Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

CƠ CHẾ LAN TỎA TIN ĐỒN TRONG KHÔNG GIAN BÁN CÔNG CỘNG: NGHIÊN CỨU TRỜNG HỢP QUÁN CÀ PHÊ Ở HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 14 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

CƠ CHẾ LAN TỎA TIN ĐỒN TRONG KHÔNG GIAN BÁN CÔNG CỘNG: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP QUÁN CÀ PHÊ Ở HÀ NỘI

<small>LỮ THỊ MAI OANH</small><sup>*</sup><small>NGUYỄN QUÝ THANH</small><sup>**</sup>

<i><b>Tóm tắt: Dựa trên số liệu khảo sát chọn mẫu 900 người ở Hà Nội từ tháng 10/2017 </b></i>

<i>đến tháng 03/2018, bài viết phân tích cơ chế lan tỏa tin đồn trong không gian bán công cộng quán cà phê. Kết quả cho thấy, tin đồn không chỉ dừng lại theo ba quy luật truyền tải chính là nhấn mạnh độ nghiêm trọng của tin (sharpening), giản lược chi tiết nội dung (leveling), nhận định thông tin theo bản thân (assimilation) mà cịn cả thêm thắt thơng tin (adding) và bày tỏ trạng thái cá nhân khi truyền tải lại thơng tin. Bên cạnh đó, bài viết cũng chỉ ra rằng, cá nhân khi đọc nhiều thông tin khơng rõ nguồn gốc và chưa có kết luận chính thức từ cơ quan chính thống thường có cảm giác hoang mang, lo lắng, mất niềm tin vào xã hội và truyền tải tin đồn nhiều hơn. Vì vậy, hướng tới kiểm sốt tin đồn hiệu quả là rất quan trọng trong xã hội thông tin hiện nay. </i>

<i><b>Từ khóa: tin đồn, hình thành tin đồn, không gian bán công cộng.</b></i>

<i><small>Nhận bài: 02/4/2018Gửi phản biện: 02/5/2018Duyệt đăng: 05/6/2018</small></i>

<b>1. Đặt vấn đề </b>

Trong nghiên cứu xã hội, tin đồn là hiện tượng tâm lý không thể thiếu khi lợi ích và giá trị của con người bị chi phối hay có nguy cơ bị chi phối bởi những vấn đề xã hội. Thuật ngữ tin đồn được Peterson và Gist (1951) đề cập một cách thông thường nhất là thông tin chưa được xác minh hoặc lời giải thích về các sự kiện, lan truyền từ người này sang người khác và liên quan đến một đối tượng, sự kiện hoặc vấn đề công chúng quan tâm Trong đó, khơng gian bán cơng cộng được xem là nơi lý tưởng để công chúng thảo luận về những vấn đề họ quan tâm. Tại đây, người sử dụng không gian bán công cộng thường được hưởng các dịch vụ đi kèm, song bị áp đặt theo những quy chuẩn nhất định. Cụ thể hơn, khơng gian bán cơng cộng mang một phần tính chất của không gian tư nhân và là sự chuyển tiếp, giao thoa giữa không gian công cộng và không gian tư nhân Chẳng hạn như tại quán cà phê, công chúng là khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ nhưng phải tuân thủ theo quy định của chủ sở hữu như: hành vi ăn mặc, mua bán, trả phí dịch vụ và tuân thủ thời gian mở - đóng cửa Đây chính là không gian bán công

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

cộng đặc thù ở Việt Nam và được xem là nơi chốn cho nhóm cơng chúng trao đổi thơng tin, giao tiếp, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển tin đồn.

Theo Allport và Postman (1947), tin đồn thường được truyền từ người này sang người khác qua con đường truyền miệng song các phương tiện truyền thơng có một vai trị quan trọng trong sự lây lan của chúng (Hall, 2011). Sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thơng, internet cũng góp phần là cơng cụ đắc lực cho nhiều đối tượng lợi dụng để truyền tải những tin đồn thất thiệt vì mục đích cá nhân hoặc tạo sự chú ý của cơng chúng. Có thể thấy, tin đồn xấu không chỉ gây thiệt hại trong lĩnh vực kinh tế, chính trị… mà cịn ảnh hưởng tới tâm lý toàn xã hội. Bởi vậy, mục đích của bài viết là làm rõ cơ chế lan tỏa tin đồn trong không gian qn cà phê và phản ứng của nhóm cơng chúng trong giao tiếp, xử lý tin đồn khi tiếp nhận Thơng qua đó, tác giả muốn làm rõ hơn vai trò và tầm quan trọng của các cá nhân/nhóm trong việc tạo dựng mơi trường giao tiếp, thảo luận, trao đổi thơng tin dẫn đến hình thành tin đồn.

Nghiên cứu này đặt ra hai câu hỏi: 1) Mức độ tham gia vào không gian bán công cộng quán cà phê cùng với quá trình tiếp nhận, bóp méo, truyền dẫn thơng tin ảnh hưởng như thế nào đến con đường hình thành tin đồn? 2) Cá nhân khi nghe/đọc được nhiều tin không rõ nguồn gốc thường cảm thấy mất niềm tin vào xã hội và truyền tải tin

<i>đồn nhiều hơn? Nguồn dữ liệu của bài viết dựa vào kết quả nghiên cứu trong đề tài Tin </i>

<i>đồn và sự hình thành tin đồn trong khơng gian bán công cộng: Nghiên cứu trường hợp quán cà phê trên địa bàn Hà Nội. Cuộc khảo sát phỏng vấn bằng bảng hỏi với 900 </i>

người, trong đó có 472 nam và 428 nữ kết hợp phỏng vấn sâu với 90 người được chia đều tại ba không gian: bán công cộng (quán cà phê), công cộng và không gian riêng tư (hộ gia đình). Trong khơng gian công cộng và bán công cộng, mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên thuận tiện. Tại không gian riêng tư, quy trình chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản dựa theo danh sách tồn bộ các hộ gia đình Q trình quan sát và phỏng vấn sâu được thực hiện tại nhiều thời điểm khác nhau trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 2017 đến tháng 3 năm 2018.

<b>2. Địa bàn khảo sát </b>

Nhiều nhà nghiên cứu (Fraser, 1990; Howell, 1993) cho rằng, không gian công cộng đảm nhận vai trị cung cấp khơng gian cho các hoạt động xã hội và cộng đồng của tất cả các thành phần “quần chúng” Tuy nhiên, người ta thường phân biệt các lĩnh vực công cộng và riêng tư theo đặc điểm giới tính, cấp bậc xã hội và màu da của thành viên bên trong lĩnh vực đó Theo Carr (1992), không gian công cộng bao gồm các môi trường ngoài trời, tạo cảm giác dễ chịu giúp người ta thư giãn khỏi cuộc sống đô thị ồn ào. Chúng bao gồm đường đi bộ, phố, công viên, quảng trường, plaza, và các kiến trúc khác… Đây là nơi thể hiện các giá trị văn hóa của xã hội cũng như các đặc điểm vật chất, xã hội, chính trị và kinh tế… Trong đó, người ta có quyền trao đổi thông tin, giao

<i>tiếp và hoạt động chính trị. Khơng gian công cộng được khảo sát trong nghiên cứu là </i>

không gian không thuộc địa điểm tư nhân và là một khơng gian mở của xã hội mà người dân có thể dễ dàng tiếp cận. Cụ thể, nghiên cứu thực hiện khảo sát tại khu vực Hồ Hoàn Kiếm và công viên Thống Nhất ở Hà Nội Đối tượng đến hai không gian công cộng trên

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

khá đa dạng, mở rộng đối với tất cả mọi người, khơng phân biệt giới tính, chủng tộc, độ tuổi hay vùng miền.

<i>Không gian riêng tư trong nghiên cứu này được hiểu là không gian thuộc sở hữu </i>

tư nhân về mặt địa lý và thường đi kèm với sự kín đáo, kiểm sốt chặt chẽ, thiên kiến, vị kỉ, và cảm xúc. Khảo sát không gian riêng tư được thực hiện tại nhà dân phường Thịnh Quang, một phường lựa chọn ngẫu nhiên thuộc Quận Đống Đa, Hà Nội Phường Thịnh Quang thuộc phía Nam quận Đống Đa, có diện tích 0,45 km², dân số năm 2010 là 3.113 hộ dân (18.006 nhân khẩu) trong 11 cụm dân cư<small> (</small>Nguyễn Minh Nguyệt và Phạm Thị Kim Thanh, 2010). Nhìn chung, phường Thịnh Quang là nơi có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội nên thu hút khá đông người dân từ các nơi đến sinh sống và làm việc.

<i>Trong nghiên cứu này, không gian bán công cộng được hiểu là sự kết hợp giữa </i>

không gian công cộng và riêng tư Chẳng hạn như ở một cửa hàng, ta sẽ thấy ngay sự pha trộn của hai định nghĩa công cộng và riêng tư: ai cũng có quyền vào và ghé qua mà khơng phải mua gì, nhưng người đó sẽ khơng có tồn quyền thực hiện các hành động không liên quan đến chức năng của cửa hàng. Các hành lang và con phố trong trung tâm mua sắm có thể được tính là khơng gian công cộng, và chúng vẫn có thể mở cửa cho khách sử dụng ngay cả khi các cửa hàng đã đóng cửa Tương tự là ga đợi tàu điện và xe buýt khi cá nhân có nhu cầu cần mua vé mới được vào Thư viện công cộng, ghế đá trên đường hoặc bãi đỗ xe công cộng cũng là những không gian công cộng Đối với các không gian “bán cơng cộng” thì có thể có nhiều quy tắc ứng xử mà người ta phải tuân theo hơn là khi ở trong khơng gian cơng cộng, ví dụ như cách ăn mặc, cách buôn bán, cấm người ăn xin, giới hạn quyền quảng cáo, giới hạn quyền chụp ảnh, giới hạn quyền dán áp phích, cấm trượt ván<sup>1</sup>... Tại đây, cá nhân vừa có cảm giác là một nơi mình có thể đến, nói chuyện và thảo luận về nhiều vấn đề khác nhau (công cộng và riêng tư), nhưng đồng thời họ cũng nhận thấy cần phải tuân thủ những quy định được những người chủ sở hữu đặt ra.

Quán cà phê là không gian bán công cộng đặc thù ở Việt Nam và được xem là nơi chốn cho các cá nhân gặp gỡ, thảo luận các chủ đề quan tâm. Trong không gian bán công cộng, địa bàn nghiên cứu được lựa chọn có chủ đích gồm 3 quán cà phê tại Hà Nội. Mỗi quán cà phê được quan sát 15 lần vào thời gian khác nhau đã cho thấy sự khác biệt về vị trí, thiết kế của quán và đặc điểm nhân khẩu học của khách hàng. Hai trong số ba quán cà phê này nằm ở quận Thanh Xuân với thiết kế tinh tế, nhẹ nhàng và khách hàng chủ yếu là dân kinh doanh, xây dựng, công nhân, lao động tự do có điều kiện kinh tế trung bình. Quán cà phê thứ ba ở quận Hai Bà Trưng với khách hàng chủ yếu là sinh viên, kinh doanh, cơng sở, nhân viên văn phịng có điều kiện kinh tế trung bình và khá giả… Đây chính là nơi lựa chọn tốt nhất cho những người muốn trò truyện, thảo luận ở

<small> </small>

<small>1World Journals, Database of Academic Research Journals. (n.d.). Public space. Retrieved from class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

bên ngoài gia đình với bạn bè, đồng nghiệp và cả với người lạ về những chủ đề công cộng và riêng tư

<b>3. Cơ chế truyền tải tin đồn trong không gian bán công cộng quán cà phê </b>

Tin đồn thường được lan truyền nhanh chóng bởi nó thực hiện hai chức năng đồng thời là giải thích và giải tỏa sự căng thẳng tâm lý mà mỗi cá nhân cảm nhận được (Rosnow, 1988). Trong xã hội hiện đại, công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thơng đại chúng đã góp phần phát triển, lan tỏa tin đồn một cách nhanh chóng và ảnh hưởng đến đời sống, nhận thức xã hội. Chính vì vậy, việc tìm hiểu quá trình hình thành tin đồn về những vấn đề cụ thể với chủ đề quan tâm, cơ chế truyền tải tin đồn và phản ánh công chúng tin đồn trong không gian bán công cộng quán cà phê cần được tiếp cận đa chiều từ góc độ xã hội học.

<i><b>3.1. Chủ đề tin đồn thảo luận và việc ghi nhớ thông tin </b></i>

Theo Allport và Postman (1947), tin đồn là một giả thuyết mang tính đặc thù hoặc thời sự, đóng vai trị giải thích cho một niềm tin nào đó Giả thuyết này được lan truyền từ người này sang người kia, chủ yếu qua kênh truyền miệng và không đi kèm thông tin bằng chứng xác thực. Kết quả nghiên cứu cho thấy các cá nhân, nhóm cơng chúng thường đề cập tin đồn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau với người thân, bạn bè, đồng nghiệp và thậm chí cả người lạ tại không gian bán công cộng quán cà phê. Tuy nhiên, các chủ đề thảo luận thường xoay quanh hai nhóm chính theo tin cứng (hard news) và tin mềm (soft news). Theo Tuchman và cộng sự (dẫn theo Smith, 1985; Whetmore, 1987; Limor và Mann, 1997; Patterson, 2000), tin cứng được định nghĩa là thơng tin có giá trị tin tức cao (thường liên quan đến chính trị, kinh tế và các vấn đề xã hội) đòi hỏi được đăng tin ngay lập tức Trong khi đó, tin mềm khơng u cầu đăng tải gấp và có hàm lượng thơng tin thấp hoặc bằng khơng, ví dụ như chuyện đời tư ngơi sao, sở thích, chuyện lạ Trong đó, tiêu chí để đánh giá và phân biệt giữa các tin tức cứng và mềm là mức độ quan tâm hay ảnh hưởng của tin. Nếu như tin tức cứng thường đề cập đến các loại thông tin thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị, kinh doanh, pháp luật, y tế, giáo dục… thì tin mềm lại quan tâm đến các lĩnh vực văn hóa, giải trí, thể thao, du lịch, thời tiết.

<b><small>Bảng 1. Tỷ lệ quan tâm đến lĩnh vực thông tin của công chúng ở ba không gian </small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Kết quả khảo sát tại Hà Nội cho thấy có sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ công chúng quan tâm đến tin mềm (90,4%) và tin cứng (75,7%). Sự chênh lệch cũng tương tự trong cả ba không gian công cộng, bán công cộng và riêng tư Các chủ đề thuộc tin mềm vẫn là những thông tin được quan tâm nhiều nhất và có sự khác biệt về chủ đề quan tâm giữa hai loại không gian. Tuy nhiên nếu các tin mềm được 92% công chúng trong không gian bán cơng cộng quan tâm thì tỷ lệ này trong khơng gian riêng tư là 88,7%.

Bên cạnh đó, có sự khác biệt theo giới tính về các lĩnh vực thông tin mà công chúng quan tâm Theo Rakow và Kranich (1991: 11), “tin tức cứng” mang tính nghiêm túc, quan trọng và có vẻ nam tính, cịn “tin tức mềm” được coi là mang tính sở thích, lối sống, thường thuộc phạm vi của các phóng viên và độc giả nữ. Kết quả nghiên cứu không chỉ mang tính khẳng định lại luận điểm trên mà còn phát hiện thêm trường hợp ngoại lệ. Cụ thể đối với tin cứng, trong không gian bán công cộng và riêng tư, nam giới thường quan tâm nhiều hơn so với nữ giới với giá trị tương ứng là 58,6% và 54,3%, trong khi nữ giới chiếm 41,4% và 45,7%. Ngược lại, đối với tin mềm, trong không gian bán công cộng, nam giới là đối tượng quan tâm nhiều nhất khi chiếm 59,4% và nữ chỉ chiếm 40,6%. Lý giải điều này được đặt trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi nam giới không chỉ đơn thuần quan tâm đến những lĩnh vực chính như kinh tế, chính trị... mà chủ đề liên quan đến giải trí, đời sống xã hội cũng rất được quan tâm nhằm đáp ứng sở thích, nhu cầu hay đơn thuần để giải tỏa tâm lí cá nhân:

<i>Tất cả các tin tức mình đều đọc và quan tâm. Ngồi những thơng tin về biến động thị trường, chính trị phục vụ cho việc kinh doanh thì mình cũng rất quan tâm đến những tin tức mang tính giải trí giúp mình thấy thoải mái hơn… </i>

(Nam, 35 tuổi, doanh nhân) Có lẽ quan điểm của Rakow và Kranich (1991) chỉ phù hợp trong nghiên cứu không gian riêng tư bởi kết quả khảo sát ở Hà Nội cho thấy tỷ lệ nữ giới quan tâm đến lĩnh vực tin mềm là 51,2%, nhỉnh hơn tỷ lệ trong nhóm nam giới (48,9%). Trong khơng gian riêng tư, nữ giới thường quan tâm đến lĩnh vực tin mềm nhiều hơn khơng chỉ do sở thích mà còn để phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu gia đình:

<i>Chị thường quan tâm đến các tin tức như giải trí, thời trang và cả những cách nấu ăn ngon, trình bày đẹp để giữ lửa gia đình. </i>

(Nữ, 45 tuổi, nội trợ)

<i><b>3.2. Cơ chế truyền tải tin đồn </b></i>

Allport và Postman (1947) khi đề cập đến việc truyền tải tin đồn thường xem xét đến ba quy luật chính là trao đổi lại có nhấn mạnh thêm độ nghiêm trọng của tin (cường điệu hóa - sharpening), giản lược chi tiết nội dung (rút bớt chi tiết - leveling) và trao đổi lại thông tin theo nhận định bản thân (đồng hóa - assimilation). Kết quả nghiên cứu cho thấy sự truyền tải tin đồn theo ba quy luật có sự chênh lệch đáng kể trong ba không gian khảo sát, và tập trung nhiều nhất ở quy luật nhấn mạnh độ nghiêm trọng của tin khi chiếm tỷ lệ cao nhất 49%, tiếp đến là diễn đạt nội dung theo ý của mình 37,3% và giản

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

lược chi tiết nội dung 30%. Ngoài ba quy luật truyền tải tin đồn trên, kết quả nghiên cứu cho thấy quy luật thêm thắt thông tin (adding) và cách bày tỏ thái độ cũng được công chúng áp dụng trong quá trình truyền tải thông tin với giá trị tương ứng là 49% và 29,6%. Điều này đã bổ sung cho hạn chế lớn nhất trong thí nghiệm của Allport và Postman là việc truyền tải thông tin không chỉ đơn thuần một chiều khi người nhận tin chỉ truyền đạt lại mà không giải thích thêm. Trên thực tế, khi nghiên cứu cách truyền tải tin đồn tại các không gian khác nhau trên địa bàn Hà Nội, chúng tôi nhận thấy cách truyền tải không chỉ đơn thuần dựa trên hệ quả của sự bóp méo thông tin và bắt nguồn từ giao tiếp đơn chiều. Thực tế, quá trình giao tiếp thường diễn ra khá phức tạp do liên quan đến người nhận, quá trình thảo luận và bối cảnh khơng gian khác nhau. Số liệu từ Bảng 2 cho thấy sự chênh lệch đáng kể trong việc lựa chọn các quy luật để truyền tải tin đồn tại các không gian khác nhau theo nhận xét của bản thân người trả lời.

<b><small>Bảng 2. Cách truyền tải lại tin đồn tại ba không gian khác nhau </small></b>

<i><small>Đơn vị: % </small></i>

<small>Loại không gian </small>

<small>Bày tỏ thái độ (đồng tình, phản đối, giận dữ, lo sợ…) 28,0 28,3 32,3 Trao đổi lại thông tin có nhấn mạnh thêm độ </small>

<small>Trao đổi lại thơng tin có bổ sung thêm nhận xét của </small>

<small>Trao đổi lại thơng tin có giản lược chi tiết nội dung 20,0 </small> <b><small>48,3 </small></b> <small>21,7 Trao đổi lại thông tin theo nhận định của bản thân 20,3 28,3 </small> <b><small>63,3 </small></b>

<i><small>Chú thích: Phi=0,283, p<0.001 </small></i>

<i><small>Nguồn: Khảo sát của đề tài tại Hà Nội, 2018.</small></i>

<i>Công chúng trong không gian công cộng lựa chọn truyền tải thông tin bằng cách </i>

rút bớt nội dung thông tin chiếm tỷ lệ 48,3%, cao hơn hẳn so với ở các không gian bán công cộng (20%) và riêng tư (21,7%) Đáng chú ý là ở không gian riêng tư, xu hướng truyền tải lại thông tin theo quy luật đồng hóa thơng tin chiếm tỷ lệ cao nhất 63,3%, trong khi tỷ lệ này chỉ là 20,3% ở không gian bán công cộng và 28,3% ở không gian công cộng. Bên cạnh đó, sự bày tỏ thái độ khi truyền tải thông tin giữa ba không gian chỉ xấp xỉ trên dưới 30% và không có sự chênh lệch đáng kể giữa ba khơng gian.

<i>Truyền tải tin đồn theo quy luật cường điệu hóa và thêm thông tin </i>

Việc nhấn mạnh thêm độ nghiêm trọng của tin nhằm nhấn mạnh những ý thông tin quan trọng trong thông điệp tin đồn Độ nghiêm trọng của tin được thể hiện ở một vài chi tiết có vị trí trọng tâm trong ý nghĩa của tin đồn được nhấn mạnh hay sự việc mang tính chủ quan cá nhân phù hợp với tâm lý của người kể hoặc tình tiết của sự kiện được cho là hợp lý. Sự tập trung vào một số chi tiết và tăng mức độ nghiêm trọng là một yếu

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

tố quan trọng trong quá trình làm biến dạng tin đồn Điều này diễn ra như là kết quả của việc rút bớt thông tin hay một số chi tiết được nhấn mạnh theo cách thức bù trừ các chi tiết thông tin khác nhau. Tuy nhiên, kết quả khảo sát ở Hà Nội cho thấy dạng truyền tải tin đồn phổ biến nhất không chỉ theo quy luật nhấn mạnh độ nghiêm trọng thông tin của Allport và Postman mà còn cả quy luật thêm thông tin. Cụ thể, trong không gian bán công cộng, quy luật nhấn mạnh cường độ thơng tin một cách có ý thức và bổ sung thêm nội dung đều chiếm tỷ lệ rất cao là 68%, cao hơn hẳn so với trao đổi nội dung theo quan điểm đồng hóa (20,3%) và rút bớt thơng tin (20%). Trong khi đó, tỷ lệ nhấn mạnh cường độ thông tin và bổ sung thêm nội dung đều thấp hơn ở các không gian khác, cụ thể là 45% và 50,7% ở không gian công cộng, và chỉ 34% và 36,3% ở không gian riêng tư

Việc thêm thắt ở đây không chỉ đơn thuần là bất cứ thông tin không quan trọng nào đều được đưa vào mà hướng theo chủ đích của người truyền tin, nhằm củng cố cho các nội dung cần truyền tải:

<i>Khi kể lại thông tin, mình thường chắt lọc một số ý chính và thêm một số nội dung liên quan để thuyết phục người nghe, giúp họ dễ nắm bắt. </i>

(Nữ, 28 tuổi, công nhân) Như vậy, một trong những cách tối ưu nhất để tin đồn tồn tại là thông qua việc cô đọng ý và bổ sung thêm thông tin Điều này được diễn ra liên tục khi chia sẻ lại thông tin. Tuy nhiên, nếu tin đồn chỉ đơn thuần lặp đi lặp lại một nội dung truyền tải mà khơng có điều gì mới bổ sung sẽ dẫn đến tin đồn không bị biến đổi về bản chất. Cụ thể hơn, nếu một tin đồn được kể lại chính xác một ý duy nhất thì càng lan xa tin đồn càng dễ bị tiêu tan. Chính vì vậy, việc cơ đọng thơng tin và thêm thắt, phóng đại là cơng cụ giúp tăng giá trị của tin tức. Theo Kapferer (2017), sự thêm thắt không phải là một đặc tính riêng của tin đồn mà bất cứ hình thức lan truyền thơng tin nào khác cũng cần có q trình thêm thắt giá trị này để nó có thể tồn tại lâu hơn Tuy nhiên, theo quan điểm Silver (2012), việc tiếp xúc với nhiều thông tin khác nhau sẽ dẫn đến sự rối loạn thơng tin ở quy mơ lớn. Theo dịng lịch sử, càng ngày sự hiểu biết của con người càng tăng và năng lực nhận diện đúng sai cũng càng tăng lên Nhưng những sự hiểu biết này lại không thể theo kịp tốc độ tăng trưởng của thông tin trong đời sống. Chính vì vậy, nội dung thêm thắt phải phù hợp và hỗ trợ cho các nội dung chính cần truyền tải mới góp phần vào việc tin đồn được thu hút và lan xa.

<i>Truyền tải tin đồn theo quy luật rút bớt chi tiết </i>

Theo Allport và Postman (1947), khi một tin đồn được truyền đi sẽ có xu hướng trở nên ngắn gọn, dễ hiểu và dễ dàng nắm bắt. Chính vì vậy, những phiên bản tin đồn kế tiếp thường được sử dụng số từ và chi tiết nội dung ít hơn Tuy nhiên, kết quả khảo sát trong không gian bán công cộng ở Hà Nội cho thấy tỷ lệ người rút bớt chi tiết khá thấp: chỉ 20% và thấp hơn nhiều so với trong không gian công cộng (48,3%). Lý giải điều này đặt trong bối cảnh không gian bán công cộng quán cà phê ở Việt Nam, việc rút bớt chi tiết thường ít được áp dụng do sự thuận tiện trong việc kết nối internet giúp cá nhân có

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

được thông tin đầy đủ một cách dễ dàng và nhanh chóng. Qua q trình quan sát, chúng tơi nhận thấy những người tham gia không gian bán công cộng thường chia sẻ lại thông tin với bạn bè, ngoài con đường truyền miệng còn được hỗ trợ thêm các kênh tin tức khác thơng qua điện thoại di động, máy tính… có kết nối internet Điều này khiến cho thơng tin trong không gian bán công cộng thường hay được truyền tải từ người này sang người khác với nội dung trọn vẹn hơn Cụ thể, cá nhân thường nhận tin đồn chủ yếu qua kênh phương tiện truyền thông đại chúng (72,3%), tiếp đến là kênh liên xã hội (70%) và cuối cùng là kênh liên cá nhân (16,3%).

Nếu phương tiện truyền thông đại chúng sử dụng các cơng cụ chính như truyền hình, báo mạng với khối lượng thơng tin từ nhiều nguồn khác nhau đã giúp các cá nhân tiếp nhận vấn đề một cách dễ dàng thì ở kênh liên xã hội, cụ thể là các hình thức mạng xã hội đã giúp chia sẻ và lưu giữ thông tin với thời gian nhanh nhất. Khác với không gian bán công cộng như quán cà phê, trong không gian công cộng, tin đồn truyền tải thường có xu hướng bị lược bớt chi tiết. Do gặp khó khăn trong việc nhớ các sự kiện, mức độ tiếp nhận thơng tin, cá tính và cách nhìn nhận vấn đề khác nhau nên các đối tượng giao tiếp đã thu nhận nội dung thông tin theo cách hiểu của mình, dẫn đến ngơn ngữ bị thay thế hay nhớ thiếu chính xác:

<i>Khi mình và các bạn đến những khơng gian cơng cộng như quảng trường, cơng viên… mình ít khi nói được đầy đủ về một chủ đề nào đó bởi có q nhiều thơng tin để trao đổi với nhau và khơng phải lúc nào mình cũng nhớ được chi tiết nội dung. Bên cạnh đó, việc đi lại, quan sát và bình luận khi bắt gặp vấn đề nào đó cũng là hạn chế trong việc mình có thể truyền tải những tin chi tiết. Vì vậy, mình thường đưa ra những ý ngắn gọn, dễ hiểu nhất. </i>

<i>(Nữ, 22 tuổi, sinh viên) </i>

Như vậy, trong không gian bán công cộng quán cà phê, việc cá nhân có xu hướng truyền tải tin đồn một cách ngắn gọn, dễ hiểu thường không được áp dụng nhiều như trong không gian công cộng. Tuy nhiên, việc truyền tải tin đồn bên cạnh việc giúp người nghe dễ hiểu và nắm bắt thơng tin thì cần đảm bảo được nội dung thông tin. Bởi khi người nghe cảm thấy thiếu thông tin và không được thỏa mãn trong sự hiểu biết của mình, họ sẽ cảm thấy thất vọng và tìm kiếm thông tin từ các kênh khơng chính thức khác Đây cũng chính là giai đoạn mà tin đồn có thể phát sinh khi người nghe có thể tiếp tục trở thành người truyền tin khi trao đổi nội dung thiếu cho những đối tượng khác.

<i>Truyền tải tin đồn theo quy luật đồng hóa </i>

Quy luật đồng hóa (trao đổi lại thông tin theo nhận định của bản thân) thường đề cập đến sự hình thành nội dung thơng qua mơ hình rút bớt chi tiết, thêm thắt và nhấn mạnh cường độ nghiêm trọng để phù hợp hơn với sự hiểu biết của cá nhân Động cơ đó xuất phát từ tình cảm, lợi ích, tập quán hoặc các định kiến xã hội của những người truyền và nhận thơng tin Trong đó, việc trao đổi lại thông tin theo nhận định của bản thân thường được thực hiện bằng cách chắp ghép một vài chi tiết với nhau để khỏi

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

phải nhớ chúng một cách riêng lẻ hay nhấn mạnh một vài chi tiết nổi bật để tạo cảm giác thật hơn

Cụ thể, q trình trao đổi lại thơng tin theo nhận định của bản thân sẽ giúp tin đồn trở nên mạch lạc và tiếp cận gần hơn với chủ đề trao đổi nhằm lấp đầy dữ liệu thiếu và đơn giản hóa một vấn đề phức tạp. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự truyền tải thông tin theo quy luật đồng hóa trong khơng gian riêng tư chiếm tỷ lệ cao nhất (63,3%), tiếp đến là không gian công cộng (28,3%) và cuối cùng là không gian bán công cộng quán cà phê (20,3%). Khác với không gian bán cơng cộng có tính liên kết lỏng lẻo hơn thì ở khơng gian riêng tư, các thành viên thường có sự gắn bó chặt chẽ. Cụ thể, tin đồn thường được lan truyền trong nhóm đồng nhất hơn là một nhóm khơng chia sẻ những giá trị chung bởi trong nhóm đồng nhất, các cá nhân tin tưởng lẫn nhau và ít có sự hồi nghi hơn:

<i>Trong gia đình, khi các con cháu chia sẻ bất cứ vấn đề gì, cơ đều cảm thấy tin tưởng và ủng hộ. </i>

(Nữ, 57 tuổi, hưu trí) Khác với khơng gian riêng tư, các thành viên thường có sự gắn bó chặt chẽ thì ở trong khơng gian bán cơng cộng thường có tính liên kết lỏng lẻo hơn Ngồi ra, yếu tố nghề nghiệp có sự ảnh hưởng cao nhất đến việc chia sẻ lại thông tin theo quy luật đồng hóa. Cụ thể, tỷ lệ trao đổi theo nhận định cá nhân thể hiện cao nhất trong nhóm nhân viên (26,2%), tiếp đến là các nhóm học sinh, sinh viên (21,3%), doanh nhân, bn bán và tiểu thủ cơng nghiệp (18%), hưu trí, nội trợ (16,4%), thợ, công nhân, lao động giản đơn (11,4%) và cuối cùng là nhóm chun mơn cao (6,6%). Có thể thấy, nghề nghiệp là yếu tố quan trọng giúp cá nhân kết nối các mạng lưới của mình để trao đổi về các chủ đề cùng quan tâm Trong đó, việc trao đổi theo quan điểm cá nhân thường được thực hiện trong môi trường mà các cá nhân, nhóm có những đặc điểm tương đồng nhau như kỳ vọng, ngôn ngữ, động cơ, sở thích… Kết quả nghiên cứu đã phần nào bổ sung thêm luận điểm cho các nghiên cứu trước (Ajzen, 1974; Gans, 1967) khi chỉ ra rằng con người ưu tiên giao tiếp với những người tương đồng với mình về học vấn, nghề nghiệp, hoặc sở thích, do các cá nhân giống nhau sẽ dễ giao tiếp với nhau hơn (Kandel, 1978) Điều này được giải thích bởi lý thuyết niche construction (cấu trúc ổ), trong đó chỉ ra rằng nếu một nhóm xã hội được hình thành bởi các cá nhân có thể giao tiếp tốt với nhau, nhóm này sẽ thực hiện được các mục tiêu lớn hơn, kéo theo là nhiều lợi ích vật chất, tinh thần, và xã hội cho các cá nhân trong nhóm hơn, dẫn đến việc nhóm xã hội này có khả năng sinh tồn cao hơn các nhóm khác, và qua đó cấu trúc xã hội kiểu này được tiếp tục di truyền sang các thế hệ sau (Laland và cộng sự, 2001). Kết quả phỏng vấn sâu cũng phần nào được thể hiện rất rõ trong nhóm nhân viên văn phịng khi tham gia qn cà phê, họ thường trao đổi thông tin thể hiện theo ngôn ngữ hay kỳ vọng:

<i>Tại quán cà phê, mình thường chia sẻ những vấn đề liên quan đến đời sống, cơ quan với đồng nghiệp của mình. Cùng một nơi làm việc nên chúng mình dễ trao đổi và cùng chung tiếng nói, lợi ích hơn. </i>

<i> (Nam, 28 tuổi, nhân viên văn phòng) </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Bên cạnh đó, nhóm sinh viên cũng thường thể hiện sự đồng hóa theo sở thích và kỳ vọng khi tham gia vào không gian bán công cộng:

<i>Chúng em đến quán cà phê thường trao đổi các thông tin về bạn bè, học tập, chia sẻ những sở thích với nhau hay là mong muốn về kỳ thi. Do cùng độ tuổi nên chúng em cảm thấy rất dễ dàng để chia sẻ tất cả các vấn đề trong nhóm. </i>

<i> (Nữ, 21 tuổi, sinh viên năm thứ 3) </i>

Như vậy, quy luật đồng hóa hay trao đổi lại thông tin theo nhận định của bản thân là q trình thể hiện theo thói quen ngơn ngữ, sở thích, thành kiến của các cá nhân hay nhóm. Nếu trong khơng gian riêng tư, quy luật đồng hóa thường được thể hiện nhiều nhất thông qua những giá trị chung được các cá nhân tin tưởng lẫn nhau cùng chia sẻ thì ở không gian bán công cộng, các cá nhân thường có tính liên kết lỏng lẻo hơn và truyền tải lại thơng tin dựa trên kỳ vọng, thói quen, động cơ, sở thích.

<i><b>3.3. Phản ứng cơng chúng trước tin đồn </b></i>

Về cơ bản, tin đồn là một yếu tố tâm lý của con người khi tương tác trong thời gian dài thường có những câu hỏi xoay quanh mơi trường xã hội Trong đó, việc chia sẻ và lan truyền tin đồn trong không gian bán công cộng quán cà phê đã trở thành một phương tiện để các cá nhân tìm kiếm thêm thông tin nhằm giải tỏa tâm lý, lấp đầy khoảng trống kiến thức về một vấn đề nào đó Theo Allport và Postman (1947), sự mơ hồ và tầm quan trọng của sự kiện được xem là yếu tố chính trong cơ chế truyền tin đồn. Cụ thể hơn, tin đồn làm nhiệm vụ giải thích, lấp đầy khoảng trống yếu tố mơ hồ của các sự kiện hay thể hiện sự lo lắng và định kiến, điều khiển cảm xúc của người dân Điều này được thể hiện rất rõ trong công thức tin đồn R ≈ i × a Hai điều kiện tác động tới tin đồn (R) là tầm quan trọng của tin đồn (i) và mức độ mơ hồ (a) của các bằng chứng liên quan. Cụ thể, số lượng và cường độ của tin đồn (r) sẽ tăng nếu nội dung tin đồn khơng có bằng chứng xác thực và được công chúng quan tâm theo thời gian Điều này được thể hiện thông qua kết quả nghiên cứu tin đồn tại các quán cà phê được lựa chọn. Tỷ lệ công chúng tin đồn đã từng chia sẻ lại thông tin nghe/đọc được lên đến 87,3%. Tuy nhiên, quá trình chia sẻ lại tin đồn của cá nhân và nhóm phụ thuộc nhiều vào trạng thái tâm lý người tiếp nhận và đưa tin

Trạng thái tâm lý hay cảm xúc tin đồn được thể hiện trong mơ hình khả năng đánh giá (ELM) - lý thuyết về sự thuyết phục của Petty và Cacioppo (1986) khi xử lý tin đồn mang tính nhận thức theo con đường trung tâm và xử lý về mặt cảm xúc liên kết với đường ngoại vi. Tại không gian bán công cộng quán cà phê, tin đồn thường được hỗ trợ từ một trong hai tuyến đường ngoại vi (sự tín nhiệm của người gửi và độ hấp dẫn nội dung) hoặc trung tâm (nội dung mập mờ) thường được cá nhân, nhóm quan tâm. Theo con đường ngoại vi, cá nhân thường tập trung vào độ tin cậy nguồn thay vì tham gia vào việc rà sốt nội dung tin nhắn (Pornpitakpan, 2004). Kết quả nghiên cứu phần nào được làm rõ khi 72% công chúng tin đồn thường kiểm chứng thông tin, chủ yếu qua kênh phương tiện truyền thơng (báo chí, truyền hình), kênh liên xã hội (Facebook, Youtube…) với tỷ lệ tương ứng là 65,7% và 56%.

</div>

×