Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.88 MB, 228 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
<small>Chuyên ngành: Ly luận va lich sử nha nước và pháp luật</small>Mã số 62.38.01.01
NGƯỜI HƯỚNG DAN KHOA HOC
<small>1. PGS. TS. Nguyén Minh Doan</small>
2. TS. Nguyễn Quốc Hoan
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là kết quảnghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu trong luận án làtrung thực, những kết luận khoa học của luận án là kết quả<small>của quá trình nghiên cứu độc lập và chưa được người kháccông bô.</small>
<small>Tháng 9 năm 2012</small>
TÁC GIÁ LUẬN ÁN
<small>Nguyễn Văn Năm</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>3.1.3.1.1.3.1.2.Buc laehe3.1.4.3.2.3.3.3.3.1.3.3.2.3;</small>
MỤC LỤC
Chương 1: TONG QUAN VE ĐÈ TÀITính cấp thiết của dé tài
Tình hình nghiên cứu đề tài
<small>Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứuPhương pháp luận và phương pháp nghiên cứu</small>
Những đóng góp mới về khoa học của luận án.Y nghia khoa hoc va thuc tiễn của luận án.
Kết cầu của luận án
Chương 2: ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT - NHỮNG CÔNG
CỤ QUAN TRONG TRONG DIEU CHINH QUAN HỆ XÃ<small>HOI</small>
Pháp luật và vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội
Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và đạo đức
Chương 3: NHỮNG VAN ĐÈ LÝ LUẬN CƠ BAN VE
QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONGDIEU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYEN<small>VIỆT NAM</small>
Những vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ giữa pháp luật và đạo
<small>Khái niệm quan hệ giữa pháp luật và đạo đức</small>
Bản chất của quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
<small>Nội dung của quan hệ giữa pháp luật và đạo đức</small>
Hình thức thê hiện quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Những yếu tổ ảnh hưởng đến quan hệ giữa pháp luật và đạo đứcẢnh hưởng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đến quan
<small>hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Việt Nam</small>
Tất yếu khách quan của viêc xây dựng nhà nước pháp quyền
<small>595963677882919196104</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>hệ giữa pháp luật va đạo đức ở Việt Nam</small>
Những đặc điểm cơ bản của quan hệ giữa pháp luật và đạo đứctrong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
Chương 4: THỰC TRẠNG QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬTVÀ ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Những điểm tích cực chủ yếuNhững hạn chế, tồn tại
Chương 5: QUAN DIEM VÀ GIẢI PHÁP KET HỢP PHAP
LUẬT VỚI ĐẠO ĐỨC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUÁ
DIEU CHỈNH QUAN HỆ XA HỘI TRONG DIEU KIỆNXAY DUNG NHA NUOC PHAP QUYEN VIET NAM<small>HIEN NAY</small>
Những quan điểm cơ bản chi đạo việc kết hop giữa pháp luật
<small>với đạo đức</small>
Những giải pháp cơ bản kết hợp pháp luật với đạo đức nhằmnâng cao hiệu quả điều chỉnh quan hệ xã hội trong điều kiện xâydựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BĨ CỦA
TÁC GIÁ
<small>PHỤ LỤC</small>
<small>183</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Chương 1: TONG QUAN VE DE TÀI
1.1. Tinh cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Điều chỉnh hành vi con người, xã hội có nhiều cơng cụ khác nhau, trong đó,pháp luật và đạo đức là những công cụ quan trọng bậc nhất. Bên cạnh những ưu thếvốn có, cả pháp luật và đạo đức đều có những hạn chế nhất định, song giữa chúngln có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại, bố sung cho nhau. Chính vì vậy, déquản lý xã hội một cách có hiệu quả, cần phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa pháp
<small>luật với đạo đức.</small>
cũng như mối quan hệ giữa chúng nhìn chung chưa được nhận thức một cách đúngđăn, đầy đủ cả từ phía nhà nước, cả từ phía xã hội. Trong cơ chế kinh tế cũ, nhậnthức về pháp luật có hai khuynh hướng, hoặc quá đề cao pháp luật, coi pháp luật làcơng cụ vạn năng có thể xác lập hay xóa bỏ một quan hệ xã hội nào đó một cáchduy ý chí; hoặc lại hạ thấp vai trò của pháp luật, dẫn đến sử dụng mệnh lệnh hànhchính, các quan niệm dao đức mới như tinh thần làm chủ tập thể, mỗi người vì mọingười... dé thay thé cho pháp luật. Trong khi đó, trong một thời gian dài trước đây,do nhận thức ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa xã hội, nên đã không thấy hết được vaitrò, giá trị to lớn của truyền thống, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thậm
độ cũ cần phải loại bỏ. Lối suy nghĩ, tư duy và hành động đó cịn ảnh hưởng khơngnhỏ trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay. Điều này dẫn đến, trong thực tiễn,việc sử dụng pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội còn nhiều hạn chế, một mặt,những ưu thế vốn có của pháp luật cũng như đạo đức không được phát huy hết, mặtkhác, sự tác động bổ sung cho nhau giữa chúng cũng không khai thác được, chínhvì vậy, hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của cả pháp luật và đạo đức đều chưa
Hién pháp năm 1992, được sua đôi, bố sung năm 2001 đã qui định: “Nhànước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyên xã hội chủnghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ”. Xây dựng nhà nước pháp quyền đã
<small>trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước và toàn xã hội. Trong</small>
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật được đặc biệt coi trọng, giữ vaitrò thống tri trong đời song nhà nước va xã hội, mọi cá nhân, tô chức trong xã hộikể cả nhà nước đều phải thượng tôn pháp luật, chấp pháp nghiêm chỉnh. Tuy nhiên,Việt Nam là một quốc gia Á Đông, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc bởi Nho giáo, sự coitrọng đạo lý, ứng xử theo đạo lý đã trở thành truyền thống của dân tộc. Truyền
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">thống đó ăn sâu, bám chắc trong tâm lý xã hội, nó cố kết chặt chẽ trong tư duy conngười. Có thể nói, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, thói quen xử sự theo đạo lývẫn cịn “ngự trị” trong lỗi sống của khơng ít người, ngược lại, thói quen xử sự theopháp luật vẫn chưa được hình thành. Trong điều kiện đó, việc xây dựng nhà nướcpháp quyền ở nước ta hiện nay gặp khơng ít khó khăn.
Qua may chục năm tiễn hành cơng cuộc cải cách, xây dựng nền kinh tế thịtrường định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống xã hội đã có sự phát triển vượt bậc.Tuy nhiên, cùng với nó, mặt trái của nên kinh tế thi trường và việc hợp tác, hội nhập
quốc tế cũng gây ra khơng ít phức tạp, đó là sự coi thường các giá trị truyền thống,
lỗi sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, chạy theo đồng tiền, đặt vật chất, tiền bạc lên trênhết, tìm kiếm lợi nhuận băng mọi cách... Sự xuống cấp của đạo đức xã hội đã gây
của xã hội, làm xã hội van động, phat triển một cách không lành mạnh, thiếu vữngchắc.
Do vậy, phát triển kinh tế phải đi đôi với đảm bảo tiễn bộ, cơng bằng xã hội,giải quyết hài hịa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Phát triển kinh tế phải điđôi với xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giữ gìn và pháthuy các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
<small>Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hợp tác, hội nhập sâu rộng vào đời</small>
sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội quốc tế. Bản lĩnh, sự tự tin cũng như sựthành công trong các quan hệ quốc tế phụ thuộc khá lớn vào nền tảng văn hóaphong phú và đặc sắc của dân tộc. Mở cửa, hợp tác, hội nhập quốc tế ngày càng sâurộng thì ảnh hưởng của điều kiện quốc tế đến đời sống kinh tế - xã hội trong nước
<small>ngày càng lớn, trong đó, bên cạnh những ảnh hướng tích cực, cũng có khơng it</small>
những ảnh hưởng tiêu cực. “Mở cửa ra, gió mát lùa vào thì ruồi muỗi cũng bayvào”. Chính vì vậy, cần phải có những rào cản hữu hiệu dé sang loc, tiép thu, hoc
<small>hỏi những tinh hoa văn hóa của các dân tộc, ngăn chan sự anh hưởng cua những</small>
quan điểm, tư tưởng, lỗi sống độc hại... Trong điều kiện đó, các giá trị đạo đứctruyền thống của dân tộc là một màng lọc có hiệu quả nhất, chúng “đóng vai tromàng lọc và điều tiết việc sản sinh, tiếp thu cái mới, nhất là cái mới từ bên ngoài ”,bởi lẽ chúng đã được “sàng lọc, tích lity và kế thừa qua nhiêu thế hệ”, ching đã trởthành “thudn phong, mỹ tục và mang “khí thiêng sơng nui” [123, tr.170,171]. Chínhvì vậy, việc giữ gìn,bảo tồn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
<small>là việc lam có ý nghĩa hét sức to lớn và vơ cùng cân thiết.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Tất cả những phân tích trên đây cho thấy, cần phải nghiên cứu một cách sâu
sắc, toàn diện mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, đặc biệt là mối quan hệ giữa
chúng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, nhằm cóđược những tri thức đúng đắn về vị trí, vai trị, ưu thế cũng như hạn chế của từngyếu tố, sự tác động qua lại, hỗ trợ, bơ sung cho nhau giữa chúng... Trên cơ sở đó,đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Từ đó có cơ sở đề ra những giải pháp
để tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp đạo đức, đảm bảo sự tơnnghiêm của luật pháp, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức, truyền thống, thuần
các quyên, tự do, các lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người.1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
tương đối phức tạp. Liên quan đến đề tài này, có nhiều cơng trình nghiên cứu ởnhững góc độ, mức độ và phạm vi khác nhau. Trong đó, bao gồm các cơng trìnhnhiên cứu về vai trị, giá trị xã hội của đạo đức; các cơng trình nghiên cứu vỀ vaitrò, giá trị xã hội của pháp luật; các cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp
<small>luật với đạo đức.</small>
e Nhóm 1: Các cơng trình nghiên cứu về vai trị của đạo đức
Có thê nói, có khá nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về vai trò của đạođức trong đời sống xã hội. Là một nội dung quan trọng của đạo đức học nên có thênói, tất cả các giáo trình đạo đức học của các cơ sở đào tạo chuyên ngành triết họcđều đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, vì giới hạn ở một giáo trình nên nhìn chung,van dé này được đề cập một cách hết sức khái quát. Cũng có khá nhiều cơng trìnhchun khảo chun sâu nghiên cứu về van đề này, có thé ké ra một số cơng trìnhtiêu biểu sau đây:
Cuốn Máy vấn dé đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiệnnay là một cơng trình được biên soạn bởi một tập thể tác giả do GS.TS Nguyễn
Trọng Chuẩn và PGS.TS Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên. Cơng trình là tập hợp
các bài viết của các tác giả, dé cập đến nhiều van dé, trong đó chủ yêu dé cập vai tròcủa đạo đức trong điều kiện xây dựng nên kinh tế thị trường của nước ta, van đề giữ
gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, vấn đề xây dựng đạo đức trong bối
cảnh phát triển nền kinh tế thị trường. Cuốn Xây dung đạo đức mới trong nên kinhté thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của TS Trinh Duy Huy đề cập một cáchcụ thê hơn về những giải pháp xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">trường ở nước ta hiện nay. Cuốn Mộ số vấn dé về lỗi sống, đạo đức, chuẩn giá trị
xã hội do GS.TSKH Huỳnh Khái Vinh chủ biên, đề cập các vấn đề về vai trò của lối
và phát triển nếp sống, đạo đức và các giá trị truyền thống của dân tộc. Đặc biệt,cuốn sách dành một phân quan trọng phân tích kinh nghiệm và bài học của một sốnước cho Việt Nam trong việc xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội.
Có thể nói, đây là những bài học quí báu cho Việt Nam trong điều kiện hiện nay.Cuốn Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội do PGS Trường Lưu chủ biên, tiếp cận vandé dưới góc độ văn hóa, cuốn sách đã dành những phan nhất định dé cập van dé đạođức, lối sống và vai trò của đạo đức trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Cùng
chung cách tiếp cận này có cuốn Van hóa đạo đức, may van đề lý luận và thực tiễnở Việt Nam của PGS.TS Thanh Duy. Cuốn Anh hưởng của đạo đức phong kiếntrong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay do TS Nguyễn Thê Kiệt chủbiên, cuốn sách tập trung nhận diện những tàn dư của đạo đức phong kiến và ảnhhưởng của nó đến tư duy và hành động của cán bộ, công chức nước ta hiện nay.Cùng chủ dé này có cuốn Anh hưởng của tr tưởng phong kiến đối với con ngườiViệt Nam hiện nay của TS Nguyễn Bình n. Cơng trình dành phan chủ yếu déphân tích những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức phong kiến trong xã hội Việt namhiện nay, đó là tư tưởng địa vị, đăng cấp, bệnh gia trưởng, gia đình chủ nghĩa, cục
<small>bộ, ban vi, trọng nam khinh nữ, coi thường lớp trẻ.... Sách cũng đưa ra những giải</small>
pháp thiết thực nhằm đấu tranh khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đứcphong kiến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
e _ Nhóm 2: Các cơng trình nghiên cứu về vai trò của pháp luật
<small>Vai trò của pháp luật là một nội dung cơ bản của khoa học pháp lý, vì vậy</small>
vấn đề này được đề cập ở tất cả các giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật củacác trường luật, tuy nhiên vấn đề luôn chỉ được đề cập ở mức độ hết sức khái qt.Các cơng trình chun khảo về vấn đề này cũng khá nhiều, có thé ké ra một số cơngtrình tiêu biểu sau đây:
Trước hết đó là cuỗn Vai tro của pháp luật trong đời sống xã hội của TS.Nguyễn Minh Đoan, cuốn sách phân tích khá sâu sắc về vai trò của pháp luật đốivới nhà nước, đối với đời sống kinh tế - xã hội, đối với đường lối, chính sách củaĐảng... Trong cuốn sách này, tác giả đã khang định một cách mạnh mẽ rang, phápluật là công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, công cụ quản lý quan trọng, có hiệuquả nhất, tuy nhiên, nó không phải là công cụ quản lý duy nhất, công cụ quản lý vạnnăng. Cuốn Xây dung và hoàn thiện hệ thông pháp luật Việt Nam, những van dé ly
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">luận và thực tiên của PGS.TS Lê Minh Tâm đề cập giá trị xã hội của pháp luật.Sách phân tích và luận giải khá sâu sắc dé khang định rằng, pháp luật là sự biểuhiện của văn minh và văn hóa; là cơ sở dé đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội,
bảo đảm cơng bằng, bình đăng trong xã hội, là nhân tố quan trọng bảo đảm sự pháttriển bền vững của xã hội. Cuốn Pháp luật, lỗi sống và văn hóa cơng sở của
PGS.TS. Nguyễn Minh Doan đề cập đến các van dé về lối sống theo pháp luật và
những vấn đề ảnh hưởng đến lối sống theo pháp luật ở nước ta hiện nay. Sách cũngđề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng lối sống theo pháp luật ở nướcta trong giai đoạn hiện nay. Cuốn Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành
nhân cách con người của TS. Nguyễn Đình Đặng Lục, sách tập trung phân tích vai
<small>trị của pháp luật trong việc hình thành nhân cách người chưa thành niên, qua đó</small>
sách đề cập đến nội dung, hình thức, phương tiện giáo dục pháp luật cho người chưa
<small>thành niên.</small>
e Nhóm 3: Các cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật với
<small>đạo đức, trong đó:</small>
<small>Một là: Các giáo trình luật học, dao đức hoc</small>
Có thể nói, các giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào tạoluật, giáo trình dao đức hoc của các cơ sở dao tạo chuyên ngành triết học đều đề cậptới vấn đề này. Tuy nhiên, hầu hết các giáo trình này đều chỉ đề cập vẫn đề này mộtcách rất khái quát, sơ lược.
<small>Hai là: Cac bài bao, tạp chi</small>
<small>Trên các tạp chí chuyên ngành như Nha nước và pháp luật, Nghiên cứu lap</small>
pháp, Luật học, Triết học... có khá nhiều cơng trình của các tác giả dé cập tới van dénay. Tác giả HoangThi Kim Qué có hàng loạt bài nghiên cứu về mỗi quan hệ giữapháp luật và dao đức: Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức với việc điều chỉnhhành vi con người trong quản lý xã hội (Tạp chi Dai học Quốc gia, chuyên đề khoahọc xã hội, số 4/1997); Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đứctrong hệ thong điêu chỉnh xã hội (Tạp chí Nha nước và pháp luật, số 7/1999); Métsố suy nghĩ về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức (Tạp chí Nhà nước vàpháp luật, số 3/2000); Tim hiểu tu tưởng Hơ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạoduc (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2002); Van dé kết hợp quản lý xã hội bangpháp luật với giáo duc nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay (Tap chí Triết học, số12/2002); Những vấn đề hôm nay của pháp luật và đạo đức (Tạp chí Luật học số7/2006)... Tác giả Trần Hậu Thanh có bài viết Moi quan hệ giữa đạo đức và pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">luật (Tap chí Giáo dục lý luận chính trị, số 5/ 1998). Hai tác giả Lê Hồi Thanh vàTrần Hậu Thanh có bài Về quan hệ giữa pháp luật và đạo dic (Tap chí Khoa họcChính trị, số 6/2000). Tác gia Hoang Thị Hạnh có bài Góp phan tìm hiểu mối quan
hệ giữa đạo đức và pháp luật (Diễn đàn thông tin khoa học xã hội). Tác giả Thành
Duy có bài Tu tưởng Hồ Chi Minh và mối quan hệ giữa pháp luật và dao đức, đạođức và lợi ích cơng dân (Tap chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1995)...
Mặc dù đều là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ giữapháp luật với đạo đức, tuy nhiên, với dung lượng hạn chế của một bải tạp chí, nênnhìn chung các tác giả đều dừng lại ở việc phân tích một vài khía cạnh của van dé,khơng có điều kiện để giải quyết tồn diện các khía cạnh của nó.
Ba là: Các đề tài nghiên cứu khoa học
Trước hết là cơng trình nghiên cứu khoa học cấp Dai học Quốc gia của tiếnsĩ Hoang Thị Kim Qué: "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xãhội ở nước ta hiện nay". Cơng trình nghiên cứu khá tồn diện các vấn đề như vị trí,vai trị, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội; tính cấp thiếtkhách quan của việc kết hợp pháp luật, đạo đức trong quản lý xã hội; việc kết hợpgiữa pháp luật với đạo đức trên thực tế trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thé; trêncơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhăm hoàn thiện mối quan hệ giữa phápluật với đạo đức. Tuy nhiên, cơng trình vẫn chưa giải quyết được một cách triệt dénhững van dé lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với dao đức. Mặt khác, nhưchính tác giả chỉ rõ, cơng trình này mới chỉ bước đầu nghiên cứu những biểu hiệnviệc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức ở một số lĩnh vực pháp luật. Tiếp theo làcơng trình nghiên cứu khoa học cấp khoa trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội củaThạc sỹ Nguyễn Quốc Việt với đề tài: “Bảo lưu những giá trị đạo đức truyền thơngtrong q trình hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay”.Cơng trình đềcập đến van dé rất có ý nghĩa trong điều kiện hiện nay của nước ta, đó là việc giữgìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong q trình cảicách, đơi mới, xây dung nha nước pháp quyên, hợp tác và hội nhập quốc tế. Tác giảđã luận giải các van đề như sự cần thiết phải bảo lưu các giá trị đạo đức truyềnthống trong q trình hồn thiện pháp luật; thực trạng bảo lưu các giá trị đạo đứctruyền thong ở nước ta hiện nay... Tác giả cũng đề xuất nhiều giải pháp nhằm bảo
lưu các giá trị đạo đức truyền thống trong q trình hồn thiện hệ thống pháp luật
<small>Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, do giới hạn ở phạm vi một cơng trình nghiên cứu</small>
khoa học cấp cơ sở nên cơng trình này cịn nhiều hạn chế: mét /à, cơng trình chỉ tiếp
<small>cận một khía cạnh rât hẹp của mơi quan hệ giữa pháp luật với đạo đức như tên của</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">cơng trình đã chỉ rõ; hai /à, sự luận giải về sự cần thiết phải bảo lưu các giá trị đạo
đức truyền thống chưa sâu sắc, bởi vậy, sẽ là khó thuyết phục khi tác giả muốn luật
hóa tất cả các giá tri đạo đức truyền thống: ba /à, phương pháp, cách thức bảo lưucác giá trị dao đức truyền thống; các giải pháp nhằm bảo lưu các giá trị đạo đứctruyền thống... trong cơng trình nhìn chung là còn khá đơn giản.
<small>Tại Trường đại học Luật Hà Nội cũng có hai cơng trình nghiên cứu khoa học</small>
cấp trường, đó là cơng trình của TS Nguyễn Minh Đoan với đề tài Những nguyên
tắc của hệ thông pháp luật Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập, trong đó có đềcập nhóm ngun tắc đạo đức; cơng trình của TS Nguyễn Quốc Hồn với đề tàiHành vi pháp luật - Những vấn dé lý luận và thực tiễn, trong đó có đề cập sự tương
<small>quan giữa hành vi pháp luật và hành vi đạo đức...</small>
Cũng cần phải kế đến dé tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp Tập quán vàthực tiễn xét xử trong moi quan hệ với hệ thống pháp luật và thực tiễn pháp luật. Đềtài được thực hiện bởi các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành khoa học pháplý. Để thực hiện dé tài này, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp cóchun dé thơng tin khoa học Méi quan hệ giữa tập tục và pháp luật. Chuyên đề tậphợp bài viết của các tác giả là những người làm công tác thực tiễn tại các địaphương. Chuyên đề cung cấp những thông tin về thực tiễn áp dụng tập quán trongquá trình giải quyết các vụ việc cụ thể xảy ra trong thực tế. Các công trình này tuykhơng trực tiếp đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, nhưng ít nhiềunó đều có liên quan đến dé tài, bởi tập quán và dao đức ln có sự chồng lẫn rấtđáng kể, rất nhiều tập quán trong đời sống hàng ngày là các tập quán đạo đức.
Bắn là: Các đề tài luận văn, luận án
Nhiều luận văn tốt nghiệp đại học, cao học đã giải quyết về vấn đề này. Cóthé kê đến như luận văn thạc sĩ của Hoàng Xuân Châu với đề tài Mối quan hệ giữapháp luật với đạo đức trong nên kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở ViệtNam (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Luận văn đã đề cập những khía cạnh củamỗi quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, nhìn chung còn khá hạn chế.Tác giả luận án này cũng đã có dịp nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạođức ở Việt Nam với dé tài luận văn thạc sỹ Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức
<small>ở Việt Nam hiện nay. Luận văn đã được bảo vệ tháng 5.2003 tại Trường đại học</small>
Luật Hà Nội. Tuy nhiên, như tên đề tài đã chỉ rõ, luận văn không đề cập một cách
cụ thể quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam. Vì giới han ở đề tài luận văn thạc sỹ, cơng trình chưa có điều
<small>kiện phân tích một cách sâu sac, có hệ thơng về vai trò của pháp luật, dao đức trong</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">quản lý xã hội. Phần trình bày về những điểm tương đồng, khác biệt và sự tác động
qua lại giữa pháp luật với đạo đức cũng còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, trong luận văn,
tác giả không chỉ ra được những yếu tô ảnh hưởng đến quan hệ giữa pháp luật với
<small>đạo đức, làm cho quan hệ giữa chúng trong những không gian, thời gian khác nhau</small>
trở nên khác nhau. Vì vậy, luận văn khơng chỉ ra đặc thù của môi quan hệ giữa phápluật với đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Luận
văn cũng chưa có điều kiện luận giải về sự cần thiết phải kết hợp giữa pháp luật vớiđạo đức trong quản lý xã hội, do đó, đề tài khơng có cơ sở lý luận dé đề xuất các
giải pháp kết hợp chặt chẽ, hài hòa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội ởViệt Nam. Tác gia Nguyễn Thúy Hoa có luận văn thạc sĩ với đề tài Két hợp pháp
<small>luật và đạo đức trong quan ly nhà nước ở Việt Nam hiện nay (Học viện Chính tri</small>
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006). Luận văn luận giải tính tất yếu của việc kết hợp phápluật và đạo đức trong quản lý nhà nước; nội dung kết hợp; thực trạng kết hợp vàmột số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp pháp luật với đạo đứctrong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, tồn bộ phần nội dung
<small>chính của luận văn có 103 trang thì có tới khoảng 50 trang là sự sao chép từ luận</small>
văn thạc si Moi quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam hiện nay của
Nguyễn Văn Năm đã bảo vệ tại trường Đại học Luật Hà Nội năm 2003.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong tư tưởng Hồ ChíMinh có luận văn thạc sĩ của Lương Hồng Quang với đề tài Tu tưởng Hồ Chí Minhvề kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội (Học viện Chính trị quốc giaHồ Chi Minh, 2002), luận văn thạc sĩ của Tạ Thi Thu Đơng với đề tài Tir trong HồChí Minh về đạo đức và pháp luật (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010). Những đề tàinàyđề cập một cách khá sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức vàpháp luật; mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Cácluận văn đều phân tích khá sâu sắc các quan điểm, tư tưởng của Hồ Chủ tịch vàkhang định, dao đức là gốc, là cơ sở để xây dựng pháp luật tiến bộ, là nhân tố đảm
bảo việc thực hiện pháp luật, là công cụ hỗ trợ cho pháp luật trong việc giữ gìn trật
xã hội, thuần phong mỹ tục của dân tộc; ngược lại, pháp luật cũng có tác động mạnhmẽ đến đạo đức. Pháp luật ghi nhận và đảm bảo về mặt pháp lý các chuẩn mực đạođức, là công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho cái thiện đấu tranh thắng cái ác, tạo điều kiện đểcác giá trị đạo đức phát triển bền vững. Chính vì vậy, luận văn khăng định, cần phảicó sự kết hợp chặt chẽ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội. Có thể nói,
các luận văn đều đã đề cập trực diện nhiều khía cạnh trong mối quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức. Tuy nhiên, vì giới hạn nghiên cứu trong phạm vi tư tưởng Hồ Chí
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Minh nên khơng có điều kiện giải quyết một cách tồn điện mọi khía cạnh của mốiquan hệ này, nhiều vấn đề tác giả có đề cập, nhưng phân tích chưa thực sự sâu sắc.
Cũng cần kế đến luận văn thạc sĩ của Bùi Sĩ Hoàn với đề tài Moi quan hệgiữa pháp luật với phong tục tập quan; luận án tiễn sĩ của Trương Tiến Hưng vớiđề tài Vận dụng luật tục dân tộc Chăm trong quản lý người Chăm của chính quyêncơ sở ở tỉnh Ninh Thuận. Những cơng trình này tuy khơng trực tiếp giải quyết vấnđề quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, như vừa đề cập, giữa pháp luật,
đạo đức và tập qn ln có sự chồng lấn với nhau, bởi vậy, thông qua sự tác động
qua lại giữa pháp luật với tập qn, luật tục, chúng ta cũng có thé hình dung phannào mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Luận án tiến sĩ của Trương Tiến Hưngđề cập đến van dé vận dụng luật tục vào quản lý nhà nước, Luận án đã đề cập đếnnhững yêu cầu, nguyên tắc vận dụng luật tục trong hoạt động quản lý nhà nước củachính quyền cấp cơ sở tỉnh Ninh Thuận. Luận án đã chỉ rõ, luật tục, đạo đức, phongtục, tập qn... ln có sự chồng lan với nhau, khó ma phân biệt rạch rịi; luật tụcln chứa đựng những tiêu chí về dao đức, luân lý... Do vậy, cũng có thé quan niệm
hàm trong đó sự vận dụng các chuẩn mực đạo đức. Tuy nhiên, như tên đề tài đã chỉrõ, luận án chỉ tập trung đề cập sự vận dụng luật tục của người Cham, trong phạm vi
<small>tinh Ninh Thuận, vì vậy, luận án khơng khái qt cho mọi trường hợp áp dụng luậttục nói chung trên phạm vi cả nước.</small>
<small>Năm là: Các cơng trình chun khảo</small>
Cơng trình của TS Pham Duy Nghĩa Pháp luật và những nhân tổ tích cựccủa Nho giáo. Sách đề cập đến hệ tư tưởng Nho giáo, một hệ tư tưởng đạo đức cóảnh hưởng sâu sắc trong xã hội Việt Nam và các nước A đông, hệ tư tưởng dao đứclay chữ “øhán” làm nên tảng. Trên cơ sở phân tích những nhân tố tích cực của Nhogiáo, tác giả khăng định pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng ý chí của nhândân, phản ánh nguyện vọng lợi ich của nhân dân, “gần với nhu cẩu, mong ước vatiếng nói của nhân dân ” - những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo. Cơng trình của GSVũ Khiêu và PGS Thành Duy: Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở ViệtNam. Sách do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành, dé cập đến van đề pháp luậtvà đạo đức ở Việt Nam một cách tương đối tồn diện, theo tiến trình lịch sử của sựphát triển. Sách tập trung phân tích những nét đặc trưng của đạo đức và pháp luậttrong triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam, “thir triét lý được hình thành từ lâuđời trong lich sử dân tộc và dang biến đổi do tác động của các nhân tô phát triển
của xã hội hơm nay” [56, tr.6]. Có thé nói, trong từng chương của cuốn sách đều đã
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">đề cập đến vị trí, vai trị của đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển của dân
tộc qua các giai đoạn lịch sử của nó. Tuy nhiên, do tiếp cận van đề từ góc độ triết
học, cuốn sách hầu như không đề cập một cách cụ thé vai trò của dao đức và phápluật trong quản lý xã hội. Cuốn sách hầu như không cung cấp cho bạn đọc nhữngthông tin về sự giống, khác nhau cũng như sự tương tác giữa pháp luật với đạo đức.Tác giả Phan Văn Tỉnh cũng có cơng trình nghiên cứu Dao đức truyền thống của
<small>dan tộc là môi trường thuận lợi của việc thực hiện pháp luật trong sách Xã hội và</small>pháp luật. Cơng trình tiếp cận vấn đề trên khía cạnh vai trị của đạo đức truyền
Nghiên cứu đề tài nay, tác giả không thé khơng tim đến cơng trình củaPGS.TS Hoang Thị Kim Q: “Pháp luật và dao dic” do Nhà xuất bản Chính trịQuốc gia ấn hành năm 2007. Có thé nói, đây là cơng trình nghiên cứu khá đồ sé vềpháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Với dung lượng hơn 500trang sách, cơng trình đã đề cập một cách khá toàn diện các vấn đề như vị trí, vai trịcủa pháp luật và đạo đức trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội; sựthống nhất, sự khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức. Cơng
<small>trình nghiên cứu cũng giới thiệu cho người đọc những nội dung cơ bản trong tư</small>
tưởng pháp luật và đạo đức ở phương Đông, phương Tây. Cuốn sách cũng giớithiệu với bạn đọc thực trạng đạo đức, pháp luật trong điều kiện nền kinh tế thịtrường ở nước ta hiện nay. Qua đó, cuốn sách đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăngcường quản lý xã hội bang pháp luật kết hợp giáo dục thực hành đạo đức trong điềukiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đọc sách, chúng tathấy tác giả đề cập khá toàn diện các vấn đề xung quanh mối quan hệ giữa pháp luậtvới dao đức. Tuy nhiên, nhiều van dé tác giả đề cập ở mức độ chung, mang tínhkhái quát. Chang han, vai trò của pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội được tácgiả đề cập một cách tương đối khái quát mà chưa đi sâu phân tích từng vai trị cụthé của chúng. Một số khía cạnh trong sự tương đồng, khác biệt, hay sự tác độngqua lại giữa pháp luật với đạo đức cũng chưa được tác giả phân tích chi tiết. Dacbiệt, tác giả khơng luận giải các u tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhận thứccủa con người... ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, chính vìvậy, khơng có cơ sở dé phân tích mối quan hệ này trong điều kiện cụ thể xây dựngNhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Cơng trình cũng chưa có sự khảo sát,đánh giá trên thực tế về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở nước ta trong
<small>điêu kiện hiện nay.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Tóm lại, các cơng trình trên đây đều đã đề cập đến những khía cạnh khácnhau xung quanh mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, chưa có cơngtrình nào tiếp cận mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựngnhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Vì giới hạn ở những cấp độ khác nhau,phạm vi tiếp cận khác nhau... nên nhìn chung các cơng trình được đề cập trên đâyvẫn cịn những hạn chế nhất định. Liên quan đến vấn đề mối quan hệ giữa pháp luật
với đạo đức còn rất nhiều vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ.
Chăng hạn, vai trò của pháp luật cũng như đạo đức trong việc điều chỉnh các mốiquan hệ xã hội; những yếu tô ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa pháp luật với daođức; tính đặc thù của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong các điều kiệnkinh tế - xã hội khác nhau... Đặc biệt, phải làm sáng tỏ những đặc thù của mối quanhệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nướcta, đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Việt Nam hiện nayvà đề xuất các quan điểm, giải pháp kết hợp pháp luật với đạo đức nhằm nâng caohiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước phápquyền Việt Nam hiện nay...
<small>1.3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án</small>
<small>Mục dích nghiên cứu</small>
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với đạođức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam,
- Xây dựng cơ sở cho việc đánh giá thực trạng mỗi quan hệ giữa pháp luật
<small>với đạo đức ở Việt Nam hiện nay.</small>
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp kết hợp pháp luật và đạo đức nhằm nângcao hiệu quả điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nướcpháp quyền Việt Nam hiện nay.
<small>Nhiệm vụ của luận án</small>
<small>- Phân tích vai trị của pháp luật và đạo đức; phân tích một cách tồn diện</small>
những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và dao đức;
- Phân tích sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức; những yếu tố ảnhhưởng đến mỗi quan hệ giữa chúng, đặc biệt sự ảnh hưởng của việc xây dựng nhànước pháp quyền ở Việt Nam đến mối quan hệ giữa chúng.
- Nghiên cứu thực trạng mỗi quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điềukiện xây dựng nhà nước pháp quyên ở Việt Nam hiện nay, chỉ rõ những điểm tíchcực cần phát huy, đồng thời chỉ rõ những hạn chế, khiếm khuyết của mối quan hệnảy cũng như những ngun nhân dẫn đến tình trạng đó.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">- Đề xuất các quan điểm, giải pháp kết hợp pháp luật và đạo đức nhằm nâng
cao hiệu quả điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay.
một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
- Nghiên cứu thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong thờigian từ sau khi tiễn hành đổi mới, đặc biệt từ sau khi có sự sửa đơi, bố sung một SỐđiều của Hiến pháp năm 1992 về việc xây dựng nhà nước pháp quyên, có lưu ý đếnviệc tiếp thu kinh nghiệm xử lý mối quan hệ này trong lịch sử dân tộc.
<small>1.4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu</small>
<small>Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa</small>
Mac- Lénin, vận dụng triệt dé các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng vàchủ nghĩa duy vật lịch sử như quan điểm về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng vớikiến trúc thượng tầng, quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, quan hệ giữa
<small>các hình thái ý thức xã hội...</small>
Luận án cũng được tiến hành trên cơ sở quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủtịch Hồ Chí Minh về vai trị của pháp luật, đạo đức, sự kết hợp giữa pháp luật vớiđạo đức trong quản lý xã hội, đặc biệt là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chi Minh về vaitrò của đạo đức đối với việc hoàn thiện nhân cách, phẩm chất con người.
Luận án cũng được tiến hành trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm,
Luận án được thực hiện dựa trên cách tiếp cận:
- Cách tiếp cận giá trị: coi đạo đức và pháp luật là những giá trị xã hội, chúng có tácdụng to lớn trong đời sống con người.
- Cách tiếp cận liên ngành: đề tài được nghiên cứu với sự phối kết hợp của nhiềungành khoa học khác nhau như Luật học, Triết học, Sử học, Xã hội học.
- Cách tiếp cận đồng đại, lịch đại: pháp luật và đạo đức luôn được xem xét đồng đại,
<small>đông thời cũng được xem xét theo sự biên đôi qua các giai đoạn lịch sử của chúng.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">- Cách tiếp cận thực tiễn: Đề tài được nghiên cứu gắn với thực tiễn xây dựng nhànước pháp quyền Việt Nam. Các luận cứ khoa học được nghiên cứu cả từ góc độ lýluận và thơng qua điều tra dư luận xã hội.
Tác giả đã vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, phươngpháp duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thé như phân tích và tổng hợp, giảithích, so sánh, tong kết thực tiễn... dé lý giải các van dé đã được đặt ra
1.5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là cơng trình nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về mối quan hệgiữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dung nhà nước pháp quyền Việt Namhiện nay. Luận án có những đóng góp mới về khoa học sau đây:
- Một là, phân tích tồn diện, sâu sắc vai trị của đạo đức, pháp luật trong đời sốngxã hội. Với cách nhìn mới, luận án đã góp phần hồn thiện lý luận về vai trò củapháp luật và đạo đức trong đời sống xã hội.
<small>- Hai là, xây dựng được khái niệm quan hệ giữa pháp luật và đạo đức; phân tích sâu</small>
sắc ban chất, hình thức, phương pháp thé hiện và xu hướng vận động của mối quan
<small>hệ giữa chúng.</small>
- Ba là, luận giải những ảnh hưởng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đếnmối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Việt Nam cũng như chỉ rõ những đặc điểmcơ bản của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhànước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
- Bốn là, phân tích một cách sâu sắc và toàn điện những thành tựu cũng như hạnchế của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở nước ta hiện nay. Luận án là cơngtrình qn xuyến tồn bộ thực trạng quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở nước ta
<small>hiện nay.</small>
- Năm là, đề xuất được những quan điểm cơ bản chỉ đạo việc kết hợp pháp luật vàđạo đức, cũng như những giải pháp rất thiết thực và khả thi nhằm kết hợp chặt chẽpháp luật và đạo đức để quản lý xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nước phápquyền Việt Nam. Các giải pháp được đề xuất không chỉ có ý nghĩa trong giai đoạnhiện nay mà cịn có ý nghĩa sâu sắc về lâu dài như: đổi mới nhận thức vai trò củapháp luật và đạo đức; tiếp thu kinh nghiệm của dân tộc và các nước; đổi mới tư duyxây dựng pháp luật; thay đổi tư duy về một số biện pháp chế tài; coi trọng việc xâydựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp; lồng ghép giáo dục pháp luật, đạo đức trong
<small>gia đình, nhà trường; tăng cường cơng tác hịa giải ở cơ sở; coi trọng khía cạnh giáo</small>
dục cải tạo khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước...
<small>1.6. Y nghĩa khoa hoc và thực tiễn của luận án</small>
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phan bồ sung, hồn thiện va làm sâu sắcnhững vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, qua đó góp phần
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">phát triển, hoàn thiện những tri thức lý luận về nhà nước pháp luật nói riêng, Luật
<small>học, Đạo đức học nói chung...</small>
<small>Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu và giảng dạy</small>
khoa học pháp lý cũng như các nhà hoạt động thực tiễn.
Các giải pháp mà luận án đề xuất góp phân hồn thiện chính sách về kế thừavà phát huy các giá trị đạo đức truyền thông của dân tộc trong quản lý xã hội trong
điều kiện hiện nay. Nó cũng góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật, trọng tâm là
pháp luật về các lĩnh vực hôn nhân, gia đình, dân sự, hình sự, văn hóa, xã hội, cán
<small>bộ, công chức, viên chức...</small>
Các giải pháp mà luận án đưa ra có giá trị tham khảo đối với các cơ quan cóthâm qun trong q trình tơ chức thực hiện, bảo vệ pháp luật.
1.7. Kết cầu của luận án
Luận án được kết cau 5 chương:Chương 1: Tổng quan về đề tài
Chương 2: Đạo đức và pháp luật - những công cụ quan trọng trong điều
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><small>Chương 2</small>
ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT - NHỮNG CÔNG CỤ QUAN TRỌNG
TRONG DIEU CHÍNH QUAN HE XÃ HỘI
Đề quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội, có nhiều cơng cụ khácnhau như pháp luật, đạo đức, phong tục tập qn, tín điều tơn giáo, lệ làng, hươngước, qui tắc của các cộng đồng dân cư, tổ chức xã hội... Trong đó, pháp luật và đạođức là những cơng cụ quan trọng nhất, nó khơng chỉ điều chỉnh hầu hết các quan hệxã hội cơ bản, quan trọng, chủ yếu của đời song xã hội ma cịn có tác động mạnh
mẽ đến cả các công cụ điều chỉnh khác. Dé tìm hiểu mối quan hệ giữa pháp luật vớiđạo đức, trước hết cần làm sáng tỏ vai trò của từng yếu tô trong đời sống xã hội.
2.1. Pháp luật và vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội
Pháp luật đã xuất hiện và tồn tại trong đời sống xã hội từ hàng nghìn năm,tuy nhiên, qua các thời kỳ lịch sử, do điều kiện, hoàn cảnh, năng lực nhận thức, nhucầu, mục đích, lợi ích... khác nhau, nên nhận thức về pháp luật khơng hồn tồnthống nhất.
Trong lịch sử, trên thế giới đã từng tồn tại nhiều trường phái quan điểm khácnhau về pháp luật như trường phái pháp luật tự nhiên, trường phái pháp luật thựcđịnh, trường phái xã hội học pháp luật... Bên cạnh những luận điểm hợp lý, có giátrị, các trường phái này đều chưa thoát khỏi những vướng mắc, hạn chế nhất định.Cũng như ở các nước trên thế giới, ở Việt Nam hiện nay, pháp luật được hiểu theonhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa hẹp, pháp luật thường được hiểu là hệ thống quitắc xử sự mang tinh bắt buộc chung do nhà nước ban hành dé điều chỉnh các quanhệ xã hội [113, tr.66; 51, tr.288]. Đây là cách hiểu đã trở thành truyền thống và hếtsức phổ biến trong các cơ sở đào tạo, nghiên cứu luật học ở Việt Nam cho đến thờiđiểm hiện nay. Mở rộng hơn, pháp luật được hiểu là “tong thé các qui tắc xử sự vàcác nguyên tắc, định hướng, mục đích pháp luật, do các cơ quan nhà nước có thẩmquyên ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước và phản ánhnhững nhu câu xã hội khách quan, điển hình, phổ biến để diéu chỉnh các quan hệ xãhội trên tat cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ” [102, tr.11]. Nhu vậy, theo nhữngcách hiểu này, pháp luật được hiểu đồng nhất với pháp luật thực định, pháp luật đólà những gì do nhà nước ban hành dé điều chỉnh các quan hệ xã hội, quản lý xã hội.Tuy nhiên, “pháp luật hiện hành (thực định) chỉ là một phân và thường là xơ cứng;hoạt động của các nhà lập pháp và của thẩm phán cũng là những sự kiện xã hội và
<small>an lệ là một bộ phận quan trọng cua pháp luát ” [102, tr.6].</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Thiết nghĩ, trong điều kiện ngày nay, nghiên cứu về pháp luật cần phải tiếpcận theo hướng mở, tức là, chắt lọc, kế thừa những hạt nhân hợp lý của tất cả các lýthuyết về pháp luật trong lịch sử. “Can chu trọng pháp luật thực định, pháp luậtphải phù hợp lý trí, cơng bằng, với các quyên tự nhiên của con người, pháp luậtphải được kiểm nghiệm từ trong thực tiễn, đồng thời cũng nên luôn hướng tới phápluật lý tưởng ” [92, tr.10]. Nói một cách cụ thé hơn, khi nghiên cứu và tìm hiểu phápluật, khơng chỉ đóng khung trong hệ thống pháp luật thực định của nhà nước, mà
cần phải “nghiên cứu đánh giá cả dau vào, dau ra, cả pháp luật ở trạng thái tĩnh vàtrạng thái động của pháp luật” [92, tr.11]. Bởi 18, “pháp luật ton tại và phát triển
trên cả ba lĩnh vực: hệ thống qui phạm pháp luật, tư tưởng pháp luật, ý thức phápluật và văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp luật (trong các hình thức thực hiện phápluật, các quan hệ pháp luật...) ” [92, tr.11; 121, tr.294-297]. Tiếp cận theo cách này,
qua hoạt động của nhà lập pháp, pháp luật được hình thành, chúng được thé hiện
<small>trong những hình thức xác định, và từ trong những hình thức đó, chúng lại đi vào</small>
thực tiễn đời sống thơng qua hành vi của con người. Tóm lại, pháp luật cần đượcnhận thức cả từ góc độ ý thức (ý thức pháp luật), cả từ góc độ thê chế (hệ thống
pháp luật thực định), cả từ góc độ thực tiễn (việc thực hiện và áp dụng pháp luật).
Mặc dù có thể được quan niệm một cách khác nhau qua các thời đại, các khu
vực, các dân tộc, nhưng nhìn chung, pháp luật vẫn luôn được xác định là công cụ
không thê thiếu, cơng cụ quan trọng nhất, có hiệu quả nhất dé điều chỉnh hành vicon người trong các mối quan hệ xã hội, tổ chức và quản lý đời sống xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac - Lénin, sự ra đời, ton tại của pháp luậttrong đời sống xã hội là một tất yếu khách quan. Trong điều kiện mông muội, dãman của xã hội nguyên thủy, người ta tiến hành sản xuất kiếm ăn chung và phânphối bình qn, lợi ích của mọi người là hồn tồn như nhau, xã hội khơng có kẻgiàu, người nghèo. Dé quản ly một xã hội có sự đồng nhất về mặt lợi ích như thé,con người đã biết đến đạo đức, phong tục tập qn, các tín điều tơn giáo... Khi xãhội phát triển lên một trình độ cao hơn, chế độ sở hữu tư nhân xuất hiện, xã hội
<small>phân hóa thành kẻ giàu, người nghẻo, lợi ích của các thành viên trong xã hội trở nên</small>
khác nhau, thậm chí đối lập nhau, sự tranh giành quyền lợi vì thế là một điều khó cóthê tránh khỏi. Xã hội trở thành ban loạn, đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tơngiáo... khơng cịn phát huy vai trị giữ gìn 6n định, trật tự xã hội như trước kia.Trong bối cảnh đó, pháp luật với những ưu thế riêng có của nó đã từng bước xuấthiện, đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội. Pháp luật xuất hiện một cách hoàn
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>toàn khách quan, sự ra đời của pháp luật hoàn toàn là một quá trình lịch sử tự nhiên.</small>Nó ra đời và tồn tại là do yêu cầu, đòi hỏi tự thân của đời sống xã hội, khi xã hội đã
vượt qua thời đại mông muội, dã man, bước vao thời đại văn minh. Sự ra đời và tồntại của pháp luật trong điều kiện đạo đức, phong tục tập quán, các qui phạm xã hộikhác vẫn song song tơn tại, điều đó chứng tỏ sự cần thiết của nó đối với đời sống xãhội, chứng tỏ pháp luật là công cụ không thê thiếu [26, tr.7], công cụ quan trọng
nhất trong quản lý xã hội. Đặc biệt, trong điều kiện đời sống xã hội ngày càng trở
pháp luật càng trở nên cần thiết, tất yếu. “Một nhà nước khơng thể dé một ngày
khơng có pháp luật” [72, tr.159], bởi vì, nêu tình trạng khơng có pháp luật xảy ra,
<small>cho nhà nước, tạo cho nhà nước tư cách và khả năng cai quản xã hội. Sự hợp pháp</small>
khơng chỉ có ý nghĩa đối với bản thân chính quyền mà cịn có ý nghĩa chi phốimạnh mẽ đối với cả những lực lượng chống đối chính qun, nhiều khi nó cịn cókhả năng ngăn cản các âm mưu chính biến. Bởi vì, chính quyền giành được bằngcác biện pháp trái pháp luật là khơng “chính danh”, một khi “danh bat chính” sẽ dẫnđến “ngơn bất thuận”, chính quyền đó khó có thể đủ tư cách cai quản xã hội. Chínhvì vậy, ngay từ hàng nghìn năm trước, các chính quyền nhà nước cho dù được tạonên bằng con đường nao thì sự tồn tại của nó đều cần đến một sự hợp pháp. Trong
“Than Mácdúc ra lệnh cho trâm thống tri mn dan” [79, tr.302-303]. Các vịhồng dé phong kiến Trung Quốc khi ban hành pháp luật đều viện dẫn đến mệnhtrời: “phụng thiên thừa vận”. Trong điều kiện của xã hội dân chủ, nhà nước là donhân dân thiết lập ra, “các chính phủ phải được thành lập gơm những người lấyngn gốc qun lực chính đáng của minh từ sự nhất trí của nhân dân”, “thay mặtvà được sự uy quyên của những người dân lương thiện” [38, tr.9,14], sự tồn tại vàhoạt động của nhà nước phải trên cơ sở và trong khuôn khổ của hiến pháp, văn bảnthê hiện tập trung ý chí của nhân dân. Ngày nay, trên thực tế, sau những cuộc đấutranh giành chính qun, lực lượng nào giành được chính quyền cũng ln tìm cách
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">hợp pháp hóa sự tồn tại của chính quyền đó băng cách tổ chức bau cử quốc hội,
soạn thảo hiến pháp và tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở của hiến pháp.
Pháp luật là công cu bảo vệ nhà nước trước sự phản kháng, chong đổi củacác thế lực thù địch. Theo Lênin, “chính quyền là thiên đường”, vì vậy, các lựclượng khơng cầm quyền ln tìm đủ mọi cách hong lật đỗ chính quyền đương thời,giành chính qun về tay mình. Sự chống đối ấy có lúc bùng lên một cách dữ dội,có lúc lại âm y chờ thời. Trong điều kiện đó, pháp luật là cơng cụ sắc bén dé nhanước tự bảo vệ mình. Pháp luật là cơng cụ của giai cấp cầm quyền chống lại sựphản kháng, chống đối của các lực lượng đối lập, thù địch, đảm bảo cho sự tồn tại
vững chắc của chính quyền. Pháp luật là công cụ để ngăn chặn các hành vi coi
thường chính quyền, làm suy giảm uy tín và sức mạnh của chính quyền, chống đối,nhằm lật đồ chính quyền. Nhờ có pháp luật, nhà nước được bảo vệ an tồn, tính tơnnghiêm của chính quyền được nâng cao. Nhờ có pháp luật, các nhân viên nhà nước
chức năng tô chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội. Chính vì vậy, nhìn chungpháp luật của các nhà nước đều qui định các tội chống chính quyền, nhằm lật đồchính quyền là một trong những tội phạm nguy hiểm nhất, bị trừng trị nghiêm khắcnhất.
Pháp luật là cơ sở pháp lý cho tô chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.Dé bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả thì nócần phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở của pháp luật và trong khn khổ củapháp luật. Có thé nói, pháp luật là công cụ quan trọng nhất dé tô chức bộ máy nhànước, qui định con đường hình thành, co cau tô chức, chức năng, nhiệm vụ quyềnhạn của các cơ quan, nhân viên nhà nước, xác lập mối quan hệ công tác giữa các cơ
<small>quan, nhân viên nhà nước với nhau, giữa cơ quan, nhân viên nhà nước với các cá</small>
nhân, tơ chức trong xã hội... Nhờ có pháp luật, việc tô chức bộ máy nhà nước trởnên khoa học, bộ may nhà nước trở nên nhịp nhàng, đồng bộ, tránh được sự chồngchéo, trùng lặp hoặc bỏ trống trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đồng thời, pháp luật là công cụ để nhà nước tô chức và quản lý các lĩnh vựckhác nhau của đời sống xã hội. Quản lý xã hội là công việc khó khăn, phức tạp, địihỏi phải được thực hiện trên cơ sở một hệ thống thể chế rõ ràng, minh bạch. Dướigóc độ này, pháp luật thiết lập khn khô, giới han cho hoạt động của bộ máy nhànước, thiết lập hình thức, phương pháp, nguyên tắc, cách thức hoạt động, giúp cho
các cơ quan, nhân viên nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội một cách dễ<small>dàng, có hiệu quả.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Pháp luật là cơ sở để xây dựng bộ máy công chức, viên chức, nhân viên nhànước “vừa hong, vừa chuyên”. Bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh là ở độingũ nhân viên nhà nước trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất tốt, có năng lực, cókinh nghiệm, tinh thơng nghiệp vụ. Bằng các qui định cụ thể, pháp luật xác định rõquyền hạn và trách nhiệm của mỗi cán bộ, nhân viên nhà nước, xác định rõ nghĩavụ, bổn phận của họ. Qua đó, pháp luật thé hiện vai trị quan trọng trong việc giáodục ý thức trách nhiệm, tỉnh thần, thái độ của đội ngũ cán bộ, nhân viên nhà nướctrong q trình thực thi cơng vụ. Pháp luật là cơ sở dé mỗi cán bộ, nhân viên nhànước rèn luyện ý thức pháp luật, xây dựng lối sông theo pháp luật, ý thức thượngtôn pháp luật, tinh thần “phung công thủ pháp”. Mặt khác, pháp luật là động lựcmạnh mẽ thúc đây các nhân viên nhà nước nỗ lực học tập, hoàn thiện và nâng caotri thức pháp luật, tri thức chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu, địi hỏi của
<small>cơng việc trong cương vi được giao đảm trách.</small>
Pháp luật là cơng cụ quan trọng dé kiểm sốt quyên lực nhà nước. Theoquan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà nước là một thiết chế phải có và hết sứccần thiết trong xã hội có sự phân chia giai cấp. “Nhà nước là rất cần thiết cho cuộcsống của con người. Cho đến hiện nay và một tương lai cho cả sau này con ngườikhông thể sống thiếu nhà nước, trong một trạng thải vô chỉnh phú, ít nhất là chođến khi xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản” [10, tr.25]. Thomas Hopbes, nhà triếthọc nổi tiếng của Anh thế kỷ thứ 17 đã viết “Cuộc sống mà khơng có nhà nước hiệulực để duy trì trật tự thì rất đơn độc, nghèo nàn, đơi bại, tàn bạo và ngắn ngủi `,ông khang định, trong trang thái tự nhiên khơng có nhà nước con người rơi vàotrạng thái hỗn loạn, đó là một “cuộc chiến con người chong lại con người”. Tuynhiên, “chung ta cũng can phải nhận ra rằng nhà nước ln ln có xu hướng lạmquyên ” [10, tr.25], xâm phạm các quyền con người, các giá trị con người, điều màMác gọi là sự tha hóa của nhà nước. “Tham những, độc tài, chuyên chế trở thànhnhững bệnh chung của mọi xã hội có nhà nước ” [10, tr.25]. Chính vì vậy, kiểm sốt
phương tiện để thực hiện việc kiểm soát và hạn chế quyền lực nhà nước, trong đópháp luật là cơng cụ, phương tiện quan trọng bậc nhất. Pháp luật qui định sự phâncông, phân cấp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Nói cách khác, pháp luậtqui định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan, nhân viên nhà nước. Mộtcơ quan không thể làm tất cả mọi việc cho đù đó là cơ quan tối cao. Nhờ có các quiđịnh cụ thể trong pháp luật, các cơ quan, nhân viên nhà nước xác định được một
<small>cách rõ ràng quyên hạn và trách nhiệm của minh, năm bat được hình thức, phương</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">pháp, trình tự thủ tục tiến hành hoạt động. Thông qua pháp luật, các cơ quan, nhânviên nhà nước biết được một cách rõ ràng trong điều kiện hồn cảnh cụ thể, họ đượclàm gì, khơng được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế nào... Thiết nghĩ, ở nướcta tư tưởng các cơ quan, nhân viên công quyền chi được làm những gi mà pháp luậtcho phép cần phải được thể chế hóa thành một ngun tắc pháp luật. Thơng quapháp luật, có thể dễ dàng kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, nhân viênnhà nước, xác định được tính chất hợp pháp, bất hợp pháp trong hành vi của họ.Pháp luật qui định chế độ kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan trong bộmáy nhà nước. Pháp luật qui định vai trị của cơng dân và các thiết chế xã hội trongviệc kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhân viên nhà nước... Pháp luật quiđịnh quyền tham gia quản lý nhà nước của cơng dân, quyền tự do ngơn luận, tự dobáo chí, miting, biểu tình, lập hội..., quyền khiếu nại, t6 cáo những hành vi lạmquyền, xâm hại quyên lợi của nhân dân. Pháp luật qui định chế độ trách nhiệm giữa
<small>các cơ quan nhà nước với nhau cũng như giữa chúng với nhân dân. Pháp luật qui</small>
định các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với hành vi lạm quyền, tha hóa... củacác cơ quan, nhân viên cơng quyền. Dựa vào pháp luật có thé đánh giá kha nănghồn thành nhiệm vụ, qui kết tình trạng trỗn tránh trách nhiệm, thối thác nhiệm vụhay lạm quyền, vượt quyền trong hành vi của nhà chức trách, nhờ đó có điều kiệnđể ngăn chặn, giảm thiểu, xóa bỏ những hiện tượng này. Pháp luật qui định thờigian nắm giữ quyền hạn, chức vu; pháp luật qui định điều kiện tuyển dụng, phẩmchất tư cách của nhân viên nhà nước, chế độ thi cử, thăng, giáng, khảo hạch, thuyên
lý, hành lang pháp lý cho tô chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, mặt khác,pháp luật là công cụ quan trọng dé giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Hai là, pháp luật là khuôn mau ung xử cua mọi ca nhân, tô chức trong xã
Con người, trong đời sống xã hội ln có những nhu cầu, lợi ích, mục đíchnhất định. Để thoả mãn nhu cầu, lợi ích của mình, mỗi chủ thể có những phươngpháp, cách thức riêng. Trong cùng một điều kiện hoàn cảnh, các chủ thé xử sựkhơng giống nhau, trong đó có những xử sự phù hợp với yêu cầu của xã hội, nhưngcũng có những xử sự làm tơn hại tới lợi ích của chủ thể khác, đi ngược lại mongmuốn chung của cộng đồng, gây mắt ôn định, trật tự xã hội. Chính vì vậy, dé xã hội
ton tại trong ôn định, trật tự, các quyên, lợi ích của các thành viên trong cộng đồngđược bảo đảm và bảo vệ, đòi hỏi xử sự của mỗi người phải dựa trên những chuẩn
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">mực nhất định, theo những khn mẫu nhất định. Có nhiều loại chuẩn mực chohành vi con người, trong đó pháp luật là một loại chuẩn mực quan trọng.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp, pháp luật ra đời và trở thành loại qui tắcxử sự phô biến trong xã hội, qui tắc ứng xử của mọi thành viên trong xã hội, qui tắcsinh hoạt cơng cộng trong đời sống hàng ngày. Nó mơ hình hóa các quan hệ xã hộithành các khn mẫu, chuẩn mực cho hành vi ứng xử của con người, dé họ bắtchước làm theo khi ở trong điều kiện hồn cảnh nhất định. Nó “vạch ra những hìnhthức nhất định của hành vi”, “định hướng hành vi cua ca nhân hay nhóm xã hộitrong những điều kiện nhất định”; nó “qui định những mục tiêu cơ bản, những giớihạn, những diéu kiện và những hình thức ứng xử trong những lĩnh vực quan trọngnhất của đời sống” [119, tr.106,107]. Pháp luật như là “hành lang”, “đường biên”cho ứng xử của con người, nó “ndi lên giới hạn can thiết ma nhà nước qui định đểmọi người (chủ thé) có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép” [113.,tr.71]. Nhờ có pháp luật, các thành viên trong xã hội nam bắt được những hành vinào là hợp pháp, được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăncam dé từ đó có cách ứng xử phù hợp khi bắt gặp một tình huống cụ thé nào đó.Dưới góc độ xã hội, có thể nói, pháp luật là kết quả của sự “chọn lọc” và “đào thải”một cách tự nhiên các cách xử sự trong xã hội, trải qua bao biến cố xã hội, bỏ quavà vượt lên những yếu tố ngẫu nhiên, không hợp lý, để giữ lại những cách xử sựphổ biến, hợp lý, khách quan [50, tr.214].
<small>Ba là, pháp luật có vai trị giáo duc mạnh mẽ</small>
Có thê khăng định rằng, pháp luật là sự thể chế hóa, là kênh truyền tải chínhthức chủ trương, đường lỗi chính sách của lực lượng cầm quyền đến tồn xã hội.Thơng qua pháp luật, giai cấp cầm quyền truyền bá mang tính áp đặt các quan điểm,chủ trương, đường lỗi của mình lên toàn xã hội, bắt toàn thê xã hội phải phục tùngquan điểm, đường lỗi đó. Như vậy, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiệnquyền lực tư tưởng của giai cap cầm quyên đối với toàn xã hội.
Với tính chất cơng khai của mình, một khi pháp luật đã được công bố, bắtbuộc các thành viên trong xã hội phải năm bắt được chúng. Mặt khác, chính yêu cầucủa đời sống buộc con người phải có những tri thức nhất định về pháp luật, đồngthời nhờ tham gia vào đời sống mà con người dan dan tích lũy được các tri thứcpháp luật. Vì vậy, có thé nói rằng, pháp luật vừa là cơ sở, vừa là động lực, vừa làmục đích của nhận thức pháp luật. Với tính cách là hệ thống qui tắc xử sự, pháp luậtcung cấp cho chủ thê tri thức về cách thức ứng xử khi họ ở trong hồn cảnh, tình
huống nào đó. Thơng qua các qui định trong pháp luật hiện hành, các cá nhân, tổ
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">chức trong xã hội biết mình được làm gì, khơng được làm gì, phải làm gì, phải làmnhư thế nào, hậu quả phải gánh chịu như thế nào khi làm trái điều đó. Thơng quapháp luật, thơng qua hoạt động thực tiễn, thông qua giao tiếp hàng ngày, người tabiết được như thé nào là hợp pháp, như thé nào là trái pháp luật. Nói cách khác, hệthống pháp luật thực định là chất liệu cũng như nội dung quan trọng của tri thức
<small>pháp luật.</small>
<small>Pháp luật là cơ sở hình thành ý thức tuân thủ pháp luật, thái độ tôn trọng</small>
pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Bằng việc qui định các biện pháp cưỡngchế nhà nước, pháp luật tạo ra một “chướng ngại vật” có sức cản trở mạnh mẽ đốivới những chủ thê thực hiện pháp luật khơng nghiêm chỉnh. Qua đó, pháp luật tạo rađộng lực thúc đây việc hình thành thói quen suy nghĩ và hành động hợp pháp, hìnhthành lối sống theo pháp luật ở mỗi người. Tất nhiên, “ý nghia giáo duc còn thểhiện ở việc pháp luật qui định những hình thức và mức độ khen thưởng, khuyếnkhích vật chất và tỉnh than đối với những thành viên có nhiều cống hiển cho nhà
<small>nước và xã hội” [113, tr.345].</small>
<small>Như vậy, bản thân pháp luật tự nó có vai trị giáo dục, hoạt động giáo dục</small>
pháp luật chăng qua chỉ là nhằm phát huy và làm sâu sắc thêm ý nghĩa giáo dục vốncó của pháp luật mà thơi. Chính nhờ vai trị này mà bản thân pháp luật, trong nhiều
<small>trường hợp có được sự tuân thủ khá nghiêm chỉnh, bởi vậy, vai trị giáo dục củapháp luật có ý nghĩa to lớn.</small>
Bon là, pháp luật diéu tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ xã
Đây là một vai trò hết sức quan trọng của pháp luật. Có thé nói, pháp luậtsinh ra là dé điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, tuy nhiên, nó khơng điều chỉnh tatcả các mối quan hệ xã hội. Pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản,điển hình, phơ biến. Sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội nhằm
đảm bảo cho chúng diễn ra trong vịng “trdt tu” [66, tr.260], theo mục đích, định
hướng của nhà nước. Bằng pháp luật, nhà nước thể hiện một cách chính thức quanđiểm của mình về sự khang định hay phủ định đối với các quan hệ xã hội cụ thể.
Đời sống xã hội vốn có qui luật tự nhiên của nó, trong tính chất tự nhiên của
ngun tắc, tinh trạng kẻ mạnh hà hiếp kẻ yêu, cá lớn nuốt cá bé... Chính vì vậy, xãhội cần có pháp luật dé đưa các quan hệ xã hội vào những khuôn khô, trật tự và
định hướng sự phát triển cho chúng. Đúng như Giáo sư Đào Trí Úc quan niệm
[122], cuộc sống như dòng chảy tự nhiên, còn pháp luật như hai bờ của dịng chảy
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">đó, khơng có bờ, nước vẫn chảy, nhưng khơng theo dịng. “Bờ pháp luật” có vai trị<small>định hướng dịng chảy, làm cho sự chảy đó khơng tràn lan, tùy tiện mà phải theo</small>
một dịng nhất định.
<small>Pháp luật không sinh ra các quan hệ xã hội, nhưng pháp luật được xem như</small>
một phương thức hữu hiệu nhất để điều tiết và định hướng sự phát triển của cácquan hệ xã hội, đảm bảo các hành vi của các chủ thé diễn ra theo đúng khuôn khổ,trong đúng giới han mà pháp luật qui định. Pháp luật củng cố và tăng cường các xuhướng phát triển tích cực của các quan hệ xã hội, ngăn ngừa loại bỏ những xuhướng phát triển tiêu cực, đảm bảo sự phát triển của xã hội phù hợp với qui luậtkhách quan, đảm bảo ôn định, trật tự của đời song xã hội. Pháp luật thừa nhận, củngcố, bảo vệ những quan hệ xã hội phù hợp với mục đích, định hướng của nhà nước,tạo lập môi trường pháp ly thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển của chúng. Ngượclại, pháp luật hạn chế và loại bỏ những quan hệ xã hội lạc hậu, kìm hãm sự pháttriển của xã hội, trái với mục đích, định hướng của nhà nước. Đặc biệt trong bốicảnh có sự thay đổi lớn của đời sống xã hội, vai trò của pháp luật càng được théhiện rõ. Sau mỗi cuộc cách mạng xã hội, những yếu tố mới được xác lập thườnggặp phải sự chống đối quyết liệt, trong khi đó, những yếu tổ lạc hậu, lỗi thời, khơngcịn phù hợp nhưng chưa hoàn toàn mắt hắn; trong các cuộc cải cách xã hội, các chủtrương chính sách mới khơng dé đi vào đời sống bởi sức ỳ và lực can từ nhiều phíalà rất lớn. “Luật pháp được xem như một phương thức hữu hiệu để diéu tiết cáctrạng thái xã hội và các quan hệ nảy sinh từ chính các biến đổi xã hội quan trọngđó” [127, tr.34]. Mọi sự thay đồi quan trọng của đời sống xã hội đều được ghi nhận,được qui định và củng cố trong một hình thức pháp lý nhất định. Pháp luật với tínhbắt buộc chung của nó có giá trị đối với tất cả mọi người, do vậy, các chủ trương,chính sách về phát triển kinh tế xã hội đều phải được thê chế hóa thành pháp luật thìnó mới có thể dễ dàng đi vào đời sống, phát huy tác dụng trong đời sống. Bằng
của nó trở nên chính thức và chắc chan, khơng thé đảo ngược. Có thé nói, mọi chủtrương cải cách, đổi mới nếu không được bảo đảm bởi pháp luật thì khó có thểthành cơng. “Trong lịch sử nhân loại, các cuộc cải cách đã thất bại bởi một trong
<small>những nguyên nhân là người ta da đặt các cải cách xã hội tach biệt với luật pháp ”</small>
[127, tr.33]. Bằng các qui định cụ thể, pháp luật “vạch đường” cho sự phát triển của
<small>các quan hệ xã hội.</small>
Năm là, pháp luật là cơ sở dé bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">An toàn xã hội là tình trạng của đời sống xã hội, trong đó con người đượcyên 6n trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động, học tập, nghỉ ngơi, tinh mạng,
<small>sức khỏe, tài sản, bí mật đời tư, danh dự, uy tín... khơng bị xâm hại. An tồn xã hội</small>
được thê hiện trên nhiều mặt, an toàn trong sản xuất, an tồn trong giao thơng, vấn
đề vệ sinh, an tồn thực phẩm, vấn đề an ninh lương thực, van dé an toàn trong các
giao dịch xã hội, trong các quan hệ pháp luật, vấn đề an tồn, bí mật về thơng tin,
thư tín, về đời tư... An tồn ln là vấn đề có ý nghĩa trong mọi xã hội, đó là tiền
khơng tìm, tìm mà khơng có chừng mực, giới hạn thì khơng thể khơng tranh, tranhthì loan, loan thì khốn cùng” [57, tr.321]. Ngạn ngữ Trung Quốc có câu “Nhdn ducvơ nhai”, lịng tham của con người là khơng có giới hạn, khơng có bến bờ. Nhưvậy, theo những quan điểm này, sự mat an toàn, sự hỗn loan, sự “khốn cùng” củađời sống xã hội suy cho cùng đều bắt nguồn từ “/éng (ham không đáy” của conngười. Ở khía cạnh khác, có thé dé dàng nhận thấy, sự an tồn trong đời sống xã hộicịn bị tác động bởi sự hiểu biết cũng như thái độ ứng xử của con người đối với môitrường xung quanh, điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội...
Có thé khang định, pháp luật là một công cụ quan trong dé đảm bảo an ninh,trật tự, an toàn xã hội. Pháp luật thiết lập mơi trường pháp lý an tồn, thuận lợi chongười dân trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Nhờ có sự điều chỉnh của phápluật mà các quan hệ xã hội diễn ra trong trật tự, theo những khuôn khổ, cách thứcmà pháp luật qui định, vì vậy mà các qun, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các cánhân, tô chức trong xã hội đều được bảo đảm, bảo vệ. Moi hành vi nguy hiểm cho
con người đều bị pháp luật nghiêm trị, “pham hình pháp là cái gốc của thiên ha,ngăn cấm điều bạo ngược, ghét bỏ diéu ác là dé răn những diéu chưa xảy ra” [T1,tr. 108]. Như vậy, pháp luật đảm bao dé mọi người dân có cuộc sống bình n, antồn, thoải mái trong cuộc sống ở bat cứ nơi nào, trong bat cứ hồn cảnh nào. Đồngthời, pháp luật cịn là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của người dân, “/udt pháp nóichung khơng chi là khn mẫu cho hành vi con người, giúp họ giải quyết có hiệuquả các cơng việc thực tiễn mà còn tao lập cho họ niềm tin về “an ninh” của chính
<small>minh” [127, tr.36]. Nhờ có pháp luật, người dan trở nên vững tâm hon, họ tin tưởng</small>rằng, cái ác nhất định sẽ bị trừng tri, cuộc sống bình yên của người dân lương thiện
nhất định sẽ được bảo vệ an tồn. Bên cạnh đó, pháp luật cịn có sự tác động mạnh
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">mẽ đến các mặt của đời sống xã hội, thúc đây kinh tế xã hội phát triển, cải thiệnđiều kiện vật chất kỹ thuật của xã hội. Đồng thời, bằng pháp luật, nhà nước thê chếhóa những tiêu chuẩn an tồn kỹ thuật, đề ra những biện pháp đảm bảo an toàn chocon người trong cuộc sống, giáo dục ý thức con người trong việc tự bảo vệ mình...Nhờ sự tác động mạnh mẽ, nhiều mặt của pháp luật mà cuộc song của con người trở
<small>nên an toàn hơn.</small>
Sáu là, pháp luật đóng vai trị quan trọng trong việc dam bảo sự phát triển6n định, bên vững của xã hội.
Bất cứ xã hội nào cũng ln cần có 6n định dé tồn tại và phát triển, hơn nữa,sự phát triển phải có tính chất liên tục và vững chắc trên tất cả các mặt. Trên thựctế, “phát triển bên vững đã và dang trở thành xu thé tat yếu của tất cả các quốc gia,các dân tộc và cả cộng đông quốc tế” [29, tr.27]. Trên bình diện chung nhất, có thé
tăng trưởng liên tục, xã hội có sự tiễn bộ khơng ngừng, môi trường sinh thái đượcbảo vệ, tài nguyên được khai thác và sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả, truyền thốngtốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc được bảo tồn và phát huy, đời sống củanhân dân được cải thiện trên tất cả các mặt...
“Với tư cách là nhân tô diéu chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật luôn tácđộng và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các quan hệ kinh té - xã hoi” [102, tr.24], dovậy, pháp luật là yếu tố quan trong đảm bao sự phát triển bền vững của xã hội. Phápluật dam bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo ra những tiền đề quantrọng cho sự phát triển bền vững của xã hội. Pháp luật tạo ra cơ chế thúc day sảnxuất phát triển mạnh mẽ, qua đó thúc day sự phát triển tồn diện các lĩnh vực kháccủa đời sống xã hội như y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội... Pháp luật góp phần ngănngừa những hiện tượng dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời, nó cũnggóp phần quan trọng trong việc khắc phục khủng hoảng, đảm bảo sự phát triển liêntục, kéo đài của nền kinh tế. Nhờ có pháp luật mà mơi trường sống của con người
<small>được bảo vệ và cải thiện, tài nguyên thiên nhiên được khai thác và sử dụng hợp lý,</small>
tiết kiệm, có hiệu quả. Nhờ có pháp luật mà sự phát triển kinh tế đã được kết hợpchặt chẽ với bảo vệ và cải thiện môi trường, phát triển xã hội, bảo đảm tiễn bộ vàcơng bằng xã hội. Pháp luật góp phần bảo tồn và phát huy các truyền thống tốt đẹpcủa dân tộc, giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc khơng chỉ cho hơm nay mà cịn
<small>mãi mai sau.</small>
Bay là, pháp luật là phương tiện bảo dam và bảo vệ qun con người, bảođảm dân chủ, cơng bằng, bình đăng trong xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Quyền con người là khả năng con người được tự do lựa chọn hành động, tựdo lựa chọn cách thức và mức độ thê hiện thái độ cũng như hành động một cáchtheo ý mình, khơng bị hạn chế, ràng buộc, cắm đốn một cách vô lý. Ngày nay,quyên con người đã trở thành một giá trị chung được cả lồi người cơng nhận. BảnTuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 đã long trọng tuyên bố: “tat cả moingười đều sinh ra có qun bình dang, tạo hóa cho họ những qun khơng ai có thể
xâm phạm được” [38. tr.9]. Tun ngôn nhân quyền của cách mạng tư sản Pháp1791 cũng nêu: “con người sinh ra tự do và bình dang về qun lợi và phải lnđược tự do bình dang về quyền lợi” [38, tr.15,16]. Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị, kinh tế của Liên hợp quốc cũng đều ghi nhận nguyên tắc tôn trọngvà bảo vệ các quyền con người. Tuy nhiên, lần giở lại lịch sử, khi xã hội phân chiathành các giai cấp, sự áp bức giai cấp xuất hiện, các quyền con người bị xâm phạm,bị chà đạp, trong bối cảnh đó, nảy sinh nhu cầu bảo vệ, bảo đảm quyền con người.Từ đó đến nay, van dé tái lập sự bình dang trong xã hội, bảo đảm, bảo vệ các quyền,tự do, dân chủ của con người luôn là nhu cầu, khát vọng mạnh mẽ của nhân loại bịáp bức. Lịch sử lồi người từ khi xã hội hình thành giai cấp là lịch sử đấu tranhnhằm giải phóng con người, vươn tới tự do, đòi quyền làm chủ.
Tuy nhiên, trong điều kiện đối kháng giai cấp gay gắt trước đây, van đề bảođảm, bảo vệ quyền con người chưa được coi trọng đúng mức trong pháp luật. Chỉtrong điều kiện xã hội dân chủ, pháp luật mới thực sự đóng vai trò quan trọng trongviệc bảo đảm, bảo vệ quyền, tự do, dân chủ của con người. Vai trò quan trọng nàycủa pháp luật thé hiện trước hết ở việc pháp luật ghi nhận các quyền, tự do, dan chủcủa con người. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, không phải khi được qui định trong phápluật thì con người mới có các quyền đó, sự qui định trong pháp luật chỉ là một sựthừa nhận chính thức của nhà nước về các quyền vốn có của con người, đúng nhưMác nói, pháp luật là thước đo của tự do. Tiếp đó, pháp luật qui định trách nhiệmcủa nhà nước cũng như toàn xã hội trong việc bảo đảm quyền con người được thựchiện trên thực tế. Đồng thời, pháp luật qui định các biện pháp nhằm bảo vệ quyềncon người khỏi bị xâm hại từ phía các chủ thể khác, ké cả nhà nước. Dé đảm bảo
có sự kiểm sốt [74. tr.100-113]. Mặt khác, sự xâm hại các quyền và tự do cá nhânđều phải bị trừng trị nghiêm khắc. Xuất phát từ luận điểm này, có thể khăng địnhrằng, chỉ trên cơ sở pháp luật, bằng các qui định của pháp luật thì các quyền con
<small>người mới được bảo đảm, bảo vệ và có điêu kiện đê được hiện thực hóa.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Quyền con người, tự do cá nhân cũng cần phải có điểm dừng, nó khơng théđược hiểu là được làm tat cả hay muốn làm gi thì làm. Tự do “chi có thể là đượclàm những cái nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm”; “Nếu mộtcơng dân làm diéu trái luật thì anh ta khơng con tu do nữa vì nếu dé anh ta tự dolam thì mọi người déu được làm trái luật ca” [74, tr.99]. Quyền, tự do cá nhân phảicó sự kết hợp hài hịa với lợi ích chung của cộng đồng, mỗi người vừa tôn trọng cái
chung, vừa có điều kiện để tự do hành động nhằm đạt được sự thỏa mãn nguyện
đặt trong sự tôn trọng quyền, tự do của người khác, tôn trọng và tuân thủ những quitac chung của cộng đồng. Đúng như Lénin đã khang định: “Sống trong một xã hộimà lại thoát khỏi xã hội ấy dé được tự do, đó là điều khơng thé được ” [63, tr.127].Nói cách khác, quyền tự do của mỗi người phải bị giới hạn bởi quyén tự do củangười khác. Pháp luật là phương tiện để mỗi cá nhân phải ràng buộc đối với cá nhânkhác và xã hội. Đồng thời, quyền, tự do, dân chủ của cá nhân phải luôn đi kèm vớinghĩa vụ. Một mặt cá nhân được làm tất cả trừ những việc bị pháp luật cấm, mặtkhác, họ khơng được làm những gi có hại cho người khác, cho cộng đồng.
Tám là, pháp luật có tác động mạnh mẽ đến các cơng cụ quản lý khác
Như đã đề cập, điều chỉnh hành vi con người, xã hội có nhiều cơng cụ khácnhau như đạo đức, phong tục tập qn, tín điều tơn giáo, qui tắc của các cộng đồngdân cư, các tô chức xã hội... Giữa các cơng cụ điều chỉnh này ln có sự gan bóchặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Do điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xãhội... cụ thể mà trong lịch sử, trên thế giới, có nơi, có lúc, có thể một trong s6 các
xem như “?à hat nhân, giữ vị trí trung tâm ” [94, tr.50] trong hệ thống cơng cụ điều
<small>chỉnh quan hệ xã hội. Chính vì vậy, pháp luật ln có vai trị quan trọng và có sự</small>
tác động mạnh mẽ tới tất cả các loại qui phạm xã hội khác.
Sự tác động của pháp luật đến các công cụ điều chỉnh khác xảy ra chỉ trongtrường hợp chúng cùng tham gia điều chỉnh một mối quan hệ xã hội cụ thé nao đó.Khi đó, giữa pháp luật và cơng cụ điều chỉnh khác có thé thống nhất hoặc khác biệt,mâu thuẫn nhau, nghĩa là, sự điều chỉnh của chúng có thê thuận chiều hoặc ngượcchiều.
Trong trường hợp có sự thống nhất với nhau, chúng bổ sung, hỗ trợ nhaucùng điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo nên sự “cộng hưởng” trong điều chỉnh, nhờđó đạt được hiệu quả điều chỉnh cao nhất. Trong trường hợp đó, pháp luật có thể
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">dung hợp trong nó các qui tắc xử sự khác, nói cách khác, các qui tắc xử sự khác cóthé được pháp luật hóa. Một khi đã được ghi nhận thành pháp luật, chúng trở nênmang tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước, nhờ đó, việcthực hiện chúng trở nên nghiêm chỉnh, triệt dé hơn. Mặt khác, sự ghi nhận thànhpháp luật các qui tắc xử sự khác có tác dụng tạo điều kiện cho sự tồn tại, giữ gìn vàphát huy vai trị của chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Trong trường hợp giữa pháp luật và các qui tắc xử sự khác có sự mâu thuẫn,khác biệt nhau, về nguyên tắc, pháp luật đều có thé loại bỏ chúng. Tuy nhiên, trênthực tế, trong trường hợp này, vai trò của pháp luật được xem xét trong từng điềukiện cụ thể. Trong một xã hội mà pháp chế được dé cao, nếu các qui định trongpháp luật là tiến bộ, phù hợp với địi hỏi của thực tiễn cuộc sống thì mọi qui tắc xửsự khác nếu trái pháp luật đều có thể bị pháp luật loại trừ. Ngược lại, nếu pháp luậtđược xây dựng không phù hợp với truyền thống đạo lý, trái với thuần phong, mỹ tụccủa dân tộc thì đương nhiên những qui dịnh đó của pháp luật cần phải được sửa đổi,bồ sung cho phù hợp.
Phần sau của luận án này sẽ tập trung đi sâu phân tích vai trò của pháp luật
<small>với đạo đức.</small>
2.2. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức là một khái niệm hết sức phức tạp, khái niệm này vừa hết sức phốbiến trong dân gian, vừa đậm đặc chất học thuật, bởi vậy nó được hiểu theo nhiềucách khác nhau trong những thời gian, không gian, đối tượng khác nhau.
Trong đời sống hàng ngày, dao đức' thường được quan niệm là đức hạnh,
phẩm hạnh của con người, đó là những nét đẹp, nết tốt, những “phẩm chất tốt depcủa con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức xã hội mà có” [78,tr.280]. Như vậy, trong cuộc sống thường ngày, khái niệm đạo đức được đồng nhấtvới ý thức, phâm chat đạo đức cá nhân.
Trong khoa học, đạo đức được hiểu theo nhiều nghĩa với những phạm virộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa hep, đạo đức là “nhitng tiêu chuẩn, nguyên tắcđược du luận xã hội thừa nhận, qui định hành vi, quan hệ của con người đối vớinhau và đối với xã hội (nói một cách tổng quái) ” [78, tr.280]. Dao đức là đạo làmngười, là phép đối nhân, xử thé bao gồm tổng thé các chuân mực về các mối quanhệ trong gia đình, làng xóm, cộng đồng, các chuẩn mực về tu thân, dưỡng tâm, rènluyện khí tiết theo những định hướng giá trị nhất định [11, tr.9]. “Dao đức là mộthình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội,
<small>'Nhiéu khi còn nói tắt là đức dé phân biệt với tài là năng lực, trình độ, tài năng.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau vàquan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống vàsức mạnh của du luận xã hội ” [39, tr.8]. Mac dù có sự khác nhau về câu chữ, Songnhìn chung, đạo đức được xem như là một loại công cụ, phương tiện điều chỉnhhành vi con người trong các môi quan hệ xã hội.
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức mang một dung lượng rất rộng bao gồmtư tưởng, lý tưởng đạo đức, qui tắc đạo đức, hành vi đạo đức, đánh giá đạo
duc...[11, tr.16]. Nói cách khác, đạo đức được xem xét trong toàn bộ “cơ chế vận
hành” của nó, từ khi nó được hình thành, tham gia điều chỉnh các mối quan hệ xãhội cũng như tham gia vào cơ chế đánh giá hành vi con người. Đạo đức trước hết làhệ thống quan niệm, quan điểm, tư tưởng của một cộng đồng (dân tộc, giai cấp, tôngiáo...) về thiện - ác, tốt - xấu, chân - giả, vinh - nhục, về sự công bằng, nghĩa vụ,danh dự và về những phạm trù khác thuộc đời sống tinh thần của xã hội, trong đó cơbản và cốt lõi là quan điểm về điều thiện. Trên cơ sở các quan niệm, quan điểm đó,một hệ thống qui tắc ứng xử của con người được hình thành. Những quan điểm,quan niệm, qui tắc này được các cá nhân tiếp thu, hấp thụ, được nội tâm hóa trởthành ý thức đạo đức cá nhân, nó có vai trò chỉ đạo, chi phối hành vi hàng ngày củamỗi người. Những quan điểm, quan niệm, qui tắc đạo đức như vậy là đã đi vào đời
trở thành đối tượng đánh giá của của cộng đồng cũng như của chính ban thân chủthể. Sự đánh giá này là một mắt khâu của việc điều chỉnh bằng đạo đức đối vớihành vi con người. Sự đồng tình hay phản đối của cộng đồng đối với hành vi củamột chủ thé khơng chỉ có vai trị củng cố ý thức dao đức, hoàn thiện nhân cách,định hướng hành vi cho chính chủ thể đó mà nó cịn có vai trị quan trọng trong việchình thành và hồn thiện các quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức xã hội. Tómlại, đạo đức cần phải được nhận thức cả từ góc độ ý thức (ý thức đạo đức xã hội và
đức), cả từ góc độ thực tiễn (hành vi đạo đức).
Một khái niệm rất gần với đạo đức và nhiều khi được sử dụng thay thé chođạo đức, đó là khái niệm luân lý. Về mặt thuật ngữ, “luân” là trật tự, “lý” là lẽ phải;luân lý là qui tắc, chuân mực được thừa nhận là đúng đắn nhằm thiết lập một trật tự.Ln lý khơng đồng nhất với đạo đức, nó chỉ là một bộ phận của đạo đức, nhưng đó
là phần kết tinh của đạo đức, là phần đạo đức ôn định, bền vững, được thừa nhận
rộng rãi, trở thành phô biến và có giá trị cho tat cả mọi người [123, tr.46].
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">Trong mọi xã hội, từ cơ đại đến hiện đại, trên phạm vi tồn thế giới, ở đâu có
con người, ở đó có đạo đức. Là một trong những phương tiện quan trọng hàng đầu
dé quản lý xã hội, đạo đức thé hiện những vai trò nỗi bật sau đây:
Một là, dao đức xã hội là hệ thống chuẩn mực để mỗi Hgười tu tu than,dưỡng tâm, rèn luyện nhân cách, lỗi sống.
Nhân cách là những phẩm chất mang tính đặc trưng, tương đối ơn định củacá nhân, thể hiện ở những cách ứng xử của họ. Nhân cách là tổng hợp những đặctính cá nhân, là kết quả cụ thé của quá trình kết hợp giữa vận động nội tâm của chủthê với sự tác động đa chiều của mơi trường bên ngồi [65, tr.22]. “Ở Việt Nam khinói đến nhân cách người ta thường nghĩ đến hai thành phan cơ bản: đức và tài hayphẩm chất và năng lực ” [4, tr.228]. Như vậy, đức (đạo đức) là một phương diện cănbản, cốt yếu của nhân cách. Trong hai yếu tố làm nên nhân cách con người, Chủtịch Hồ Chí Minh coi “đức” là gốc, là nguồn, Người khang định, có đức mà khơng
<small>có tài thì làm việc gì cũng khó, nhưng có tài mà khơng có đức sẽ trở thành người vơdụng [130, tr.37].</small>
Nhân cách của mỗi người, những phẩm chất đạo đức cá nhân khơng phải tựnhiên mà có, khơng phải là “bản tính” hay “bâm sinh”. Sự hình thành và phát triểnnhân cách chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó hệ thống thể chế xã hội mànhất là đạo đức giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Tùy thuộc vào hệ chuẩn mực đạođức của từng xã hội mà hình thành nên con người với những phẩm chất nhất định,phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đó. Trên cơ sở hệ thống quan niệm, chuẩnmực đạo đức xã hội, các cá nhân lay đó làm tiêu chuẩn dé tu thân, dưỡng tâm, rènluyện nhân cách, lối song của minh. Nói một cách cu thé hon, dao đức xác địnhnhững chuẩn mực trong giao tiếp, ứng xử mà chủ thé cần hướng tới, nó xác địnhhành vi nên làm, cần phải làm, khơng được làm. Nó làm hình thành ở mỗi ngườithói quen suy nghĩ và hành động phù hợp chuẩn mực xã hội. Đạo đức góp phầnquan trọng tạo nên tính kiềm chế, hình thành phong cách sống điềm tĩnh, chủ độngtrong mọi tình huống. Nó khơi dậy tình cảm u thương, q trọng con người, nóhướng con người xử sự phù hợp với điều thiện. Đạo đức góp phần xây dựng bảnlĩnh cá nhân, tạo ra cơ chế phòng ngừa, miễn dịch trước những cám dỗ trong cuộcsong. Nó có vai trị quan trọng trong việc xây dựng và rèn luyện tinh than làm việctận tụy, ý thức trách nhiệm của cá nhân trước người khác và trước cộng đồng, trước
Tổ quốc, nhân dân...
Vai trị của đạo đức trong việc hình thành, phát triển nhân cách được thựchiện thông qua con đường nhận thức và hoạt động thực tiễn của chủ thể.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Trước hết, thơng qua nhà trường, gia đình, các thiết chế xã hội, thông quagiao tiếp hàng ngày, đặc biệt, thông qua việc tự ý thức, tự nỗ lực tiếp nhận của bảnthân, những quan niệm, quan điểm, tư tưởng chuẩn mực đạo đức xã hội được cácchủ thé tiếp thu, hấp thụ, được nội tâm hóa trở thành tri thức, tình cảm, nghĩa vụ,
<small>trách nhiệm đạo đức của họ, nói cách khác, trở thành ý thức đạo đức của cá nhân</small>
mỗi người. Bằng con đường này, chủ thể tự ý thức về địa vị của mình trong xã hội,
ý thức một cách sâu sắc trách nhiệm và bổn phận đạo đức của minh, tự xây dựngthành phương châm ứng xử, thành phong cách sống của mình. Điều này được rènluyện theo thời gian, trở nên ồn định, trở thành những nét đẹp, nết tốt, thành đứchạnh, phâm hạnh, trở thành nhân cách đạo đức của mỗi người. Nhận thức là cơ sởcho hành vi ứng xử của mỗi người, đến lượt mình, giao tiếp, ứng xử là sự hiện thựchóa kết quả của sự nhận thức, là sự vận dụng những quan điểm, chuẩn mực đạo đức
trở nên sâu sắc hơn.
Ở khía cạnh khác, sau mỗi hành vi ứng xử, chủ thể thường có sự tự xét mình,tự trách mình, tự đánh giá về bản thân mình, về cách đối nhân, xử thế của mình,đồng thời, từ phía cộng đồng xã hội cũng ln có sự đánh giá đối với hành vi, ứng
<small>xử đó. Thơng qua đánh giá từ phía xã hội sẽ xác định được cách ứng xử nào được</small>
xã hội cho là đúng đắn, là tốt và ngược lại, qua đó sẽ góp phần củng cố nhận thức,tình cảm và cách ứng xử của chủ thể, góp phần hồn thiện nhân cách của họ. Thơngqua sự tự đánh giá, tự xét mình, tự trách mình, chủ thê càng ý thức sâu sắc hơn vềbồn phận, trách nhiệm của mình. Tự xét mình, tự trách mình là tự ý thức về phẩmgiá cá nhân, là sự chủ động, chân thành, tự giác ngộ, tự kiêm điểm với lương tâm vàphẩm giá của mình. Tự xét mình, tự trách mình là thao tác cơ bản trong quan hệ
<small>mình với chính mình, thao tác này có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong sự hồn</small>
thiện nhân cách phẩm chất cá nhân. “Sự hiện diện của quan hệ mình với mình cógiá trị vơ song đối với nhân cách và bản lĩnh con người ” [30, tr.IX]. Đây là đặc thù,đồng thời là sức mạnh của đạo đức, nó có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc
hồn thiện nhân cách mỗi người.
Như vậy, đạo đức xã hội là “khuôn vàng thước ngọc ” cho mỗi người trong
suy nghĩ và hành động. Chính vì vậy, trên thực tế, bất cứ một hệ thống đạo đức nào
<small>cũng đêu bao hàm các qui tac, chuân mực đê môi người rèn luyện và tu dưỡng nhân</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">cách". Tuy nhiên, nhân cách con người có q trình hình thành, phát triển và hoàn
thiện gắn liền với sự trưởng thành và sự tham gia hoạt động xã hội của chủ thể. Vìvậy, tùy từng lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tuỳ từng giai cấp, tầng lớp, tôn giáo,dân tộc, điều kiện hoàn cảnh cụ thé của từng xã hội, từng thời đại mà có nhữngchuẩn mực dao đức riêng cho từng đối tượng dé họ tu dưỡng, rèn luyện nhân cách,lối sông.
Hai là, đạo đức là công cụ quan trọng bậc nhất để điều chỉnh các mỗi quanhệ xã hội, trước hết là các mối quan hệ trong gia đình, dịng ho, làng xóm, cộngđồng dân cư, tổ chức xã hội.
Gia đình là một hình thức cộng đồng người được xây dựng chủ yếu trên quanhệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, các thành viên gắn bó hết sức chặt chẽ trongsự chi phối sâu sắc của tinh cảm. Gia đình là mơi trường lý tưởng trong việc giáo
<small>dục con người, có vai trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành và phát</small>
triển nhân cách con người. Gia đình tốt, cá nhân sẽ tốt, khơng có gia đình, conngười khơng có điều kiện để phát triển và hồn thiện. Gia đình là cái nơi của tình
<small>thương và trách nhiệm, tình cảm và trách nhiệm trong gia đình là cơ sở của tình</small>
cảm và trách nhiệm trước đồng loại. Gia đình là tế bào, là nền tảng của xã hội, làmột xã hội thu hep: “nha la gốc cua nước và thiên ha” [25. tr.L 71]; “nha tic là cảinước nhỏ, nước tức là cdi nhà to” [7, tr.270]. Vì vậy, “trong dm, ngồi êm”, giađình tốt, xã hội sẽ tốt, gia đình hịa thuận, hạnh phúc là cơ sở tạo nên xã hội 6n định,trật tự. Chính vì vậy, có thê nói, các hệ thống đạo đức đều hướng tới việc thiết lậpvà củng cố, giữ gìn trật tự, ơn định trong gia đình. Việt Nam và các nước Á đôngchịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, ở những nước này, đạo đức có vai trị đặcbiệt quan trọng trong việc giữ gìn ổn định, trật tự trong gia đình. Theo quan điểmcủa Nho giáo, người quân tử muốn trị quốc, bình thiên hạ thì trước hết phải tu thân,
té gia. Trong ba “cương”” của Nho giáo có tới hai “cương” là trong gia đình (quan
hệ cha con, quan hệ chồng vợ). Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Quốc có quốc pháp,<small>gia pháp”,</small>
<small>499 66</small>
<small>gia có gia qui”, “gia qui”, “gia lễ”,99 6 99 66</small>gia phong” chính là những qui tắcđược xây dựng trên nên tảng đạo đức. Không chỉ gia đình truyền thống mà cả gia
<small>đình hiện đại đêu duy trì, bảo vệ mơ hình của mình, xác định trách nhiệm, bôn phận</small>
<small>! Chăng hạn, đạo đức Phật giáo có ngũ giới, đạo đức Nho giáo có ngũ thường, đạo đức cách mạng dạy ngườicán bộ phải cần, kiệm, liêm, chính, trung với nước, hiếu với dân, tận tụy với công việc..</small>
“Cuong” la cai day giéng của cái lưới (dây lớn ngoài mép lưới), là đầu mối của mọi sợi Í day lưới, nắm được
<small>cái cương là nắm được tồn bộ cái lưới. Người ta gọi 3 mơi quan hệ xã hội vua tôi, cha con, chồng vợ là tam</small>
<small>cương là theo nghĩa như thế, tức là những mối quan hệ quan trọng nhất trong xã hội, mọi quan hệ xã hội khác</small>
<small>đều qui về quan hệ này, chịu sự ảnh hưởng của quan hệ này.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">của các thành viên trong gia đình chủ yêu bằng những chuẩn mực đạo đức. Có thénói, trong gia đình truyền thống Việt Nam, một khi đạo đức trở nên bất lực mới cóchỗ cho pháp luật, và khi phải sử dụng pháp luật dé xác định quyền, nghĩa vụ củamỗi thành viên thì gia đình đó có biểu hiện của sự lung lay. Chính sự xa rời chuẩnmực đạo đức trong gia đình đã tạo nên sự lung lay bất ơn, thậm chí khủng hoảng,tan vỡ gia đình. Vì vậy, có thể nói, đạo đức là cơng cụ, phương tiện để xây dựng và
bảo vệ gia đình, nó có vai trị hết sức quan trọng trong việc giữ gìn ơn định trật tự
gia đình, giữ gìn lề thói gia đình, bảo vệ những giá trị truyền thống, giá trị văn hốgia đình, đảm bảo gia đình ngày càng đầm 4m, hạnh phúc, bảo vệ gia đình khỏi
những nguy cơ tan vỡ. Đạo đức điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình bằng
<small>cách xác định địa vị của từng thành viên trong gia đình, xác định trách nhiệm của</small>
mỗi thành viên đối với người khác cũng như đối với việc phát triển gia đình, giữ gìnkỷ cương, nền nếp gia phong, giữ gìn và phát huy truyền thống gia đình.
Từ các mối quan hệ trong gia đình, đạo đức mở rộng phạm vi điều chỉnh tớicác mối quan hệ trong họ hàng, làng xóm. Quan hệ huyết thống, thân tộc là một sợidây cố kết cộng đồng khá bên vững. Trong thời kỳ hiện đại, mặc dù quan hệ huyếtthống, thân tộc khơng cịn khả năng cơ kết cộng đồng như trước đây, song “môi giotmáu dao” vẫn “hon ao nước la”, “đi việc lang dé giữ lay họ, di việc họ để giữ layanh em” vẫn là phương châm sống của người Việt. Nghiên cứu lich sử Việt Nam,nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trải qua hàng nghìn năm bị ngoại bang đơ hộ,nhưng dân tộc Việt Nam vẫn giành lại được độc lập chính là xuất phat từ yếu tơ cốkết, gắn bó chặt chẽ trong các cộng đồng làng xã. Trong các cộng đồng ấy, người tacần có nhau, biết sống vì nhau, từng cá nhân đều xác định được vị trí, vai trị, bổnphận, trách nhiệm của mình trước người khác và trước cộng đồng. Đạo đức chính làphương tiện quan trọng nhất đảm bảo sự gắn kết các mối quan hệ trong họ, ngồilàng, giữ gìn ơn định trật tự cộng đồng, giữ gìn tình làng nghĩa xóm theo phươngchâm “thir nhất cận lân, thứ nhì cận thân”, “bán anh em xa mua láng giéng gan”.Nó là cơ sở của sự đồn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ nhau khi gặp khó khănhoạn nạn, lúc tối lửa tắt đèn.
Đạo đức cũng có vai trị quan trọng trong việc thiết lập, giữ gìn, củng cô cácmối quan hệ trong nội bộ các cơ quan, tổ chức trong xã hội. Có thé nói, một tô chứcvững mạnh là do các thành viên đều tốt, có phẩm chat đạo đức, có năng lực chun
mơn, nghiệp vụ. Chính vì vậy, bất kỳ cơ quan, tơ chức nào cũng đều đặt ra tiêu chí
về phâm chất đạo đức đối với các thành viên. Trong trường hợp này, đạo đức là cơsở dé mỗi thành viên tự tu dưỡng, rèn luyện pham chat đạo đức, xây dựng lối sống,
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">hồn thiện nhân cách, giữ gìn kỷ luật của cơ quan, tổ chức, giữ quan hệ đúng mực,thân thiện với đồng chí, đồng nghiệp, góp phần làm hài hịa hóa các mối quan hệ
quan, tổ chức được điều chỉnh trước hết bằng thể chế do chính nó đặt ra. Tuy nhiênnhìn chung, hệ thống thé chế của các cơ quan, tơ chức có khá nhiều qui định là sựthê chế hoá các quan niệm, tư tưởng đạo đức hoặc ghi nhận các qui tắc, nguyên tắcđạo đức. Thậm chí, những chuẩn mực đạo đức xã hội mặc dù không được ghi nhậntrong hệ thống thé chế của một cơ quan, tô chức, nhưng một khi đã trở thành nhữnggiá trị chung phổ biến, nó van có thé được sử dụng dé điều chỉnh mối quan hệ trong
nội bộ cơ quan, tổ chức đó. Trên thực tế, có những tơ chức xã hội, trong cơ cầu của
nó có thiết chế chuyên xem xét đánh giá về đạo đức của các thành viên [133].
Đạo đức điều chỉnh các mối quan hệ xã hội băng cách xác định nghĩa vụ, bốnphận cho các chủ thể. Trên cơ sở các chuẩn mực dao đức xã hội, tùy thuộc vào việc
tu thân, dưỡng tâm, mỗi người tự xác định vị trí, vai trị của mình, tự xác định nghĩa
vụ, bồn phận, trách nhiệm của mình, tự biết cách điều chỉnh lời nói, hành động của
<small>mình sao cho phù hợp.</small>
Ba là, dao đức là công cụ hướng thiện, hướng hành vi con người đến nhân
<small>đạo, nhân văn.</small>
“Thiện” là sự tốt lành, là tất cả những cách ứng xử “có vai tro tích cực, có
[11. tr.210]. “Thiện” tức là làm những điều có ích, có lợi cho người khác và cho xãhội, là đấu tranh chống lại cái ác, cái bất công. Điều thiện luôn phù hợp với lẽ cơngbằng, nhân đạo bởi đó chính là biểu hiện cụ thể của sự thương yêu, thông cảm, chiasẻ, giúp đỡ, đùm bọc, quí trọng sâu sắc con người, tôn trọng và bảo vệ các giá tri
<small>con người, đem lại tự do và hạnh phúc cho con người.</small>
Nhìn chung, người ta ai cũng luôn mong muốn vươn tới điều thiện bởi vìđiều đó đem lại hạnh phúc cho chính mình và cho người khác. Trong xã hội, mộtkhi cái ác cịn tồn tại thì “chiến dau cho cái thiện, day lùi cdi ác đã trở thành ướcmơ, khát vọng, đã trở thành chất men, thành động lực, kích thích, cơ vũ nhân loạivươn lên, xốc tới” [39, tr.47]. Dao đức là cơng cụ hướng thiện, nó ra đời nhằmhướng hành vi con người theo giá trị nhân bản của cuộc sống, bởi vì “dao đức làlĩnh vực thực sự người”, “cái gốc của đạo đức là lòng nhân di”, “nội dung xã hộicủa dao đức hay luân lý bắt nguồn từ quan niệm người này giúp đỡ người khác mộtcách vơ tw” [11, tr.10]. “Đạo đức chính là bản chất của con người trong quả trìnhphát triển của mình theo hướng ngày càng dat tới giá trị đích thực của cái thiện”
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><small>[32, tr.247]. “Đạo đức là khát vọng nhân ban và vô tư của con người ”, [46, tr.98].</small>
Đạo đức làm nảy nở những giá trị nơi con người, phát triển những gì cao quý, tốtđẹp trong ban thân mỗi người. Nhờ có đạo đức, con người sống với nhau ngày càngcó tình, quan hệ giữa người với người ngày càng trở nên gắn bó chặt chẽ, xã hộingày càngtrở nên nhân đạo hơn, nhân văn hơn. Chi bang tình thương và tinh thannhân đạo cao ca của đạo đức, với tình cảm “hương người như thé thương thân”,
<small>“mot con ngựa dau cả tau bỏ có”, “thương cho chói, vot cho tron”, “la lành dum</small>
lá rách”, “một miéng khi đói bằng một gói khi no”... mới khién người ta thực hiện
hành vi giúp đỡ lẫn nhau một cách hào hứng, tận tâm, tuyệt đối, đến cùng. Đạo đứclà mục tiêu đồng thời cũng là động lực mạnh mẽ thúc day con người đấu tranh
có thể có nhiều hệ thống đạo đức khác nhau, tuy nhiên tất cả mọi nền đạo đức đềuhướng con người đến việc làm điều lành lánh điều dit. Dao đức là con đường đạt tớichí chân, chí thiện, chí mỹ, nhân đạo, nhân văn - những hằng số giá trị của loàingười. Khuyến khích cái thiện, lên án cái ác, hướng hành vi con người vươn tới cáithiện, xây dựng thái độ căm thù đối với cái ác, thái độ kiên quyết đấu tranh chống
<small>lại cái ác là một chức năng cơ bản của đạo đức.</small>
Bon là, dao đức góp phan quan trọng trong việc củng cố, giữ gìn, phát huycác giá trị truyền thông, thuân phong mỹ tục, bản sắc của dân tộc.
Bat kì dân tộc nào cũng đều có những truyền thống nhất định. Các giá trị
gan kết cộng đồng, nâng cao ý thức tự hào dân tộc, là cơ sở vững chắc đảm bao chocác mối quan hệ hợp tác quốc tế. Đối với dân tộc Việt Nam, lịch sử đã chứng tỏrằng, yếu tố đảm bảo cho dan tộc này tồn tại và phát triển không phải chi là sứcmạnh vật chất mà chủ yếu là sức mạnh tinh thần - những giá trị văn hoá, nhữngtruyền thống tốt đẹp, những thuần phong mĩ tục của dân tộc đã được tạo dựng, hunđúc nên [40, tr.111]. Văn hố, truyền thống khơng chi là nền tang tinh than mà cònlà động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Truyền thống chính là cơsở dé phát triển, “quá khứ chính là nên tảng của tương lai”. Dân tộc nào néu coithường quá khứ, bỏ qua truyền thống đều khó có thé hưng thịnh. “Phdt triển táchkhỏi cội ngn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hoa. Di vào kinh tế thịtrường, hiện đại hoá đất nước mà xa rời những giá trị truyền thong sẽ làm mat bảnsắc dân tộc, đánh mat bản thân mình, trở thành cái bóng mo của người khác, cuadan tộc khác ” [17, tr.6]. Chính vì vay, git gìn, củng cố và phát huy những giá trị
</div>