Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

pháp luật việt nam và một số quốc gia trên thê giới điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.65 KB, 30 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

MỤC LỤCMỞ ĐẦU

1 lý do chọn đề tài2 kết cấu tiểu luận

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ HƠN NHÂN CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI

1.1 Khái qt chung1.1.1 Hơn nhân

1.1.2 Hơn nhân có yếu tố nước ngoài

1.2 Nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngoài

1.2.1 Đối tượng điều chỉnh1.2.2 Nguồn điều chỉnh1.2.3 Phương pháp điều chỉnhKết luận chương 1

CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THÊ GIỚI ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ HƠN NHÂN CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI

2.1 Quy định về kết hơn có yếu tố nước ngồi2.1.1 Về điều kiện

2.1.2 Về nghi thức kết hôn2.1.3 Hủy kết hôn trái pháp luật

2.2 Quy định về quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng có yếu tố nước ngồi2.2.1 Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng

2.2.2 Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng2.3 Quy định về chấm dứt quan hệ hôn nhân

2.3.1 Trường hợp một bên chết hoặc bị tun bố mất tích2.3.2 Ly hơn

Kết luận chương 2

CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP3.1 Thực trạng

3.2 Giải phápKẾT LUẬN CHUNG

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

MỞ ĐẦU1 lý do chọn đề tài

Hôn nhân, một cách chung nhất định nghĩa sự kết hợp đặc biệt giữa nam giới và nữa giới, dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện và tiến bộ, hướng tới mục tiêu xây dựng một gia đình hịa thuận, hạnh phúc và bền vững. Hơn nhân hình thành khi các chủ thể đảm bảo các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định và được xác lập bằng sự kiện pháp lý: đăng kí kết hơn. Sự kiện đó làm phát sinh quan hệ tài sảnvà nhân thân giữa vợ và chồng và chấm dứt bởi sự kiện lý hôn.

Quan hệ hơn nhân, xét ở nhiều góc độ, vừa là quan hệ pháp luật, vừa là quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp và nhạy cảm. Với xu hướng tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế mạnh mẽ như hiện nay, phạm vi phát sinh quan hệ hôn nhân khơng chỉ bó hẹp giữacác cá nhân có cùng quốc tịch và cùng cư trú trên lãnh thổ một quốc gia mà được mở rộng giữa các cá nhân với các quốc tịch khác nhau hoặc cư trú ở các nước khácnhau. Đồng nghĩa với việc quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi phát sinh ngày càng nhiều.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Hơn nhân có yếu tố nước ngồi là ột trong những chế định quan trọng của pháp luật Việt Nam. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi đã có sự chuyển biến tích cực và ngày càng phát triển.

Mặc dù đã thể hiện những bước đột phá mang tính tiến bộ, luật hơn nhân và gia đình nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung vẫn cịn tồn tại một số vấn đề trong thực tiễn chưa được pháp luật quy định cụ thể như chế định lý thân, quan hệ hôn nhân giữa người cùng giới, một số quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi nhưquan hệ pháp lý giữa vợ và chồng, tính hợp pháp khi kết hôn, việc hủy kết hôn trái pháp luật. Ngoài ra, một số quy định về thủ tục giải quyết tố tụng hơn nhân có yếu tố nước ngồi chưa được phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn, làm ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Từ thực trạng, nguyên nhân và những mục tiêu trên, nhóm em chọn đề tài “ hôn nhân trong tư pháp quốc tế” để làm tiểu luận hy vọng góp phần đáp ứng được tính cấp thiết và có giá trị về lý luận cũng như thực tiễn hiện nay.

2. Kết cấu tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương

Chương 1: tổng quan pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi.Chương 2: pháp luật Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi.

Chương 3: thực trạng và giải giáp hoàn thiện pháp luật hoàn chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam.

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ HƠN NHÂN CĨ U TỐ NƯỚC NGỒI

1.1 Khái quát chung1.1.1 Hôn nhân

Nhu cầu sinh tồn và phát triển đã buộc con người tham gia rất nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau để đáp ứng những nhu cầu về vật chất, văn hóa, tinh thần... Trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

các mối quan hệ xã hội bao gồm các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động ln diễn ra sôi động, đa dạng và gắn liền với bất kì chủ thể nào.

Hơn nhân là hiện tượng xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xãhội lồi người. Sự bền vững của hơn nhân là cơ sở tạo nên quan hệ vợ chồng và từ đó giúp hình thành các quan hệ phát sinh khác là quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng mà tổng hợp các mối quan hệ này là gia đình. Nói cách khác hơn nhân là cơ sở của gia đình và tạo nên gia đình với tư cách là tế bào của xã hội.

Quan hệ hôn nhân dưới góc độ pháp lý lag một quan hệ pháp luật đặc thù bởi khác với các quan hệ dân sự bình thường, mục đích của các chủ thể không phải nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần trong một thời điểm nhất định mà nhằm xác lập mối quan hệ lâu dài. Nền tảng tạo dựng và điều kiện tiên quuyết cho sự tồn tại của hơn nhân là yếu tố tình cảm. Các yếu tố khác ngoại trừ tình cảm cụ thể giữacác chủ thể, không thể là nền tảng của hôn nhân, hoặc nếu có đã làm sai lệch bản chất thực sự của hơn nhân.

Quan hệ hơn nhân được hình thành trên cơ sở hôn nhân khi các chủ thể đã đáp ứng các điều kiện kết hôn ( cả về nội dung và nghi thức ) theo luật định và được xác lậpbằng sự kiện pháp lý: đăng ký kết hơn. Sự kiện đó dẫn tới phát sinh và thay đổi quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản giữa các chủ thể ( nay đã được công nhận là vợ - chồng ). Mặc dù khác biệt với các quan hệ dân sự bình thường bởi mục đích xác lập mối quan hệ lâu dài, điều đó khơng có nghĩa là hơn nhân tồn tại vĩnh viễn mf sẽchấm dứt trong một số trường hợp cụ thể.

Như vậy, quan hệ hôn nhân bao gồm: sự kiện kết hôn – giai đoạn bắt đầu hôn nhân, tổng thể các quyền lợi, nghĩa vụ pháp lý vè tài sản và nhân thân giữa vợ và chồng – giai đoạn tồn tại hôn nhân và ly hôn – sự kiện kết thúc hơn nhân. 1.1.2 Hơn nhân có yếu tố nước ngoài

Sự hợp tác về mọi mặt giữa các quốc gia đã tạo điều kiện hình thành các quạn hệ hơn nhân khác với quan hệ hôn nhân truyền thống – quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi. Khơng giống quan hệ hôn nhân thông thường, quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi liên quan đến ít nhất hai hệ thống pháp luật trở lên. Căn cứ vào thực tiễn các nước và ở Việt Nam thì mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, song yếu tố nước ngoài của quan hệ dân sự ( trong đó có quan hệ hơn nhân ) được nhận diện dựa vào một trong ba dấu hiệu: Thứ nhất quan hệ hơn nhân giữa các cá nhân có quốc tịch khác nhau hoặc có cùng quốc tịch nhưng cư trú ở các quốc gia khác

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

nhau ( dấu hiệu chủ thể có quốc tịch khác nhau ). Thứ hai, khách thể của quan hệ hôn nhân là tài sản và các quyền tài sản ở nước ngồi ( dấu hiệu khách thể có liên quan đến nước ngoài ). Thứ ba, căn cứ phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ tại nước ngoài ( dấu hiệu sự kiện pháp lý xảy ra ở nước ngồi ).

Theo khoản 25 điều 3 luật hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 Quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi là quan hệ hơn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngồi; quan hệ hơn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là cơng dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi. Như vậy, các tiêu chí để nhận diện yếu tố nước ngồi theo pháp luật Việt Nam là:

Thứ nhất, sự khác nhau về quốc tịch của chủ thể tham gia quan hệ hơn nhân. Theo đó một bên trong quan hệ hơn nhân là cơng dân Việt Nam cịn người bên kia là nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Thứ hai, sự kiện pháp lý do các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quan hệ hơn nhân xảy ra ở nước ngồi ( hoặc theo pháp luật nước ngồi ). Đó có thể là sự kiện kết hôn, sự kiện ly hôn giữa vợ vàchồng hoặc sự kiện phán quyết có hiệu lực của tịa án có thẩm quyền cháp nhận ly hơn giữa vợ và chồng.

Thứ ba, khách thể của quan hệ hôn nhân là tài sản nước ngoài. Tài sản, theo điều 105 BLDS 2015 gồm Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Khi nói đến tài sản với tư cách là khách thể của quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi, tài sản đó phải có mối liên quan đến quan hệ hơn nhân đang tồn tại ở nước ngồi. Khi giả quyết các tranh chấpgiữa các chủ thể về tài sản, đa số pháp luật giữa các quốc gia đều lựa chọn nguyên tắc luật nơi có tài sản để áp dụng giải quyết.

Tóm lại từ những cơ sở lý luận và phân tích trên, có thể rút ra nhận định : quan hệ hôn nhân đáp ứng một trong ba tiêu chí sau thì được coi là có yếu tố nước ngồi: có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài, căn cứ để xác lập, thay đổi chấm dứt quan hệ hơn nhân ở nước ngồi, tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi.Yếu tố nước ngồi trong quan hệ hơn nhân được quy định tại luật hơn nhân và gia đình Việt Nam khá tương đồng với pháp luật các quốc gia trên thế giới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

1.2 Nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi

Để tổ chức và quản lý xã hội, Nhà nước sử dụng nhiều phương tiện, biện pháp khác nhau, nhưng pháp luật luôn là một trong những phương tiện quan trọng nhất. Với tư cách là phương tiện thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, là công cụ đắc lực giúp Nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị.

Pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi là tổng hợp các nguyên tắc, quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh quan hệ hôn nhân phát sinh giữa các chủ thể khác quốc tịch, hoặc giữa các chủ thể cùng quốc tịch nhưng sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ ở nước ngồi. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi mang đặc điểm chung là tính giai cấp và tính xã hội. Tuy nhiên do xuấtphát từ đặc điểm của đối tượng điều chỉnh là các quan hệ hơn nhân có liên quan đến hai quốc gia trở lên, nên pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nướcngồi chứa đựng những đặc điểm riêng, cụ thể:

Nguồn luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi khơng chỉ là các quyđịnh được quy định trong pháp luật quốc gia mà còn gồm các quy định ghi nhận trong điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và án lệ.

Phương pháp điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài là việc chọn hệ thống pháp luật để giải quyết hiện tượng xung đột pháp luật gồm hai phương pháp thực chất vàxung đột với liền với loại quy phạm thực chất và quy phạm xung đột.

1.2.1 Đối tượng điều chỉnh của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi

Quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi có những đặc trưng về chủ thể, căn cứ làmphát sinh, thay đổi, chấm dứt và khách thể là đối tượng điều chỉnh của pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi. Những nội hàm của quan hệ hơn nhân điều chỉnh gồm: kết hôn , quan hệ pháp lý về tài sản và thân nhân giữa vợ và chồng, hủy bỏ hôn nhân trái pháp luật và ly hôn.

1.2.2 Nguồn của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồiNguồn của tư pháp quốc tế là những hình thức biểu hiện hoặc chứa đựng các quy phạm và các nguyên tắc được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

là một bộ phận điều chỉnh của tư pháp quốc tế, nên nguồn luật của tư pháp quốc tế đương nhiên là nguồn điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngoài bao gồm các loại: pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, án lệ.

1.2.2.1 Pháp luật quốc gia

Pháp luật quốc gia bao gồm các văn bản do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ban hành là hình thức chứa đựng các nguyên tắc, quy phạm pháp luật điều chỉnh quanh hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi. Đây được coi là nguồn phổ biến, cơ bản nhất của tư pháp quốc tế. Tùy theo đặc điểm của từng nước, pháp luật điều chỉnh các quan hệ có yếu tố nước ngồi có thể được tập chung vào trong một đạo luật riêng hoặc được quy định rải rác trong các văn bản luật riêng rẽ.

Trước hết các quy tắc điều chỉnh quan hệ hôn nhân được ghi nhân trong Hiến phápcủa các quốc gia. Hiến pháp là văn bản luật có giá trị pháp lý cao nhất, là đạo luật gốc ghi nhận những quy định mang tính cơ bản về mặt pháp lý đối với tất cả các vấn đề pháp lsy mang tính quan trọng của quốc gia, trong đó có quan hệ hơn nhân. Trên cơ sở nguyên tắc của Hiến pháp, các quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân được quốc gia cụ thể hóa trong các văn bản luật như: lật dân sự, luật hơn nhân và gia đình, luật tố tụng dân sự, ....

Hầu hết các quốc gia cho rằng quan hệ hôn nhân là một loại quan hệ pháp luật dân sự đặc biệt nên nguồn luật chung điều chỉnh là luật dân sự. Do quan hệ hôn nhân lànguồn gốc tạo nên gia đình – tế bào của xã hội nên còn chịu sự điều chỉnh trực tiếpcủa luật chun ngành – luật hơn nhân và gia đình. Trong một số quan hệ đặc biệt, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi có thể được quy định trong mộtsố luật chuyên ngành như luật nhập cư, luật tư pháp quốc tế, luật quốc tịch. Ngồi ra quan hệ hơn nhân cịn chịu sự điều chỉnh bởi các luật quy định về thủ tục tư pháp trong q trình các bên đăng kí kết hơn hoặc thủ tục tố tụng để giải quyết yêu cầu ly hôn ( bộ luật tố tụng dân sự, luật quốc tịch, luật hộ tịch ).

Tại Việt Nam vấn đề hơn nhân có yếu tố nước ngồi ở nước CHXHCN Việt Nam chủ yếu được quy định trong các văn bản sau đây: Hiến pháp, bộ luật dân sự, luật hơn nhân và gia đình, nghị định 35/2000/QH10, nghị định số 68/2002/NĐ-CP, nghị quyết số 02/2004/NQ-HDTP, nghị định 110/2013/NĐ-CP, nghị định 24/2013/NĐ-CP...

Như vậy có thể nhận thấy hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành luật hôn nhân và gia đình, phần nội dung về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi đã được banh hành tạo khung pháp lý tương đối đầy đủ, toàn diện. Bên cạnh pháp luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

trong nước, điều ước quốc tế được coi là nguồn pháp luật quan trong điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngoài.

1.2.2.2 Điều ước quốc tế

Điều ước quốc tế là văn bản thảo thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế ( mà chủ yếu là quốc gia ) nhằm điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong quan hệ quốc tế. Điều ước quốc tế bao gồm điều ước quốc tế đa phương và điều ước quốc tế xong phương. Tất cả các điều ước quốc tế có quy phạm điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi đều được coi là nguồn pháp luật điều chỉnhquan hệ này.

Có thể nói kí kết điều ước quốc tế trong các lĩnh vực pháp luật nói chung, lĩnh vực hơn nhân và gia đình nói riêng được coi là cơ sở pháp lý quan trọng, biện pháp hiệu quả trong việc giải quyết xung đột giữa các nước tham gia ký kết. Do đó, để có cơ sở pháp lý trong hoạt động quốc tế nhằm điều chỉnh quan hệ hôn nhân và giađình có yếu tố nước ngồi Việt Nam cần tăng cường hơn nữa việc đàm phán, ký kết các HĐTTTP với các nước trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước ASEAN và các nước có nhiều người Việt Nam cư trú và sinh sống. Trên cơ sở các HĐTTTP mà Việt Nam đã ký với các nước, các cơ quan hữu quan cần phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai thực hiện khi các HĐTTTP có hiệu lực thi hành.1.2.2.3 Tập quán quốc tế

Tập qn nói chung và tập qn về hơn nhân gia đình nói riêng đã được nhiều quốcgia cơng nhận với tư cách là một nguồn của luật pháp trong nước. Tập quán quốc tế được coi là một nguồn điều chỉnh pháp luật hơn nhân có yếu tố nước ngồi là những nguyên tắc xử sự lâu đời, có nội dung cụ thể, quy định về quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được lặp đi lặp lại trong một thời gian dài và được các quốc gia thừa nhận có giá trị ràng buộc. Như vậy, có thể thấy, khơng phải bất kì một tập quán quốc tế nào cũng được coi là nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi khơng đồng nghĩa với việc tập quán quốc tế đương nhiệm được áp dụng. Nó chỉ được áp dụng nếu được pháp luậttrong nước, các điều ước quốc tế có liên quan quy định hoặc được cơ quan có thẩmquyền của nhà nước tiến hành áp dụng.

Một khi được công nhận, tập quán sẽ trở thành luật mang tính ràng buộc và sẽ có giá trị pháp lý tương đương với các quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, trong áp dụng tập quán giữa các nước cũng đã áp dụng những giải pháp pháp lý khác nhau:

- Một số quốc gia điển hóa tập quán thành quy phạm trong văn bản luật.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

- Một số quốc gia áp dụng tập qn khi khơng có thỏa thuận và khơng có quy định của pháp luật.

- Bên cạnh hai giải pháp trên, một số quốc gia quy định chủ thể có quyền áp dụng tập quán hoặc quy định của pháp luật trong quan hệ hơn nhân và gia đình nếu tập quán không vi phạm các điều kiên áp dụng được quy định trongbộ luật.

Ở Việt Nam , việc áp dụng tập quán quốc tế được ghi nhận tại điều 759 BLDS 2005 và điều 100 luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Các quy định đều thống nhất việc áp dụng tập quán quốc tế trong các trường hợp các quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi khơng được pháp luật của CHXHXN Việt Nam, điều ước quốc tế mà CHXHXN Việt Nam là thành viên điều chỉnh với điều kiện việc áp dụng hoặc hậu quả việc áp dụng tập qn quốc tế đó khơng trái với nguyên tắc cơ bản của CHXHCN Việt Nam.

Với nội dung của các quy định trên đây có thể rút rai hai điểm cần lưu ý: Thứ nhất pháp luật quy định bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam trơng QHHN có yếu tố nước ngồi khơng chỉ dựa vào các quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật nước ngoài ( nước sở tại ), pháp luật quốc tế mà còn dựa vào tập quán quốc tế. Điều này có nghĩa là Việt Nam đã coi tập quán quốc tế là một nguồn của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam trong quan hệ hơn nhân có yếu tố nướcngồi. Thứ hai, với quy định về thứ tự áp dụng thì nguồn pháp luật trong nước và điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng trước tiên, tập quán quốc tế sẽ được coi là nguồn áp dụng sau. Điều này cũng có nghĩa là tập quán quốc tế chỉ có thể được áp dụng khi pháp luật trong nước hoặc điều ước quốc tế khơng có quy định áp dụng.

1.2.2.4 Án lệ quốc tế

Án lệ được hiểu là một bản án đã được tuyên hoặc một sự giải thích, áp dụng pháp luật được coi như là một tiền lệ để làm cơ sở để các thẩm phán sau đó có thể áp dụng trong các trường hợp tương tự. Trước tiên, án lệ nó phải là bản án, quyết địnhcủa tồn bộ tịa án, nhưng khơng phải tồn bộ tịa án, quyết định mà là bản án, quyết định chứa các thước chung, quan điểm chung đã được tòa án áp dụng trong việc giải quyết vấn đề pháp luật trong bản án, quyết định đó. Thứ hai, cách thức, quan điểm, giải pháp đó phải được tòa án áp dụng lặp đi lặp lại cho nhiều vụ án tạonên tiền lệ. Ngoài ra, bản án, quyết định là có giá trị án lệ phải là cơ sở cho tòa án cấp dưới vận dụng khi xét xử vụ án tương tự. Cơ sở này có thể mang tính chất bắt buộc hoặc mang tính chất tham khảo. Tính “tương tự” ở đây được hiểu là tương tự

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

nhau về tình tiết, sự kiện cơ bản và tương tự về vấn đề pháp lý. Như vậy, không phải mọi quyết định , bản án của tịa án đều có giá trị án lệ, mà chỉ những bản án, quyết định chứa đựng những vấn đề về giải thích và áp dụng pháp luật từ đó có thể rút ra nguyên tắc chung để áp dụng những vụ án khác mới có thể có giá trị án lệ.Trên thế giới hình thành hai trường phái án lệ, đó là án lệ ràng buộc và án lệ thuyếtphục. Án lệ ràng buộc chính là luật được lập ra và tôn trọng và tuân thủ theo, thường được gặp ở các nước thuộc hệ thống luật ( common law ) Anh, Mỹ, Úc... Trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, các hệ thống tòa án cấp dưới của Liên bang và tòa án của bang có nghĩa vụ tuân thủ các quyết định trước đây của tòa án tối cao liên bang. Cũng như ở Anh, Ở Úc, tịa án cáp dưới có nghĩa vụ tuân thủ các quyết định trước đây của tòa án cấp trên, cụ thể là tòa án tối cao của bang phải tuân thủ theo phán quyết của Full Court ( tịa tồn phần ) hoặc tịa phúc thẩm, tịa phúc thẩm hình sự, và các tịa án này phải tuân theo phán quyết của tòa án tối cao liên bang ( High Court ). “ Án lệ thuyết phục ” là án lệ có tính phù hợp và có sức ảnh hưởng nhưng không nhất thiết phải được áp dụng, thường gặp ở các nước hệ thốngdân luật ( Civil Law ) như Pháp, Đức, Nhật Bản ....

Ở Việt Nam trong các giai đoạn trước đây, nhà nước CHXHCN Việt Nam không thừa nhận án lệ là một nguồn chính thức mà chỉ tồn tại trên thực tế dưới dạng “hướng dẫn xét xử của tòa án cấp trên”. Thực hiện chủ chương, quan điểm về cải cách tư pháp trong các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/05/2005 của bộ chính trị về “ chiến lược xây dựng và hoàn thành hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, đính hướng đến năm 2020” và nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của bộ chính trị về “ chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Trong đó đã xác định một trong những nhiệm vụ trong tâm của công cuộc cải cách tư pháp là “ nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ...” và giao tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ “tổng kết kinh nhiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Với mục tiêu phát triển án lệ nhằm nâng cao chất lượng các bản án , quyết định của tòa án nhân dân, nhằm nâng cao phát triển, thống nhất pháp luật từ đó đảm bảo sự bình đẳng của mọi tổ chức và công dân trước pháp luật, nâng cao kĩ năng và chất lương cét xử của thẩm phán.

Như vậy, có thể thấy hiện nay pháp luật Việt Nam đã thừa nhận bốn loại nguồn đó là: các văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, các điều ước quốc tếmà Việt Nam kí kết hoặc tham gia các tập quán quốc tế và án lệ. Trong đó, án lệ là nguồn luật mới của tư pháp quốc tế Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

1.2.3 phương pháp điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi

Khác với quan hệ hơn nhân thông thường, một điều kiện của quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi là xung đột pháp luật, tức là hiện tượng trong một trạng thái nhấtđịnh mà hai hay nhiều hệ thống pháp luật đều có thể điều chỉnh một quan hệ pháp luật nhất định. Việc lựa chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh các quan hệ này được gọi là giải quyết xung đột pháp luật. Nếu như các quan hệ pháp luật trong nước được điều chỉnh dựa trên các phương pháp điều chỉnh của pháp luật dân sự mà chủ yếu là áp dụng các quy định của luật hôn nhân và gia đình và bộ luật dân sự thì quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi được điều chỉnh bởi hai phương pháp giải quyết xung đột pháp luật: phương pháp thực chất và phương pháp xung đột. Hai phương pháp này kết hợp hài hòa và tác dộng tương hỗ với nhau trong quátrình điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi, góp phần đảm bảo chật tự pháp lý dân sự quốc tế ổn định trong điều kiện hội nhập hiện nay

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Với việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam có yếu tố rất quan trọng. Qua việc nghiên cứu cho thấy quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi được nhận diện nếu có một trong ba yếu tố: chủ thể trong quan hệ hơn nhân có quốc tịch khác nhau, sự kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ hơn nhân xảy ra ở nước ngồi, tài sản liên quan đến qua hệ hôn nhân tồn tại ở nước ngồi.

Pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngoài quy định về những quan hệ tạo nên từ hôn nhân bao gồm các cơ sở tọa thành, phát sinh hơn nhân, duy trì hơn nhân và chấm dứt hôn nhân. Khác với quan hệ hôn nhân thơng thường, quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngoài vượt ra khỏi phạm vi của một quốc gia và liên quan đến hai hay nhiều nước. Nguồn điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngoài bao gồm điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia, án lệ, tập quán quốc tế.Xuất phát từ dặc thù của đối tượng điều chỉnh, pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi áp dụng hai phương pháp chủ yếu: phương pháp thực chất và phương pháp xugn đột. Hai phương pháp điều chỉnh này với những ưu thế nhất định, cùng song song tồn tại, hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện chức năng điều chỉnh, giải quyết một loại quan hệ pháp luật - quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Như vậy, có thể rút ra những nhận định tổng quan về pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi như sau: pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi là tổng hợp các ngun tắc, các quy phạm pháp luật được quy định trong điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia, án lệ và tập quán quốc tế nhằm điều chỉnh quan hệ kết hôn, quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng và chấm dứt quan hệvợ chồng có yếu tố nước ngoài.

Chương 2 PLVN và một số quốc gia trên thế giới điều chỉnh hơn nhân có yếu tố nước người

2.1 Quy định về kết hơn có yếu tố nước ngoài 2.1.1 Về điều kiện

Cùng với sự tăng cường và mở rộng quan hệ giữa Việt Nam giữa các nước. Số lượng các cuộc kết

hơn có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng. Để điều chỉnh kịp thời vấn đề này, Nhà nước ta đã ban hành

các văn bản pháp luật có quy phạm có các quy phạm xác định điều kiện kết hơn có yếu tố nước ngồi.

Ngồi ra, vấn đề kết hơn cịn được giải quyết trên cơ sở các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam

đăng kí với nước ngồi. -

Điều kiện kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi:

Về điều kiện kết hơn, theo điều 126 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014: kết hôn giữa công dân

Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết

hơn; nếu việc kết hơn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của ViệtNam thì người

nước ngồi cịn phải tn theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn. Như vậy, nguyên tắc

cơ bản để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật điều kiện kết hôn là nguyên tắc luậtquốc tịch của các

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

quốc tịch đồng thời thường trú vào thời điểm đăng kí kết hơn, nếu người đó khơng thường trú tại một

trong các nước có quốc tịch thì giấy tờ đó mang hộ chiếu cấp. Đối với người nước ngồi khơng quốc

tịch muốn kết hơn với cơng dân Việt Nam và đăng kí kết hơn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt

Nam, thì giấy tờ sử dụng trong việc đăng kí kết hơn là giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi

nơi người đó thường trú cấp. Đối với cơng dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, giấy tờ sử dụng trong

việc đăng kí kết hơn là giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người đó định cư hoặc Cơ

quan ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước đó cáp. -

Điều kiện kết hơn giữa người nước ngồi thường trú tại Việt Nam:

Khoản 2 điều 126 Luật hơn nhân và gia đình: Việc kết hơn giữa những người nước ngồi thường

trú ở Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về

điều kiện kết hôn. -

Điều kiện kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân của các nước đã ký hiệp định tương trợ

người kết hôn là công dân” .

Tuy nhiên, trong một số hiệp định cũng có quy định bổ sung, chẳng hạn theo khoản 1 Điều 23

hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Liên Xô (cũ), khoản 1 Điều 18 Hiệp định Việt Nam - Tiệp

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

khắc… công dân các nước hữu quan muốn kết hơn ngồi việc tn thủ pháp luật nước mình họ còn

phải tuân theo các quy định của pháp luật nước nơi tiến hành kết hôn về cấm kết hôn.

khác để giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn.

Ở Việt Nam, Theo Điều 9 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, việc kết hơn phải được đăng ký và

do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức quy định của pháp luật Việt Nam. Đây

chính là nghi thức dân sự. Do đó, việc kết hơn khơng được đăng ký tại cơ quan nhànước có thẩm

quyền thì khơng có giá trị pháp lý.

Trong các hiệp định tương trợ tư pháp quốc tế giữa Việt Nam với nước ngoài ghi nhận nguyên tắc

chung là nghi thức kết hôn được xác định theo pháp luật của nước ký kết nơi tiến hành kết hơn. Tuy

nhiên, cũng có những bổ sung, chẳng hạn, theo khoản 1 Điều 18 Hiệp định giữa Việt Nam - Séc quy

định: Việc kết hôn giữa công dân hai nước ký kết nhất thiết phải theo hình thức Nhà nước mới có giá

trị.

2.1.3 Hủy kết hôn trái pháp luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Giống như hủy kết hôn trái pháp luật đối với hai người chung quốc tịch. Hủy kết hôn trái pháp luật

mang yếu tố nước người cũng giống như vậy. Quy định tại Điều 10 Luật Hôn nhânvà gia đình 2014 :

“1.Người bị cưỡng ép kết hơn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có

quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức yêu cầu Tịa án hủy việc kết hơn trái pháp luật

do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này.” Theo đó nếu vi phạm ngun tắc tự nguyện kết hơn thì cá nhân bị cưỡng ép hoặc lừa dối kết hôn đó

có thể tự mình u cầu hủy việc kết hơn trái pháp luật. Nếu khơng thể tự mình u cầu thì có thể đề

khoản 1 Điều 8 của Luật này:

a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hơn với người khác; cha, mẹ,con, người giám

hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật; b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; d) Hội liên hiệp phụ nữ.

3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ

quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c”

Như vậy, ngoài việc tự mình yêu cầu thì những đối tượng trên cũng có quyền u cầu hủy việc kết

hơn trái pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho cá nhân và bảo đảm thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự

</div>

×