Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: Pháp luật hợp đồng kinh tế - Thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.69 MB, 150 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƯỜNGMÃ SỐ : KH 99 -06

PHÁP LUẬT HỢP DONG KINH TẾ -.

THỰC TRANG VÀ HƯỚNG HOÀN THIEN

HA NỘI. THANG 12 - 2002

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

ThS. Nguyễn Thị Dung: Phó trưởng bộ môn Luật kinh tế

NHỮNG NGƯỜI THAM GIÁ ĐỀ TÀI

. TS. Bùi Ngọc Cường

TS. Nguyễn Viết TýThS. Nguyễn Thị Dung

TS. Phan Chí Hiếu

ThS. Nguyễn Thị KhếThS. Nguyễn Thị Van Anh

Hồng Minh Chiến

Lê Dinh Vinh

Chủ nhiệm khoa PLKT

Phó CN khoa, Trưởng Bộ mơn LKT

Phó trưởng Bộ mơn Luật Kinh tế

Trường Đào tạo TP & các CD Tư phápGVC bộ môn Luật Kinh tế

GV bộ môn Luuật Kinh tế

GV bộ môn Luật Kinh tế

GV bộ môn Luat Kinh tế

GV bộ môn Luat Kinh té

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

PHAN If: CÁC BAO CÁO CHUYÊN ĐỀ CỦA TẬP THỂ TÁC GIA

Tên đề tài

Mối quan hệ giữa hợp đồng kinh tế vàhợp đồng dân sự

Thực trạng pháp luật về Shop đồng kinh tế

Những quan điểm sửa đổi, bổ sung và

hoàn thiện Pháp lệnh hợp đồng kinh tế

Cần xác định. TÕ ham vi á dun của

<sub>p Pp bà</sub>

TS. Nguyễn Viết Tý 48Thể. ! Nguyễn Thị Khê | 6l

Hoàng Minh Chiến | 7l

|pera Ree TNET > ay ° Lede

<sub>_Th§ Nguyễn Thị _, 124</sub>

<small>Dung |</small>

TS Bui Ngọc Cường | 138

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

BAO CAO PHUC TRINH VE KET QUA NGHIENCUU CUA BAN CHU NHIEM DE TAI

<small>KKK KK KK</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Ngày 25/9/1989, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được Hội đồng Nhà nước

<small>(nay là UBTV Quốc hội ) nước Cộng hồ XHCN Việt nam thơng qua. Trong</small>

q trình thể chế hố đường lối đổi mới, đặc biệt là đổi mới về quản lý kinh tế

được Dai hội Dang toàn quốc lần thứ VI (1986) dé ra. Pháp lệnh hợp đồng

kinh tế ra đời đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc từng bước qui định và

mở rộng quyền tự do kinh đoanh, tự do hợp đồng, giải phóng mọi năng lực

sản xuất. và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.

Với qui định về nguyên tắc tự nguyện kí kết hợp đồng, chủ động tìmkiếm khách hàng và thoả thuận với khách hàng về nội dung giao kết. quyền tự

do hợp đồng của các chủ thể kinh doanh lần đầu tiên được luật pháp qui định.

Ki luật hợp đồng gắn liền với những chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà

nước là sự phù hợp với nền kinh tế thời chiến, nay trở thành yếu tế kìm hãm

các quan hệ kinh doanh, dich vụ và do đó cần thiết có sự thay d6i.Trong hệ

thống pháp luật Việt nam, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế là một trong những văn

bản đầu tiên tạo ra điện mạo mới cho các quan hệ kinh tế.

Tuy nhiên, được ban hành khi các quan hệ kinh tế trong nền kinh te thị

trường cịn chưa định hình và phát triển, với 5 chương 45 điều, Pháp lệnh hợp

đồng kính tế qui định những vấn dé mang tính khái quát và chịu ảnh hưởng

nhất định của các quan hệ kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Cac

qui định bat buộc một bên chủ thể của hợp đồng kinh tế phải là pháp nhân.hình thức của hợp đồng, trong mọi trường hợp phải bằng văn bản... đã trở nên

phi lí khi gạt bỏ -rất nhiều quan hệ kính doanh khỏi phạm vi, đối tượng ápdụng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (quan hệ hop dong giữa các doanh nghiệptr nhân, cơng ti hợp danh, hộ kính doanh cá thé...) Pay Tà sự khiếm khuyet

tất yếu bởi bối cảnh kinh tế khi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ra đời (1989)

mang những đặc thù nhất định. Chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh doanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp tập thể. va khongnhiều các xí nghiệp tư doanh, hộ kinh doanh cá thể. Khi Luật doanh nghiệp tưnhân, Luat Công ti được ban hành (1990) và sau này được thay thé bằng Luật

Doanh nghiệp (1999), nhiều hình thức pháp lý của hoạt động đầu tư thuộccác thành phần kinh tế được qui định đa dang, tạo cơ hội tham pia vào cácquan hệ kinh doanh của nhiều loại hình doanh nghiệp mà trước đó Pháp lệnh

hợp đồng kinh tế đã khơng thể tiên liệu hết.

Về kĩ thuật lap pháp, Pháp lệnh bộc lộ nhiều nhược điểm và gây khó

khăn trong việc áp dụng. Định nghĩa hợp đồng kinh tế dài dòng. mang tính

liệt kê nhưng lại khơng rõ phạm vi chủ thể (điều 1); Điều 9 không phân biệt

rõ ràng khái niệm đại diện hợp pháp và đại điện theo uy quyền: điều 8 xác

định hợp đồng kinh tế vô hiệu tồn bộ khi có nội dung vi phạm điều cấm của

pháp luật, khi một trong các bên khơng có đăng ký kinh doanh. khi người ký

kết hợp đồng không đúng thẩm quyền là chưa đảm bảo tính chính xác... bởicác trường hợp đó có thể chỉ mang lại hậu quả hợp đồng vô hiệu một phần...

Trong mốt quan hệ với các văn bản pháp luật khác, nhiều van dé mang

tính lý luận và thực tiễn liên quan đến Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần thiết

phải được tháo gỡ. Ở thời điểm ra đời, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được ban

hành cùng thời với Pháp lệnh hợp đồng dan sự. Với sự tách biệt mục dich

kinh doanh và tiêu dùng, hai pháp lệnh được áp dụng khá độc lập để điềuchỉnh hai nhóm quan hệ được thiết lập giữa hai nhóm chủ thể khác nhau và cómục dich khác nhau. Cùng với su hình thành và phát triển của nhiều quan hệ

kinh tế, nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng được ban hành

như Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995, Luật thương mại ngày 10/5/1997. Với

chủ trương coi Bộ luật Dan sự là văn bản điều chỉnh mọi quan hệ tài san. quanniệm về hợp đồng dân sự khơng cịn bị hạn chế bởi mục dích tiêu dùng nhưqui định trước đây trong Pháp lệnh hợp đồng dân sự (xem điều 394 Bo luật

dan su). Sự thay đổi này làm nảy sinh một vấn dé cần được giải quyết cả vẻ lý

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Bên cạnh đó, Luật Thương mại (1997) ra đời. Với đối tượng và phạm vì

áp dung là thương nhân và hành vi thương mại, Luật Thương mại qui định vềcác hợp đồng do thương nhín thiết lập khi thực hiện các hành vi thương mai.Về bản chất, đây là những hợp đồng trong thương mại - một loại hợp dongtrong kinh đoanh mà một bộ phận lớn trong số đó được coi là hợp đồng kinhtế. có thể chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Trong khi Pháplệnh hợp đồng kinh tế tồn tại nhiều qui định lạc hậu, Luật Thương mai có

nhiều qui định phù hợp hơn nhưng lại có phạm vi dp dụng hẹp và nhiều qui

định chưa thật hoàn chỉnh, nhiều quan điểm hoàn thiện pháp luật hợp đồng

trong kinh doanh đã tính đến giải pháp thống nhất hai văn bản pháp luật nàytrên cơ sở có kế thừa và phát triển. Lựa chọn phương hướng nào để hoàn thiên

pháp luật hợp đồng trong kinh doanh và có giải quyết mối quan hệ với luậtThương mại trong q trình hồn thiện hay khơng - đang còn là van dé tiếptục được nghiên cứu. Mặc đù vậy, việc tiếp tục tồn tại đồng thời cả hai văn

bản: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Luật Thương mại là một điều bat cập

trong pháp luật Việt nam nói chung và pháp luật hợp đồng nói riêng.

Những vướng mắc trên đây đã nói lên tính cấp thiết của việc nghiên

cứu, hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Việc

triển khai dé tài khoa học “ Pháp luật hợp đồng kinh tế - Thực trạng va

hướng hoàn thiện “ (mã số KH 99-06 ) là sự tham gia vào quá trình ngiêncứu và hồn thiện đó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989) từ lâu được Nhà nước đặt trong trong tinh

trạng sẽ sửa đổi, bổ sung nhưng đến nay (2003) vẫn chưa tìm ra giải pháp phùhợp. Từ nhiều góc độ khác nhau. đã có khơng ít cơng trình nghiên cứu vấn đề

đổi mới pháp luật hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Đó là các

cơng trình nghiên cứu, bài viết của PGS TS Lê Hồng Hạnh. TS Dương Đăng

Huệ, TS Hoàng Thế Liên...: các Luận án Thạc sĩ luật học: “Xây dựng pháp

luật về hợp đồng kinh tế trong điều kiện có Bộ luật dân sự và Luật Thương

mại" của tác giả Trinh Thị Sam; “Kí kết và thực hiện hợp đồng kinh tế trong

nên kinh tế thị trường” của tác giả Nguyễn Thị Khế; sách chuyên khảo “Ap

dụng trách nhiệm hợp đồng trong kinh doanh” NXB Chính trị quốc pia 2001

cua Thac si Nguyén Thi Dung...

Tuy nhiên, cho đến nay, trong bối cảnh đã hình thành nhiều lĩnh vựcpháp luật đa đạng. việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế

càng hàm chứa yếu tố phức tạp địi hỏi q trình tiếp tục thực hiện để tìm ra

giải pháp hồn thiện phù hợp. Do vậy, vấn đề này tuy không mới nhưng vần

ln mang tính thời sự trước những địi hỏi của nền kinh tế thị trường.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của dé tài là nghiên cứu vấn đề thực trạng pháp luật hợp dong

kinh tế và phương hướng hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế ở Việt nam.Để đạt tới mục đích này, nhiệm vụ của nhóm nghiên cứu phải giải quyết là:

- Nghiên cứu quan niệm về hợp đồng kinh tế, làm rõ mối quan hệ

giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự: phân tích những quan

điểm hồn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế để thiết lập cơ sở lí luậncủa định hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tê

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

- _ Nghiên cứu thực trang pháp luật về hợp đồng kinh tế với những vấnđề bất cập nổi bật để có cơ sở thực tiễn đưa ra phương hướng hoàn

thiện pháp luật hợp đồng kinh tế

<small>- Tt việc phân tích trên đây, nhóm nghiên cứu làm rõ những qui định</small>

cần sửa đổi. bổ sung và đưa ra định hường hoàn thiện pháp luật vềhợp đồng kinh tế trong nền kính tế thị trường.

4. Đối tượng và pham vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của dé tài là: (1) hệ thống các văn bản pháp luật

về hợp đồng kinh tế, các qui định có liên quan của Bộ Luật Dân sự và Luật

Thương mại về hợp đồng trong quan hệ đân sự và thương mại; (2) thực tiễn ápđụng các qui định pháp luật hợp đồng kinh tế.

Hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế trong điều kiện hiện nay là mội

vấn đề phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Việc

chưa tim ra giải pháp phù hợp để sửa đổi trong nhiều năm qua là một minhchứng cho điều đó. Chính vì vậy, trong khn khổ đề tài khoa học cấp trường.nhóm nghiên cứu khơng thể giải quyết tất cả các vấn đề lí luận và thực tiễn

mà chỉ tập trung làm rõ thực trạng pháp luật hợp đồng kinh tế và đưa ra địnhhướng hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế trên cơ sở giải quyết mi quan

hệ giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dan sự và nghiên cứu các quan điểm

hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu đã dựa trên cơ sở lí luận của Chủ

nghĩa Mác Lê nin về Nhà nước pháp luật, các quan điểm chỉ đạo của Dang và

Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới: chủ trương xây dung nền kính tế hàng

hố nhiều thành phần. thừa nhận và bao đảm quyền tự do kinh doanh. tự dohợp đồng của các chủ thể kinh doanh.

Nhằm lầm rõ thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật hop dong kinhtế, nhóm nghiên cứu đã vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của triệt

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>hoc Mác - Lê nin, của lí luận nhà nước pháp luật. Trong đó, nhóm nghiêncứu đặc biệt chú ý đến việc sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vat biên</small>

chứng, duy vật lịch sử, phương pháp nghiên cứu ly luận kết hợp với thực tiên,

phân tích, tổng hợp. so sánh các qui định pháp luật hiện hành để giải quyết

các vấn đề được đặt ra.

6. Những đóng góp về khoa học của đề tai

Trong những năm qua, mặc đù Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã được

nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau nhưng Pháp luật hợp đồng kinh tê vẫnchưa được sửa đổi bổ sung. Trong khi đó, các quan hệ kinh tế vẫn ln vậnđộng và phát triển không ngừng, các văn bản pháp luật mới điều chỉnh quan

hệ hợp đồng trong lĩnh vực dan sự và thương mại cũng lần lượt được banhành. Thực trang kinh tế và pháp luật đó đã đặt pháp luật hợp đồng kinh tẻ

vào tình trạng đã, đang lạc hậu và sẽ tiếp tục nảy sinh những điểm không phùhợp. gây nhiều vướng mắc, bất cập trong khi thực hiện. Vì vậy, việc triênkhai dé tài này vẫn mở ra kha năng sáng tạo và tìm tịi những ý tưởng mớitrong một nội dung khoa học quen thuộc: nghiên cứu hoàn thiện pháp luật

hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Chất lượng và hiệu quả của

cơng trình khoa học KH 99-06 được khẳng định với những đóng góp về khoa

học sau đây :

+ Nghiên cứu tổng thé lịch sử hình thành, phát triển và thực trạng cua

pháp luật hợp đồng kinh tế với ý nghĩa là những cơ sở thực tiên của việc hồn

thiện .

+ Phân tích một cách đầy đủ và sâu sắc vấn đề “ hợp đồng kinh té `trong khoa học pháp lý hiện nay, lý giải và chứng minh logic, biên chứng sự

cần thiết tồn tại của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường.

+ Phân tích biện chứng và logic mốt quan hệ giữa hợp đồng kinh tê với

hợp đồng dân sự và hợp đồng trong thương mại. đồng thời tổng hợp phân tích

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

pháp luật HĐKT. giao kết HĐKT. thực hiện HĐKT. hiệu lực của HDKT.

trách nhiệm hợp đồng v.v... Day là những nội dung quan trọng chứa dựng

nhiều ý tưởng mới được chứng minh bởi những cơ sở khoa học chặt chẽ. phùhợp và có sức thuyết phục. Điều quan trọng là nhóm nghiên cứu đã đưa ra

nhiều dự kiến sửa đổi pháp luật hợp đồng kinh tế mà ngay cả Ban soạn thao

Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (sửa đổi) trong những lần soạn thảo gần đây nhât

cũng chưa đề cập tới. Những đóng góp khoa học rất hiệu quả này đã góp phần

khẳng định chất lượng của việc nghiên cứu đề tài KH 99-06 do Bộ môn Luat

Kinh tế Khoa Pháp luật kinh tế chủ trì.7. Nội dung nghiên cứu

Với 9 chuyên đề, dé tài “Pháp luật hợp đồng kinh tế - Thực trang và

hướng hoàn thiện” mã số KH 99-06 được nghiên cứu với những not dung

e Định hướng hoàn thiện Pháp luật về hợp đồng kinh tế

8. Kết quả nghiên cứu của đề tài

8.1. Cơ sở lí luận của việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luát tê hopđồng kinh tê

Việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế được tiên hành trong hốicảnh pháp lí phức tạp. Việc đồng thời tồn tại những văn bản pháp luật khácnhau cùng điều chính quan hệ hợp đồng (Bộ luật Dan sự. Luật Thương mai.Pháp lệnh hợp đồng kinh tế) là một bài toán khó được đất ra trong q trình

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

đặc điểm của Hợp đồng kinh tế...) nhóm nghiên cứu đã tập trung làm ro mớiquan hệ giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự và coi đó là tiền dé cho

việc nghiên cứu định hướng hoàn thiện và những vấn đề cụ thể cần sửa đổi bố

sung trong pháp luật hiện hành về hợp đồng kinh tế. Bên cạnh ý nghĩa khoa

hoc quan trọng nay, việc xác định rõ mốt quan hệ giữa hợp đồng kinh te vàhợp đồng dan sự có ý nghĩa thực tiễn to lớn hởi nó giúp cho các nhà kinh

doanh hiểu biết cơ sở pháp lí vững chắc khi xác lập và thực hiện các giao dịchcủa mình, các thẩm phán có thể lựa chọn đúng đắn nguồn luật áp dụng để giải

quyết chính xác ccas tranh chấp hợp đồng nhằm bảo vệ quyền và lot ích hap

pháp của các tổ chức cá nhân, bảo vệ trật tự kinh doanh va kỉ cương xã hội.

Với 5 phần nghiên cứu: (1) ý nghĩa của việc xác định mối quan hệ piữa

hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân su, (2) Quan niệm về hợp đồng dân sự vahợp đồng kinh đoanh ở một số nước trên thế giới, (3) Quan hệ giữa hợp dòng

kinh tế và hợp đồng dan sự giai đoạn trước khi ban hành Pháp lệnh Hợp đồngkinh tế. (4)Giai đoạn sau khi có Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đên trước khi banhành Bộ luật Dan sự, (5) Quan hệ giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dan sự

sau khi có Bộ luật Dân sự, nhóm nghiên cứu đã khẳng định các nội dung

quan trọng sau đây:

+ Trong hệ thống pháp luật Việt nam, hop đồng kính tế và hop dịngđân sự đã từng tồn tại với tính chát là hai loại hợp đồng hoàn toàn đọc lập

<small>tới nhau.</small>

Trước khi ban hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. quan hệ hợp dong

kinh tế được điều chỉnh bởi: Điều lệ tạm thời về hợp đông kinh doanh banhành kèm Nghị định 735 TTg ngày 10-4-1957: Điều lệ tam thời về hợp dong

kinh tế ban hành kèm Nghị định 04TTg ngày 4-1-1960; Điều lệ chính thức về

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

hợp đồng kinh tế ban hành kèm Nghị định 54/CP ngày 10-3-1975. Nhìn

chưng. trong thời kì này, hợp đồng kinh tế được đặc trưng hởi yêu tố tổ chứckế hoạch và yếu tô tài sản. Xuất phát từ việc Nhà nước là chủ thể quyết định

cả 3 vấn đề cơ bản của sản xuất: sản xuất các gì, sản xuất như thế nào và sản

xuất cho ai nên hợp đồng kinh tế được kí kết khi các đơn vị kinh tê được giao

kế hoạch và bị huỷ bỏ khi kế hoạch nhà nước giao bị huy bo. Phân biệt với

các hợp đồng dan sự được thiết lập dựa trên cơ sở sự thoa thuận. tựnguyện.thống nhất ý chí. kí kết và thực hiện hợp đồng kinh tế lúc này là kí

luật bat buộc của nhà nước.

Như vậy, thời kì này, hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự tồn tại hoàntoàn độc lập và được phân biệt với nhau bởi các yếu tố: (1) Ve cứ thẻ giao

kếi hợp đồng kinh tế thường là các đơn vị kinh tế XHCN còn chủ thể của hợp

đồng dân sự thường là các cá nhân, tổ chức không phải là các đơn vị kinh tê:(2) Về hình thức: Hợp đồng kinh tế phải được giao kết bằng văn bản trong khi

hợp đồng dân sự cịn có thể được giao kết bằng lời nói hay bằng hành vi: (3)Về mục đích giao kết: Hợp đồng kinh tế được giao kết nhằm phục vụ cho hoạtđộng kinh doanh của các bền còn hop đồng dân sự được giao kết nhằm phục

vụ cho mực đích sinh hoạt, tiêu ding của ít nhất một bên tham gia hợp dong:

(4) Về yến tố thoả thuận và tính tổ chức kế hoạch: Hợp đồng kinh tê ít phanánh tính thoả thuận và nếu có yếu tố này thì cũng bị chỉ phối bởi yếu tò tỏ

chức, kế hoạch trong khi hợp đồng dân sự đơn thuần là sự thoai thuận trên cơ

SỞ tự nguyện ý chí.

Năm 1989, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được ban hành với điểm doimới căn bản nhất là bước đầu thể hiện nguyên tắc tự do kinh doanh hingquyền tự đo hợp đồng. phá bỏ nguyên tắc kí kết hợp đồng kinh tê là kt luật

bất buộc của Nhà nước. Ngay sau đó (1991). Hội đồng nhà nước tiệp tục ban

hành Pháp lệnh hợp đồng dan sự để điều chỉnh các quan hệ hợp dong dược

thiết lap giữa các tổ chức các nhân (trong đó có ít nhật một bên nhấm mục

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

nhiên. với sự phân biệt khá rạch roi về mục dich (kinh doanh hay tiêu dùng).về hình thức (hat buộc hay không nhất thiết bằng văn bản), về chủ the (cođăng kí kinh đoanh và có tư cách pháp nhân hay không), hợp dong kinh te vahợp đồng đân sự luôn được coi là hai loại hợp đồng tồn tại độc lập với nhau

trong pháp luật Việt nam,

+ Khi Bộ luật Dan sự duoc ban hành. hop đằng kính té được hiệu làmột loại hợp đồng dan sự có đặc thì riêng về chủ thể. mue đích và hình thứckí két

Khác với quan niệm trong Pháp lệnh hợp đồng dan sự (đã coi mục dich

tiêu dùng là một dấu hiệu chính để xác định phạm vi của hợp đồng dan su).Bộ luật Dân sự đã không qui định hạn chế mục đích của hợp đồng dan sự.

Điều 394 Bộ luật Dân sự qui định: hợp đồng dan sự là sự thoa thuận giữa cácbên về việc xác lập thay đổi hoặc chấm dứt quyền. nghĩa vụ dan sự. Qui địnhnày đã tạo ra sự tương đồng về chất giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dan

sự. đó là sự tự nguyện thoả thuận hướng tới việc xác lập, thay đổi. cham đứtcác quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Sự khác biệt giữa hai loại hợp đồng naychỉ cịn thể hiện ở một số điểm khơng cơ bản: trong số các chủ the của hợpđồng dan sự (cá nhân. pháp nhân, tổ hợp tác. hộ gia đình). những chủ the dap

ứng điều kiện về pháp nhân, về đăng kí kinh doanh... sẽ trở thành chủ thẻ của

hợp đồng kinh tế: trong các hình thức giao kết khác nhau (văn ban, lời nói.

hành vi) và các mục đích giao kết khác nhau, hợp đồng do các chủ the là phápnhân kí kết với nhau hoặc với cá nhân có đăng kí kinh doanh. nhằm mục dichkinh doanh và bằng văn bản sẽ thuộc khn khổ mot hop đồng kính te.

Nhóm nghiên cứu cũng đề cap đên các đặc thù cửa hợp dong theo quiđịnh của Luat Thương mai những không coi day là một loại hợp đồng doc lap

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

quan hệ giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự như sau:

Mot là, hợp đồng kinh tế là một dang đặc biệt của hợp đồng dân sự.

được xác lập giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc với những người có

liên quan để phục vụ cho các hoạt động hợp pháp của các bên. Quan hệ giữa

hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế là quan hệ giữa cái chung và cát riêng.

Những hợp đồng dân sự thoả mãn các điều kiện chủ thể, mục đích và hình

thức theo quy định của pháp luật hiện hành thì được coi là hợp đồng kinh tẻ.Hai là. quan hệ giữa Bộ luật Dân sự và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tê vớitư cách là các văn bản pháp luật cũng là quan hệ giữa cái chung và èái riêng.trong đó Bộ luật Dân sự là luật chung còn Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế là luậtriêng. Trong quan hệ luật chung - luật riêng đó. các quy định của Pháp lệnhHợp đồng kinh tế bao giờ cũng được uu tiên dap dung cho các quan hệ hợpđồng kinh tế. Những vấn dé nào chưa được quy định trong Pháp tệnh Hợp

đồng kinh tế thì áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự.

Ba là. xuất phát từ quan hệ giữa hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân su:

quan hệ giữa Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế với Bộ luật Dân sự mà việc hoàn

thiện Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế phải được đặt trong điều kiện các quy định

của Bộ luật Dân sự. Cụ thể, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (sửa đổi) chỉ quy

định những nội dung mang tính đặc thù của quan hệ hợp đồng kinh tê mà

thôi. Những vấn dé mang tính ngun tắc chung của hợp đồng thì ấp dụng

các quy định của Bộ luật Dân sự. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (sửa đế?) không

nhắc lại những quy định về hợp đồng của Bộ luật Dan sự mà tiếp tục pháttriển các quy định đó để chúng điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ hợp đồng

trong kinh doanh. Muốn vậy. các nhà làm luật phải xác định được những nòi

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

dung nào của Bo luật Dan sự đã phù hợp để điều chỉnh các quan hệ hop đồngtrong kinh doanh: những nội dung nào cần sửa đổi. bổ sung cho phù hop:những nội dung nào cần thiết phải quy định riêng trong Pháp lênh Hợp đồngkinh tế (sửa đổi). Có như vậy thì pháp luật về hợp đồng của nước ta mới tạothành một chỉnh thể thống nhất và có thể trở thành cơng cụ hữu hiệu cho các

Các nước theo truyền thống thông luật (common law) như Anh. Mỹ.

Úc, các nước chịu ảnh hưởng của truyền thống pháp luật này và một số nướcChâu Âu như Ý. Hà Lan, Thuy Sĩ không phân biệt giao dich thương nai với

giao dich dan sự. Mọi hợp đồng, bất luận được kí kết giữa các cơng tí thương

mại để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của chúng hay được kí kết giữa các

cơng dan với nhau để phục vụ cho mục đích sinh hoạt. tiêu đùng của họ đều

được coi là hợp đồng và cùng chịu sự điều chỉnh chung của một nguồn gồm

các quy định trong văn bản pháp luật, án lệ và tập quán thương mại.

Các nước theo truyền thống luật dan sự (civil law) như Đức. Pháp. TayBan Nha, Bồ Đào Nha, Bi, Luxemburg, Nhat Ban... có sự phân biệt hành vi

thương mại với hành vi dan sự. Bên cạnh hệ thống pháp luật dan sự. các nướcnày đều xây dựng và ban hành pháp luật thương mại dưới hình thức bộ luậthoàn chỉnh hoặc dao luật đơn hành. Nhu vay, mặc dù có sự phân biệt hành vithương mai với hành vi dan sự nhưng người ta chỉ coi hành vi thương mại là

dạng đặc biệt của hành vi dan sự. Pháp luật cua các quốc gia này không duara khái niệm về hợp đồng thương mai hay khái niệm hợp đồng kính doanh vớinội hàm riêng biệt của nó. Sự phân biệt hành vi thương mại với hành vi dan sựdan đến hệ qua là các giao địch mang tính chất thương mat sẽ tu tiên ap dụng

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

pháp luật thương mại; trường hợp pháp luật thương mại khơng quy định thì áp

dung các quy định của pháp luật dân sự. Pháp luật về thương mai của cácquốc gia này. dù được ban hành dưới hình thức một bộ luật hoàn chỉnh hay

một văn bản pháp luật đơn hành đều là bước phát triển tiếp tục của pháp luật

dan sự: pháp luật thương mại chỉ quy định những vấn dé mang tính đặc thù

của hoạt động thương mại mà thôi.

Ở một số nước mà pháp luật đã từng ghi nhận khái niệm hợp đồng kinh

tế như liên bang Nga, Trung quốc. xu hương hoàn chỉnh pháp luật về hopđồng kinh tế dién ra cũng rất phức tạp. Bộ luật Dân sự của Liên bang Nganăm [994 không còn phân biệt hợp đồng kinh tế va hợp đồng dan sự nhưtrước đây mà tất cả các hợp đồng phục vụ cho như cầu kinh doanh hay tiêudùng đều được điều chỉnh chung bởi Bộ luật Dân sự.

Ở Trung Quốc trước đây cũng có khái niệm hợp đồng kinh tế và có tới

ba đạo luật khác nhau quy định về loại hợp đồng này: Luật Hợp đồng kinh tế

(ban hành năm [981 và được sửa đổi về cơ bản năm 1993), Luật Hợp dong

kinh tế đối ngoại (năm 1985) và Luat Hợp đồng kỹ thuật (năm 1987). Ngoài

ra, trong luật dan sự cơ bản (năm 1986) cũng có nhiều quy định về hợp đồng.

Ngày 15/3/1999 Luat Hợp đồng của nước Cộng hồ nhân dan Trung Hoa

được thơng qua có hiệu lực áp dụng cho mọi quan hệ hợp đồng. dù phát sinh

từ hoạt động kinh doanh hay sinh hoạt, tiêu đùng. Cùng với sự ra đời của LuậtHợp đồng. pháp luật Trung quốc khơng cịn phân biệt hợp đồng kinh tẻ vớihợp đồng dan sự nữa. Trung quốc đang xúc tiến việc xây dung Bộ luật Dan sự

và trong dự thảo của bộ luật quan trọng này cũng chỉ quy định những nguyên

tắc chung nhất về nghĩa vụ và hợp đồng mà thôi. Day là những vấn dé chúngta cần suy nghĩ trong q trình nghiên cứu hồn thiện pháp luật về hợp dong

kinh tế ở Việt nam.

TRUNG TÂM THONG TIN THU VIỆN;

TRUONG BAI HỌC LUẬT HÀ NỘ Ï

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

8.2. Thực trạng pháp Indt hop đồng kinh tế va những van dé khó

khăn bát cập nảy sinh trong thực tiên áp dụng.

Bằng phương pháp khái quát hố kết hợp với nghiên cứu thực tiên.nhóm nghiên cứu đã tổng hợp những điểm bất cập lớn trong Pháp lệnh hợpđồng kinh tế - những bất cập hiện đang gây ra rất nhiều khó khăn. vướng mắc

trong q trình áp dụng. Có thể tiếp cận nhược điểm của pháp luật hợp đồng

kinh tế từ những phương điện chủ yếu sau đây:

+ Pháp luật về hợp đồng kinh tế được quy định trong nhiều văn bảnpháp luật khác nhau nhưng thiếu sự giải thích chính thức về việc áp dung các

văn bản pháp luật đó.

Pháp luật hợp đồng kinh tế được ghi nhận cụ thể trong 2 văn bản chínhlà Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 và Nghị định số I7HĐBT của

Hội đồng bộ trưởng ngày 16/1/1990. Ở thời điểm Pháp lệnh hợp đồng kinh tế

song song tồn tại cùng Pháp lệnh hợp đồng dân sự (1990), thực tiễn áp dung ítgặp phải những vướng mắc khi xác định phạm vi áp đụng các quy định củapháp luật, bởi mỗi Pháp lệnh được ban hành để điêu chỉnh những quan hệ

giữa những chủ thể khác nhau và có mục đích khác nhau khi thiết lập quan hệ

hợp đồng. Năm 1995, Bộ luật Dan sự được Quốc hội thông qua. Sự thay đổi

lớn nhất của Bộ luật này khi quy định về hợp đồng đân sự so với Pháp lệnhhợp đồng dan sự năm 1990 là không quy định về nue đích tiên ding của hợp

đồng dân sự. Moi sự thoả thuận giữa các chủ thể nhằm làm phát sinh. thayđổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự, không phụ thuộc vào mục dichkinh doanh hay tiêu dùng hay mục đích khác, đều được coi là hợp đồng dân

sự ( xem điều 394 Bộ luật Dan sự). Như vậy. về khoa hoc, mọi quan hệ hợpđồng, kể cả hợp đồng kinh tế đều được phép áp dụng Bộ luật dan sự. Tuynhiên, còn thiếu qui định cụ thể về vấn để này trong một văn bản pháp luật có

hiệu lực thị hành.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

doanh thương mại như hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dai lý. hợp

đồng uy thác, hợp đồng môi giới. hợp đồng kinh doanh dich vụ quảng cáo.

hội chợ triển lãm ...Cũng theo quy định của luật này, cá nhân. pháp nhân. hộ

hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mat sẽ trởthành thương nhân. Như vậy một bộ phận lớn các hợp đồng theo quy định cuaLuật Thương mại hội đủ các dấu hiệu của một hợp đồng kinh tế. Điều do

cùng có nghĩa là Luật Thương mại có khả năng áp dụng cho các quan hệ hợp

đồng kinh tế. Tuy nhiên, vướng mắc lại phát sinh ở chỗ: xác định tư nhân nhưthế nào, có phải mọi doanh nghiệp đều là thương nhân hay khơng? Van de

này cịn chưa thể có cách xác định thống nhất khi mà Luật Thương mại chưa

quy định rõ thẩm quyên, thủ tục “ cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

và trở thành thương nhân” (điều 17 Luật Thuong mai).

+ Do được ban hành sớm. lại thiếu sự sửa đổi hổ sung kịp thời nén

nhiều quy định trong pháp luật hợp đồng kinh tế khơng cịn dam bao phù hap.

Nhiều ý kiến của nhóm nghiên cứu cho rằng: việc quy định hình thứccủa hợp đồng kinh tế bắt buộc phải bằng văn bản trong mọi trường hợp. ngườiđược uỷ quyền không được phép uỷ quyền lại cho người khác là cứng nhac và

ảnh hưởng tới tính lĩnh hoạt của các bên khi thiết lập quan hệ hợp đồng: quy

định bat buộc một bên trong quan hệ hợp đồng kinh tế bat buộc phat và pháp

nhân là khơng có cơ sở khoa học, ảnh hưởng tới sự bình đẳng trong việc kýkết và thực hiện hợp đồng của các chủ thể kinh doanh. nhất là khi pháp luật

về doanh nghiệp đã thừa nhận nhiều chủ thể kính doanh khơng phải là pháp

nhân như doanh nghiệp tư nhân. công ty hợp danh. hồ kinh doanh cá thể. Ben

cạnh đó. việc quy định nội dung chủ yếu của hợp đồng với qua nhiều điều

khoản như hiện nay dé gây ra sự thiêu hợp tác. thiện chí vì lợi ích meng của

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

một bên. đồng thời không phù hợp với pháp luật quốc tế trong lĩnh vực hợp

đồng. Và con nhiều các quy định không phù hợp khác như quy định vê thờiđiểm hình thành hợp đồng, xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu... đang là nguyên

nhân gây ra những rắc rối trong quá trình áp đụng pháp luật.

+ Để điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh,

pháp luật hợp đồng kinh tế còn thiếu rất nhiều các quy định cần thiệt.

Điều chỉnh phần lớn các quan hệ hợp đồng phát sinh trong lĩnh vực

kinh doanh. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế không thể dat được hiệu qua ap dụng

như mong muốn khi mà còn thiếu quá nhiều các quy định cần thiết: khong

quy định cụ thể về phương pháp ký gián tiếp. nhiều biện pháp dam bảo ký kết

và thực hiện hợp đồng kinh tế chưa được quy định (như đặt cọc. ký quỹ) chưa

có quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, nhiều hình thức thong tinđiện tử (fax, telex...) chưa được coi là hình thức của hợp đồng ...

+ Về kỹ thuật lập pháp: pháp luật hợp đồng kinh tế cịn nhiều quy định

chưa dam bảo tính chặt ché và chính xác

Tiêu biểu cho các thiếu sót về kỹ thuật lap pháp là các quy định về daidiện ký kết hợp đồng, quy định về hợp đồng kinh tế vô hiệu và miễn gram

trách nhiệm vật chất đo vi phạm hợp đồng kinh tế.

Điều 9 Pháp lệnh HDKT khi quy định “Người ký kết hợp đồng kinh tế

phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân...Đại diện hợp pháp của phápnhân...có thể uỷ quyển cho người khác thay minh ký hợp đồng kính te” đã

mặc nhiên khơng coi người đại điện theo uỷ quyền là dại điện hợp pháp.Điều 8 Pháp lệnh HDKT quy định hợp đồng kinh tế rơ hiệu rồn bỏ trong cáctrường hợp (a) (by (c) là có sơ xuất bởi nếu chỉ có một phần nội dung cửa hợpđồng vi phạm điều cấm của pháp luật (ví dụ điều khoản giải quyết tranh chap)

hoặc nếu người được uy quyền chỉ vượt quá phạm vi được uy quyền thì khongthể coi hợp đồng là vơ hiệu tồn bộ. Khi quy định về các trường hợp mien

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

giam trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng kính tê. điều 40 Pháp lệnhhợp đồng kinh tê quy định căn cứ chung miễn. giảm trách nhiệm vật chat,

không quy định điều kiện miễn giảm trách nhiệm vat chat (ví dụ mới quan hệ

nhân qua giữa hành vi vi phạm và sự kiện bất kha kháng) đã dan đên tình

<small>trạng tuỳ tiện trong khi ấp dụng quy định nay...</small>

Những nhược điểm này đã đặt pháp luật hợp đồng kinh té vào tình

trang cấp thiết phải sửa đổi bể sung.

8.3 Định hướng hoàn thiện va những van đề cụ thé cần sửa doi bo

sung trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế

8.3.7 Về định hướng hoàn thiện

Với những cơ sở lý luận và thực tiễn đã được phân tích. nhóm nghiên

cứu đã xác định định hướng hoàn thiện và những vấn dé cần sửa doi bố sung

trong Pháp lệnh họp đồng kinh tế. Day là những đóng góp lớn về khoa học.

thể hiện rõ kết quả nghiên cứu có kế thừa và sáng tạo của nhóm nghiên cứu

đề tài.

La một vấn đề rất phức tạp và dang cịn được dat trong tình trạng tiếptục nghiên cứu. khi đưa ra định hướng hoàn thiện. các tác gia trong nhóm

nghiên cứu đã mạnh đạn dé xuất những phương ấn khác nhau. trên cơ sơ phan

tích rõ những luận cứ khoa học. Điều này thể hiện trong các chuyền de cua

Tiến sĩ Bùi Ngọc Cường, Tiến sĩ Phan Chí Hiếu, Thạc sĩ Nguyễn Thị Khe...Xuất phát từ yêu cầu điều chỉnh phù hợp các quan hệ pháp luật hopđồng kinh doanh là cấp thiết, chúng tôi đều cho rằng khong thể tiệp tục duntrì Pháp lệnh hợp đồng kinh tế với hiện trạng như hiện nay. Nghiên cứu vềphương hướng sửa đổi pháp luật hợp đồng kính tế, chúng tôi di đến mot so

kết luận như sau:

Thứ nhất: Việc ban hành Luat Hợp đồng hoặc Luật vẻ hợp đồng kinh te

là không cần thiết trong bối cảnh chúng ta đã có Luật Thương mat và Bo Tuất

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Dan sự. Việc ban hành văn bản như thế này sẽ dẫn đến tinh trạng có nhiều

<small>quy định trùng lặp với Luật Thuong mat và Bộ luật Dan sự.</small>

Thứ hai: Trong khi du thảo sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh hợp đồng kinhtế đã và đang được xây dựng rất nhiều lần. giải pháp kha thị trước mat mianhóm nghiên cứu dé cập đến là có thể sửa Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hiệnhành thành Pháp lệnh hợp đồng kinh doanh có kha năng điều chỉnh mot quan

hệ hợp đồng kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, băng hình

thức Pháp lệnh thì khơng thể hệ thống hoá. pháp điển hoá các quy định về

hợp đồng dang nằm rải rác ở các bộ luật. đạo luật ( Bộ luật Dân sự. Luật

Thương mái, Bộ luật hang hải, Luật hàng khơng dân dung ...) và do đó nhữngkhó khăn, vướng mắc gặp phải trong hơn mười năm qua vẫn không thê đượcgiải quyết triệt để.

Thứ ba: Trong tương lai, khơng nhất thiết phải duy trì khát niệm hợp

đồng kinh tế và hệ thống văn bản pháp luật quy định riêng về hợp đồng kinh

tế. Điều này có thể tránh được nguy cơ nảy sinh những vấn đề phức tạp trongviệc xây đựng pháp luật và áp dụng pháp luật. Bộ luật Dân sự với hơn 200

điều quy định về hợp đồng là khá đầy đủ và tương đối phù hợp để điều chỉnh

quan hệ hợp đồng trong hoạt động kinh doanh. Day là văn ban dược hình

thành trên cơ sở pháp điển hoá các quy định về hợp đồng trong các văn bảnpháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau và dưới nhiều hình thức khác nhau.

từ các luật như Bộ luật Hang hải Việt nam (1990), Luật Hàng không Dân

dụng Việt nam (1992) đến các Pháp lệnh như Pháp lệnh Hợp đỏng dân sự

(1991), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Pháp lệnh nhà ở (1991). Pháp

lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lênh Bao ho quyền tác

giả... Hơn nữa, vấn dé sửa đổi. bổ sung Bộ luật Dan sự đang được đất ra và

không loại trừ khả năng bổ sung những quy định mang tính thương mại trong

bộ luật này. Theo chúng tôi, việc sử dung Bộ luật Dân sự để điệu chính chung

các quan hệ hợp đồng là một giải pháp hiệu qua ca về lý luận và thực tien.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Tuy nhiên, quá trình thực hiện phương án này phụ thuộc nhiều vào việc sửa

đổi, bở sung các quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành.9.3.2 Những vấn đề cụ thể cần được sửa đổi bổ sung:

Mặc dù định hướng lớn của việc sửa đổi pháp luật về hợp đồng kinh tế

là vấn đề đang còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho

rằng những quy định về các vấn dé sau đây nhất thiết phải được thay doi để

tư nhân, Công t¡ hợp danh. cá nhân và hộ gia đình có đăng ký kinh doanh. Dovậy, mở rộng phạm vi áp dụng Pháp lệnh là cần thiết và có thé bằng cách: (1)

Mở rộng phạm vi chủ thể đến mọi chủ thể kinh doanh hợp pháp: (2)Khong

quy định bắt buộc sử dụng hình thức văn bản đối với mọi quan hệ hợp đồng

kinh tế, đồng thời cơng nhận các hình thức thơng tin điện tử (telex, fax...) làhình thức của hợp đồng. Ngồi ra, cũng nên mở rộng phạm vi áp dụng pháp

luật hợp đồng kinh tế đến những hợp đồng mà một bên là chủ thể kinh doanh

cịn bên kia khơng là chủ thể kinh đoanh, khơng nhằm mục đích kinh doanh

nhưng cũng khơng nhằm mục đích sinh hoạt. tiêu dùng khi giao kết hợp đồng

kinh tế.

+ Các quy định về giao kết hợp đồng kinh tế

Các quy định hiện hành về ký kết hợp đồng kinh tế tập trung giai quyết

4 vấn dé: nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế: chủ thể ký kết hợp đồng kinh

<small>` A</small>

tế; thủ tục ky kết hợp đồng kính tế và nội dung của hợp đồng kinh tế. Hau hetcác quy định nay còn chưa hợp ly, chưa rõ rang. cụ thể và thiêu tính kha thi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

và đạo đức xã hội, ngun tắc tự nguyện, bình đẳng thiện chí. hợp tác trung

thực và ngay thẳng. Điều này sẽ tạo ra sự phù hợp cần thiết trong khi điều

chính quan hệ hợp đồng kinh tê.

Nhóm nghiên cứu cũng tiếp tục khẳng định: (1) Cần thiết phải mở rộngphạm vi chủ thể cửa hợp đồng kinh tế đến mọi chủ thể kinh doanh hợp pháp

trong nền kinh tế thị trường: (2) Cần thiết quy định rõ thủ tục ký kết hợp đồng

kinh tế. đặc biệt là cách thức ký kết gián tiếp và thời điểm hình thành hợpđồng kinh tế. Nếu các bên trực tiếp gặp nhau để giao kết hợp đồng kinh tế thì

hợp đồng được coi là hình thành kể từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp

đồng. Trường hợp các bên khơng cùng có mặt để hợp đồng. hợp đồng được

coi là đã giao kết kể từ khi bên đề nghị nhận được thông báo của bên đối tácchấp nhận toàn bộ các điều kiện trong thời hạn trả lời. Nếu có sửa đổi bổ sung

nội dung của dé nghị hợp đồng nhưng không làm thay đổi nội dung chu yeu

của hợp đồng và bên đề nghị hợp đồng cũng khơng phản đốt ngay thì hợpđồng cũng được coi là đã giao kết.

Các văn bản pháp luật về hợp đồng đều có quy định các điều khoản chủ

yếu của hợp đồng. Đây là những điều khoản có ý nghĩa quan trọng trong việcxác định sự thoả thuận giữa các bên đã được coi là hợp đồng hay chưa? Khi

pháp luật quy định quá nhiều những nội dung được coi là điều khoản chủ u

thì cũng có nghĩa là đã hạn chế quyển tự do thoả thuận của các bên va dan

đến hậu qua hạn chế tính kha thí của pháp luật. Điều 12 Pháp lệnh hợp dong

kinh tế đã và đang ở trong tình trạng đó. Nhóm nghiên cứu cho rang. noi

dung chủ yếu của hợp đồng kinh tế nên được quy định như sau: Nor dưng chuyếm cia hợp đồng kinh tế là những điền khoản mà nên thiểu nó thì hợp dongchưa được coi là dd giao kết. Nội dung chu yeu cua hop đồng bạo vom dieu

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

khoản về déi tương và điều khoản eid cá, trong đó đời tương của hop đồngđược tính bằng xố lượng hàng hố hoặc khối lượng cơng việc. chát lương,

chủng loại qui cách, tính đồng bộ của sản phẩm hoặc vẻu cau kỹ thuật của

công việc. Đối với từng loại hợp đồng, ngoài những điều khoản chủ yếu mà

pháp luật quy định, các bên có thể thoả thuận những diéu khoản khác ma họ

cho là cần thiết trong hợp đồng.

+ Các quy định về hợp đồng kinh tế vô hiệu

Xác định hợp đồng kinh tế vô hiệu và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu là

một vấn dé quan trọng cả về ly luận và thực tiễn. Tuy nhiên. nhóm tác giacho rằng các quy định hiện hành về hợp đồng kinh tế vô hiệu đã khơng kịpthời đáp ứng được địi hỏi của thực tiễn áp dụng pháp luật hợp đồng trong

kinh doanh. Thay vi chỉ quy định liệt kê các trường hợp hợp đồng kinh tê vô

hiệu và cách xử lý hợp đồng kính tế vơ hiệu như hiện nay, pháp luật cần quy

định cần thiết phải quy định khái niệm hop đồng kinh tế vô hiệu. xác địnhhậu quả pháp ly của hợp đồng kính tế vơ hiệu, phân chia thành: hai loại hợpđồng kinh tế vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng kinh tế vô hiệu tương đốt. Những

quy định này cần được tiếp cận theo nguyên tắc không huỷ bỏ tất cả hợp dongkinh tế bị coi là vô hiệu mà có xem xét đến lợi ích của bên khơng có lot và

nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bên của bên có lỗi trong quan hệ hợp đồng.Bên cạnh đó. để đảm bảo tính phù hợp và khoa học, cần có những sử đổi. bỏsung quy định về các trường hợp hợp đồng kinh tế vô hiệu như: bố sung

trường hợp hợp đồng kinh keetsvoo hiệu do vi phạm quy định về hình thức kv

kết, do có sự Iva doi (chứ không phải là Ita dao) hoặc sự de dọa trong giaokết hợp đồng.. Thẩm quyền tuyên bố và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu cũng

cần được quy định cụ thể. Hiện nay, Trọng tài kinh tế Nhà nước khơng con

tồn tại. Tồ ấn nhân dan và cơ quan Trong tai kinh tế phí chính phú lại chỉ cóthâm quyền giải quyết tranh chap kinh té theo yêu cầu của các bên có tranhchấp. Thưc tế này đã gây ra khơng ít khó khăn trong khi giai quyết các hop<sub>: ; } F |</sub>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

đồng kinh tế vơ hiệu.Chúng tơi cho rằng. hồn tồn có thể quy định thấm

quyền này cho Tồ án và Trọng tài kinh tế phí chính phủ. song cần có quy

định rõ ràng và phù hợp về những chủ thể có quyền yêu cầu tuyên bố hợp

đồng kinh tế vô hiệu.

+ Các quy định về thực hiện hợp đồng kinh tế

Được đề cập đến trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế với ba nội dungchính: nguyên tắc thực hiện hợp đồng. các biện pháp đảm bảo thực hiện hợpđồng và cách thức thực hiện hợp đồng. So với yêu cầu điều chỉnh bang phápluật trong giai đoạn hiện nay, các quy định này trong pháp lệnh đều khongcòn phù hợp và khơng đáp ưng được u cầu. Nhóm nghiên cứu cho rằng cần

phải quy định nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng trên cơ sở thái đô trung

thực, hợp tác và tơn trọng lợi ích chung và lợi ích của người khác. Đồng thời,

nhằm mục đích hồn chỉnh cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền tự do hợp

đồng, pháp luật về hợp đồng kinh tế cũng cần thiết quy định thêm một số biệnpháp dam bao khác như đặt cọc, ký quỹ thay vì chỉ quy định ba biện pháp

cầm cố, thế chấp, bảo lãnh như hiện nay.

+ Các quy định về trách nhiệm hợp đồng

Với tính chất là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh trong lĩnh vực

ký kết và thực hiện hợp đồng, trách nhiệm hợp đồng có ý nghĩa tầng cường ýthức trách nhiệm và tinh thần hợp tác của các bên khi thực hiện hợp đồng daký. Tuy nhiên, để hoàn thành sứ mệnh đó, những quy định về trách nhiệmhợp đồng trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cịn có rất nhiều điểm phai sửađổi, bổ sung. Cu thể là cần phải quy định bổ sung các hình thức chế tài bude

thực hiện đúng hợp đồng, huỷ hợp đồng: khi quy định về việc ấp dụng các

chế tài hợp đồng cần dam bảo nguyên tắc tự đo hợp đồng, tránh cách thức quy

định áp đặt như hiện nay: khí quy định về việc miễn giảm trách nhiệm val

chất, không chỉ cần thiết quy định rõ các trường hợp miễn giam ma con phải

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

quy định rõ mốt quan hệ giữa các trường hợp đó và hành vi vì phạm với tínhchất là điều kiện miễn giảm trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.

Trên đây là những nội dung cơ bản của các chuyên đề mà nhóm tác giasẽ nghiên cứu và phân tích chi tiết ở phần sau. Nghiên cứu. hồn thiện pháp

tuật hợp đồng kính tế trong bối cảnh hiện nay là một van dé hết sức khó khan

và phức tạp. Cơng việc này đã được triển khai với nhiều hình thức và cap do

khác nhau trong nhiều năm nhưng đến nay van chưa có lời kết luận. Với kinh

nghiệm được tích luỹ trong q trình nghiên cứu và giang day. nhóm tác gia

hy vọng rằng cơng trình nghiên cứu này thực sự là một đóng góp khoa học có

<small>giá tri.</small>

Do tính chất phức tạp của vấn đề và trong bối cảnh cịn có nhiều quanđiểm hồn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế, cơng trình nghiên cứu của nhóm

tác giả khơng thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tập thể tác gia mong

nhận được sự góp ý chân thành của Hội đồng nghiệm thu dé tài. của các nhànghiên cứu. giảng day đã và đang quan tâm đến vấn đề này.

Ban chủ nhiệm dé tài cùng tập thể tác gia xin chân thành cam ơn,

BAN CHỦ NIHÊM ĐỀ TÀI

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

PHAN 2

CAC BAO CAO CHUYEN DE CUATAP THE TAC GIA

<small>+ kk *** ck</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

MỐI QUAN HỆ GIỮA HỢP ĐỒNG KINH TẾVÀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

TS, PHAN CC HÍ HH:

1. Y NGHĨA CUA VIỆC XÁC ĐỊNH MỐI QUAN HỆ GIỮA HỢP ĐỒNG

KINH TẾ VÀ HỢP DONG DAN SỰ

Trong quá trình hoạt động. các chủ thể kinh doanh có nhu cầu thườngxuyên tham gia quan hệ với nhau và với người liên quan để sản xuât. muabán, trao đổi hàng hoá. cung ứng dịch vụ. th mướn nhân cơng... Hình thức

pháp lí của các quan hệ đó chính là hợp đồng. Hợp đồng trong thực tiên het

sức phong phú và người ta có thể dựa trên nhiều căn cứ khác nhau dé phan

loại hợp đồng:

(1) Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ theo hợp đồng ma người ta

chia thành hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế.

(2) Căn cứ vào sự tương xứng về nghĩa vụ của từng bên trong hợp dongmà người ta chia thành hợp đồng mang tính chất dén bù hoặc hợp dong khongmang tính chất đền bù...

(3) Căn cứ vào nội dung cụ thể của hợp đồng mà người ta chia thành

những loại hợp đồng riêng như: Hợp đồng mua bán. hợp đồng liên kết. hợp

đồng vận chuyển. hợp đồng tín dụng. hợp đồng bảo hiểm. hợp dong dai lí,

hợp đồng xây dựng...

(4) Căn cứ vào cơ cấu chủ thể của hợp đồng. mục đích của các chu the

khi tham gia quan hệ hợp đồng và hình thức thể hiện sự thoa thuận của cát

chu thê mà pháp luật nhân biệt thành hợp dong kính tế hay hợp dong dan su.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Cũng cần lưu ý rằng nhiều tài liệu còn dé cập tới khát niệm hợp dongthương mại - loại hợp đồng được giao kết giữa các thương nhân với nhau hoặcgiữa thương nhân với các bên có liên quan trong hoạt động thương mại. Nói

đến hợp đồng thương mại là nói đến lĩnh vực phát sinh.quan hệ hợp động. Đócó thể là hợp đồng mưa bán hàng hoá, hợp đồng đại điện cho thương nhân.hợp đồng môi giới thương mại. hợp đồng uy thác mua bán hàng hố. hợp

đồng đại lí mua bán hàng hố. hợp đồng gia cơng... Khi thoa mãn các điều

kiện về chủ thể. mục đích và hình thức hợp đồng thì hợp đồng trong hoạt

động thương mại mang tính chất của hợp đồng kính tế. Những trường hợp cònlại. hợp đồng trong hoạt động thương mat chỉ mang tinh chat cua hợp dong

dan sự. Trong bài viết nay chúng tôi không dé cập tới hợp đồng thương mai

như một loại hợp đồng độc lập, bên cạnh hợp đồng kinh tế và hợp dong dan

sự mà chỉ dé cập tới những hợp đồng kinh tế trong các hoạt động thương mai

mà thôi. Bởi vậy. bài viết cũng không đặt ra mục dich phân tích mỏi quan hệgiữa hợp đồng trong hoạt động thương mại (hợp đồng thương mại) vớt hợpđồng dan sự hay với hợp đồng kinh tế.

Ở nước ta hiện nay, những quy định về hợp đồng tan mát trong rat nhieu

văn bản pháp luật khác nhau. Bên cạnh những văn ban quy định những van de

chung về hợp đồng như Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế cịn có

rất nhiều văn bản quy định về hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ the. Ví du: Bo

luật Hàng hải Việt Nam, Luật Hàng khơng dan dụng Việt Nam. Luat Thương

mại, Luật Kinh doanh bao hiểm, Luật Các tổ chức tín dụng. [tát Doanh

nghiệp. các Nghị định của Chính phủ về quản lí đầu tư xây dựng. các The lẻ

vận chuyên hàng hoá, hành khách bằng những phương thức khác nhàu... Do

đó. việc xác định chính xác mối quan hệ giữa hợp đồng kinh tê. hợp dong dan

sự khơng chỉ có giá trị về Khoa học mà con có y nghia to fon ve thục tiên.

Hiểu được moi quan hệ nay, các nhà xây dựng pháp luật mới có the có định

hướng trong việc xây dung và hoàn thiên các văn ban pháp frat ve hap done:<sub>Ẹ y dựng : ị ¡</sub>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

các nhà kinh doanh mới có cơ sở pháp lí vững chắc cho việc xác lập và thực

hiện các giao địch của mình; các Thẩm phán mới lựa chọn đúng din nguon

luật áp dụng để giải quyết chính xác các tranh chấp hợp đồng nhằm bảo vệ

quyển và lợi ích hợp pháp của các tổ chức. cá nhân. bảo vệ trật tự kinh doanh

và ki cương xã hội.

Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, vì nhiều lí đo khác nhau ma quanhệ giữa các loại hợp đồng dân sự. kinh tế, thương mại chưa được quan tâmthoa đáng. Điều này đã dẫn đến nhiều hậu qua tai hại:

- Các quy định về hợp đồng trong các văn bản pháp luật cịn mau

thuần, chồng chéo và chế khắc lẫn nhau. đó là chưa kể đên tinh trạng nhiều

quy định về hợp đồng chỉ là những bản sao khơng hồn hảo của những văn

bản pháp luật được ban hành trước đó và tất cả những điều này đã làm giảm

hiệu lực thi hành của các văn bản pháp luật.

- Các tổ chức, cá nhân, nhất là các nhà kinh đoanh thường rat hồi rối

khi tìm đến những cơ sở pháp lí khi họ có nhu cầu kí kết hợp đồng.

- Khi tranh chấp hợp đồng phát sinh, các cơ quan tài phán gặp nhiềukhó khăn trong việc xác định nguồn luật áp dụng và dẫn đến những sai sói

đáng tiếc trong việc đưa ra phán quyết.

Việc xác định chính xác mối quan hệ giữa hợp đồng kinh tê. hợp dong

dan sự tuy có ý nghĩa cực kỳ to lớn cả về lí luận lẫn thực tiên nhưng lạt là mọi

công việc vô cùng phức tạp và có nhiều quan điểm trái ngược. Tính phức tạp

này xuất phát từ thực tế là tuy tư duy pháp lí của chúng ta đã có những thay

đổi căn bản khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hố tập trung sang nền kính te

hàng hố nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường nhưng những nếpnghĩ, nếp lam cũ ít nhiều vẫn cịn tồn tại. Hơn nữa, khoa học pháp lí cua Việt

Nam, do ln được tiếp thụ những thành tựu sẵn có của khoa học pháp lí xo

viết và của các nước XHƠN mà chưa có những cong trình nghiên cứu có eta

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

trị về quan hệ giữa các loại hợp đồng. Và cuối cùng là trong pháp luật thực

định, bản thân các nhà làm luật, có lẽ chưa bao giờ có ý định xác định rõ về

mối quan hệ này.

Xuất phát từ tính phức tạp của vấn dé mà quan hệ giữa hợp đồng kínhtế và hợp đồng dan sự phải được nghiên cứu làm rõ trong từng giai đoạn phat

triển kinh tế - xã hội của nước ta, với sự liên hệ với pháp luật của một số nướctiêu biểu trên thế giới.

2, QUAN NIEM VỀ HỢP DONG DAN SỰ VÀ HOP DONG KINH DOANH ỞMỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, nhìn chung khơng có

sự phân biệt rạch ròi giữa hợp đồng dân sự (loại quan hệ được xác lập giữa

các tổ chức, cá nhân thường không phải là các chủ thể kinh doanh với mục

đích thoả mãn nhu cầu nào đó mang tính chất sinh hoạt, tiêu dùng cua các

bên) và hợp đồng thương mại (hay hợp đồng kinh doanh - loại quan hệ

thường được xác lập giữa các chủ thể kinh doanh với nhau và với các bên có

liên quan nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận của

<small>các bên).</small>

Các nước theo truyền thống thông luật (common law) như Anh. Mỹ.Úc, các nước chịu ảnh hưởng của truyền thống pháp luật này và một số nướcChâu Âu như Ý, Hà Lan, Thuy Sĩ không phân biệt giao dịch thương mại với

giao dich dân sự. Mọi hợp đồng, bất luận được kí kết giữa các công ti thương

mại để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của chúng hay được kí kết giữa cáccơng đân với nhau để phục vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu đùng của họ đềuđược coi là hợp đồng và cùng chịu sự điều chỉnh chung cửa một nguồn gom

các quy định trong văn bản pháp luật, án lệ và tập quán thương mại. Pháp luàt

của các quốc gia này cũng có nhiều quy định riêng về các hoạt dong kinh

doanh thu lợi nhuận của các nhà kinh doanh. Ví dụ: Hoa Kv có Bọ teat

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<small>Thương mai thống nhất Hoa kỳ (Uniform Commmercial Code - UCC) nam</small>

I958: Anh có Luat về bán hàng (Sale of Goods Act) năm $893 và được sửa

đổi căn bản vào năm 1980 quy định về một số nghĩa vụ riêng của người bán:

Thụy Sỹ có Luật nghĩa vụ năm 1883 được sửa đổi. bổ sung căn bản vào năm

1911 và được coi là cuốn thứ V của Bộ luật Dân sự, trong đó có nhiều quy

định về mua bán thương mại; Ý có Bộ luật Dan sự năm 1942 cũng có nhiềuquy định về các hợp đồng được giao kết để phục vụ cho hoạt động kinh

<small>doanh.</small>

Các nước theo truyền thống luật dân sự (civil law) như Đức. Pháp. TayBan Nha. Bồ Đào Nha. Bi, Luxemburg, Nhat Bản... có sự phân biệt hành vi

thương mại với hành vi dân sự. Bên cạnh hệ thống pháp luật dan sự, các nướcnày đều xây dựng và ban hành pháp luật thương mại dưới hình thức hộ luậthồn chỉnh hoặc đạo luật đơn hành.

Trong các nước theo truyền thống luật đân sự thì Pháp là nước theo

thuyết khách thể và Bộ luật Thương mại Pháp được coi là luật của các hành vi

thương mại. Bộ luật Thương mại Pháp phân biệt hành vi thương mại (Actes de

commerce) với hành vi đân sự và liệt kê các hành vị được coi là hành vịthương mại. Điều 632 Bộ luật Thương mại Pháp liệt kê các hành vi được coi

là hành vị thương mại. Ngồi ra Điều 633 Bộ luật này cịn quy định mọi hành

vi do thương nhân thực hiện trong khuôn khổ hoạt động thương mại của ho

đều được coi là hành vi thương mai.

Đức là nước theo thuyết chủ thể và Bộ luật Thương mại Đức được coi là

pháp luật áp dụng trước hết với thương nhân. sau đó mới là pháp luật đốt vớihành vi thương mại. Do đó, Bộ luật Thương mại Đức đành nội dung quantrọng cho việc xác định tư cách thương nhân. Trong các mục 1-3 Bo luật

Thương mại Đức liệt kê những đối tượng được cot là thương nhân. Ngoài ra.

Điều 343 Bộ luật Thương mại Đức đưa ra khát niệm về giao dịch thương mại.theo đó giao dịch thương mại là tất ca những giao dich của thương nhàn có

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

liên quan đến hoạt động kinh doanh của họ. Bộ luật Thương mại Nhật Bản

cũng đưa ra khái niệm giao dịch thương mại (commercial transactions) và liệtkê những giao địch được coi là giao dịch thương mại.

Nhu vậy, các nước chịu ảnh hưởng của truyền thống luật dan sự đều có

sự phân biệt hành vi thương mại với hành vi dan sự nhưng người ta chỉ coihành vi thương mai là dang đặc biệt của hành vi đân sự mà thôi. Pháp luật củacác quốc gia này không đưa ra khái niệm về hợp đồng thương mại hay kháiniệm hợp đồng kinh doanh với nội hầm riêng biệt của nó. Sự phân biệt hành

vị thương mại với hành vi đân sự dẫn đến hệ qua là các giao dich mang tính

<small>chất thương mai sẽ uu tiên áp dụng pháp luật thương mại: trường hợp pháp</small>

luật thương mại khơng quy định thì áp dụng các quy định của pháp luật dân

sự. Pháp luật về thương mại của các quốc gia này, dù được ban hành dưới

hình thức một bộ luật hồn chỉnh hay một văn bản pháp luật đơn hành đều là

bước phát triển tiếp tục của pháp luật dân sự: pháp luật thương mại chỉ quyđịnh những vấn đề mang tính đặc thù của hoạt động (hương mại mà thôi.

Trong khoa học pháp lí xơ-viết trước đây tồn tại khát niệm hợp đồng

kinh tế (khôjaistvennưi dogovor). Nhưng khi Liên bang Nga ban hành Bo luậtDan sự mới của mình vào năm 1994 thì khơng cịn duy trì khát niệm hopđồng kinh tế nữa. Phần I của Bộ luật Dan sự Liên bang Nga quy định nhữngvấn dé mang tính nguyên tắc về nghĩa vụ và hợp đồng. Phần hai quy định vẻcác loại hợp đồng thông dụng. Như vậy, Bộ luật Dân sự Liên bang Nga khơngcịn phân biệt hợp đồng dan sự và hợp đồng kinh tế mà mọi hợp đỏng. dù

được kí kết để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh hay sinh hoạt. tiêu dùng đếuđược gọi chung là hợp đồng (dogovor) và chịu sự điều chỉnh chung của Boluật Dan sự.!

<small>° Xem Hộ luật Dan sự Liên bang Nga. Ban tiếng Nga: Gratdanxki codecs RE. Nha ste bạn TnphraM. Nlalxcơva. Năm: 1996.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Ở Trung Quốc trước day cũng có khái niệm hợp đồng kinh tế. Tham

chí có tới ba đạo luật khác nhau quy định về loại hợp đồng này: Luật Hop

đồng kinh tế (ban hành năm 1981 và được sửa đổi về cơ bản năm 1993), Luat

Hợp đồng kinh tế đốt ngoại (năm 1985) và Luật Hợp đồng kỹ thuật (năm1987). Ngoài ra. trong luật dân sự cơ bản (năm 1986) cũng có nhiều quy định

về hợp đồng. Và tình hình của họ cũng có vẻ giống Việt Nam khi rất khó xácđịnh mối quan hệ giữa các loại hợp đồng này và các nhà kinh đoanh cũng như

các thẩm phán rất lúng túng trong việc xác định nguồn luật điều chính quan

hệ hợp đồng. Ngày 15/3/1999 Luật Hợp đồng của nước Cộng hoa nhân dan

Trung Hoa được thơng qua. Có thể coi đạo luật này là luật thống nhất vẻ hợp

đồng. Luật này được áp dụng cho mọi quan hệ hợp đồng, dù phát sinh từ hoạt

động kinh doanh hay sinh hoạt, tiêu đùng. Cùng với sự ra đời của Luật Hop

đồng, pháp luật Trung quốc khơng cịn phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp

đồng dan sự nữa.' Trung quốc đang xúc tiến việc xây đựng Bộ luật Dan sự và

trong du thảo của bộ luật quan trọng này cũng chỉ quy định những nguyên tacchung nhất về nghĩa vụ và hợp đồng ma thôi.

Qua việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng của mat số quốc gia trên

thế giới chúng ta có thể rút ra kết luận sơ bộ như sau: Nhìn chung các nước

trên thế giới, kể cả các nước theo truyền thống luật dan sự và các nước dangchuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trườngđều khơng có sự phân biệt rach ròi hợp đồng trong lĩnh vực kinh đoanh vớihợp đồng trong lĩnh vực dan sự. Một số nước phân biệt hành vi thương mat

với hành vi dan sự cũng chỉ coi các giao dịch thương mai là dang đặc biệt của

giao dich dân sự mà thôi. Pháp luật thương mại được cot là luật riêng còn

pháp luật dân su là luật chung; pháp luật thương mại là bước phát triển tiếp

<small>! “ee : ay : _ HB cưới 8 ". : h :</small>

<small>Xem GS. Sucukt Ken, Dae diem và nhe Khái mem H làn có han cua buat top dene there abat</small>

<small>của Trine Quốc, Tai Hiệu Hor tháo về heeit ddan sự và thường uid Viết Nam - Nhat Ban Hea New be bs tate</small>

<small>11/1990. Tr 87.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

tục của pháp luật đân sự ở những nọi dung mang tính đặc thù của hoạt đọngthương mại. Và điều này dẫn đến hậu quả là đối với các hợp đồng được xáclập để phục vụ cho hoạt động kinh doanh thì ưu tiên áp đụng pháp luật thươngmại; những vân đề nào pháp luật thương mại khơng quy định thì áp dụng các

quy định cua pháp luật dân sự.

3. QUAN HỆ GIỮA HỢP ĐỒNG DAN SỰ VÀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ GIAI

DOAN TRƯỚC KHI BAN HANH PHÁP LENH HỢP DONG KINH TẾ

Trong nền kính tế kế hoạch hoá tập trung, chúng ta thừa nhận hai lĩnh

<small>vực hoạt động độc lập là kinh doanh (kinh tế) và dan sự. Khu vực kinh tế bao</small>

gồm các hoạt động của các đơn vi kinh tế của Nhà nước (xí nghiện quoc

doanh, nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh) và của tập thể (hap

tác xã trong các ngành nghề kinh tế - kỹ thuật).

Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung Nhà nước XHCN vừa là trung tâm

quyền lực chính trị, vừa là chủ sở hữu duy nhất đối với tuyệt đại da so các tư

liệu sản xuất chủ yếu. Nhà nước thành lập các tổ chức kinh tế để tiên hànhcác hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời lãnh đạo, quan lí các hoạt dong

sản xuất kinh doanh đó. Quan lí vĩ mơ và quan lí vi mơ được hồ làm mot và

đều nằm trong tay Nhà nước XHCN. Trong những điều kiện như vậy, quan hệ

hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế XHCN với nhau và với các bên có liên quan

để thực hiện các kế hoạch và nhiệm vụ được Nhà nước giao có nhiều đặc thù.Tính đặc thù thể hiện ở chỗ trong các quan hệ hợp đồng này hàm chứa 2 vếutố: (1) yếu tố tổ chức kế hoạch và (2) yếu tố tài sản. Yeu fð tở chức kẻ hoạch

(quan hệ dọc) thể hiện chủ yếu trong quá trình kế hoạch hoá. Đối tượng củaquan hệ kế hoạch hoá là các hoạt động sản xuất kinh doanh. gắn liền với quá

trình luân chuyển hàng hoá. tiền tệ nên trong quan hệ dọc còn thê hiện yêu tố

tài sản. Yeu fð tài san (quan hệ ngàng) là quan hệ phát sinh piữa các đơn vt

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

kinh tế cơ sở trong khí chúng tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanhhay dịch vụ. Nhưng trong cơ chế kế hoạch hố tập trung. các hoạt động này

khơng vượt q khn khổ các chỉ tiêu, kế hoạch của Nhà nước. Sản xuât cái

gi, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai đều đo Nhà nước quyết định. Trongđiều kiện như vậy, hợp đồng. với đặc trưng của quan hệ theo chiều ngang

khơng được hiểu theo đúng nghĩa đích thực của nó là tự do khế ước. mà là

hợp đồng kế hoạch. Hợp đồng được kí kết khi các đơn vị kinh tế được giao kêhoạch; hợp đồng bị huỷ bỏ khi kế hoạch của Nhà nước giao bị huy bo. Kí kết

và thực hiện hợp đồng là một kỉ luật bắt buộc của Nhà nước.

Bên cạnh loại hợp đồng kinh tế mang tính kế hoạch này vẫn ton tại loạiquan hệ hợp đồng dân sự truyền thống với đặc trưng cơ ban là yêu to thoathuận. sự thống nhất ý chí trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên. loại hợp đồng nay

thường được kí kết giữa các tổ chức. cá nhân không phải là các đơn vị kinh tê

để phục vụ cho các hoạt động mang tính chất sinh hoạt, tiêu đùng. Trong khi

các quan hệ hợp đồng kinh tế bị chi phối bởi các chỉ tiêu, kế hoạch cụ the cuaNhà nước thì quan hệ hợp đồng dan sự được tự do thiết lập và thực hiện theosự thoa thuận của các bên.

Chính từ thực tế này mà khoa học pháp lí vốn cịn non trẻ của Việt

Nam và chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học pháp lí xơ-viết đã phân biệt hai

loại hợp đồng là (1) hợp đồng kinh tế và (2) hợp đồng dân sự. Pháp luật thực

định về hợp đồng cũng được chia thành hai bộ phận hoàn toàn riêng biệt là(1) pháp luật về hợp đồng kinh tế và (2) pháp luật về hợp đồng dân sự. Cóđiều, khơng giống với nhiều nước trên thế giới. ở đó pháp luật thương mat rađời sau pháp luật dan sự. ở Việt Nam pháp luật về hợp đồng kinh te phat trien

sớm hơn pháp luật về hợp đồng dan sự. Trong khí pháp luật về hợp dong dan

sự hầu như chưa có gì thì các văn bản pháp luật về hợp động kinh tê đã tầnlượt theo nhau ra đời mà đầu tiên là Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanhban hành kèm Nghị định số 735 TTg ngày 10-4-1957 sau đó là Điều lẻ tạm

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

thời về hop đồng kinh tế ban hành kèm Nghị định số 04/TTg ngày 1960 tiếp theo là bản Điều lệ chính thức về hợp đồng kinh tế ban hành kèm

04-01-Nghị định số 54/CP ngày 10-3-1975 và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày

25-9-1989. Đến ngày 29-4-1991, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh Hợp

đồng dân sự.

Như vậy. trong thời kỳ này song song tồn tại hai loại hợp đồng hoàn

toàn độc lập với nhau là hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự. Đối với quanhệ hợp đồng kinh tế thì áp dụng (và chỉ áp dụng) các quy định trong Pháplệnh Hợp đồng kinh tế còn đối với quan hệ hợp đồng dan sự thì dp dụng các

quy định trong Pháp lệnh Hợp đồng dân sự. Để phân biệt hai loại hợp đồng

hay, người ta thường dua trên ba tiêu chí cơ bản, đó là:

(1) Về chủ thể giao kết hợp đồng: Hợp đồng kinh tế thường được kí kết

giữa các đơn vị kinh tế XHCN với nhau trong khi hợp đồng dân sự thườngđược kí kết giữa các cá nhân, tổ chức không phải là các đơn vị kinh tế.

(2) Về hình thức hợp đồng: Hợp đồng kinh tế phải được giao kết bằng

văn bản trong khi hợp đồng dân sự cịn có thể được giao kết bằng lời nói haybằng hành vi.

(3) Về mục dich giao kết hợp đồng: Hợp đồng kinh tế được giao kết

nhằm phục vụ cho hoạt động kinh đoanh của các bên còn hợp đồng dân sự

được giao kết nhằm phục vụ cho mục đích sinh hoạt. tiêu dùng cua ít nhât

một bên tham gia hợp đồng.

(4) Về yến tố thoả thuận và tính tổ chúc kế hoạch trong quan hệ hop

đồng: Hợp đồng kinh tế ít phan ánh tính thoả thuận và nếu có yếu tố này thì

cũng bị chi phối bởi yếu tố tổ chức, kế hoạch trong khi hợp đồng dân sự đơn

thuần là sự thoa thuận trên cơ sở tự nguyện ý chí.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

4. GIÁI DOAN SAU KHÍ CÓ PHÁP LENH HỢP ĐỒNG KINH TẾ VÀ PHÁP

LENH HỢP ĐỒNG DAN SỰ DEN TRƯỚC KHI BAN HANH BO LUẬT DAN SỰ

Từ năm 1986, nước ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành

phần, vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lí của Nhà nước, định

hướng XHCN. Kinh tế thị trường doi hỏi phải xoá bỏ chế độ độc tơn của mộthình thức sở hữu: tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển các thành phần

kinh tế. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh hợppháp của các thành phần kinh tế. Bằng các chính sách và pháp luật. Nhà nước

tao lập một môi trường kinh doanh lành mạnh để các quan hệ kinh tê giữa cácdoanh nghiệp được xây dựng và thực hiện trên cơ sở của nguyên tắc tự do.

bình đẳng, cùng có lợi và tự chịu trách nhiệm trước hoạt động kinh doanh cuamình. Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải đổi mới quan niệm về pháp luật kinh

tế, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng kinh tế. Bởi pháp luật về hợp đồng nói

chung và hợp đồng kinh tế nói riêng có vai trị cực kỳ quan trọng trong đờisống kinh tế - xã hội. Nó tao ra tiền đề pháp lí cho sự vận động linh hoạt vàan toàn các giá trị vật chất của xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà công cuộc

cải cách kinh tế của nước ta được khởi động bằng việc đổi mới chế định hợp

đồng kinh tế với việc ban hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989.

Tiếp theo Pháp lệnh Hợp đông kinh tế, ngày 29-4-1991, Hội đồng Nhà nước

(nay là Uy ban thường vụ Quốc hội) ban hành Pháp lệnh Hợp đồng dân sự dé

điều chỉnh các quan hệ mang yếu tố tài sản được thiết lập giữa các tổ chức. cá

nhân trong đó ít nhất một bên có mục đích sinh hoạt. tiêu đùng.

Với sự ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng trên cơ sở không trái pháp

luật và hàng loạt quy định cụ thé dam bảo thực hiện nguyên tắc này, Pháplệnh Hợp đồng kinh tế đã góp phần quan trọng trong việc tạo mơi trường pháp

lí thuận lợi cho các hoạt động kính doanh. Theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh te

ngày 25-9-1989 thì bản chất của hợp đồng kinh tế đã được thay đổi căn bản.Hợp đồng kinh tế khơng cịn là một hình thức để triển khai các chỉ tiêu. kẻ

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

hoạch kinh doanh cụ thể của Nhà nước nữa mà hợp đồng kinh tế đã được tra

lại ý nghĩa đích thực của nó là sự thoả thuận của các bên giao kết trên cơ sở tư

nguyện. Kí kết hợp đồng kinh tế khơng cịn là “một ki luật bắt buộc của Nhà

mước” nữa. Việc kí kết hợp đồng kinh tế hoàn toàn xuất phát từ lợi ích cá biết

của mỗi bên. Kí hợp đồng với ai, nội dung hợp đồng như thế nào hoàn toàn do

các bên quyết định. Trong điều kiện như vậy, xét về bản chất pháp lí thì hợp

đồng kinh tế rất giống hợp đồng đân sự và do đó việc xác định quan hệ giữahợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự là hết sức phức tạp.

Để xác định được mối quan hệ này nhất thiết phải lam rõ ban chat phái

lí của từng loại hợp đồng theo quy định của Pháp lệnh Hợp dong kinh te và

Pháp lệnh Hợp đồng dân sự.

Điều | Pháp lệnh Hợp đồng dan sự quy định: “Hợp ddéng ddan su là sirthoả thuận giữa các bên về việc vác lập, thay đổi hoặc cham dit quyen và

nghĩa vu của các bên trong nua bán, thuê, vay, mượn, tặng cho tài ván: làm

hoặc không làm một việc. dich vu hoặc các thoả thuận khác mà trong dé mot

hoặc các bên nhằm đáp tne như cầu sinh hoạt. tiêu ding”.

Theo khái niệm này hợp đồng dân sự có hốn dấu hiệu sau:

1) Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận nhằm làm phát sinh các nghĩa vụ

tài sản giữa các bên kí kết;

2) Các bên tham gia hợp đồng dân sự có thể là mọi tổ chức. cá nhân. tỏ

hợp tac, hộ gia đình thoả mãn các điều kiện do pháp luật quy định.

3) Hợp đồng dân sự có thể giao kết bằng văn bản. bằng lời nói hoặchành vi cụ thé; đối với những hợp đồng dân sự mà pháp luật quy định phái the

hiện dưới hình thức văn bản thì phải được xác lập dưới hình thức này.

4) Tối thiểu một bên tham gia hợp đồng phải có mục dich sinh hoat,

tiêu dùng.

</div>

×