Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.38 KB, 21 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN</b>
<b>KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN</b>
<b> GVHD: THS.NGUYỄN THỊ HẢI LÊN LỚP: POS 151 V</b>
<b> DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 15B1: Trần Thúy Hiền - 26205136328</b>
<b> Nguyễn Hữu Khánh My - 26205132718 Cao Nữ Ái Nhi - 26205134340 </b>
<b> Lê Thảo Nhi - 26205130256</b>
<b> Nguyễn Thị Thảo Oanh - 25205128984 Trương Thị Mỹ Tâm - 26205134509 Trần Thị Thu Thảo - 26205123582 </b>
<b>NĂM HỌC 2022-2023</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">STT HỌ VÀ TÊN MSSV NỘI DUNG PHÂN TÍCH %1 Trần Thúy Hiền 26205136328
Ý nghĩa của việc nghiên cứu Kinh tế Chính trị Mác – Lênin đối với thực tiễn Việt Nam
2 Cao Nữ Ái Nhi 26205134340
Thuật ngữ Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
Lời mở đầu và kết luận
Vai trò của C. Mác và Ph.Ăngghen và V.I. Lênin đối với sự phát triển của Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
4 Nguyễn Thị Thảo Oanh 25205128984
Mục đích của nghiên cứu của Kinh tế Chính trị Mác– Lenin
5 Trương Thị Mỹ Tâm 26205134509
Kết quả của sự hình thànhKinh tế Chính trị Mác – Lênin
6 Trần Thị Thu Thảo 26205123582
Vai trò của C. Mác và Ph.Ăngghen và V.I. Lênin đối với sự phát triển của Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><i><b>Lời mở đầu</b></i>
<i>Trong dòng chảy tư tưởng kinh tế của nhân loại kể từ thời kỳ cổ đại cho tới ngày nay, dođặc thù về trình độ phát triển ứng với mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi nền sản xuất xã hội đãhình thành nhiều tư tưởng, trường phái lý luận về kinh tế khác nhau. Mặc dù có sự đadạng về nội hàm lý luận, nội dung tiếp cận và đối tượng nghiên cứu riêng phản ánh trìnhđộ nhận thức, lập trường tư tưởng và quan điểm lợi ích của mỗi trường phái, song khoahọc kinh tế nói chung và khoa học kinh tế chính trị nói riêng đều có điểm chung ở chỗchúng là kết quả của q trình khơng ngừng hoàn thiện. Các phạm trù, khái niệm khoahọc với tư cách là kết quả nghiên cứu và phát triển khoa học kinh tế chính trị ở giai đoạnsau đều có sự kế thừa một cách sáng tạo trên cơ sở những tiền đề lý luận đã được khámphá ở giai đoạn trước đó, đồng thời, dựa trên cơ sở kết quả tổng kết thực tiễn kinh tế - xãhội đang diễn ra. .</i>
<i>Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền kinh tế trì trreje,một hệ thống quản lí yếu kém cũng là do một phần không nhận thức đúng và đầy đủ vềmối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đè này được nhận thức đúng sau Đại hội VII,và quả nhiên giành nhiều thắng lợi sau khi đã chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu baocấp sang cơ chế thị trừng có sựu quản kí của nhà nước theo định hướng xã hội chủnghĩa. </i>
<i>Nội dung chính của tiểu luận được chia làm 2 chương:</i>
<i><b>Chương 1: Khái quát lịch sử ra đời và phát triển của Kinh tế Chính trị Mác – LêninChương 2: Ý nghĩa của việc nghiên cứu Kinh tế chính trị Mác – Lênin đối với thựctiễn Việt Nam</b></i>
<i>Song do khn khổ có hạn nên em không thể đề cập tới một cách đầy đủ tất cả các khíacạnh của vấn đề, em rất mong có được sự đóng góp ý kiến khoa học của cơ để cho bàitiểu luận này được thêm phần hồn thiện hơn.</i>
<i>Chúng em xin chân thành cảm ơn!</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>Chương 1: Khái quát lịch sử ra đời và phát triển của Kinh tế Chính trị Mác – Lênin1.1. Thuật ngữ Kinh tế chính trị Mác – Lênin </b>
Trong dòng chảy tư tường kinh tế của nhân loại kể từ thời kỳ cổ đại cho tới ngày nay, dođặc thù trình độ phát triển ứng với mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi nền sản xuất xã hội mà hìnhthành nhiều tư tưởng, trường phái lý luận về kinh tế khác nhau.
Mặc dù có sự đa dạng về nội hàm lý luận, nội dung tiếp cận và đối tượng nghiên cứuriêng phản ánh trình độ nhận thức, lập trường tư tưởng và quan điểm lợi ích của mỗitrường phái, song khoa học kinh tế nói chung và khoa học kinh tế chính trị nói riêng đềucó điểm chung ở chỗ: là kết quả của q trình khơng ngừng hồn thiện. Các phạm trù,khái niệm khoa học với tư cách là kết quả nghiên cứu và phát triển khoa học kinh tếchính trị ở giai đoạn sau đều có sự kế thừa một cách sáng tạo trên cơ sở nhũng tiền đề lýluận đã được khám phá ở giai đoạn trước đó, đồng thời, dựa trên cơ sở kết quả tổng kếtthực tiễn kinh tế của xã hội đang diễn ra. Kinh tế chính trị Mác - Lênin, một trong nhữngmơn khoa học kinh tế chính trị của nhân loại, được hình thành và phát triền theo logiclịch sử như vậy.
Thuật ngữ khoa học kinh tế chính trị dược xuất hiện ở châu Âu năm 1615 trong tác phẩmChuyên luận về kinh tế chính trị của nhà kinh tế người Pháp tên là A. Montchretien.Trong tác phẩm này, tác giả đề xuất môn khoa học mới - môn kinh tế chỉnh trị. Tuynhiên, tác phẩm này mới chỉ là phác thảo về mơn học kinh tế chính trị. Tới thế kỷ XVIII,với sự xuất hiện hệ thống lý luận của nhà kinh tế học người Anh tên là A.Smith, kinh tếchính trị chính thức trở thành mơn học với các phạm trù, khái niệm chun ngành. Từ đó,kinh tế chính khơng ngừng được bổ sung, phát triển cho đến hiện nay.
<b>1.2. Kết quả của sự hình thành Kinh tế chính trị Mác – Lênin </b>
Quá trình phát triển của khoa học kinh tế chính trị được khái quát qua hai thời kỳ lịch sửnhư sau:
<b>Thứ nhất, từ thời cổ đại đến thế kỷ XVIII:</b>
+ Những tư tưởng kinh tế thời cổ, trung đại (từ thời cổ đại đến thế kỷ XV)+ Chủ nghĩa trọng thương ( Thế kỷ XV đến TK XVII ở Anh, Pháp, Italia)
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">+ Chủ nghĩa trọng nông- Pháp ( giữa thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII)
+ Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh ( giữa thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII)
<b>Thứ hai, từ sau thế kỷ XVIII đến nay.</b>
Trong thời kỳ cổ đại, trung đại (từ thế kỷ XV về trước), trình độ phát triển của các nềnsản xuất cịn lạc hậu, chưa có đầy đủ những tiền đề cần thiết cho sự hình thành các lýluận chuyên về kinh tế. Các tư tưởng kinh tế thường được thấy trong các tác phẩm triết học, luận lý.
Sang thế kỷ XV, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành trong lịng các quốc gia Tây Âu và dần thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trình độ mới của sản xuất xã hội đã trở thành tiền đề cho sự phát triển lý luận kinh tế chính trị.
Chủ nghĩa trọng thương được ghi nhận là hệ thống lý luận kinh tế chính trị bước đầunghiên cứu về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa trọng thương hình thành và phát triển trong giai đoạn từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII ở Tây Âu với các nhà kinh tế tiêu biểu ở các nước như Willian Stafford (Anh), Gasparo Scaruffi (ý) Antonso Serra; Thomas Mun (Anh) A.Montchrétien (Pháp). Trong thời kỳ này, tư bản thương nghiệp có vai trò thống trị nền kinh tế. Do vậy, chủ nghĩa trọng thương dành trọng tâm vào nghiên cứu lĩnh vực lưu thông. Chủ nghĩa trọng thương đã khái quát đúng mục đích của các nhà tư bản là tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, chủ nghĩa trọng thương lý giải thiếu tính khoa học khi cho rằng nguồn gốc của lợi nhuận là từ thương nghiệp, thông qua việc mua rẻ, bán đắt.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ từ nửa cuối thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XVIII đã làm cho các quan điểm của chủ nghĩa trọng thương trở nên không cịn phù hợp. Lĩnh vực lý luận kinh tế chính trị trong thời kỳ này được bổ sung bởi sự hình thành, phát triển của chủ nghĩa trọng nơng ở nước Pháp với các đại biểu tiêu biểu như Pierr Boisguillebert, Francoiỗ Quesney, Jacques Turgot.
Ch ngha trng nụng hng vic nghiên cứu vào lĩnh vực sản xuất; từ đó đạt được bướctiến về mặt lý luận so với chủ nghĩa trọng thương khi luận giải về nhiều phạm trù kinh tếnhư giá trị, sản phẩm ròng, tư bản, tiền lương, lợi nhuận, tái sản xuất. Đây là những đónggóp quan trọng vào lý luận kinh tế chính trị của chủ nghĩa trọng nông. Tuy vậy, lý luậncủa chủ nghĩa trọng nông cũng không vượt qua được hạn chế lịch sử khi cho rằng chỉ cónơng nghiệp mới là sản xuất, từ đó lý giải các khía cạnh lý luận dựa trên cơ sở đặc trưngsản xuất của lĩnh vực nông nghiệp. Sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">thời kỳ tiếp theo đã làm cho chủ nghĩa trọng nông trở nên lạc hậu và dần nhường vị trícho lý luận kinh tế chính trị cổ điển Anh.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, mở đầu là các quan điểm lý luận của William Petty, tiếp đến là A. Smith và kết thúc ở hệ thống lý luận có nhiều giá trị khoa học của David Ricardo.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất, trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế chính trị như phân cơng lao động, hàng hóa, giá trị, tiền tệ, giá cả, giá cả thị trường, tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tư bản... để rút ra các quy luật kinh tế. Lý luận kinh tế chính trị cổ điển Anh đã rút ra kết luận giá trị là do hao phí lao động tạo ra, giá trị khác với của cải... Đó là những đóng góp khoa học rất lớn của các đại biểu kinh tế chính trị cổ điển Anh vào lĩnh vực lý luận kinh tế chính trị của nhân loại, thể hiện sự phát triển vượt bậc so với hệ thống lý luận của chủnghĩa trọng nông.
Như vậy, kinh tế chính trị là mơn khoa học kinh tế nghiên cứu các quan hệ kinh tế để tìm ra các quy luật chi phối sự vận động của các hiện tượng và quá trình hoạt động kinh tế của con người tương ứng với những trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội.Kể từ sau những cơng trình nghiên cứu của A. Smith, lý luận kinh tế chính trị chia thành hai dịng chính:
- Dòng lý thuyết khai thác các luận điểm của A. Smith khái quát dựa trên các quan sát mang tính tâm lý, hành vi để xây dựng thành các lý thuyết kinh tế mới; không tiếp tục đi sâu vào phân tích, luận giải các quan hệ xã hội trong nền sản xuất. Từ đó, tạo cơ sở cho việc xây dựng các lý thuyết kinh tế về hành vi của người tiêu dùng, người sản xuất hoặc các đại lượng lớn của nền kinh tế. Dòng lý thuyết này không ngừng được bổ sung và pháttriển bởi rất nhiều nhà kinh tế và nhiều trường phái lý thuyết ở các quốc gia châu Âu, BắcMỹ cho đến ngày nay.
- Dòng lý thuyết thể hiện từ D. Ricardo, kế thừa những giá trị trong lý luận khoa học của A. Smith, tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh nội dung luận giải về các phạm trù kinh tế chính trị, đi sâu phân tích các quan hệ xã hội trong nền sản xuất, tạo ra những giá trị lý luận khoa học chuẩn xác. C. Mác (1818 - 1883) đã kế thừa trực tiếp những thành quả lý luận khoa học đó của D. Ricardo để phát triển thành lý luận kinh tế chính trị mang tên ơng về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Dựa trên sự kế thừa một cách có phê phán lý luận kinh tế chính trị cổ điển, trực tiếp là của D. Ricardo, C. Mác đã xây dựng hệ thống lý luận kinh tế chính trị mang tính cách mạng, khoa học, tồn diện về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra những quy luật kinh tế chi phối sự hình thành, phát triển và luận chứng vai trò lịch sử của phương thức sản
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">xuất tư bản chủ nghĩa. Cùng với C. Mác, Ph. Ăngghen (1820 - 1895) cũng là người có cơng lao vĩ đại trong việc cơng bố lý luận kinh tế chính trị, một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác.
Lý luận kinh tế chính trị của C. Mác và Ph. Ăngghen được thể hiện tập trung và cô đọng nhất trong bộ Tư bản. Trong bộ Tư bản, C. Mác trình bày một cách khoa học và chỉnh thểcác phạm trù cơ bản của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như: hàng hóa, tiền tệ, tưbản, giá trị thặng dư, tích lũy, tuần hồn, chu chuyển, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, cạnh tranh..., rút ra các quy luật kinh tế cơ bản cũng như các quan hệ xã hội giữa các giai cấp trong nền kinh tế thị trường dưới bối cảnh nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. C. Mác đã tạo ra bước nhảy vọt về lý luận khoa học so với D. Ricardo khi phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho việc luận giải một cách khoa học về lý luận giá trị thặng dư.
Sau khi C. Mác và Ph. Ăngghen qua đời, V.I. Lênin tiếp tục kế thừa, bổ sung, phát triểnlý luận kinh tế chính trị theo phương pháp luận của C. Mác và có nhiều đóng góp khoahọc rất lớn; trong đó, nổi bật là kết quả nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm kinh tế của độcquyền, độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷXX, những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội... Với ý nghĩađó, lý thuyết kinh tế chính trị này được định danh với tên gọi kinh tế chính trị Mác -Lênin.
Sau khi V.I. Lênin qua đời, các nhà nghiên cứu kinh tế của các đảng cộng sản trên thế giới tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển kinh tế chính trị Mác - Lênin cho đến ngàynay. Cùng với lý luận của các đảng cộng sản, hiện nay, trên thế giới có rất nhiều nhà kinhtế nghiên cứu kinh tế chính trị theo cách tiếp cận của kinh tế chính trị của C. Mác với nhiều cơng trình được cơng bố trên khắp thế giới
<b>1.3. Vai trò của C. Mác và Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đối với sự phát triển củaKinh tế chính trị Mác – Lênin </b>
Vai trị của chính trị đối với sự phát triển kinh tế
<b>Trước hết, vai trị của chính trị đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua mối quan</b>
hệ giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng.
Vai trò của kiến thức thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nói chung có tác động hai mặtcủa nó. Nếu kiến trúc thượng tầng có tác động thuận chiều cùng với sự vận động củanhững quy luật kinh tế khách quan, thì kiến trúc thượng tầng sẽ có ảnh hưởng và vai trị
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển ngày càng nhanh của kết cấu kinh tế - xã hội vàngược lại.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích về vai trị của chính trị đối với sựphát triển kinh tế như sau: Tác động của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tếcó thể có ba loại. Nó có thể tác động cùng hướng - khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh hơn;nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế - khi ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn,nó sẽ tan vỡ sau một thời gian nhất định, hoặc là có thể cản trở sự phát triển kinh tế ởnhững hướng nào đó và thúc đẩy ở những hướng khác. Trường hợp này dẫn đến mộttrong hai trường hợp nêu trên.
Tuy nhiên, rõ ràng là trong trường hợp thứ hai và thứ ba, quyền lực chính trị có thể gâytác hại lớn cho sự phát triển kinh tế và có thể gây ra sự lãng phí to lớn về sức lực và vậtchất. Ăngghen đã phân tích rõ vai trị và ảnh hưởng của nhà nước thơng qua hình tượngcủa bạo lực như sau: sau khi bạo lực chính trị đã trở thành độc lập đối với xã hội, sau khiđã từ đày tớ trở thành người chủ rồi, thì nó có thể tác động theo hai chiều hướng. Hoặc nótác động theo hai ý nghĩa và chiều hướng của sự phát triển kinh tế có tính quy luật. Nhưthế giữa bạo lực chính trị và sự phát triển kinh tế khơng có sự xung đột nào và sự pháttriển kinh tế được đẩy mạnh hơn. Hoặc nó chống lại sự phát triển kinh tế và khi đó trừmột vài ngoại lệ ra, thường thường nó chịu sức ép của sự phát triển kinh tế.
Trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, vai trị quyết định thuộc về các quan hệ kinhtế như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, chính trị cũng có tính độc lập tương đối trong mốiquan hệ với kinh tế. Tính độc lập tương đối đó biểu hiện ra thơng qua tác động trở lại củachính trị đối với kinh tế. “Tất cả các chính phủ, ngay cả những chính phủ chuyên chếnhất... có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm sự phát triển kinh tế cùng với những hệ quả vềchính trị và pháp luật bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế ấy, song rút cục họ vẫn phải tuântheo sự phát triển ấy”.
<b>Thứ hai, vai trị của chính trị đối với sự phát triển kinh tế còn thể hiện trong mối quan hệ</b>
giữa quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế.
Khi xem xét mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị Mác và Ăngghen đãchỉ ra rằng lợi ích kinh tế quy định quyền lực chính trị và một khi nó đã tồn tại như mộtthực thể hiện hữu thì quyền lực chính trị lại tác động rất lớn đến kinh tế. Tính quy địnhcủa lợi ích kinh tế đối với quyền lực chính trị được thể hiện qua những điểm sau:
<b>Một là, lợi ích kinh tế là sự phản ánh và biểu hiện trực tiếp của quan hệ sản xuất, mà</b>
trong xã hội thì quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, chi phối các quan hệ xã hội cịn lại,trong đó có quan hệ về tương quan lực lượng chính trị.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>Hai là, cơ sở và nội dung của quyền lực chính trị là lợi ích kinh tế. Theo các nhà kinh</b>
điển mácxít thì đằng sau những hành động chính trị là sự thúc đẩy của lợi ích vật chất, đểthoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương tiệnđơn thuần.
<b>Ba là, sự vận động, phát triển của lợi ích kinh tế quy định sự phát triển và vận động của</b>
quyền lực chính trị. Song với tư cách là nhà duy vật biện chứng, Mác không bao giờ quanniệm mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị là mối quan hệ một chiều.Hai nhân tố lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị ln luôn tác động qua lại lẫn nhau.Mác chỉ rõ rằng, quyền lực chính trị có thể tác động tới kinh tế theo ba cách thức: thúcđẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế; thúc đẩy ở mặt này, kìm hãm ở mặt khác; kìm hãm sựphát triển kinh tế. Ơng kết luận: sự vận động của kinh tế chịu ảnh hưởng một bên là sựvận động của quyền lực nhà nước, còn một bên là của lực lượng đối lập sinh ra đồng thờivới quyền lực ấy. Chính vì vậy, trong chính trị vấn đề quyền lực chính trị (biểu hiện tậptrung ở quyền lực nhà nước) là một mục tiêu trọng tâm trực tiếp mà giai cấp nào, nhómxã hội nào cũng muốn nắm và chi phối. Vì nắm được quyền lực chính trị là nắm đượccơng cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với các giai cấp khác, nhóm xãhội khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình, nhóm xã hội mình. Do đó tác động củachính trị đối với kinh tế thể hiện ở sự tác động của quyền lực chính trị đối với kinh tế.Thứ ba, vai trị của chính trị đối với sự phát triển kinh tế thể hiện qua vai trị lãnh đạo củađảng chính trị đối với đời sống xã hội.
Khi phân tích, nhận xét đánh giá về hệ quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, cácnhà kinh điển mácxít đã đi đến kết luận rằng: trong cuộc đấu tranh giai cấp ấy nhất địnhsẽ dẫn đến việc hình thành các đảng chính trị và các đảng chính trị đó sẽ đóng vai trịquan trọng trong đời sống xã hội. Đảng chính trị là tổ chức có mục đích chính trị rõ ràng,có tổ chức chặt chẽ, tập hợp lôi cuốn quần chúng cùng hành động chung để đạt mục đíchđề ra. Mác đã chỉ ra rằng, trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào giành được quyền lựcchính trị sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội.
Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng, trong việc nhận thức và giải quyết quan hệ chính trị vớikinh tế, bên cạnh việc ý thức tới vị trí và lợi ích của giai cấp cầm quyền thì u cầu cơbản, nền tảng trước hết mà đảng chính trị cầm quyền phải hướng tới là: quan hệ và sự tácđộng của chính trị đối với kinh tế, phải vì mục tiêu phát triển sức sản xuất, phát triển xãhội, tạo ra những điều kiện vật chất của một xã hội mới. Đối với đảng chính trị tiến bộ làđại diện cho lợi ích của tồn thể nhân dân lao động thì chủ trương, đường lối chính sáchphát triển đất nước của nó phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội, nên vai tròthúc đẩy xã hội tiến lên là vô cùng to lớn. Đối với đảng chính trị phản tiến bộ thì vai trịcủa nó đối với xã hội chỉ là sự kìm hãm.
</div>