Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bài thu hoạch môn triết học Mác - Lênin Những giá trị bền vững của triết học mác lênin và sự vận dụng bản thân...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.28 KB, 12 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<i><b>Chủ đề bài thu hoạch: Những giá trị bền vững của triết học Mác-Lênin.</b></i>

<b>Đồng chí hãy rút ra những giá trị đối với bản thân khi nghiên cứu Triết họcMác-Lênin. </b>

<b>A. PHẦN MỞ ĐẦU.</b>

Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, phát triển với bao thăng trầm của lịch sửnhưng vẫn mang trong lịng nó những giá trị bền vững không thể bác bỏ là: Pháttriển; Chủ nghĩa nhân đạo triệt để; Phương pháp biện chứng duy vật và quanniệm duy vật về lịch sử; Học thuyết giá trị thặng dư, hình thái kinh tế - xã hội,CNXH. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là thế giới quan, phương phápluận khoa học cho chúng ta nhận thức và giải quyết những vấn đề thực tiễn củathế giới đương đại; xây dựng CNXH và thực hiện sự nghiệp đổi mới thành công.Qua những lần Đại hội Đảng tồn quốc, Đảng ta ln xác định kiên địnhchủ nghĩa Mac – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là kim chỉ nam trong quátrình lãnh đạo, chỉ đạo đưa đất nước Việt Nam ổn định và phát triển.

<b>Đây là lý do tôi chọn chủ đề “Những giá trị bền vững của triết học Lênin. Đồng thời rút ra những giá trị đối với bản thân khi nghiên cứu Triếthọc Mác-Lênin”. </b>

<b>Mác-B. PHẦN NỘI DUNG1. Cơ sở lý luận </b>

Triết học Mác ra đời là sự kế thừa có chọn lọc, tiếp thu có phê phán toàn bộnhững tinh hoa trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, từ cổ đại đến thời đại củaC.Mác và Ph.Ăngghen, nhưng trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức. Các Mác:chính hoạt động thực tiễn của con người là cầu nối tư duy của con người về thếgiới bên ngoài. Các hoạt động nhận thức, hoạt động đạo đức, hoạt động thẩm mỹcủa con người cũng dựa trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Với triết học củaHêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa tư tưởng biện chứng, đồng thời gạtbỏ cái vỏ duy tâm, thần bí của phép biện chứng ấy và đặt phép biện chứng trênnền thế giới quan duy vật. Còn thế giới quan duy vật được C.Mác vàPh.Ăngghen làm giàu bằng phương pháp biện chứng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

kế thừa những giá trị trong triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc, vận dụngchủ nghĩa duy vật này để khắc phục chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Cải tạo chủnghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu hình, máy móc, trực quan,khơng triệt để của nó, để trở thành chủ nghĩa duy vật triệt để. Trong triết họcMác, chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng, còn phép biện chứnglà phép biện chứng duy vật. Kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mac, Triết học Maclà V.I.Lênin.

Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, triết học Mác, V.I.Lênin không chỉ phê phánkhông khoan nhượng đối với mọi kẻ thù của chủ nghĩa Mác, mà ông còn kịchliệt phê phán những người nhân danh chủ nghĩa Mác, nhưng trên thực tế xa rờichủ nghĩa Mác. Đặc biệt, V.I.Lênin rất chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễncách mạng nước Nga cũng như phong trào cách mạng thế giới để bổ sung, pháttriển di sản triết học Mác. Do có những đóng góp to lớn của V.I.Lênin vào sựphát triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng mà mộtgiai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác được gắn với tên tuổi củaNgười và được gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin, cịn triết học thì được gọi là triếthọc Mác-Lênin.

<b>1.1. Khái niệm triết học Mac-LêNin</b>

Triết học Mác-Lênin là một trong ba bộ phận hợp thành hữu cơ không thểtách rời của chủ nghĩa Mác-Lênin, là học thuyết về những quy luật phổ biến củasự tồn tại, vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Vớiphương pháp biện chứng duy vật và quan niệm duy vật về lịch sử, triết học Mác-Lênin đóng vai trị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho nhận thức vàhoạt động thực tiễn của con người.

<b>1.2. Những giá trị bền vững của triết học Mác – Lênin:</b>

Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương khóa XII về các văn kiện trình Đạihội XIII của Đảng chỉ rõ: Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khuvực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hịa bình, hợp tácvà phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn,thách thức. Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiếnlược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt. Do tác độngcủa đại dịch Covid-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt.Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trênnhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Cácnước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tìnhhình mới. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngàycàng quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyềntrên biển Đơng cịn diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh vàcác vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tácđộng mạnh, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vữngcủa thế giới, khu vực và đất nước ta”. Như vậy, thời đại ngày nay có nhiều đổithay, thực tiễn biến đổi nhanh, khó lường, chủ nghĩa xã hội hiện thực đứng trướcnhiều khó khăn thách thức, khoa học, cơng nghệ phát triển rất nhanh, nhưngnhững giá trị bền vững của triết học Mác- Lênin vẫn còn nguyên ý nghĩa. Bởi lẽ,chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin nói riêng ln có sự thốngnhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Đồng thời ln được bổ sung từ tổngkết thực tiễn, thành tựu khoa học đương thời và phong trào cách mạng của giaicấp cơng nhân. Đó là các giá trị cơ bản sau:

<i><b>Triết học Mác-Lênin là một học thuyết triết học phát triển: Về bản chất,</b></i>

chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác- Lênin nói riêng là một họcthuyết khoa học phát triển, là hệ thống mở với bản chất nội tại vốn có là lnln được bổ sung, phát triển. Ph.Ăngghen nhiều lần khẳng định, học thuyết củacác ông không phải là một giáo điều mà là một kim chỉ nam cho hành động.V.I.Lênin sau này cũng đã khơng ít lần nhắc lại lời Ph.Ăngghen và khẳng địnhlại luận điểm này của chủ nghĩa Mác. Quá trình lịch sử hình thành, phát triểncủa chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin nói riêng đã chứngminh điều đó. Bản thân C.Mác và Ph.Ăngghen khơng phải ngay từ đầu đã có thếgiới quan duy vật biện chứng, đã có phương pháp biện chứng duy vật. Các ơngđã từng thuộc những thành viên sùng bái Hêghen, theo phái Hêghen trẻ trước

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

khi trở thành những nhà duy vật biện chứng lỗi lạc. Hơn nữa, thế giới quan duyvật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật của các ơng ln khơngngừng được bổ sung, hồn thiện, phát triển. Sự bổ sung, phát triển sáng tạo triếthọc Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và trong thời đại xây dựng chủ nghĩaxã hội hiện thực ở nước Nga Xôviết của V.LLênin là một minh chứng cho bảnchất khoa học, cách mạng vốn có của triết học Mác là luôn được bổ sung, pháttriển. Nhiều luận điểm của triết học Mác đã được V.I.Lênin bổ sung, phát triểncho phù hợp với điều kiện thực tiễn mới cũng như sự phát triển của khoa học vàcuộc đấu tranh chống lại các loại hình kẻ thù khác nhau của triết học Mác. Vídụ, V.LLênin đã đưa ra định nghĩa nổi tiếng về vật chất; định nghĩa chính xác vềgiai cấp; đấu tranh giai cấp; bổ sung những nhận thức mới về mối quan hệ giữachân lý tương đối và chân lý tuyệt đối; sự thống nhất giữa phép biện chứng,lơgíc biện chứng và lý luận nhận thức,v.v.. Rõ ràng, C.Mác, Ph.Ăngghen,V.I.Lênin không bao giờ tự coi lý luận triết học của các ông là “bất khả xâmphạm”, là hệ thống khép kín, là chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các ơngln địi hỏi những người mácxít phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lýtriết học cơ bản của Mác sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử,truyền thống văn hóa V.V.. của mỗi quốc gia, dân tộc. Đó là một trong nhữngđặc trưng vốn có của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin nóiriêng. Sự vận dụng sáng tạo triết học Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh củacách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam cũngnhư các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế cho thấy bản chất vốncó của chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin nói riêng là sángtạo và phát triển. Chính nhờ có sáng tạo mà chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung,triết học Mác-Lênin nói riêng được phát triển, chính phát triển lại là điều kiệncho những người cộng sản chân chính vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lêninnói chung, triết học Mác-Lênin nói riêng. Có nghĩa là, những nguyên lý cơ bảncủa chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin nói riêng cho tới nayvẫn hoàn toàn đúng đắn, khoa học, khách quan, nhưng có những luận điểm cụthể nào đó do thực tiễn chính trị-xã hội, cũng như do sự phát triển cùa kinh tế,

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

của khoa học,v.v... đã đổi thay mà cần phải được bổ sung, phát triển, thậm chí bịthực tiễn vượt qua.

<i><b>Chủ nghĩa nhân văn vì con người: Triết học Mác-Lênin xuất phát từ con</b></i>

người và cũng nhằm mục đích giải phóng con người. Triết học Mác-Lêninkhơng có mục tiêu nào khác là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nơ dịch,áp bức, bóc lột. Nhưng để giải phóng con người, trước hết phải giải phóng giaicấp công nhân, dân tộc và nhân loại. Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loạiđã chứng tỏ ý nghĩa to lớn của chủ nghĩa nhân văn vì con người của triết họcMác-Lênin. Mặc dù, các nhà tư tưởng phương Tây luôn xuyên tạc rằng, triết họcMác-Lênin “bỏ rơi” con người, “quên” con người, nhưng thực tế cả về phươngdiện lý luận, cả về phương diện thực tiễn đều chứng tỏ, triết học Mác-Lênin là

<i>triết học nhân đạo, hoàn bị, triệt để nhất. C.Mác cho rằng: “người là sinh vật tốicao đối với con người, do đó, dẫn đến cái mệnh lệnh tuyệt đối đòi phải lật đổ tấtcả những quan hệ trong đó con người là một sinh vật bị làm nhục, bị nô dịch,</i>

bất lực, bị khỉnh rẻ”; đồng thời khẳng định: “bản thân con người là bản chất tốicao của con người”. Như vậy, có thể nói, “về phương diện lý thuyết, thì sự pháttriển con người trong tương quan với tiến bộ xã hội theo quan niệm này là mơhình lý tưởng; hiếm thấy lý thuyết nào đề cập đến sự phát triển tự do của cánhân - cộng đồng - xã hội trong mối quan hệ vừa ràng buộc vừa hỗ trợ lẫn nhauhữu cơ đến thế”. Rõ ràng, chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác-Lêninnói riêng khơng có mục tiêu nào ngồi mục tiêu giải phóng con người khỏi mọihình thức nơ dịch, áp bức, bóc lột, bất cơng. Bởi lẽ, với chủ nghĩa Mác-Lênin“lịch sử xã hội của con người luôn luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhâncủa những con người”; và con người được giải phóng, được tự do phát triển tồndiện - đó là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội mới, chế độ xãhội mà giai cấp vô sản cách mạng và chính đảng của nó có sứ mệnh phải xâydựng. Đây cũng là mục tiêu nhân văn cao cả của chủ nghĩa Mác-Lênin nóichung, triết học Mác- Lênin nói riêng.

<i><b>Phương pháp biện chứng duy vật: nhân loại đã biết tới nhiều phương pháp</b></i>

nhận thức khác nhau nhưng chưa có phương pháp nào có thể thay thế được

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

phương pháp biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin. Mặc dù thực tiễn đãcó nhiều đổi thay, khoa học có nhiều phát hiện mới, nhưng những nguyên tắcphương pháp luận của phương pháp biện chứng duy vật trong triết học Mác-Lênin, như: nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thựctiễn vẫn giữ nguyên giá trị cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.Những thành tựu của khoa học hiện đại chỉ làm giàu thêm, phong phú thêmnhững giá trị của phương pháp biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin màthôi.

<i><b>Quan điểm duy vật về lịch sử: Quan điểm duy vật về lịch sử của triết học</b></i>

Mác-Lênin xuất phát từ trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất xã hội để lýgiải những quan niệm, tư tưởng cũng như những điều kiện xã hội trong đời sốngcủa quần chúng nhân dân cùng vai trò của họ trong lịch sử. Hơn nữa, quan điểmduy vật về lịch sử đã xem xét xã hội một cách chỉnh thể, toàn diện quá trình phátsinh, phát triển và suy tàn của các hình thái kinh tế - xã hội, bằng cách xem xéttoàn bộ các xu hướng mâu thuẫn khác nhau, tác động lẫn nhau và tìm ra cơ sởcủa chúng chính là các điều kiện sinh hoạt và sản xuất vật chất - tinh thần của xãhội. Quan điểm duy vật về lịch sử của triết học Mác-Lênin khác với chủ nghĩaduy kinh tế, chủ nghĩa duy vật tầm thường - chỉ nhấn mạnh một chiều yếu tốkinh tế, yếu tố vật chất trong quan hệ với yếu tố tinh thần. Quan điểm duy vật vềlịch sử trong khi khẳng định vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đờisống tinh thần, kinh tế đối với chính trị,v.v.. đã khơng hề hạ thấp mà cịn nhấnmạnh sự tác động trở lại của đời sống tinh thần đến đời sống vật chất, của chínhtrị đối với kinh tế, của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội,v.v.. Do vậy, chủnghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin về bản chất cũng là chủ nghĩa duyvật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin đánh giá caovai trò hoạt động thực tiễn của con người.

<i><b>Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội: Sự phát triển của nhân loại là hết</b></i>

sức phong phú, đa dạng nhưng sự phong phú, đa dạng ấy vẫn diễn ra theo quyluật khách quan. Do vậy, mặc dù sự phát triển của các quốc gia, dân tộc là hếtsức đa dạng, phong phú nhưng vẫn trải qua những nấc thang, những giai đoạn

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

tương đồng nhau (có thể là tương đồng nhau về sự tuần tự từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn; cũng có thể là sự tương đồngtrong việc bỏ qua một hoặc nhiều hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong sự pháttriển của mình - nếu điều kiện cho phép). Chính điều này tạo nên những hìnhthái kinh tế - xã hội đan xen nhau, kế tiếp nhau của lịch sử thế giới; làm cho lịchsử thế giới phát triển có sự đan xen, khơng đồng đều giữa các quốc gia, dân tộc.Sự không đồng đều thể hiện ở chỗ, ngay trong cùng một thời đại nhưng ở mỗiquốc gia, dân tộc khác nhau lại ở một hình thái kinh tế - xã hội khơng như nhau.Cịn sự đa dạng thể hiện ở chỗ, ngay trong cùng một hình thái kinh tế-xã hộinhưng ở các dân tộc, quốc gia khác nhau thì cũng có những biểu hiện khác nhau.Ví dụ như, cũng là hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, nhưng lại có hình tháikinh tế - xã hội phong kiến tập quyền và hình thái kinh tế - xã hội phong kiếnphân quyền,V.V.. Tuy vậy, dòng chảy của lịch sử nhân loại vẫn diễn ra theo sựthay thế các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp lên cao. Điều này diễn ra một cáchlịch sử - tự nhiên. Bởi lẽ, những nguyên nhân dẫn tới những sự thay thế này làdo những mâu thuẫn bên trong lịng của mỗi hình thái kinh tế - xã hội quy định.Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa cơ sở hạ tầngvà kiến trúc thượng tầng,v.v.. Những mâu thuẫn này được giải quyết sẽ tạo điềukiện cho sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội mới. Q trình này diễn rakhơng phụ thuộc vào ý chí, mong muốn chủ quan của con người. Tuy nhiên, cácquy luật xã hội còn bị tác động bởi văn hóa, phong tục, tập qn, truyền thống,lợi ích,... của con người. Chính những điều này đã làm cho lịch sử phát triển củanhân loại có thêm những đặc thù.

<i><b>-Học thuyết giá trị thặng dư: Phương pháp biện chứng duy vật và quan</b></i>

điểm duy vật lịch sử đã giúp C.Mác trở thành nhà kinh tế học đầu tiên phát minhra học thuyết giá trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ơng đã thànhcơng trong việc chỉ ra nguồn gốc của giá trị thặng dư. Trên cơ sở đó, C.Mác đãvén lên bức màn bí mật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cho đếnnay, các học giả tư sản dù muốn cũng chưa một ai đưa ra được một lý thuyết nàokhả dĩ có thể bác bỏ được học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Những phân

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

tích của Mác về chủ nghĩa tư bản và hệ thống kinh tế của nó vẫn giữ nguyên giátrị khoa học. Cùng với học thuyết về giá trị thặng dư, lý luận về sở hữu, về xóabỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, về sự ra đờitất yếu của sở hữu xã hội là những giá trị bền vững của kinh tế - chính trị họccủa chủ nghĩa Mác-Lênin. Không chỉ lao động của cơng nhân “cổ xanh” mà cảcơng nhân “trí thức - cổ trắng” cũng bị bóc lột giá trị thặng dư với tỷ suất lợinhuận cao. Tất nhiên cơ chế của sự bóc lột này tinh vi hơn, phức tạp hơn thời kỳtrước. Ví dụ, đầu vào của sản xuất cần phải tính cả tiền mua bản quyền phátminh, sáng chế, tiền quảng cáo và tiền cơng quản lý của chính nhà tư bản,v.v..Mặc dù vậy, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác về bản chất vẫn giữ nguyêngiá trị khoa học, bởi lẽ sức lao động sống của người công nhân vẫn là nguồn gốcduy nhất tạo nên giá trị thặng dư.

<i><b>Về vai trị, sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của giai cấp vô sản: Phương</b></i>

pháp biện chứng duy vật và quan điểm duy vật lịch sử đã giúp C.Mác vàPh.Ăngghen phát hiện ra rằng, trong tất cả các giai cấp đang đối lập với giai cấptư sản chỉ có giai cấp vơ sản là thực sự cách mạng; có vai trị, sứ mệnh lịch sửlật đổ giai cấp tư sản thiết lập một chế độ xã hội mới khơng cịn người bóc lộtngười. Điều này là do địa vị kinh tế, chính trị của giai cấp vơ sản quy định, cũngdo địa vị kinh tế, chính trị này mà giai cấp vô sản phải lãnh đạo sự nghiệp lật đổsự áp bức tư sản, xây dựng chế độ xã hội mới. V.I.Lênin khẳng định: “chính làcơng nhân thành thị và nói chung, cơng nhân nhà máy, cơng nhân cơng nghiệp -mới có khả năng lãnh đạo được tồn thể quần chúng lao động và những người bịbóc lột trong cuộc đấu tranh để lật đổ ách tư bản” V.LLênin còn phát triển sâusắc hơn luận điểm vai trò sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp cơng nhândo C.Mác và Ph.Ăngghen khởi xướng: “Chỉ có giai cấp vơ sản mới có thể làchiến sĩ tiên phong đấu tranh cho tự do chính trị và cho những thể chế dân chủ;vì một là giai cấp vơ sản là giai cấp phải chịu ách áp bức chính trị nặng nề hơncả... Hai là, chỉ có giai cấp vơ sản mới có khả năng đẩy tới cùng việc dân chủhóa chế độ chính trị và xã hội, bởi vì có dân chủ hóa được như vậy thì mới giành

<i>được chế độ đó về tay cơng nhân”. Xét về nội dung kinh tế, giai cấp công nhân</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

vẫn là chủ thể chủ yếu của quá trình sản xuất vật chất trong nền công nghiệphiện đại. Giai cấp công nhân vẫn là người gắn với lực lượng sản xuất hiện đại.

<i>Xét về nội dung chinh trị - xã hội, chỉ có giai cấp cơng nhân mới có thể liên</i>

minh với nhân dân lao động khác do đảng cộng sản lãnh đạo để xây dựng được

<i>nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Xét về nội dungvăn hóa, tư tưởng, chỉ có giai cấp công nhân mới là lực lượng xác lập được các</i>

hệ giá trị mới như lao động, công bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do để thay thếcho hệ giá trị tư sản cũ. Do vậy, học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen về vaitrị, sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của giai cấp công nhân hiện nay vẫn còn

<i>nguyên giá trị, ý nghĩa thời sự. Từ những giá trị bền vững cho thấy, lý luận khoahọc của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vẫn còn nguyên giá trị. </i>

<b>Vận dụng Chủ nghĩa nhân văn vì con người: Đảng và nhà nước ta thể</b>

hiện xuyên suốt chiều dài lịch sử. Lịch sử đã minh chứng, trong hơn 80 năm đô

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

hộ nước ta, thực dân Pháp thực thi chính sách bóc lột dân ta đến tận xương tủy,chúng thẳng tay chém giết những người u nước địi độc lập. Đặc biệt, nạn đóitừ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945 đã cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu người(bằng 10% dân số Việt Nam lúc bấy giờ) chính là hậu quả của chính sách cai trịvô nhân đạo của thực dân Pháp gây ra. Trong gần 20 năm hiện diện tại ViệtNam, chúng đã gây ra bao nhiêu tội ác rùng rợn. Đặc biệt, chúng còn ném hơn18,2 triệu gallon chất độc da cam xuống hơn 10% diện tích đất miền Nam vàném hàng triệu tấn bom xuống miền Bắc, làm chết hàng triệu dân thường và đểlại di chứng lâu dài cho nhiều triệu người các thế hệ người Việt Nam. Với nhữngtội ác đó, thì Đảng, nhà nước, nhân dân ta căm hờn tận xương tủy, muốn giết hết

<i>kẻ thù xâm lược. Nhưng đối với tù binh, hàng binh, thì Đảng chỉ thị cho quân và</i>

dân ta phải đối đãi với họ cho khoan hồng. Phải làm cho thế giới, trước hết làlàm cho dân Pháp biết rằng: “Chúng ta là quang minh chính đại. Chúng ta chỉđịi quyền độc lập tự do, chứ chúng ta khơng vì tư thù tư oán, làm cho thế giớibiết rằng chúng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết ngườicướp nước”. Nhờ được đối xử tốt, những tù binh và hàng binh người Pháp, Mỹvà chư hầu sau khi được ta trả lại tự do, đoàn tụ với gia đình, nhiều người trongsố họ đã trở thành những sứ giả hịa bình, bắc nhịp cầu đồn kết giữa nhân dânnước họ với chúng ta. Đây là niềm tự hào mang tính nhân văn cao của conngười, dân tộc Việt Nam.

<b>* Vận dụng quan điểm triết học Mác- Lênin trong phát triển đối vớibản thân: khi vận dụng các quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin vào</b>

cuộc sống giúp bản thân có cái nhìn khách quan, tồn diện khi nhìn nhận, đánhgiá các sự vật, hiện tượng đồng thời nhận thức rõ hơn các quan điểm, các hànhvi trong thực tiễn cuộc sống, từ đó vận dụng nó để hồn thành tốt cơng việcđược giao. Trong nghiên cứu, lý luận chính trị, những nguyên tắc, phương phápluận triết học Mác - Lênin như: nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển;nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn... có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.Thực tiễn nghiên cứu, lý luận chính trị đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết,đòi hỏi một lý luận khoa học, tiến bộ dẫn dắt. Có như vậy, mới đảm bảo nội

</div>

×