Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bài thu hoạch môn nhà nước và pháp luật Nguyên tắc tổ chức và hoạt Động của bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam và liên hệ thực tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.43 KB, 10 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>Chủ đề: Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội </b>

chủ nghĩa Việt Nam và liên hệ thực tế việc thực hiện nguyên tắc này trong tổ chức

<b>và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay. BÀI LÀM </b>

Trên thế giới và trong lịch sử của thế giới, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước tương đối đa dạng, phức tạp. Ở mỗi nước tùy thuộc điều kiện kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội của mình, có thể có cách thức tổ chức bộ máy nhà nước riêng, theo những nguyên tắc riêng. Mặt khác, xã hội luôn luôn vận động, biến đổi khơng ngừng, vì vậy, có thể có nguyên tắc phù hợp với thời đại này nhưng không phù hợp với thời đại khác, sự phát triển của văn minh nhân loại có thể làm xuất hiện thêm những nguyên tắc mới... Ngoài ra, ở một số nước, do đặc điểm riêng về điều kiện kinh tế, chính trị, nên có thể có những ngun tắc đặc thù. Vì vậy, phần này chỉ đề cập tới nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như tập quyền, phân chia quyền lực nhà nước, đảm bảo chủ quyền nhân dân, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, tập trung dân chủ... Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam được quy định chủ yếu trong Hiến pháp 2013. Vì vậy, việc hiểu về những nguyên tắc, hoạt động này sẽ là cơ sở để giải thích được mơ hình, cơ chế, nguyên tắc hoạt động và việc thực hiện các nguyên tắc này trong thực tế tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay.

Để làm rõ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ta cần hiểu rõ về nhà nước và sự ra đời của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

<b>1. Nhà nước và sự ra đời của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam </b>

<i>1.1. Khái niệm về nhà nước: </i>

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nhà nước, bởi nhà nước là một hiện tượng xã hội đa dạng và phức tạp, nội hàm định nghĩa về nhà nước phong phú, có tính đa diện, đa chiều. Dưới góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật thì nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, bao gồm một lớp người được tách ra từ

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

xã hội để chuyên thực thi quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, liên kết mọi thành viên xã hội, phục vụ lợi ích chung của xã hội và của lực lượng cầm quyền trong xã hội.

<i>1.2. Sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam </i>

Ở Việt Nam, ngay từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập đã có Cương lĩnh dẫn đường, lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm cách mạng, tiến hành cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, phát xít Nhật và bọn tay sai bán nước để giành chính quyền về tay nhân dân. Tháng 8-1945, nắm vững thời cơ khi nhân dân Liên Xơ chiến thắng phát xít Đức và qn phiệt Nhật Bản, Đảng Cộng sản Việt Nam kịp thời chớp thời cơ, lãnh đạo nhân dân làm Cách mạng

<i>Tháng Tám thành công. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. </i>

Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp nghị Giơnevơ năm 1954 được ký kết, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền Bắc được hồn tồn giải phóng nhưng miền Nam còn bị đế quốc thống trị, nước nhà tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Lúc này, cách mạng Việt Nam thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam và cho hịa bình thống nhất nước nhà. Theo Hiến pháp năm 1959, nước ta vẫn giữ tên là “nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Sau khi miền Nam hồn tồn giải phóng, nhân dân ta tiến hành tổng tuyển cử trong cả nước, thống nhất đất nước. Tháng 7-1976, Quốc hội ra nghị quyết đổi tên nước thành “nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, chính thể nhà nước vẫn là cộng hòa dân chủ nhân dân theo Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1980 thể chế hóa và hồn thiện mơ hình chính thể nhà nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, theo Điều 2 Hiến pháp năm 2013 “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.

<b>2. </b>

<b>Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam </b>

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là những tư tường chỉ đạo chi phối tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Tuân

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

thủ những tư tưởng chỉ đạo đó nhằm bảo đảm giữ vững được bản chất và hiệu lực,

<b>hiệu quả hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. </b>

<i>2.1. Nguyên tắc bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân </i>

Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Điều này được hiến định trong Điều 2 Hiến pháp năm 2013 “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước là những chủ thể được nhân dân trao quyền, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình, là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì vậy, cần phải phát huy và bảo đảm quyền lực của nhân dân trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, khắc phục tình trạng các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước lạm dụng quyền lực được nhân dân giao phó để có những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân Việt Nam gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngữ trí thức và những người lao động khác tham gia xây dựng Nhà nước thông qua việc thực hiện các quyền bầu cử, ứng cử, bãi miễn các đại biểu dân cử không xứng đáng. Nhân dân Việt Nam trực tiếp bầu ra đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Mọi hoạt động của các cơ quan dân cử và các cơ quan nhà nước khác đều chịu sự giám sát của nhân dân. Nhân dân còn có quyền khiếu nại, tố cáo về các quyết định có dấu hiệu vi phạm pháp luật của cơ quan nhà nước và hành vi công vụ của cán bộ, cơng chức nhà nước để bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...

Thực tế hiện nay Đảng ta và nhà nước ta đang làm rất tốt nguyên tắc này. Đảng và nhà nước ta đã luôn lắng nghe dân, tổ chức “trưng cầu dân ý” đối với những công việc hệ trọng của đất nước (như mỗi lần sửa đổi Hiến pháp đều trưng cầu dân ý, lấy ý kiến trong tất cả nhân dân). Bên cạnh đó cịn tăng cường cơng tác tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc hội; đẩy mạnh hình thức và nội dung vấn đề

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

chất vấn trực tiếp tại Quốc hội tổ chức truyền hình trực tiếp cho toàn dân biết, mạnh dạn đưa các vấn đề nhân dân đang quan tâm vào chất vấn, mổ xẻ để giải quyết dứt điểm, đẩy mạnh công tác giám sát để nhân dân an tâm, tin tưởng và sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước đều vì dân, hướng về dân. Tuy nhiên trong thực tế công tác thực hiện còn gặp nhiều vấn đề khó khăn, chất lượng đại biểu Quốc hội chưa đồng đều, số lượng bán chuyên trách còn chiếm tỷ lệ cao, chủ yếu là các lãnh đạo bên cơ quan nhà nước, bận đều hành công việc chun mơn nên khơng có nhiều thời gian tiếp xúc cử tri nên không nắm bắt phản ánh, giải quyết kịp thời những nhu cầu, bức xúc của người dân mình đại diện; đâu đó vẫn cịn đại biểu mang tư duy nhiệm kỳ, làm cho có khơng thể hiện hết trách nhiệm của người đại biểu dân cử.

<i>2.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ </i>

Ở nguyên tắc này, việc tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước có mối quan hệ biện chứng, bổ trợ cho nhau nhằm bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Theo đó, tập trung là quyền lực nhà nước phải được tập trung thống nhất ở các cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở các cơ quan nhà nước cấp trên. Bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành tập trung thống nhất của các cơ quan nhà nước ở trung ương đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương, của cấp trên đối với cấp dưới, của thủ trưởng cơ quan với cán bộ, nhân viên. Dân chủ để bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo và khả năng độc lập nhất định trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của các địa phương, cơ sở, của cán bộ, nhân viên trong bộ máy nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân lao động trong quản lý nhà nước và các công việc xã hội.

<i>Trong nguyên tắc này, cần chú ý khắc phục hai khuynh hướng lệch lạc: một là, </i>

chỉ nhấn mạnh tập trung mà làm ảnh hưởng đến quyền tự chủ, sáng tạo, tính độc lập

<i>của cấp dưới, của địa phương, cơ sở và quyền làm chủ của nhân dân lao động; hai là, </i>

tuyệt đối hóa quyền tự chủ, độc lập của cấp dưới, của địa phương, đơn vị cơ sở mà hạ thấp vai trò chỉ đạo tập trung thống nhất cần thiết của Trung ương, cấp trên và người lãnh đạo. Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn đến tình trạng làm giảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, gây mất lòng tin của nhân dân.

Thực tế hiện nay Đảng và nhà nước ta đã kết hợp hài hoà và phát huy được sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

sáng tạo, sức mạnh của tập thể và của từng cá nhân, của cả nước và địa phương cơ sở, của từng tổ chức và cả hệ thống bộ máy nhà nước. Nhiều khi để giải quyết cơng việc thì từng cá nhân đơn lẻ không thể làm được mà phải phát huy sự sáng tạo, sức mạnh của tập thể, nhiều khi lại không nên dùng các sức mạnh tập thể mà chỉ dùng đến sự quyết định cá nhân.

Nó thể hiện rõ qua việc chỉ đạo, điều hành của Đảng, nhà nước, chính phủ ta trong cơng tác phịng, chống dịch bệnh covid-19 thời gian qua. Chính sự chỉ đạo sát sao từ trung ương đến địa phương, sự phối hợp chặt chẽ giữ các ngành các cấp, sự tin tưởng đồng lòng của nhân dân đã giúp nước ta từng bước vượt qua đại dịch thành công. Tuy nhiên trong q trình này vẫn cịn một số địa phương, cơ sở, cán bộ có khuynh hướng lệch lạc, tuyệt đối hóa quyền tự chủ, độc lập của địa phương, đơn vị cơ sở mình mà hạ thấp vai trị chỉ đạo tập trung thống nhất cần thiết của Trung ương, cấp trên và người lãnh đạo nên tạo ra các bức xúc trong dân như trong vấn đề quản lý đi lại của người dân, việc hỗ trợ kinh phí, nhu yếu phẩm cho người dân có lúc có nơi còn chưa đúng chưa kịp thời,...

<i>2.3. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp </i>

Đây là một trong các nguyên tắc cơ bản, đặc thù của nhà nước. Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước được thực hiện trên ba chức năng: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là thực hiện quyền lực do nhân dân giao phó. Vấn đề đặt ra là phải phân cơng, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước đó như thế nào để nhân dân trao quyền cho Nhà nước mà không mất quyền; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và các quyền tự do, dân chủ của nhân dân được thực thi trên thực tiễn. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được cụ thể hóa thành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>Trong thực tế quản lý ở nước ta hiện nay, cả ba quyền lập pháp, hành pháp và </i>

tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất ở mục tiêu chính trị là xây dựng một nhà nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Hiến pháp năm 2013 cũng đã thể hiện rõ sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực thi quản lý nhà nước, tránh sự lấn sân, chồng

<i>chéo khi thực thi các chức năng, nhiệm vụ, cụ thể: Về cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Quốc hội là </i>

cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp. Đối với quyền lập hiến, Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội là cơ quan làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, dựa trên ý kiến của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội. Đối với quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận các chủ thể có quyền trình các dự án luật như sau: “Chủ tịch nước, UBTVQH, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật trước Quốc hội”.

<i> Bên cạnh đó Hiến pháp năm 2013 cũng quy định cơ chế kiểm soát đối với quyền hành pháp, được thực hiện trước hết từ cơ quan lập pháp, như: Quốc hội có </i>

quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng Chính phủ; có quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng,... Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật sai trái của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và thực hiện quyền giám sát hoạt động của Chính phủ, xem xét báo cáo của Chính phủ; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu, phê

<i>chuẩn, như: Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng, các bộ trưởng… Về kiểm soát quyền tư pháp, cơ chế kiểm sốt từ phía lập pháp đối với quyền tư pháp được thể </i>

hiện thông qua việc Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do mình bầu, như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Chủ tịch nước thực hiện quyền kiểm soát tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

pháp thông qua việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác để phù hợp với yêu cầu.

<i>2.4. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa </i>

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đòi hỏi các cơ quan, mọi cán bộ, công chức, viên chức nhà nước đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ pháp luật khi thi hành quyền hạn và nhiệm vụ của mình. Đồng thời, bộ máy nhà nước phải thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh. Để thực hiện, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng được một hệ thống pháp luật toàn diện, đồng bộ, thống nhất, đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trong thực tiễn khách quan. Các cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp và pháp luật; mọi vi phạm pháp luật đều bị phát hiện và xử lý theo pháp luật. Theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải bảo đảm hiệu lực tối cao của Hiến pháp; bảo đảm một chế độ thực hiện pháp luật thống nhất trong cả nước; bảo đảm mọi cơ quan tổ chức công dân thực hiện các nghĩa vụ pháp lý và phải chịu trách nhiệm pháp lý khi vi phạm pháp luật.

Hiện nay nhà nước ta đã thực hiện rất tốt vấn đề pháp chế được thực thi trong xã hội. Các cơ quan công quyền, lĩnh vực hành pháp giữ gìn chủ quyền, an ninh quốc gia và xã hội như quân đội, cơng an đã làm rất tốt vai trị của mình, tạo nên một Việt Nam ổn định về trật tự an toàn xã hội; người dân tin tưởng và sự bảo vệ an ninh trật tự của “chiến sĩ công an”, “anh bộ đội cụ Hồ” nên an tâm sống, lao động và làm việc. Bên cạnh đó là sự mạnh dạn, minh bạch trong xử lý tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật, thời gian qua đã có rất nhiều cán bộ cấp cao từ trung ương đến địa phương bị xử lý khi vi phạm pháp luật, thể hiện rõ quyết tâm khơng có vùng cấm, mọi người đều bình đẳng về trách nhiệm pháp luật khơng có ngoại lệ, không ai được đứng trên pháp luật, thể hiện rõ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

nghĩa của Đảng, nhà nước.

<i>2.5. Nguyên tắc công khai, minh bạch, lắng nghe ý kiến nhân dân </i>

Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải được công khai, minh bạch để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Cùng với việc công khai, minh bạch về tổ chức bộ máy, chủ trương, chính sách, pháp luật, kế hoạch cịn phải kịp thời công khai, minh bạch cả những yếu kém, khuyết điểm, thiếu sót của bộ máy nhà nước, của cán bộ, công chức nhà nước. Đây là cơ sở để làm trong sạch bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, củng cố uy tín của Nhà nước đối với nhân dân. Để phịng ngừa những hành vi tùy tiện, lộng quyền của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, cần quy định chặt chẽ và công khai, minh bạch quy chế phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức nhà nước cũng như các quyền và nghĩa vụ của công dân để dân biết và kiểm tra việc thực hiện.

Trong quá trình tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật, kế hoạch, các quyết định của cơ quan nhà nước,... phải lắng nghe, tiếp thu những nhận xét, đánh giá của quần chúng nhân dân thông qua việc thực hiện các biện pháp điều tra, thăm dò dư luận xã hội, từ đó tổng kết rút kinh nghiệm để đáp ứng ngày càng tốt hơn ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

Trong thời gian qua nguyên tắc này được nhà nước ta làm rất tốt, từ việc tinh giản bộ máy để nâng cao năng lực cán bộ, loại bỏ những người không làm tốt, đến vấn đề đẩy mạnh cải cách hành chính trong nhiều lĩnh vực, trong đó tập trung ở các lĩnh vực thiết yếu người dân quan tâm. Nhà nước thường xuyên tự kiểm tra, giám sát các cơ quan trực thuộc mình trong thực thi công vụ; đẩy mạnh vấn đề kê khai tài sản trong cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo; đồng thời cũng đẩy mạnh quyền giám sát của người dân qua các công cụ như hộp thư góp ý, đường dây nóng, cơng khai số điện thoại lãnh đạo đầu ngành, địa phương, tăng cường tương tác qua mạng xã hội zalo, facebook để nâng cao chất lượng phục vụ, kịp thời tiếp nhận, giải quyết ý kiến nhân dân. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn một số nơi chưa thực hiện tốt, chủ yếu hình thức, đường dây nóng để “nguội” liên hệ không ai nghe máy, các ý kiến phản ánh không được trả lời cụ thể, rõ ràng, vòng

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

vo đùn đẩy trách nhiệm gây khó khăn, bức xúc trong dân. Công tác kiểm tra, giám sát, cơng khai minh bạch về tài chính một số nơi cịn cả nể, hình thức mà chưa thật sự đi sâu vào thực chất.

<i>2.6. Ngun tắc đồn kết, bình đẳng giữa các dân tộc </i>

Thực hiện nguyên tắc đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có nghĩa là bảo đảm cho các dân tộc có quyền bình đẳng trong xây dựng nhà nước, tham gia quản lý nhà nước, được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau trong tổ chức và thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, trong hoạt động của mình, Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các dân tộc ít người giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là Tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển tồn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.

Với một nước có đến 54 dân tộc, việc thực hiện ngun tắc đồn kết, bình đẳng giữa các dân tộc rất quan trọng, là cơ sở xây dựng sự đồn kết, nhất trí, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, phản bác lại mọi sự xuyên tạc, âm mưu thâm độc của kẻ thù hòng chia rẽ, gây mất ổn định trong quan hệ giữa các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Thời gian qua Đảng, nhà nước ta thực hiện rất tốt vấn đề này, rõ nhất là sự tham gia của Hội đồng dân tộc trong hoạt động của Quốc hội. Ở các địa phương, người dân tộc, bản địa tham gia và làm cán bộ trong các cơ quan nhà nước ngày càng nhiều, góp phần đưa chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước đến đồng bào các dân tộc anh em; đồng thời tận dụng, phát huy được các lợi thế của các dân tộc trong giữ gìn và phát triển đất nước.

<i>2.7. Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước </i>

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự ra đời, tồn tại và phát triển của

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là yêu cầu tất yếu khách quan đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không chỉ bảo đảm cho Nhà nước luôn giữ vững và củng cố bản chất nhà nước kiểu mới - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân mà còn bảo đảm cho Nhà nước có mục tiêu, phương hướng đúng đắn trong tổ chức và hoạt động, có đủ năng lực tổ chức quản lý xã hội, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

Để bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, phải khắc phục có hiệu quả các mặt yếu kém, nâng cao uy tín trong nhân dân và trong xã hội. Hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên phải trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều này là hoạt toàn đúng đắn bởi pháp luật là quy tắc xử sự chung và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các chủ thể trong xã hội. Thời gian qua, Đảng ta ln đổi mới và chỉnh đốn, đã có rất nhiều cán bộ cấp cao là ảng viên từ trung ương đến địa phương bị xử lý khi vi phạm pháp luật, thể hiện rõ quyết tâm về khơng có vùng cấm trong xử lý vi phạm; mọi người đều bình đẳng về trách nhiệm pháp luật khơng có ngoại lệ của Đảng, nhà nước ta - trong đó sự quyết liệt, nêu gương, minh bạch, công tâm, khách quan của đồng chí Tổng Bí thư Đảng ta trong cơng tác phòng chống, xử lý tham nhũng; thể hiện sự quyết tâm của người đứng đầu tổ chức Đảng là Đảng phải được xây dựng vững mạnh cả về chính trị, cả về tư tưởng, tổ chức, có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu, thực sự là đội tiên phong chính trị có trọng trách lãnh đạo Nhà nước và nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

1. Giáo trình Nhà nước và pháp luật Việt Nam dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị, Nhà Xuất bản Lý luận Chính trị, 2021.

2. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

</div>

×