small><i><small> Bùi Đức Giang (2014), "Nhận tài sản bảo đảm làm phần vốn góp: từ quy định của pháp luật đến thực tiễn", Tạp </small></i>

<i><small>chí Nhà nước và Pháp luật, (số 4), tr. 37-58</small></i>.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

pháp nhân, như công ty TNHH, công ty Cổ phần và công ty Hợp danh. Có nghĩa là cơng ty phải có khả năng hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ từ thành viên hoặc cổ đơng góp vốn bằng vật. Điều này cho thấy việc góp vốn bằng vật chất liệu khơng thể thực hiện được với các cơng ty khơng có tư cách pháp nhân. Do đó khái niệm góp vốn hiện nay cũng ghi rõ góp vốn để tạo thành vốn điều lệ của công ty chứ không phải một tổ chức kinh tế khác như doanh nghiệp tư nhân hay hợp tác xã hoặc chủ đầu tư dự án.

- Góp vốn bằng quyền có phần phức tạp hơn so với góp vốn bằng tiền hay góp vốn bằng vật chất liệu, bởi vì khơng chỉ vì sự tính tốn trị giá của nó mà cịn vì sự phân loại trong thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội. Trước hết, việc phân loại tài sản thành tài sản hữu hình và tài sản vơ hình dẫn đến việc phân chia việc góp vốn bằng tài sản thành góp vốn bằng vật và góp vốn bằng quyền, hay nói cách khác, góp vốn bằng tài sản hữu hình và góp vốn bằng tài sản vơ hình, ngồi việc góp vốn bằng tiền

<i><b> Hai là: Góp vốn để tạo thành vốn điều lệ của cơng ty </b></i>

Góp vốn để thành lập cơng ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập đều nhằm mục đích để tạo thành vốn điều lệ của cơng ty. Đây là đặc điểm cơ bản thể hiện tính quy mô về tài sản của công ty thông qua việc góp vốn của các thành viên vào cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh hoặc cổ đông của công ty cổ phần.

Theo quy định tại Luật doanh nghiệp hiện hành, vốn điều lệ được định nghĩa rất

<i>cụ thể như sau: “Vốn điều lệ là tổng giá trị tài sản do các thành viên công ty, chủ sở hữu </i>

<i>cơng ty đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; là tổng mệnh giá cổ phần đã bán hoặc được đăng ký mua khi thành lập công ty cổ phần”</i><small>20</small>. Như vậy, cho dù việc góp vốn với hình thức để thành lập cơng ty hoặc góp thêm vốn điều lệ vào cơng ty đi chăng nữa thì mục đích cơ bản cũng là góp vốn để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Định nghĩa trên đây là quy tắc xử sự chung thống nhất từ trung ương đến địa phương trong việc góp vốn tạo thành vốn điều lệ của cơng ty thuộc khối doanh nghiệp nhà nước cũng như khối doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường của nước ta. Góp vốn để tạo thành vốn điều lệ của cơng ty, bởi vì vốn điều lệ là tổng giá trị tài sản được góp hoặc cam kết góp từ các thành viên hoặc chủ sở hữu đối với công ty TNHH, công ty hợp danh, là tổng mệnh giá cổ phần đã bán hoặc được đăng ký mua khi thành lập cơng ty cổ phần. Nếu khơng có tài sản được góp hoặc cam kết góp của các thành viên hoặc cổ đơng thì vốn điều lệ của công ty sẽ không thể xuất hiện hoặc

<small> </small>

<small>20 Khoản 34 điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2020. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

tồn tại để thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại trong nền kinh tế. Pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành cho thấy khi các thành viên hoặc cổ đơng góp tài sản vào cơng ty bắt buộc phải định giá tài sản. Ở công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty hợp danh thì đơn giản tài sản được định giá thành tổng giá trị thuộc về công ty, đối với công ty cổ phần thì tài sản góp của các cổ đơng vào được định giá và tổng giá trị đó phải trở thành tổng mệnh giá cổ phần đã bán hoặc được đăng ký mua khi gia nhập vào công ty cổ phần.

Việc tạo thành vốn điều lệ trong công ty là bắt nguồn từ sự góp vốn tự nguyên của các thành viên hay cổ đông nhưng không thể thiếu sự đồng ý của các thành viên, cổ đông khác trong cơng ty. Đó là điều kiện cần, khẳng định vốn góp bằng tài sản vào cơng ty có nguồn gốc công khai, minh bạch tạo thành giá trị đồng thuận chắc chắn trong hoạt động kinh doanh của cơng ty. Theo quy định hiện hành, tài sản góp vốn có thể là đồng Việt Nam, vàng, ngoại tệ tự do chuyển đổi, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật, cơng nghệ, các tài sản khác có thể định giá được bằng đồng Việt Nam. Cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hoặc người có quyền sử dụng hợp pháp đối với các loại tài sản nêu trên có quyền được dùng tài sản đó để góp vốn ngoại trừ một số đối tượng theo quy định của pháp luật<small>21</small>. Trong thực tế, bản chất của vốn điều lệ công ty không đồng nhất khi xuất hiện, việc tạo thành vốn điều lệ khi thành lập công ty không quy định mức tối thiểu và tối đa. Tuy nhiên, vốn điều lệ còn phụ thuộc vào vốn pháp định hoặc vốn ký quỹ, ví dụ như một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện về vốn pháp định như kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, bán hàng đa cấp, dịch vụ lữ hành, kinh doanh tài chính ngân hàng… Pháp luật có yêu cầu mức vốn pháp định trong các cơng ty kinh doanh lĩnh vực nói trên bắt buộc phải có vốn điều lệ cao hơn hoặc bằng vốn pháp định. Cho nên việc góp vốn vào công ty của các thành viên hoặc cổ đông mang đặc điểm để tạo thành vốn điều lệ của công ty.

<b>1.1.3. Khái niệm, đặc điểm góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào hoạt động kinh doanh </b>

<small> </small>

<small>21 Xem quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp tại điều 17 Luật doanh nghiệp năm 2020 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<i><b> Thứ nhất: Khái niệm góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào hoạt động kinh doanh </b></i>

Nhìn nhận theo góc độ thực tiễn, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Tuyến đã đưa ra

<i>quan điểm: “Góp vốn bằng giá trị QSDĐ là sự thỏa thuận giữa các bên tuân theo điều </i>

<i>kiện, nội dung, hình thức chuyển QSDĐ được BLDS và pháp luật về đất đai quy định, theo đó NSDĐ góp phần vốn của mình bằng giá trị QSDĐ để hợp tác sản xuất, kinh doanh với hộ gia đình, cá nhân, tổ chức khác ở trong nước hoặc với tổ chức, cá nhân nước ngoài”</i><small>22</small>. Với quan điểm này, theo Tác giả cho rằng điều này chỉ tồn tại với khía cạnh quyền sử dụng đất hay đất đai là vật quyền. Bởi quan điểm mà nhà nghiên cứu đã đưa ra ở thời điểm Luật đất đai năm 2003 đang điều chỉnh cùng với Bộ luật dân sự năm 2005 chứ không phải thời điểm hiện tại chúng ta đang áp dụng quy định của văn bản hợp nhất Luật đất đai năm 2018. Từ đó cho thấy, cụm từ góp vốn bằng quyền sử dụng đất cũng không được định nghĩa rõ ràng, chưa thật sự làm quy tắc xử sự trong giao dịch dân sự nói chung và trong giao dịch kinh doanh thương mại nói riêng.

Ở góc độ pháp lý, việc quy định các nội dung của hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại điều 728 Bộ luật Dân sự năm 2005 chứ khơng có khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Khái niệm góp vốn bằng QSDĐ được để cập gián tiếp thông qua khái niệm về hợp đồng góp vốn bằng giá trị QSDĐ mà cụ thể là tại Điều 727 BLDS năm 2005 và quy định tại khoản 10 Điều 3 văn bản hợp nhất Luật đất đai năm 2018 về chuyển quyền sử dụng đất khi quy định về chuyển QSDĐ thì xác định giao dịch góp vốn quyền sử dụng đất chính là một dạng chuyển quyền sử dụng đất <small>23</small>. Cho nên, việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất ở thời điểm nói trên rất khó khăn trong cách hiểu và cách áp dụng chung thống nhất từ trung ương đến địa phương trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Nhìn nhận theo góc độ khoa học pháp lý, giáo trình Luật đất đai của trường Đại

<i>học Luật Hà Nội xuất bản năm 2018 có đưa ra khái niệm Góp vốn bằng quyền sử dụng </i>

<i>đất là việc NSDĐ dùng quyền sử dụng đất của mình liên kết với tài sản của chủ thể khác </i>

<small> </small>

<small>22</small><i><small> Nguyễn Quang Tuyến, Địa vị pháp lý của người sử dụng đất trong các giao dịch dân sự, thương mại về </small></i>

<i><small>đất đai, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà nội (2003), Tr. 130. </small></i>

<small>23 So với khoản 4 Điều 4 LDĐ năm 2003 chỉ có góp vốn QSDĐ vào pháp nhân mới mới có sự chuyển QSDĐ. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<i>để hợp tác sản xuất kinh doanh<small>24</small>. Cụm từ: góp vốn bằng quyền sử dụng đất và góp vốn </i>

quyền sử dụng đất thực sự khơng có sự khác nhau về nội hàm của hai thuật ngữ này. Có thể hiểu, góp vốn là một động từ, còn “bằng quyền sử dụng đất” hay “quyền sử dụng đất” hoặc “bằng giá trị quyền sử dụng đất” là một quyền của chủ thể. Theo tác giả, sử dụng thuật ngữ góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất sẽ chính xác hơn là góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Bởi vì, góp vốn là động từ cịn góp tài sản đi kèm sau động từ là một danh từ, những danh từ này có thể ở dạng liệt kê chỉ một tài sản cụ thể, nên cần phải có từ bằng làm chức năng là một liên từ nối giữa động từ và danh từ và cũng để phân biệt là việc góp vốn bằng giá trị tài sản là quyền sử dụng đất với những tài sản khác như: góp vốn bằng vàng, góp vốn bằng tiền, góp vốn bằng ngày cơng lao động.v.v. Trong nền kinh tế thị trường dưới góc độ kinh tế, bàn đến thuật ngữ góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất là một vấn đề rất cần thiết. Bởi vì, cụm từ giá trị quyền sử dụng đất phù hợp với thị trường khi mà đất đai được xem là tài sản tạo ra giá trị kinh tế mà bản thân quyền sử dụng đất là tài sản. Tài sản này có giá trị kinh tế khi chính quyền sử dụng đất là một đại lượng để đo lường quyền sử dụng của thửa đất cụ thể nào đó. Giá trị quyền sử dụng

<i>đất được quy định tại khoản 20 điều 3 văn bản hợp nhất Luật đất đai năm 2018 “Giá trị </i>

<i>quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định”. Như vậy, bản thân giá trị phải gắn liền </i>

với một loại tài sản thông qua một đơn vi trung gian là tiền tệ để định giá. Do đó xác định giá trị quyền sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường là một điều hiển nhiên gắn liền với hành vi của con người vì một mục đích cụ thể như góp vốn vào doanh nghiệp để hoạt động sinh lời.

Qua phân tích và so sánh như trên đây, Tác giả có thể rút ra khái niệm góp vốn

<i>bằng giá trị quyền sử dụng đất, như sau: “Góp vốn bằng giá trị QSDĐ là việc của tổ </i>

<i>chức, cá nhân, hộ gia đình góp giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với tổng diện tích đất xác định trong một thời hạn sử dụng đất của mình vào hoạt động sản xuất, kinh doanh theo những điều kiện và trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”. </i>

<i><b>Thứ hai: Đặc điểm góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh </b></i>

<small> </small>

<small>24 Giáo trình Luật đất đai Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2015) Tr.280 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản theo Khoản 1 Điều 105 BLDS năm 2015, trong đó quyền sử dụng đất được khẳng định giá trị quyền sử dụng đất đương nhiên được xem là quyền tài sản theo Điều 115 BLDS năm 2015 và nó là một quyền tài sản đặc biệt. Dưới góc độ đặc biệt “góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất” có những đặc điểm cơ bản như sau:

<i>Một là, tài sản để tham gia vào quan hệ góp vốn nhằm mục đích hoạt động kinh </i>

doanh là giá trị quyền sử dụng đất chứ không phải là đất đai, đó là quyền tài sản của tổ chức, cá nhân. Việc góp vốn khơng làm mất đi quyền sở hữu chung về đất đai của Nhà nước mà thực chất nó chỉ chuyển quyền sử dụng đất từ chủ thể này sang chủ thể khác. Đối với việc góp vốn tài sản là vật hay các quyền tài sản khác thì có sự chuyển giao quyền sở hữu, nhưng giá trị quyền sử dụng đất thì khơng có sự chuyển giao quyền sở hữu vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước là đại diện chủ sở hữu duy nhất về đất đai của quốc gia.

<i>Hai là, việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện trong thời </i>

hạn sử dụng đất của người sử dụng đất, nên các hợp đồng góp vốn chỉ được thỏa thuận thời hạn góp vốn là trong thời hạn sử dụng đất.

<i>Ba là, các tài sản có mục đích sử dụng xác định, nhưng quyền sử dụng đất khi đem </i>

đi góp vốn, phải làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc góp vốn xong bên nhận góp vốn phải làm thủ tục chuyển chuyển nhượng quyền sử dụng đất chứ khơng

<i>phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất. </i>

<i>Bốn là, việc góp vốn bằng tiền và các tài sản khác gắn liền với đất thì bên góp vốn </i>

giấy chứng nhận góp vốn vào doanh nghiệp, cổ phần, hợp tác xã và tùy từng loại tài sản có thể đăng ký hoặc không đăng ký quyền sở hữu. Những việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất bằng hình thức nào thì cũng bắt buộc phải được thiết lập bằng bản hợp đồng có cơng chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký với cơ quan quản lý đất đai theo luật định. Như vậy việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vừa chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã và được điều chỉnh bởi pháp luật đất đai. Nghiên cứu sâu về góp vốn bằng tài sản là giá trị quyền sử dụng đất theo quan điểm của

<i>TS Sỹ Hồng Nam, Tác giả đồng quan điểm với việc nhận diện đặc điểm của quyền sử </i>

dụng đất góp vốn vào doanh nghiệp trong Luận án Tiến sĩ của Sỹ Hồng Nam<small>25</small>. Cho nên

<small> </small>

<small>25</small><i><small> Sỹ Hồng Nam, Pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện khoa </small></i>

<small>học xã hội (2016), Tr.34 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

giá trị quyền sử dụng đất có tính đặc thù phái sinh từ quyền sở hữu đất đai, pháp luật quy định về trình tự, thủ tục góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất chặt chẽ hơn so với các hình thức góp vốn khác.

<i>Năm là, pháp luật đất đai thừa nhận giá trị quyền sử dụng đất là một loại tài sản và </i>

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cơ sở pháp lý xác định quyền về tài sản của một chủ thể, nên việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện khi người sử dụng đất có GCNQSDĐ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Mặt khác, việc góp vốn này chỉ bị chấm dứt khi các bên vi không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

<i>Sáu là, để tạo thành giá trị quyền sử dụng đất góp vốn vào hoạt động kinh doanh, </i>

quyền sử dụng đất góp vốn do các bên thỏa thuận theo sát giá trị trường. Tuy nhiên, đối với loại đất thuê của Nhà nước và đất nông nghiệp, lâm nghiệp, ni trồng thủy sản thì khi tạo thành giá trị quyền sử dụng đất các bên khơng được tính thấp hơn khung giá đất do Nhà nước ban hành.

<b>1.2. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật điều chỉnh góp vốn bằng giá quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp </b>

Phải thừa nhận rằng, việc ban hành Luật đất đai năm 2013 gọi chung là văn bản hợp nhất Luật đất đai năm 2018, Quốc hội nước ta xây dựng chế định quyền và nghĩa vụ chung và quyền nghĩa vụ cụ thể phù hợp với thực tế phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong đó chú trọng quyền của người sử dụng đất tại Điều 167 để chứng minh tính

<i>thống nhất, hồn thiện của pháp luật đất đai ở nước ta. Tức là việc xác định “Người sử </i>

<i>dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này<small>26</small></i>” là đã trải qua một thời gian dài của quá trình đúc rút kinh nghiệm từ lý luận đến thực tiễn. Với hai quan điểm khoa học cơ bản tập trung xoay quanh vấn đề sở hữu đất đai, đó

<i><b>là: i) giữ nguyên chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, đồng thời hoàn thiện cấu trúc </b></i>

nội dung của quyền năng sở hữu, chủ thể tham gia thực hiện QSH (chủ sở hữu, người

<i><b>quản lý, NSDĐ....) đổi mới phương thức thực hiện QSH; ii) đa dạng hóa các hình thức </b></i>

sở hữu đất đai theo hướng thừa nhận hình thức sở hữu tư nhân, sở hữu cộng đồng dân cư, sở hữu tập thể bên cạnh hình thức sở hữu nhà nước<small>27</small>. Ở Giai đoạn trước khi ban

<small> 26 Khoản 1 điều 167 Luật đất đai năm 2013 </small>

<small>27 Mai Hồng Quỳ (2011) “Đổi mới chế độ sở hữu đất đai với vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt </small>

<i><small>Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý, (Số chuyên đề tháng 1), tr.3-7 </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

hành Hiến pháp năm 1980, nước ta thừa nhận nhiều hình thức sở hữu đối với đất đai để phù hợp với điều kiện kinh tế tập trung bao cấp. Từ khi Hiến pháp năm 1980 có hiệu lực đến nay nước ta chỉ cịn lại một hình thức sở hữu đất đai duy nhất là sở hữu toàn dân, do vậy tác giả sẽ lấy mốc từ Hiến pháp năm 1980 đến nay để nêu khái quát quá trình hình thành về quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất.

<i>1.2.1. Giai đoạn từ năm 1986 đến trước khi Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành </i>

Văn bản pháp lý đầu tiên về Luật đất đai kể từ sự kiện cả nước thực hiện chủ trương đường lối chính sách chuyển đổi nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là LĐĐ năm 1987. Luật này có hiệu lực từ ngày 08/01/1988, tồn tại trong thực tiễn thi hành hơn 5 năm và hết hiệu lực kể từ ngày 15/10/1993. Tại Điều

<i>3 quy định: “Nhà nước bảo đảm cho người sử dụng đất được hưởng những quyền lợi </i>

<i>hợp pháp trên đất được giao, kể cả quyền chuyển, nhượng, bán thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được giao khi khơng còn sử dụng đất và đất đó được giao cho người khác sử dụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định” và tại Điều 5 quy định: “Nghiêm cấm việc mua, bán, lấn, chiếm đất đai, phát canh thu tơ dưới mọi hình thức, nhận đất được giao mà không sử dụng, sử dụng không đúng mục đích, tự tiện sử dụng đất nơng nghiệp, đất có rừng vào mục đích khác, làm huỷ hoại đất đai”. Như vậy, với </i>

hai nội dung quy định trên thì quyền sử dụng đất khơng được coi là đối tượng của các giao dịch dân sự, ở giai đoạn này các giao dịch về quyền sử dụng đất chỉ tồn tại trong mối quan hệ giữa Nhà nước và NSDĐ thơng qua hình thức giao đất, về mặt pháp lý thì chưa xuất hiện thị trường thứ cấp về giao dịch quyền sử dụng đất <small>28</small>. Đồng nghĩa với việc giá trị quyền sử dụng đất không được quan tâm trong văn bản pháp lý cũng như trong thực tiễn đời sống xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu, quan sát cho rằng trong thời điểm lúc bấy giờ một số nơi vẫn diễn ra những giao dịch chuyển quyền sử dụng đất ngầm như mua, bán trao đổi. Nhưng đó là những cuộc mua bán, trao đổi trái quy định mà hệ lụy tranh chấp đất đai luôn xảy ra và thường kéo dài, không được giải quyết. Quyền góp vốn

<small> </small>

<small>28 Giao dịch về quyền sử dụng đất giữa những người sử dụng đất với nhau </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

bằng giá trị quyền sử dụng đất hay quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất và các quyền khác liên quan đến giao dịch về quyền sử dụng đất của người sử dụng đất NSDĐ bị cấm.

<i>1.2.2. Giai đoạn từ khi Luật đất đai năm 1993 đến trước thời điểm sửa đổi Luật đất đai năm 1998 có hiệu lực từ ngày 01/1/1999 </i>

<i><b>Ở thời kỳ này, giữa Nhà nước và người sử dụng đất đã có sự hình thành hai hình </b></i>

<i>thức là giao đất và cho thuê đất. Tại khoản 2 điều 3 Luật đất đai 1993 quy định: “Hộ gia </i>

<i>đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng…”. Tức là </i>

người sử dụng đất là tổ chức không được nhà nước giao đất và cũng không được quyền

<b>chuyển đổi, chuyển nhượng dưới mọi hình thức </b>

Giao dịch về quyền sử dụng đất trong thực tiễn, Luật đất đai năm 1993 đã cho phép

<i>thiết lập một số quan hệ, như: cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất”. Như vậy, </i>

tại thời điểm đó pháp luật đất đai chưa đặt ra quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất của hai chủ thể là hộ gia đình và cá nhân.

Cịn quyền và nghĩa các chủ thể là tổ chức bao gồm: các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội được điều chỉnh tại Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất năm 1994. Pháp lệnh năm 1994, có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 hết hiệu lực ngày

<i>01/01/1996, quy định các chủ thể có quyền góp vốn là: “Doanh nghiệp Nhà nước, doanh </i>

<i>nghiệp của các tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, tổ chức kinh tế tập thể được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích nơng nghiệp, lâm nghiệp, ni trồng thuỷ sản, làm muối có quyền: Góp vốn bằng giá trị QSDĐ để liên doanh với tổ chức, cá nhân trong nước, với tổ chức, cá nhân nước ngoài để tiếp tục sử dụng và mục đích sản xuất nơng nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối, mở rộng công nghiệp chế biến, dịch vụ nhằm phát triển sản xuất theo quy định của Chính phủ<small>29</small>”. Đây là văn bản đầu tiên được sử dụng cụm từ </i>

“góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất” với mục đích để liên doanh với tổ chức, cá nhân trong nước, với tổ chức, cá nhân nước ngoài để tiếp tục sử dụng và mục đích sản xuất nơng nghiệp, lâm nghiệp, ni trồng thủy sản, làm muối, mở rộng công nghiệp chế biến, dịch vụ nhằm phát triển sản xuất theo quy định của Chính phủ. Mặt khác, quy định

<small> </small>

<small>29 Tại Điểm a, Khoản 1 Điều 4 của pháp lệnh 1994, </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

này cũng xác định phạm vi chủ thể là doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp quốc phịng, an ninh, cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, tổ chức kinh tế tập thể được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích nơng nghiệp, lâm nghiệp, ni trồng thuỷ sản, làm muối có quyền góp vốn bằng giá trị

<i>quyền sử dụng đất vào hoạt động knih doanh. </i>

Trường hợp tổ chức kinh tế được nhà nước cho thuê đất cũng có quyền góp vốn

<i>theo quy định tại điều 10 Pháp lệnh năm 1994: “Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp </i>

<i>của các tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, trong thời hạn thuê đất có quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để liên doanh với tổ chức, cá nhân trong nước, với tổ chức, cá nhân nước ngồi theo quy định của Chính phủ”. Nghĩa </i>

là quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp quốc phịng, an ninh, để liên doanh với tổ chức, cá nhân trong nước, với tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được thực hiện trong thời hạn thuê đất. Việc thực hiện quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất của các tổ chức này phải tuân thủ theo quy định của Chính phủ.

Để phù hợp với quá trình phát triển kinh tế đất nước, Pháp lệnh năm 1994 được sửa đổi bổ sung một số điều của pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong

<i>nước được nhà nước giao đất, cho thuê đất năm 1996. Gọi tắt là Pháp lệnh năm 1996, </i>

<i>có hiệu lực ngày 09/9/1996 hết hiệu lực ngày 01/01/1999. với những quy định rõ hơn </i>

về chủ thể có quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất và điều này đã cho thấy pháp luật đã có sự phân định khác nhau về quyền góp vốn của các chủ thể thơng qua hình thức sử dụng đất trong thực tiễn:

<i>Chủ thể được nhà nước giao đất, chủ thể thứ nhất có quyền góp vốn bao gồm: </i>

<i>“Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, tổ chức kinh tế tập thể.” </i>

<i>Chủ thể được nhà nước cho thuê đất là chủ thể thứ hai, bao gồm: “Doanh nghiệp </i>

<i>Nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, trong thời hạn thuê đất...”. </i>

Chủ thể thứ nhất và thứ hai có sự phân biệt rất rõ ràng về nguồn gốc sở hữu đất được giao hay được thuê để thực hiện quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, tại thời điểm này Bộ Luật dân sự năm 1995 có hiệu lực từ

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

ngày 01/7/1996 thì chưa có quy định về hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Nghĩa là trong thực tế các giao dịch dân sự như chuyển đổi quyền sử dụng đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thuê quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng đất được thống nhất thực hiện theo hợp đồng quy định trong Bộ Luật dân sự năm 2015. Như vậy, Chủ thể được nhà nước giao đất hay cho thuê đất thì mới được thực hiện quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp nhưng Bộ Luật dân sự khơng quy định loại hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để áp dụng trong thực tiễn.

<i>1.2.3. Giai đoạn từ ngày 01/01/199 đến ngày Luật sửa đổi Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. </i>

Việc điều chỉnh góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong giai đoạn này đã được mở rộng, thay đổi bằng Luật đất đai năm 1993 được sửa đổi bổ sung bằng LĐĐ năm 1998, có hiệu lực ngày 01/01/1999 và hết hiệu lực ngày 01/7/2004. Đây là lần đầu

<i>tiên ghi nhận quyền góp vốn của chủ thể là hộ gia đình, cá nhân, theo đó hộ gia đình, cá </i>

nhân mà thuê đất trả tiền thuê đất cho cả thời gian th thì được quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thuê cùng với tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê trong thời hạn thuê để hợp tác sản xuất, kinh doanh với tổ chức, cá nhân trong nước theo quy định của pháp luật.

Luật đất đai cũng đưa ra điều kiện để thực hiện quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thuê cùng với tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê theo quy định, trong trường hợp hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất, đã trả trước tiền thuê đất cho nhiều năm, nếu thời hạn th đất đã được trả tiền cịn lại ít nhất là 5 năm.

Như vậy, lần đầu tiên chủ thể là cá nhân và hộ gia đình được ghi nhận quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong LĐĐ được sửa đổi, bổ sung năm 1998, những giá trị quyền sử dụng đất đem đi góp vốn phải có nguồn gốc từ Nhà nước cho thuê và đã trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê hoặc trả tiền thuê đất cho nhiều năm nhưng đã trả trước cho thời hạn thuê đất tối thiểu là 5 năm. Nếu giá trị quyền sử dụng đất đem đi góp vốn khơng có nguồn gốc từ Nhà nước cho thuê và đã trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê hoặc trả tiền thuê đất cho nhiều năm nhưng đã trả trước cho thời hạn thuê đất tối thiểu là 5 năm thì khơng có quyền góp vào doanh nghiệp để kinh doanh. LĐĐ được sửa đổi, bổ sung năm 1998 đã dần mở ra một quyền mới cho

</div>

×