Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

tên tiểu luận so sánh biện pháp phòng và chống đối với động vật cảm thụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 18 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<small> </small>

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN

<b>KHOA CHĂN NUÔI-THÚ Y</b>

<b>TIỂU LUẬN HỌC PHẦN</b>

BỆNH TRUYỀN NHIỄM ĐỘNG VẬT 1

<b>TÊN TIỂU LUẬN</b>

<b>SO SÁNH BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ CHỐNG ĐỐI VỚI ĐỘNG VẬT CẢM THỤ</b>

<b>SINH VIÊN: PHẠM THỊ HẢOMÃ SỐ SINH VIÊN: 21305309</b>

<b>LỚP: THÚ Y K21ANIÊN KHÓA: 2021-2026</b>

Đắk Lắk, Tháng 2 Năm 2024

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small> </small>

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN

<b>KHOA CHĂN NUÔI-THÚ Y</b>

<b>TIỂU LUẬN HỌC PHẦN</b>

BỆNH TRUYỀN NHIỄM ĐỘNG VẬT 1

<b>TÊN TIỂU LUẬN</b>

<b>CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄMSINH VIÊN: PHẠM THỊ HẢO</b>

<b>MÃ SỐ SINH VIÊN: 21305309LỚP: THÚ Y K21A</b>

<b>Người hướng dẫn: TS. Cao Văn Hồng</b>

Đắk Lắk, Tháng 2 Năm 2024

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình dạy dỗ của các thầy cô trong khoa CNTY trường Đại học Tây Nguyên.

Do kiến thức còn hạn hẹp nên trong q trình thực hiện tiểu luận, em đã gặp khơngít những khó khăn, do vậy mà tiểu luận khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cơ giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.

Em xin trân thành cảm ơn!

1

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

b. Nguyên tắc chung dùng vacxin ...10

c. Phản ứng sau khi tiêm vacxin ...11

d. Kế hoạch tiêm phòng vacxin ...12

<b>e. Tổ chức tiêm phòng ...13</b>

0

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>I. Nguyên tắc chung của công tác phịng chống dịch bệnh truyền nhiễm </b>

Ngun lý cơng tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm là vận dụng nhữngkiến thức về ba pha của chu trình truyền lây mầm bệnh và các giai đoạn của quátrình sinh dịch vào công tác thực tiễn.

Bệnh truyền nhiễm xảy ra được là do ba khâu của quá trình sinh dịch: nguồnbệnh, các nhân tố trung gian truyền bệnh và động vật cảm thụ, và sự liên hệ giữaba khâu đó. Thiếu một trong ba khâu hoặc thiếu sự liên hệ giữa hai trong ba khâuđó thì dịch khơng xảy ra được.

Nguồn bệnh là khâu đầu tiên và chủ yếu, là xuất phát điểm của quá trìnhsinh dịch. Nhân tố trung gian truyền bệnh nối liền nguồn bệnh với cơ thể cảm thụlàm cho quá trình sinh dịch thực hiện thuận lợi. Động vật cảm thụ là yếu tố làmcho dịch biểu hiện ra, đồng thời nó lại biến thành nguồn bệnh làm cho quá trìnhsinh dịch được nhân lên, được thúc đẩy mạnh hơn.

Trên cơ sở phân tích vai trị và sự liên hệ giữa các khâu trên, cơng tác phòngchống bệnh truyền nhiễm phải nhằm thực hiện cho được việc xóa bỏ một hoặcnhiều khâu, hoặc cắt đứt sự liên hệ giữa các khâu với nhau trong quá trình sinhdịch. Chỉ cần cắt đứt một khâu hoặc cắt đứt sự liên hệ giữa những hai khâu, cũngđủ làm cho q trình sinh dịch khơng thực hiện được. Đó là nguyên lý cơ bản củamọi biện pháp phòng chống bệnh. Đương nhiên, chỉ giải quyết được một cách cănbản việc đó khi nhận thức của con người được nâng cao.

Khi chưa có dịch các biện pháp phịng bệnh truyền nhiễm đều nhằm đềphòng dịch xuất hiện. Chủ chăn nuôi, chủ động vật chuyên chở phải chấp hành cácyêu cầu thực hiện các biện pháp phòng dịch được quy định trong Pháp lệnh thú y,các Nghị định thi hành Pháp lệnh và Điều lệ phòng chống dịch bệnh cho động vật,trong đó việc xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh là trách nhiệm của mọi cánhân, tổ chức và cơ quan quản lý nhà nước liên quan ngành chăn nuôi. Các cá nhânvà tổ chức chăn nuôi động vật phải đăng ký xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch

1

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

bệnh động vật và phải chấp hành các quy định của pháp luật về thú y đối với vùng,cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. Các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quanvùng an toàn dịch bệnh động vật phải chấp hành các quy định của pháp luật về thúy đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. Chính phủ có chương trình quốcgia về khống chế, thanh toán một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm của động vật,nhằm bảo đảm hiệu quả khống chế và thanh toán các dịch bệnh nguy hiểm củađộng vật và những bệnh từ động vật lây sang người, đáp ứng yêu cầu xuất khẩuđộng vật và sản phẩm động vật, bảo đảm giảm dần số ổ dịch, số động vật mắcbệnh, tiến tới thanh toán dịch bệnh. Trong việc xây dựng chương trình này Chínhphủ có chỉ đạo các các bộ, ngành có liên quan phối hợp Bộ Nơng nghiệp và PTNTvà Bộ Thủy sản trong việc xây dựng chương trình quốc gia về khống chế, thanhtoán dịch bệnh động vật. Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản xây dựngchương trình quốc gia về khống chế, thanh tốn dịch bệnh động vật trình Chínhphủ phê duyệt và chỉ đạo thực hiện chương trình. Các cơ quan quản lý nhà nước vềthú y ở trung ương (Cục Thú y đối với dịch bệnh động vật trên cạn và Cục Quản lýchất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản đối với dịch bệnh động vật dưới nướcvà lưỡng cư), UBND các cấp, Chi cục Thú y và Chi cục Quản lý chất lượng, antoàn vệ sinh và thú y thủy sản, các tổ chức và cá nhân chăn nuôi động vật tùy theoquyền hạn và trách nhiệm của mình có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện, thanh tra,kiểm tra và đánh giá việc thực hiện, tổ chức thực hiện, tuyên truyền phổ biếnhướng dẫn và thực hiện các biện pháp khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật.

Khi dịch đã xuất hiện, muốn phòng bệnh lây lan rộng thì cần thực hiện cácbiện pháp chống dịch nhằm dập tắt dịch, bao gồm, một mặt, tiêu diệt nguồn bệnh(điều trị bệnh cho các động vật bệnh hoặc giết hủy hay giết mổ bắt buộc động vậtbệnh) và, mặt khác, phòng bệnh cho các động vật chưa mắc bệnh. Các biện phápphòng dịch và biện pháp chống dịch liên quan mật thiết với nhau. Các biện pháptiêu diệt nguồn bệnh một mặt là để thanh toán dịch nhưng đồng thời cũng bảo đảm

2

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

cho động vật khỏe khơng bị lây bệnh nên phịng ngừa dịch lan rộng. Các biện phápphòng bệnh truyền nhiễm ở nước ta đã được quy định trong Điều lệ phòng chốngdịch bệnh cho gia súc và gia cầm trước đây và Pháp lệnh thú y hiện nay, cũng nhưcác văn bản liên quan do Nhà nước ban hành.

Để thực hiện các biện pháp phòng dịch cần thực hiện những biện pháp tổnghợp tác động đến nhiều khâu của quá trình phát sinh dịch: đối với nguồn bệnh (vậtmang trùng khi chưa có dịch, cũng như vật mang trùng và vật bệnh khi có dịch),đối với đường truyền lây và đối với động vật mẫn cảm.

<b>1.1. Làm tăng miễn dịch quần thể </b>

Đối sách cơ bản đối với ký chủ khi chưa có dịch là làm tăng sức miễn dịchtập đoàn hay miễn dịch đàn. Để có đàn gia súc có sức đề kháng cao cần thực hiệncác biện pháp sau đây.

<b>a. Vệ sinh phòng bệnh</b>

Cá nhân và tổ chức chăn nuôi, chủ động vật nuôi, người vận chuyển độngvật phải thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng bệnh cho động vật, nhằm bảo đảmsức khỏe động vật, tăng sức đề kháng không đặc hiệu của gia súc, gia cầm.

Vệ sinh phòng bệnh bao gồm: vệ sinh ăn uống, vệ sinh chuồng trại, chăn thả,vệ sinh thân thể, vệ sinh sử dụng, khai thác, vệ sinh sinh sản,...

Vệ sinh phịng bệnh phải được xây dựng thành quy trình tiêu chuẩn kỹ thuậtmà người chăn nuôi bắt buộc phải tuân theo, và mặt khác phải được gây thànhphong trào quần chúng, thành tập quán trong nhân dân để mọi người tự nguyện tự

3

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

giác thực hiện. Phải kết hợp chặt chẽ với phong trào vệ sinh phòng bệnh chongười. Phải dựa vào sự hoạt động của những tổ chức quần chúng như "hội bảohiểm nuôi lợn" hoặc "kết ước phòng toi gà", hoặc quy định pháp lý "đăng ký xâydựng cơ sở và vùng an toàn dịch".

Vệ sinh phịng bệnh có tác dụng chủ động tấn công bệnh ở ngoại cảnh vàtrên thân thể động vật, làm cho cơ thể khỏe mạnh, tăng sức chống đỡ bệnh, ngănchặn mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể. Đối với các bệnh không truyền nhiễm vàbệnh ký sinh trùng, phải lấy vệ sinh phòng bệnh làm biện pháp chính, nếu khơngphải là duy nhất, cịn đối với bệnh truyền nhiễm và một số bệnh ký sinh trùng thìphải kết hợp vệ sinh phòng bệnh với tiêm phòng. Nhờ xây dựng và thực hiện tốtnội quy vệ sinh phòng bệnh mới hạn chế được nhiều dịch bệnh.

<b>b. Cải tiến kỹ thuật chăn nuôi </b>

Thực hiện vệ sinh thức ăn, nước uống, chuồng trại,... là một khâu trong cảitiến kỹ thuật chăn ni. Phối hợp khẩu phần thích đáng bảo đảm đủ và cân bằngchất dinh dưỡng, xây dựng chuồng trại hợp lý, cải tiến việc quản lý chăm sóc, dùngcơng cụ cải tiến trong chăn ni, chọn lọc cải tạo giống, cơ giới hóa chăn ni lànhững nội dung của cải tiến kỹ thuật chăn ni, địi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về cácmặt sinh lý, sinh thái, dinh dưỡng học, di truyền học, vệ sinh thú y,...

<b>c. Tiêm phòng </b>

Tiêm phòng là biện pháp phòng bệnh tích cực, vì làm cho cơ thể tự sản sinhra (tiêm vacxin) hoặc tiếp nhận được (tiêm kháng huyết thanh) những chất tạo sứcđề kháng đặc hiệu chống cảm nhiễm nên giúp cho cơ thể chống đỡ có kết quả vớibệnh trong thời gian nhất định.

Tiêm phịng có ý nghĩa rất to lớn đối với những bệnh mà mầm bệnh tồn tạilâu dài trong thiên nhiên (bệnh nhiệt thán) hay trong cơ thể động vật khỏe mạnh(bệnh đóng dấu lợn, tụ huyết trùng), lại càng cần thiết đối với những bệnh có ổdịch thiên nhiên, có nhiều vật mang trùng, có nhiều nhân tố trung gian truyền bệnh

4

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

hoặc những bệnh khó tiêu diệt nhân tố trung gian truyền bệnh, cũng như đối vớinhững bệnh lây qua đường hơ hấp.

Tiêm phịng phải thực hiện khi chưa có dịch là chủ yếu, hoặc khi đã bị dịchuy hiếp. Thuốc dùng tiêm phòng là vacxin hoặc kháng huyết thanh, hoặc kết hợpcả hai. Tiêm phòng bằng vacxin là phương pháp đưa kháng nguyên của mầm bệnhvào cơ thể nhằm tạo miễn dịch chủ động cho động vật. Năm 1876, Jenner (1749 -1823) lấy vẩy đậu của bị cái chủng cho người thì gây bệnh rất nhẹ cho người. Sauđó, lấy mụn đậu của người cho tiếp xúc với người đã được chủng virut đậu bị thìngười này không mắc bệnh đậu mùa của người nữa. Từ đó, ở châu Âu người ta đãsử dụng rộng rãi phương pháp dùng virut đậu bò để phòng bệnh đậu mùa chongười (gọi là chủng đậu - variollation; hoặc chủng vacxin - vaccination).

Hiện tượng người và động vật không mắc các bệnh sau khi mắc và khỏibệnh hoặc sau khi được tiêm chủng gọi là hiện tượng miễn dịch. Nhiều cơng trìnhnghiên cứu của Pasteur sau này về các chế phẩm sinh học phòng một số bệnhtruyền nhiễm (tụ huyết trùng gà, đóng dấu lợn, nhiệt thán, dại) đã giúp ơng khẳngđịnh có thể tạo miễn dịch nhân tạo cho người và động vật để phòng bệnh truyềnnhiễm và đã thúc đẩy những cơng trình nghiên cứu trong lĩnh vực đó. Pasteur đã đềnghị gọi các chất dùng tiêm chủng tạo miễn dịch là vacxin (tiếng Pháp là vaccine,do từ bò cái tiếng Latin là vacca) và phương pháp tiêm chủng gọi là tiêm chủngbằng vacxin (vaccination) để nhớ công Jenner.

Từ Jenner đến Pasteur và các nhà bác học sau hai ơng, những cơng trìnhnghiên cứu nối tiếp về vacxin và huyết thanh phịng bệnh đã góp phần to lớn làmgiảm dần tai họa khủng khiếp của dịch bệnh ở người và gia súc, thanh toán đượcbệnh đậu mùa và tiến đến thanh toán một số bệnh dịch nguy hiểm khác (dịch tảtrâu bò, dịch tả lợn,...). Yêu cầu về vacxin phòng bệnh ngày càng tăng do nhiềuloại đã đáp ứng yêu cầu của thực tế: gây miễn dịch tốt, an toàn đối với cơ thể được

5

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tiêm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp bệnh việc tìm kiếm một vacxin hữu hiệucịn là thách thức lớn đối với nhân loại (vacxin tụ huyết trùng gia cầm, chẳng hạn). Ở nước ta hàng năm chế tạo và cung cấp một số lượng lớn các loại vacxin vàkháng huyết thanh. Nhiều loại có hiệu lực miễn dịch chắc chắn, thời gian miễndịch tương đối dài. Có loại vacxin đã được cải tiến, có loại mới đang được nghiêncứu chế tạo cho phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Đó là điều kiện thuận lợi giúpchúng ta thực hiện "tiêm phòng rộng rãi" để tạo miễn dịch tập đồn hữu hiệu, gópphần vào kế hoạch khống chế và tiêu diệt các bệnh truyền nhiễm.

Tiêm phòng bằng kháng huyết thanh: Kháng huyết thanh dùng để chữa bệnhvà phòng bệnh. Tiêm phòng bằng kháng huyết thanh là để tạo miễn dịch thụ độngcho động vật.

Kháng huyết thanh được chế từ các gia súc lớn (ngựa, bò) hoặc lợn, bằngcách dùng vacxin vi sinh vật mầm bệnh gây tối miễn dịch cho chúng (tiêm chủngmột số lần liên tiếp cách nhau một vài tuần với liều tăng dần) rồi lấy máu chắthuyết thanh. Kháng huyết thanh có thể là đơn giá khi chỉ dùng một loại vi sinh vậtmầm bệnh làm vacxin để gây tối miễn dịch, hoặc có thể là đa giá khi dùng nhiềuloại vi sinh vật hoặc nhiều typ của một loại vi sinh vật làm vacxin.

Kháng huyết thanh có thể là huyết thanh kháng vi khuẩn hay kháng virut(kháng huyết thanh dịch tả lợn, tụ huyết trùng lợn) và cũng có thể là huyết thanhkháng độc tố (kháng độc tố uốn ván).

Sau khi tiêm kháng huyết thanh vài giờ thì cơ thể có miễn dịch. Vì vậy, chỉdùng khi cần phải phịng bệnh khẩn cấp (như tiêm cho động vật trong ổ dịch nhưngchưa phát bệnh hoặc ở vùng có nguy cơ bị dịch uy hiếp), hay tiêm phòng cho độngvật cần xuất cảng ngay hoặc phải đưa đi triển lãm, hội chợ ngay.

Thời gian miễn dịch do tiêm kháng huyết thanh rất ngắn (1 - 3 tuần) vì vậy,sau khi tiêm huyết thanh 10 ngày cần phải tiêm vacxin để tạo miễn dịch chủ động,lâu dài.

6

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Liều lượng huyết thanh tiêm phòng bằng nửa liều chữa bệnh mỗi lần. Tiêmdưới da. Nói chung khơng nên tiêm huyết thanh và vacxin tương ứng cùng một lúc,vào một chỗ trên cơ thể. Chỉ tiêm vacxin từ 8 -10 ngày sau khi tiêm huyết thanh.Khi dùng huyết thanh cũng như dùng vacxin cần phải đảm bảo vô trùng, phải kiểmtra phẩm chất huyết thanh trước khi dùng và đề phòng các phản ứng có thể xảy ra.Huyết thanh cần được bảo quản ở nơi râm mát và tối.

<b>Khi có dịch biện pháp đối với động vật thụ cảm phải khẩn trương, huy động</b>

mọi nguồn lực của xã hội vào công tác ngăn chặn lan truyền cảm nhiễm, khống chếdịch. Cần kiểm kê nhanh để nắm được số đầu gia súc, gia cầm trong ổ dịch. Qua đótiến hành phân loại sức khỏe, nhất là của những động vật mẫn cảm (gia súc, giacầm dễ mắc bệnh), nhờ đó mà phát hiện được con bệnh hoặc con nghi lây nhiễm.Đàn gia súc phải được quản lý chắc chắn để tránh tình trạng lạm sát hoặc bán chạygóp phần làm lây lan mầm bệnh. Trong khi kiểm kê tránh tập trung đàn gia súc đểtránh lây lan.

Biện pháp thứ hai là phải tiêm chống dịch trong ổ dịch và các vùng xungquanh. Xung quanh ổ dịch là khu vực bị uy hiếp (khu vực nguy cơ dịch, vành đainguy cơ dịch).

Ngoài khu vực nguy cơ dịch là khu vực an tồn, mầm bệnh khó có điều kiệnlây lan tới trong thời gian trước mắt.

Ở cả ba khu vực đó đều cần tiêm vacxin (hoặc kháng huyết thanh trước rồitiêm vacxin sau một số ngày) cho gia súc còn khỏe để tạo ngay một vành đai miễndịch ngăn chặn dịch lây lan. Biện pháp tiêm vacxin trong các khu vực này, nhất làđối với các vacxin virut nhược độc, vừa giúp phát hiện nhanh động vật nung bệnhvừa có tác dụng dập tắt dịch trong thời gian ngắn. Đối với những con vật nghi nungbệnh ở trong ổ dịch có thể tiêm kháng huyết thanh cùng một lúc với vacxin để tạomiễn dịch nhanh chóng nhưng phải tiêm ở hai nơi khác nhau trên cơ thể và chỉ ứng

7

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

dụng đối với vacxin chết (pha chất bổ trợ). Đối với động vật khác loài nhưng mẫncảm với bệnh cũng cần tiêm vacxin.

Bên cạnh đó cần phải thực hiện các biện pháp điều trị bệnh tích cực bằngnhững chất kháng sinh thích hợp và các biện pháp khác có tác dụng điều trị cũngnhư thực hiện các biện pháp ngăn chặn dịch lây lan như giết hủy hay giết mổ bắtbuộc, thực hiện kiểm dịch, tuân thủ các biện pháp vệ sinh thú y và thực hiện tiêuđộc ngăn mầm bệnh phát tán sang khu vực chung quanh ổ dịch.

<b>1.2. Vacxin và tiêm vacxin phòng bệnh truyền nhiễm a. Các loại vacxin </b>

Vacxin là chế phẩm sinh học được chế từ vi sinh vật đã bị giết chết (vacxinchết, vacxin vô hoạt) hoặc bị giảm độc (vacxin nhược độc).

- Vacxin nhược độc là chế phẩm sinh học từ vi khuẩn hoặc virut đã đượclàm yếu đi đến mức không nguy hiểm cho cơ thể nhưng vẫn gây miễn dịch tốt,hoặc là từ những chủng vi sinh vật vốn có tính gây bệnh thấp đối với động vậtđược tuyển chọn từ tự nhiên. Người ta có thể làm giảm độc vi khuẩn hoặc virutbằng nhiều cách nuôi cấy trong điều kiện bất lợi (nuôi vi khuẩn nhiệt thán ở nhiệtđộ 42 °C hoặc trong môi trường CO2, ni vi khuẩn lao trong mơi trường có mậtbị), có thể làm khơ (vacxin dại Pasteur), để cho vi khuẩn già đi (vacxin tụ huyếttrùng của Pasteur), tiếp đời liên tục qua một loại động vật không cảm thụ tự nhiên(vacxin nhược độc dịch tả trâu bò qua thỏ hoặc qua lợn, vacxin nhược độc dịch tảlợn qua thỏ hoặc qua bê), tiếp đời qua thai trứng (vacxin Newcastle, vacxin dịch tảvịt, vacxin đậu gà). Một số vacxin được chế từ các chủng mầm bệnh nhược độc tựnhiên (vacxin Newcastle V4 chịu nhiệt, vacxin bệnh Marek).

- Vacxin vô hoạt là chế phẩm sinh học từ vi khuẩn, virut mầm bệnh đã bịgiết chết bằng các tác nhân vật lý như tia cực tím, các chất hóa học như axitphenic, formol, crystal violet,... (Vacxin ung khí thán cũng như các vacxin tụ huyết

8

</div>

×