Tải bản đầy đủ (.pdf) (222 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường: Các vấn đề pháp lý cơ bản về tổ chức và hoạt động của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và vấn đề gia nhập của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.43 MB, 222 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘIKHOA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ

BAO CÁO KẾT QUA

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

CAC VAN ĐỀ PHÁP LY CO BẢN VỀ Tổ CHUC VÀ HOAT DONGCUA TO PHỨP THƯƠNG MAI THE GIGI (WTO)

VA VAN DE GIA NHAP CUA VIET NAM

NHOM NGHIEN CUU

Chủ nhiệm đề tai: ThS. Lê Mai AnhThu ky dé tai: GV. Dé Mạnh Hồng

ThS. Hoang Ly Anh

CV. Nguyễn Công KhanhGVC. Nguyễn Van LuậnTS. Nguyễn Hồng ThaoTS. Trần Văn Thắng

THUVIEN |

ee oh

HA NOI - 2001

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Tổng thuật nội dung của đề tài

Các vấn đề pháp lý của GATT và quá trình chuyển đổi GATTthành WTO

Cơ cấu tổ chức của WTO

HOAT ĐỘNG CUA WTO TRONG LĨNH VUC THƯƠNG MẠI HÀNG HĨA<small>Các quy định có tính chất chung trong thương mại hàng hóa</small>

Các quy định chuyên biệt điều chỉnh thương mại quốc tế vìmục đích đẩy mạnh tự do hóa thương mại tồn cầu

Các quy định điều chỉnh thương mại hàng hóa có tính nhạy

105

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

HOAT ĐỘNG CUA WTO TRONG LĨNH VUC THƯƠNG MẠI DỊCH VỤCÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI CUA QUYỀN SỞ HỮUTRÍ TUỆ THEO QUY ĐỊNH CUA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI

Khái lược chung về quyền sở hữu trí tuệ

Một số nội dung cơ bản liên quan đến thương mại của quyền sở

hữu trí tuệ theo quy định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)Sự tương thích giữa pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Namso với các quy định của Tổ chức thương mại thế giới

CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KHUÔN KHỔ WTO

Giải quyết tranh chấp theo các quy định của GATT 1947Quy chế giải quyết tranh chấp của WTO

<small>Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và các nước đang</small>

phát triển

TIẾN TRÌNH VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THỂ

GIỚI WTO

Chính sách gia nhập WTO của Việt Nam

Mục tiêu, cơ hội và thách thức của việc Việt Nam gia nhập WTO<small>Tiến trình Việt Nam gia nhập WTO</small>

Những vấn đề đặt ra qua các phiên họp của nhóm cơng tác về

việc Việt Nam gia nhập WTO

KẾT LUẬN

ĐANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

<small>216</small>217

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

BÁO CÁO PHÚC TRÌNH

A. MỤC DICH, PHAM VI NGHIÊN CỨU1. Tính cần thiết của đề tài

Thập kỷ 90 đầy biến động đã mang lại cho nhân loại những thay đổi

và thách thức to lớn. Xu thế toàn cầu hóa đã hình thành và phát triển mạnhmẽ là xu thế tất yếu khi cộng đồng quốc tế bước sang thiên niên ky mới -

một thiên niên kỷ đầy triển vọng song cũng đầy thách thức.

Trong bối cảnh quốc tế như vậy, sự hội nhập vào đời sống chung của

cộng đồng quốc tế là nhu cầu cấp thiết đối với mỗi quốc gia, nhất là trong đời

sống kinh tế quốc tế. Đặc biệt đối với Việt Nam - một đất nước sau khi ra khỏicuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử của mình, đã phải đương đầu với

bao khó khăn, gian khổ và trở ngại trên con đường phát triển và xây dựng lại

đất nước. Vì thế, việc hội nhập với nền kinh tế thế giới sẽ mang lại nhiều điều

kiện thuận lợi mới, mở ra những khả năng to lớn cho Việt Nam phát triểnkinh tế và nâng cao đời sống nhân dân. Nhận thức được vấn đề quan trọng

này, Việt Nam đã có những hoạt động tích cực đầy năng động trong qtrình tham gia vào xu thế tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Việc Việt Nam

chính thức trở thành thành viên ASEAN là một minh chứng điển hình. Sự rađời của WTO (Tổ chức thương mại thế giới) dựa trên cơ sở của GATT (Hiệpđịnh chung về thuế quan và thương mại) là cơ hội và triển vọng đầy tiểm năngcho sự phát triển kinh tế thế giới nói chung và kinh tế mỗi quốc gia nói riêng.Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập tổ chức kinh tế toàn cầu này, đã tiến hànhcác cuộc đàm phán cần thiết, tuy nhiên quá trình phấn đấu để trở thành

thành viên của WTO hồn tồn khơng dễ dàng. WTO đã đưa ra những điều

kiện, yêu cầu cụ thể đối với các quốc gia xin gia nhập Tổ chức. Trong thựctrạng như vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề pháp lý quan trọng liên

quan đến WTO là cần thiết cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.

Việc triển khai và thực hiện đề tài khoa học KH 99-12 với tiêu đề:"Các vấn đề pháp lý cơ bản về tổ chức và hoạt động của Tổ chức thương

mại thế giới (WTO) và vấn dé gia nháp của Việt Nam" nhằm đáp ứng 6một mức độ nhất định cho yêu cầu hiện thời của Việt Nam trong quá trìnhgia nhập WTO.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu

Mục đích của đề tài là nghiên cứu có hệ thống, tồn diện q trìnhhình thành và phát triển của hệ thống thiết chế thương mại đa phương toàncầu - bat đầu từ GATT đến WTO thông qua cơ cấu tổ chức và hoạt động

của GATT trước kia cũng như WTO hiện nay, cùng các thành quả đã đạtđược cũng như các khó khăn, trở ngại trong q trình hoạt động của thiết

chế thương mại này trong thực tiễn hoạt động kinh tế quốc tế. Đồng thời

trình bày và phân tích quá trình xin gia nhập WTO của Việt Nam, trước sự

đòi hỏi, yêu cầu của Tổ chức thương mại quốc tế này, cùng việc đáp ứng vàthỏa mãn các điều kiện, yêu cầu này, để từ đó rút ra những khó khăn và

thuận lợi của chúng ta khi Việt Nam được chính thức cơng nhận là thành

viên của WTO.

Pham vi nghiên cứu của đề tài được xác định dựa trên cơ sở khẳngđịnh mục đích nghiên cứu của đề tài, vì vậy nội dung được đề cập sẽ bao

gồm những vấn đề khoa học sau đây:

- Quá trình hình thành và phát triển cũng như kết quả hoạt động của

GATT (tổ chức tiền thân của WTO).

- Sự ra đời của WTO trên nền tang của GATT, cùng các hoạt động

của nó thơng qua bộ máy vận hành của tổ chức quốc tế này đã mang lại cho

đời sống thương mại quốc tế những thay đổi mới so với thời kỳ hoạt động

của GATT.

- Việt Nam xin gia nhập WTO và quá trình thực hiện các yêu cầu-của WTO đối với Việt Nam. Xác định những thuận lợi và khó khăn mà

chúng ta sẽ gặp phải khi trở thành thành viên chính thức của WTO.

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của đề tài dựa trên các quan điểm chính thức củaĐảng và Nhà nước Việt Nam về chính sách đối ngoại của nước ta trong

quan hệ quốc tế. Nội dung của đề tài được trình bày trên nền tảng lý luận

được nghiên cứu tổng hợp từ các văn bản pháp luật của Việt Nam, các điềuước quốc tế hữu quan và các tài liệu pháp lý khác. Đề tài được thực hiệntrên cơ sở nghiên cứu của tập thể tác giả, có tham khảo và chọn lọc phù hợp

các tài liệu, các tham luận và báo cáo khoa học, cũng như sách chuyên khảo

về lĩnh vực thương mại quốc tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong quá trình thực hiện

đề tài khoa học là phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, phươngpháp duy vật lịch sử. Đây là những phương pháp được sử dụng có tính chủ

đạo, ngồi ra đề tài còn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu

có tính đặc thù của khoa học xã hội như phương pháp phân tích, tổng hợp

và so sánh giữa lý luận và thực tiễn để giải quyết các vấn đề được đặt ra

trong nội dung của đề tài khoa học này.

<small>Tuy nhiên, việc nghiên cứu từ góc độ Luật quốc tế còn chưa nhiều, chưa</small>được đây đủ. Trong khi đó, các quan hệ kinh tế quốc tế ln phát triển và

biến đổi không ngừng, các sự kiện quốc tế làm đảo lộn các cơ chế vận hànhtưởng đã ổn định của cộng đồng quốc tế, tất cả cái đó khơng nằm ngồi quyluật chung của sự vận động và phát triển quan hệ quốc tế, cơ chế vận độngcủa các quan hệ này trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Vì vậy, việc thực hiệnđề tài khoa học mã số KH99-12 với phạm vi và mục đích nghiên cứu nêutrên nhằm góp phần hồn thiện và làm sáng tỏ hơn một vấn đề pháp lý quốctế hết sức quan trọng và có tính thời sự trong bức tranh toàn cảnh về đời sống

của cộng đồng quốc tế, mà trong cộng đồng quốc tế-này Việt Nam đã, đangvà sẽ có những đóng góp tích cực, năng động đầy hiệu quả cho nhân loại nói

chung và cho Việt Nam nói riêng trên cơ sở tơn trọng ngun tắc bình đẳng, tự

nguyện và cùng có lợi. Muốn đạt được những mục tiêu nghiên cứu nêu trên,

việc nghiên cứu cần phải có tính tổng thể đề cập tới cả hai lĩnh vực lý luậncũng như thực tiễn của thương mại quốc tế. Cơng trình khoa học của tập thể

tác giả nghiên cứu mang lại những đóng góp có ý nghĩa khoa học sau đây:

- Góp phần làm sáng tỏ hơn cơ chế vận hành của WTO, từ đó xácđịnh tính chất khoa học, những thay đổi cần thiết và thích ứng của hệ thống

các văn bản pháp luật và cơ chế quản lý trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại củaViệt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

- Ở mức độ nhất định, công trình khoa học nhấn mạnh tới sự cẩn

thiết phải có sự thay đổi, bổ sung cho phù hợp pháp luật và chính sách thươngmại của Việt Nam với hệ thống thương mại đa phương của WTO trên cơ sởnghiên cứu các điều ước quốc tế hữu quan của WTO, có sự so sánh cần

thiết với các van bản pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại.- Thông qua việc nghiên cứu tác động và ảnh hưởng của GATT/WTO,

khẳng định xu thế tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới là tất yếu, vì vậy việc

gia nhập WTO của Việt Nam là hết sức cần thiết cho sự nghiệp cơng nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển và nâng cao nền kinh tế quếc gia theo

đúng đường lối và định hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

- Ý thức được ý nghĩa của dé tài nghiên cứu, nhóm tác giả muốn

thơng qua chất lượng của cơng trình khoa học của mình, thể hiện sự đónggóp có hiệu quả của mình đối với pháp luật quốc tế nói chung và các nhà

luật gia quốc tế nói riêng trong việc tìm hiểu, và nghiên cứu một vấn đề

<small>khoa học quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm.</small>5. Kết cấu của đề tài

- Báo cáo phúc trình.- Các chuyên đề

B. TONG THUAT NỘI DUNG CUA ĐỀ TÀI

Hiện nay, tổ chức thương mai thế giới (viết tat là WTO) là một thuật

ngữ khơng cịn xa lạ trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động của

các tổ chức kinh tế ở nước ta. Hội nhập khu vực và thế giới, gia nhập tổ

chức thương mại thế giới là mục tiêu hướng tới trong hiện tại và trong tương

lai của Nhà nước ta.

Để có những hiểu biết cần thiết về phương diện pháp lý đối với Tổ

chức quốc tế rộng lớn này, Ban chủ nhiệm và nhóm cộng tác viên đã thực

hiện việc nghiên cứu dé tài để tìm hiểu: các vấn đề pháp lý cơ bản về tổchức và hoạt động của Tổ chức thương mại thế giới (viết tat là WTO) vàquá trình để gia nhập tổ chức này của Việt Nam.

Hiện tại, Tổ chức thương mại thế giới (viết tất là WTO) là một tổ

chức quốc tế đa phương lớn nhất trong lĩnh vực thương mại với sự tham gia

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

của 140 nước trên khắp các châu lục. Hoạt động của tổ chức thương mại thếgiới đã mang lại những hiệu quả nhất định đối với nền kinh tế của mỗi quốc

gia. Nhằm tạo điều kiện cho sự ổn định và phát triển kinh tế của đất nước,Nhà nước ta đang chuẩn bị những điều kiện vật chất, kiện toàn hệ thống

pháp luật và những yêu cầu khác để chuẩn bị cho việc gia nhập WTO.

Việc tìm hiểu về tổ chức thương mại quốc tế lớn nhất này sẽ bắt đầu

từ việc nghiên cứu chuyên đề: "Các vấn đề pháp lý của GATT và quá trình

chuyển từ GATT thành WTO".

|. CAC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CUA GATT" VÀ QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI

GATT THÀNH WTO"

1. Các vấn dé pháp lý của GATT

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), thế giới bước vào thời kỳphân chia sâu sắc và phát triển theo các xu hướng chính trị khác nhau, thậmchí đối lập nhau. Trong bối cảnh đó, cộng đồng thế giới vẫn nỗ lực hoạtđộng cho q trình tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Vì sự phát triển ổnđịnh và bền vững của một nền thương mại quốc tế, cộng đồng các nước đãcố gắng hội đàm và loại bỏ phần lớn những mâu thuẫn, xung đột hoặc ít ralà những hậu quả tiêu cực phát sinh trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệthương mại trong điều kiện toàn cầu bằng Luật quốc tế. Xuất phát từ

nguyện vọng này, các quốc gia đã ý thức được sự cần thiết của việc xây

dựng một thỏa thuận đa phương toàn cầu về thương mại quốc tế. Chính vì

vậy, Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (viết tắt là GATT) đãđược ký kết vào năm 1947. '

Số lượng các thành viên đầu tiên của GA TT chi vén vẹn có 23 quốc

gia. Đến tháng 4 năm 1994 số lượng các nước tham gia GATT đã tăng lên

123 thành viên. Điều đó chứng tỏ vai trị và vị trí ngày càng được khẳng

định của GATT trong quá trình điều hành quan hệ thương mại quốc tế. Macdù, GATT không đưa ra được danh mục rõ ràng các mục tiêu và nguyên tắctrong hoạt động, nhưng thông qua việc nghiên cứu và phân tích tổng thể cácđiều khoản có liên quan của Hiệp định thương mại đa phương này, ta vẫn có

<small>(*) GATT: Hiệp đính chung về thuế quan và thương mại.(**) WTO : Tổ chức thương mai thế giới.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

thể xác định được các mục tiêu cũng như nguyên tắc hoạt động của GATT

Thứ hai, xác lập trách nhiệm tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý quốc tế<small>trong quan hệ thương mại.</small>

Thứ ba, xây dựng một chế độ pháp lý thống nhất giành cho các

nước đang phát triển bảo đảm sự công bằng trong quan hệ thương mại, tạođiều kiện ngang bằng nhau cho các nước này phát triển kinh tế, nâng cao

đời sống nhân dân.

Thứ tr, giảm dan mức thuế quan trong các quan hệ mau dịch quốctế giữa các nước thành viên.

Thứ năm, nghiêm cấm các loại thuế có tính bất bình đẳng đối với

hàng hóa xuất khẩu của nước ngồi, xây dựng quan hệ bình đẳng trong

<small>cạnh tranh, xác lập nghĩa vụ cạnh tranh lành mạnh hợp pháp.</small>

Thứ sáu, đạt được một chính sách thống nhất chống bán phá giá,

qua đó tạo ra mơi trường thương mại quốc tế lành mạnh.

Thứ bảy, tạo các điều kiện để thúc đẩy quá trình tự do thương mại

giữa các nước thành viên để thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiệnđể phát triển nền sản xuất xã hội.

Để hoạt động, Hiệp định chung về thuế quan và thương mại đã déra các nguyên tắc pháp luật chủ yếu. Trên cơ sở các nguyên tắc pháp luật

này, các nước thành viên đã có một hành lang pháp lý để tiến hành các

hoạt động thương mại. Các nguyên tắc cơ ban đó là:

Ngun tắc thứ nhất, khơng phân biệt đối xử trong thương mại quốctế giữa các nước thành viên. Nguyên tắc được đảm bảo thi hành bang chế

độ đãi ngộ tối huệ quốc đối với các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và quá

cảnh, cũng như các khoản thu liên quan tới các hoạt động thương mai này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Nguyên tắc thứ hai, bảo đảm “thâm nhập thị trường ngày càng tăng

<small>4 "1</small>

và có tính dự báo" nhằm tạo ra môi trường thương mại ổn định.

Nguyên tắc thứ ba, thúc day cạnh tranh công bằng được thể hiện ởnội dung "tự do cạnh tranh trong những điều kiên bình đẳng như nhau".

Nguyên tắc thứ tu, tự do hóa và phát triển thương mại quốc tế, cácthành viên của GATT thỏa thuận nhân nhượng lẫn nhau trong vấn dé hạn chếbiểu giá thuế quan cũng như loại bỏ những hạn ngạch về số lượng trong GATT.

Nguyên tắc thứ năm, có di có lại, cụ thé là quar hệ quốc tế về

<small>thương mại giữa các quếc gia trong linh vực giành cho nhau các ưu đãithương mại — chính tri.</small>

Nguyên tắc thứ sáu, phát triển thương mại quốc tế bằng con đường

đàm phán đa phương, được thực hiện thường xuyên trong các quan hệ mậu

dịch quốc tế như đàm phán đa phương về biểu giá thuế quan và các hàng

rào phi thuế quan... hay giải quyết các tranh chấp thương mại bằng con<small>đường đàm phán.</small>

Sau gần nửa thế kỷ tổn tại và phát triển, GATT đã trở thành một hệthống thể chế pháp lý của nền thương mại thế giới. Mặc dù có những khiếmkhuyết nhất định, GATT đã đóng vai trị là người bảo vệ các ngun tắc

thương mai tu do trong nền kinh tế thị trường.

GATT tự nó khơng tạo ra một tổ chức quốc tế, mà chỉ ghi nhận

trong nội dung của mình về "các bên ký kết". Tuy nhiên, trong quá trình

vận hành va đưa ra các quyết định, GATT đã dần dan trở thành như là tổ

chức quốc tế có trụ sở đóng tại Giơnevơ (Thuy Si) và có cơ chế pháp lý hoạtđộng đảm bảo.

Quá trình phát triển mạnh mẽ của GATT đã biến đổi một điều ướcquốc tế về tự do hóa biểu giá thuế quan thành một hệ thống tổng thể dài hạn

với trên 200 thỏa thuận thương mại đa phương, q trình này đã được cộng

đồng quốc tế cơng nhận và đương nhiên chấp thuận trong các thương mại

quốc tế.

Trong quá trình vận hành của GATT vào đời sống thương mại quốctế, GATT năm 1947 đã được bổ sung, sửa đổi thích hợp và cho tới nay gồm4 phần, có 38 điều khoản. Cộng đồng quốc tế đã ý thức được những khó

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

khăn và phức tạp của yêu cầu điều chỉnh luật pháp hiện hành của mỗi quốcgia, nên các thành viên đã đi đến thỏa thuận: nhất trí phương thức áp dụngbản Nghị định về 4p dung tạm thời GATT năm 1947 là dựa trên cơ sở tự

nguyện. Chang hạn, theo thỏa thuận các bên ký kết có nghĩa vụ thực thi

tồn bộ phần I và II với mức độ áp dụng là có tính tuyệt đối. Đối với phầnIII, việc 4p dung và được thực thi ở mức độ không trái với Luật Quốc gia

của mỗi bên ký kết. Phần IV được bổ sung vào năm 1966 theo kiến nghịcủa các nước đang phát triển và chậm phát triển...

Đánh giá chung về việc áp dụng các điều khoản của GATT, cácnước đều xác định: trong thực tế khơng thể có sự nhất trí toàn cầu về chuẩn

mực pháp lý trong thương mại quốc tế. Chính vì vậy, mỗi khi phát sinh các

bất đồng về cách hiểu và áp dụng các quy tắc thương mại thì GATT phảitìm kiếm các giải pháp trung hịa có tính thỏa hiệp để điều chỉnh các vấn décó liên quan; đồng thời, hướng dẫn sự tiến triển pháp lý theo từng tìnhhuống cụ thể phát sinh trong thương mại quốc tế. Trong khuôn khổ pháp lý

của GATT 1947 được tạo dựng từ vòng đàm phán hợp tác đa phương, mỗicuộc đàm phán về thương mại quốc tế chỉ thành cơng khi có sự kết hợp giữatham khảo ý kiến và đàm phán chính thức giữa các bên hữu quan.

Q trình tiến hành các vịng đàm phán, GATT ln hướng tới để

<small>đạt được các mục tiêu cơ bản sau đây:</small>

- Thúc đẩy tự do hóa thương mại giữa các nước thành viên.- Đảm bảo tính minh bạch của mơi trường thương mại quốc tế.

- Đảm bảo tính bền vững của mơi trường thương mại quốc tế.

Nội dung các vịng đàm phán tại diễn đàn GATT ngày càng sâu

rộng và phức tạp: Mỗi lĩnh vực đàm phán đều có tính nhạy cảm cao về kinhtế, chính trị, đồng thời rất phức tạp về mặt kỹ thuật và pháp lý. Chính vì<small>vậy, có những Hiệp định phải đàm phán kéo dài hơn chục năm.</small>

Trong quá trình vận hành của GATT, các bên tham gia ký kết mới

có đủ quyền để giải thích các điều khoản của Hiệp định, khơng ai có quyềnnày. Bằng cách thông qua các báo cáo, các khuyến nghị các bên ký kếtcông nhận giá trị pháp lý của chúng. Chính đặc điểm này, đặt ra đối với mỗi

thành viên xây dựng năng lực tự bảo vệ quyền lợi của mình trên các diễn

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

đàn của hệ thống thương mại đa biên. Trong nội dung của GATT, có quy

định về điều khoản tự vệ thể hiện tính chất vừa chặt chẽ (để tránh lạm dụng)

vừa mềm dẻo (để bảo đảm an tồn) trong q trình vận hành của GATT.Trong thời gian GATT tồn tại đã có khoảng 123 trường hợp vận dụng điềukhoản tự vệ. Tuy nhiên, do quy trình tố tụng rất phức tạp nên các bên vẫnthiên về tìm kiếm các biện pháp mềm dẻo khác như thỏa thuận tay đôi về

xuất khẩu.

Trong các quy định của GATT về việc thông qua quyết định mộtvấn đề hữu quan nào đó, thường địi hỏi sự có mặt của tất cả hoặc một tỷ lệxác định các bên ký kết nhưng trong thực tế các quyết định vẫn được thông

qua với số đại diện hiện có tại hội nghị.

Qua thực tiễn vận hành, GATT cịn thiếu các cam kết rõ rang dambảo thực hiện và các cơ quan giám sát cần thiết. Sự bảo đảm chủ yếu là dựavào việc các bên tôn trọng cam kết quốc tế trong điều ước quốc tế. Quy chếcủa GATT trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh còn quá lỏng lẻo,chủ yếu là dựa trên sự hòa giải, dàn xếp giữa các bên là chính. Quy chế này

được thay thế bằng một quy chế mới có hiệu quả hơn trong khuôn khổ pháply của Tổ chức thương mai thế giới (WTO) sau này.

<small>2. Các vòng đàm phán va quá trình thành lập WTO</small>

Gần nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, GATT từ chỗ chỉ là hiệp địnhtổng quát về thuế quan và thương mại đã thực sự trở thành tổ chức thươngmại đa phương toàn cầu, quản lý và điều hành hơn 80% các trao đổi thương

mại hàng hóa và dịch vụ trên tồn thế giới. Mặc dù cịn có thiếu sót, hạn

chế trong q trình điều hòa thương mại quốc tế, nhưng GATT đã thể hiệnrõ vai trị quan trọng của mình trong việc tổ chức và tiến hành các vòngđàm phán thương mại đa phương và cat giảm thuế quan và phi thuế quan.

Trong khn khổ của GATT 1947 đã diễn ra 8 vịng đàm phán đa phương,

kể từ năm 1947 đến 1994. Nội dung các vòng đàm phán đã mở rộng từ cat

giảm thuế quan và biện pháp phi thuế quan đến cải cách hệ thống pháp lý,

cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT.

Năm vòng đàm phán đầu tiên (từ 10/1947 đến 1961) tập trung giảiquyết vấn đề cắt giảm thuế quan đối với sản phẩm chế biến (trừ sản phẩmnông nghiệp) và việc sử dụng các biện pháp cắt giảm song phương. Theo

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

phương pháp này, các bên ký kết hữu quan sẽ đàm pháp song phương với

nhau để cắt giảm thuế quan đối với từng sản phẩm cụ thể.

Trong thực tế áp dụng, phương pháp cat giảm thuế quan song

phương có ưu điểm là đơn giản, dé áp dụng nhưng kết quả rất hạn chế vì

các bên phải đàm phán về từng sản phẩm riêng biệt mất nhiều thời gian và

hồn tồn khơng thích ứng với nhu cầu và thực tiễn tăng trưởng mạnh mẽ

của thương mại quốc tế. Do đó, hai vịng đàm phán tiếp theo là tập trung về

cát giảm thuế quan và các biện pháp phi thuế quan đã đưa ra được cácphương pháp mềm dẻo hon theo cách tính tổng thể. Chẳng hạn, theo dénghị của Hoa Kỳ là cat giảm theo dòng thuế hay theo dé nghị của EC là bênnào có mức thuế quan cao hơn thì giảm nhiều hơn.

Trong hai vòng đàm phán tiếp theo: vòng đàm phán Kennơdi (từ

11/1963 đến 5/1967) không chỉ đưa đến cắt giảm thuế quan mà cịn đạt

được thành cơng đầu tiên trong việc hạn chế các hàng rào phi thuế quan vớiviệc thông qua các quy định về chống phá giá và giá trị hải quan; vòng

TOki6 (từ 9/1973 đến 11/1979), đã nỗ lực mở rộng và cải thiện hệ thống cácvấn đề của vòng đàm phán Kennơdi.

Trong vòng đàm phán Tokio đã đạt được những kết qua quan trongtrong 3 lĩnh vực thương mại là cắt giảm thuế quan, giảm thiểu hàng rào phi<small>thuế quan và cải cách cơ chế giải quyết tranh chấp. Thành cơng nhất định</small>của vịng đàm phán Tơkiơ lại là dấu hiệu của một thời kỳ khó khăn đang đến.

Thành công của GATT trong việc cắt giảm thuế quan tới mức thấp

nhất, đã khiến cho chính phủ các nước đưa ra các hình thức bảo vệ khác cho

các lĩnh vực kinh tế để đương đầu với sự cạnh tranh từ bên ngồi. Chính phủcác nước ký kết, tùy theo điều kiện và chính sách phát triển kinh tế củamình, ln tìm cách áp dụng các biện pháp phi thuế quan để hạn chế nhậpkhẩu. Đồng thời, việc các nước phát triển trợ cấp cho ngành nông nghiệpcủa họ làm cho việc xuất khẩu các mặt hàng này của các quốc gia đang pháttriển bị đình trệ. GATT đã khơng đáp ứng được yêu cầu của các nước đangvà chậm phát triển. Tình hình này làm giảm hiệu qua và độ tin cậy của GATT.

Thương mại thế giới ngày càng trở nên phức tạp, tồn cầu hóa đãhình thành trong nền kinh tế thế giới, đầu tư quốc tế bùng nổ, thương mạidịch vụ ngày càng tăng, vấn dé môi trường... đã làm cho GATT khơng cịn

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thế giới như những năm dau tiêntồn tại. Hơn nữa, trong q trình tồn tại và hoạt động GATT cịn có nhiều

hạn chế như: đối với nơng nghiệp, hệ thống đa biên cịn có nhiều khiếm

khuyết... mà khơng thể khắc phục được. Thậm chí, thể chế và hệ thống giải

quyết tranh chấp thương mại của GATT cũng kém hiệu quả đã không đáp

ứng được nhu cầu khách quan của nền kinh tế thế giới không ngừng biến

đổi và phát triển, cùng với sự phát triển nhanh của khoa học, công nghệ.

GATT đã mất dần vai trò lich sử trong đời sông kinh tế quốc tế, cần phảiđược thay thế bằng một tổ chức quốc tế khác để đáp ứng việc điều chỉnhhữu hiệu các vấn đề quan trọng, bức xúc của việc mở rộng hệ thống thươngmại tồn cầu. Vịng đàm phán thứ tám - vòng đàm phán Uruguay - đã diễnra nhằm đáp ứng nhu cầu trên của nền kinh tế thế giới.

Vòng đàm phán Uruguay (1986 — 1994) với mục đích loại bỏ nguồn

gốc của chính sách bảo hộ và các cản trở trá hình trong sự phát triển thương

mại quốc tế. Chính sách bảo hộ và các trở ngại đó, đã làm cho hệ thống<small>thương mại đa phương GATT hướng tới tự do hóa bị suy yếu, nó địi lại</small>

quyền lợi và lợi ích quốc gia bằng các biện pháp bất hợp thức với cácnguyên tắc thương mại quốc tế chung; vì vậy, đã tạo ra các nhóm quyền lợiđối đầu nhau, tạo ra nhiều cạnh tranh căng thẳng không cần thiết can trở

nghiêm trọng tới sự phát triển của quan hệ thương mại quốc tế.

Ngày 15 tháng 4 năm 1994 tại Marakes (Cộng hòa Marốc) văn kiện

kết thúc vòng đàm phán Uruguay đã được ký kết, văn kiện này khẳng định"tăng cường nền kinh tế thế giới và thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng việc

làm va thu nhập trên thế giới”. Kết qua quan trọng nhất của vịng đàm phán

Uruguay là sự nhất trí thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

WTO được thành lập và đi vào hoạt động ngày 1 tháng 1 năm 1995.Đó là thành quả to lớn của cộng đồng quốc tế, đánh dấu một bước phát triển

quan trọng trong lịch sử thương mại quốc tế. WTO đại diện cho một xu

hướng phát triển mới - xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế quốc tế.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ WTO

1. Mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của WTO

Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thành lập ngày 1/1/1995 là tổchức đầu tiên và lớn nhất điều chỉnh thương mại thế giới trong hầu hết các

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

lĩnh vực. WTO là một tổ chức quốc tế có điều lệ riêng gồm tất cả các quyđịnh về mục đích, nguyên tắc tổ chức, quy chế thành viên, việc ra nhập và

rút khỏi tổ chức.

Với tư cách là tổ chức thương mại của các nước trên thế giới, là cơchế pháp lý thay thé GATT điều chỉnh nền thương mại thế giới, WTO đặt ra

cho mình những mục tiêu chính sau đây:

Mot là, thúc day tang trưởng thương mại hàng hóa và dich vụ trênthế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.

Hai là, thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết bất

đồng về tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổcủa hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của

công pháp quốc tế; bảo đảm cho các nước chậm phát triển được thụ hưởng

những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với

nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích họ ngày cànghội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.

Ba là, nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các

<small>TA > * > z oe ` a 7 aA a? “7</small>

<small>nước thành viên, bao dam các quyền va tiêu chuẩn lao động tối thiêu đượctôn trọng.</small>

Để thực hiện được các mục tiêu trên, các nước thành viên thỏa thuận

<small>trao cho WTO thực hiện 5 chức năng sau:</small>

- Thống nhất quản lý việc thực hiện các Hiệp định và Thỏa thuận

thương mại đa phương và đa biên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả việc trợ

giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện nghĩa vụ thương mại quốctế của họ.

- Tạo khn khổ thể chế tiến hành các vịng đàm phán thương mại

đa phương theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.

- Là.cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan

đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các Hiệp định thương

mại đa phương và đa biên.

- Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các thành viên,

bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương mại và tuân thủ cácquy định của WTO.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

- Hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ tiền tệ quốc

tế và Ngân hàng thế giới trong việc hoạch định các chính sách và dự báo về

những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.

Về tổ chức của WTO, dựa trên nguyên tắc bình dang chủ quyềngiữa các quốc gia và nguyên tắc đồng thuận. WTO không can thiệp vào việc

hoạch định chính sách thương mại của các thành viên, khơng có chế tàimạnh trừng phat các thành viên khơng thực hiện đúng nghĩa vụ gây thiệt hat

cho các bên ký kết khác mà chỉ có thể cho phép bên thiệt hại áp dụng các

biện pháp trả đũa tương ứng với mực độ thiệt hại phải chịu. Tất cả các quyđịnh về việc thực hiện quyền bỏ phiếu thông qua quyết định, sửa đổi một sốđiều khoản, đóng góp ngân sách hoạt động... đều nhằm làm cho WTO có

một quyền năng chủ thể riêng biệt.

Về hoạt động của WTO, dựa trên nguyên tắc: mở cửa thị trường,không phân biệt đối xử, đãi ngộ tối huệ quốc, đại ngộ quốc gia và cạnhtranh cơng bằng, trong đó, có trù định một số ngoại lệ và ưu tiên nhất địnhcho các nước đang chuyển đổi, đang phát triển và kém phát triển nhằmkhuyến khích họ mở cửa thị trường thực hiện tự do hóa thương mại.

Về quy chế thành viên, WTO có hai loại thành viên theo quy định

của Hiệp định: thành viên sáng lập và thành viên gia nhập.

Thành viên sáng lập là các thành viên tham gia ký kết GATT nam1947 và phê chuẩn Hiệp định về WTO trước ngày 31/12/1994.

Thành viên gia nhập là các thành viên gia nhập Hiệp định WTO sau

ngày 1/1/1995.

Thành viên của WTO không chỉ gồm các quốc gia mà cịn có các tổchức quốc tế có liên quan và các lãnh thổ thuế quan riêng biệt. Đó là cáclãnh thổ khơng có tư cách quốc gia nhưng là các thực thể có quyền tự trịhoàn toàn trong việc tiến hành quan hệ ngoại thương và đối với các vấn đềkhác được điều chỉnh trong Hiệp định WTO và các Hiệp định thương mại

đa biên. Chẳng hạn, Hồng Công, Ma Cao là các thành viên như vậy.

Về cơ cấu tổ chức của WTO, theo chức năng nhiệm vụ có thể phân

<small>ra thành ba loại cơ quan tham gia:</small>

Loại thứ nhất, cơ quan lãnh đạo chính trị và có quyền ra quyết định

bao gồm: Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan giải quyết tranh

chấp và Cơ quan điều chỉnh chính sách thương mại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Loại thứ hai, các cơ quan thừa hành giám sát việc thực hiện các

Hiệp định thương mại đa phương, bao gồm Hội đồng GATT, Hội đồng

GATS và Hội đồng TRIPS.

Loại thứ ba, cơ quan thực hiện chức năng hành chính - thu ky là

Tổng Giám đốc và Ban thư ký WTO.

2. Hoạt động của WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa.Trong lĩnh vực thương mại hàng hóa GATT đã đưa ra nhiều quy

định và nguyên tắc điều chỉnh. WTO ra đời đã có sự bổ sung và sửa đổinhằm giải quyết tổng thể các vấn đề có liên quan trong lĩnh vực thương mạihàng hóa. Việc bổ sung sửa đổi của WTO, được tiến hành từ những quy

định chung trong thương mại hàng hóa, đến các quy định chun mơn điều

chính hoạt động cơng bằng hướng tới mục tiêu đẩy mạnh tự do hóa thương

mại quốc tế và hoạt động thương mại hàng hóa có tính nhạy cảm cao, sangcác quy định điều chỉnh hoạt động đầu tư liên quan đến thương mại.

Các quy định chung trong thương mại hàng hóa gồm quy định về

giá hàng hóa của Hải quan, kiểm tra hàng hóa trước khi đưa xuống tàu, tiêu

chuẩn sản phẩm và các biện pháp vệ sinh dịch tễ, thủ tục cấp giấy phépnhập khẩu.

Hiệp định về định giá hải quan của WTO (Hiệp định ACV) đã đưa

ra một hệ thống quy định thống nhất đảm bảo cho sự công bằng và trung

lập để định giá nhằm mục đích hải quan, một hệ thống phù hợp với các tổ

chức thương mại và loại bỏ việc sử dụng các định giá không khách quan

hoặc không đảm bảo sự công bang. Theo nguyên tắc cơ bản của Hiệp định

giá trị hàng hóa để thơng quan sẽ được xác định dựa trên giá cả thực trảhoặc phải trả khi hàng hóa được xuất khẩu sang nước nhập khẩu (theo hoáđơn), bao gồm một số khoản phải thanh toán mà người mua phải trả như chiphí bao bì và contenơ, phí bản quyền, giấy phép... Trong trường hợp phát

sinh sự khác biệt về vấn đề định giá tính thuế trên cơ sở giá cả giao dịch của

người nhập khẩu không được chấp nhận, Hiệp định ACV đưa ra 5 tiêu

chuẩn cụ thể xác định tính thuế như sau: |

- Trị giá giao dịch của hàng hóa đồng nhất.- Trị giá giao dịch của hàng hóa tương tự.

- TrỊ giá quy nạp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

- Tri giá theo tính toán.

- Biện pháp lựa chọn linh hoạt.

Hiệp định kiểm tra hàng hóa trước khi đưa xuống tàu (Hiệp định

PSI) cơng nhận rang, việc kiểm tra giá hàng nhập khẩu tại các nước xuất khẩulà rất cần thiết để kiểm tra số lượng, chất lượng hay giá của hàng nhập khẩu

và ngăn chặn hành động nâng giá, giảm giá hoặc gian lận hóa đơn. Cơng tác

kiểm tra này, được tiến hành bởi các công ty kiểm định độc lập (Công ty PSI).

Mục đích chính của Hiệp định nhằm đưa ra các quy tắc và luật lệ đồng bộcho các nước sử dụng dich vụ PSI và các nước xuất khẩu để các hoạt động

của họ không tạo ra các hàng rào ngăn cản thương mại. Hiệp định PSI đưara các nguyên tắc để hạn chế hoặc giảm bớt sự chậm chạp trong việc kiểmtra chất lượng, giá cả hàng hóa của các cơng ty PSI cũng như đảm bảo tínhminh bạch của các thủ tục kiểm tra và giữ kín các thông tin kinh doanh.

Để giải quyết các khiếu nại và tranh chấp liên quan đến các hoạt động

của công ty PSI Hiệp định đưa ra một cơ chế giải quyết gồm 3 giai đoạn:

Giai đoạn I: Hiệp định yêu cầu các cơng ty PSI chỉ định đại diện chínhthức để người xuất khẩu có thể khiếu nại các quyết định của công ty PSI.

Giai đoạn IT: Các công ty PSI sẽ thành lập một co quan nghiên cứu

độc lập (IRE) để cả người xuất khẩu và cơng ty PSI có thể trình lên các

khiếu nại của mình. Các khiếu nại này sẽ được xem xét tại Ban Hội thẩmgồm 3 hội thẩm viên.

Giai đoạn III: Hiệp định cho phép các nước sử dụng các dich vu PSI

và các nước xuất khẩu có thể giải quyết các tranh chấp liên quan đến Hiệpđịnh PSI trong khuôn khổ giải quyết tranh chấp của WTO.

Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đốt với thương mại (Hiệp địnhTBT) nhằm mục đích ngăn ngừa và loại bỏ sự lạm dụng các tiêu chuẩn sảnphẩm của các quốc gia trong thương mại quốc tế. Hiệp định này quy địnhkhông được sử dụng các tiêu chuẩn sản phẩm bắt buộc để tạo ra những cản

trở không cần thiết đối với thương mại quốc tế, việc sử dụng chúng phải dựa<small>trên những căn cứ khoa học rõ ràng.</small>

Hiệp định về vệ sinh dịch tế (SPS) nhằm bảo vệ con người, động,thực vật khỏi những côn trùng và bệnh tật có thể thâm nhập qua các sản

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

phẩm nông nghiệp nhập khẩu. Hiệp định SPS quy định rõ các nguyên tắc và

điều khoản tương ứng mà các quốc gia thành viên phải áp dụng trong việcquản lý các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu như cây, hoa quả, rau tươi,

thịt, sản phẩm thịt và các thực phẩm khác. Những quy định đó nhằm tránh

những nguy hiểm của việc thâm nhập và lan truyền các loại côn trùng, bệnh

tật; tránh những nguy hiểm phát sinh trong quá trình hoạt động của các chấtphân hủy, chất độc trong thực phẩm và các đồ ăn uống khác; tránh bệnhtruyền nhiễm qua động vật, cây trồng hoặc những sản phẩm từ những động

vật, cây trồng này.

Hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu (Hiệp định ILP),

<small>đưa ra các quy định cho việc áp dụng và thực hiện những thủ tục hành chính</small>

về cấp giấy phép nhập khẩu. Hiệp định ILP xác định, việc cấp giấy phép là

thủ tục hành chính địi hỏi việc nộp đơn cho cơ quan hành chính hữu quan

như là điều kiện ban đầu cho việc nhập khẩu hàng hóa. Hiệp định đưa racác yêu cầu cụ thể đối với các nước thành viên và các cơ quan cấp giấy

phép sao cho thủ tục hành chính nhanh chóng, thuận lợi, minh bạch. Thủtục cấp giấy phép không tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với thương

mại mà còn phải chú ý tới nhu cầu phát triển thương mại và tài chính củacác nước thành viên đang phát triển, đặc biệt là phải chú ý tới các thànhviên kén phát triển nhất.

Về các quy định chuyên biệt điêu chỉnh thương mại quốc tế vi

mục đích đẩy mạnh tự do hóa thương mại tồn cầu. Trong các quy định

này phải kể đến Hiệp định về trợ cấp và biện pháp đối kháng, các quy định

về chống phá giá và thuế đối kháng.

Hiệp định về trợ cấp và biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM)nhằm ngăn cấm hoặc hạn chế các quốc gia sử dụng các loại trợ cấp có ảnh

hưởng tiêu cực tới thương mại các nước khác, qua đó tác động xấu đến nền

kinh tế thương mại toàn cầu, cản trở thương mại quốc tế phát triển. Dựa trên

cơ sở xác lập nội dung, tính chất của trợ cấp, Hiệp định SCM chia hành<small>động trợ cấp ra làm 3 loại:</small>

- Trợ cấp bị cấm hồn tồn (trợ cấp đèn đỏ);

- Trợ cấp khơng bị cấm nhưng có thể là nguyên nhân phát sinh các

biện pháp đối kháng (trợ cấp đèn vàng);

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

- Trợ cấp không bị cấm và không phải là lý do tạo ra các biện pháp

đối kháng (trợ cấp đèn xanh).

Trừ một số ngoại lệ quy định như đối xử ưu tiên đối với các nướcđang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi, tất cả các trợ cấp đèn đỏ đầubị hạn chế, nếu một trợ cấp đèn đỏ được áp dụng có thể làm phát sinh cácbiện pháp khắc phục. Ngoài ra, trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp khuyến khích

sử dụng hàng nội cũng được xếp vào loại trợ cấp đèn đỏ.

Trong lĩnh vực các loại trợ cấp được phép, phân chia làm hai loại:trợ cấp có thể bị khiếu kiện và trợ cấp khơng bị khiếu kiện.

Trợ cấp có thể bị khiếu kiện, nếu gây thiệt hại đến lợi ích của cácthành viên khác. Vì vậy, xét từng loại thì có thể là đối tượng của biện phápkhác phục, đồng thời có thể được áp dung cùng với các biện pháp đối kháng.

Đối với trợ cấp được phép không bị khiếu kiện, đây là loại hình trợ cấp

khơng mang tính đặc thù nhưng đáp ứng được một số điều kiện nhất định.

Chẳng hạn, trợ cấp nghiên cứu và phát triển dành cho công nghiệp, trợ cấp phát

triển khu vực xa xôi, kém phát triển của quốc gia thành viên, trợ cấp bảo vệ môitrường nhằm mục đích nâng cấp thiết bị hiện có theo tiêu chuẩn mới về môitrường được quy định trong pháp luật. Trong khuôn khổ Hiệp định SCM, đã

thành lập một Ủy ban về trợ cấp và biện pháp đối kháng và nhóm các chun

gia thường trực. Nhóm cơng tác này là cơ quan xem xét, nghiên cứu bản chất

trợ cấp theo các nguyên tắc của Hiệp định. Theo yêu cầu của các quốc gia,

nhóm chuyên viên này có thể đưa quyết định cấm áp dụng một loại trợ cấp

hoặc có quyền đưa ra ý kiến tư vấn về sự tồn tại và bản chất của một loại trợ

cấp, theo yêu cầu của một nhóm quốc gia hay bất kỳ nước thành viên nào.

Hiệp định, các quy định về các biện pháp tự vệ (Hiệp định AS)

Trong trường hợp diễn biến thị trường đẩy một lĩnh vực kinh tế của

một thành viên vào hồn cảnh đặc biệt khó khăn thì thành viên này có

quyền được áp dụng các biện pháp tự vệ cấp bách nhằm khắc phục các thiệthại do hàng nhập khẩu 6 ạt vào thị trường nội địa gây thiệt hại cho các

ngành sản xuất trong nước. Các biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng sau khi có

kết quả xác định, sản phẩm đang được nhập với số lượng tăng đã hoặc sẽ đe

dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước của cơquan điều tra. Đồng thời, các biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng "ở mức độ

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

cần thiết nhằm ngăn ngừa hoặc khắc phục tình trạng thiệt hại nghiêm trọngvà thúc day điều chỉnh".

Hình thức tự vệ do cơ quan điều tra quyết định là tăng mức thuế trần

hoặc hạn chế số lượng nhập khẩu. Hiệp định AS quy định, một quốc gia

thành viên dự định áp dụng các biện pháp tự vệ sẽ đưa ra đề nghị bồi thường

cho các nước có lợi ích thương mại bi tác động tiêu cực do việc sử dụng các

biện pháp tự vệ. Việc bồi thường theo thỏa thuận, trong trường hợp khơng

thỏa thuận được thì các nước thành viên xuất khẩu có thể áp dụng biện pháp

trả đũa dưới hình thức chấm dứt sự nhượng bộ hoặc khơng thực hiện nghĩavụ mà nước áp dụng biện pháp tự vệ yêu cầu. :

Hiệp định về chống phá giá và thuế đối kháng (Hiệp định ADP)quy định rằng, một sản phẩm được coi là phá giá nếu giá xuất khẩu của nóthấp hơn giá của sản phẩm tương tự bán ra cho người tiêu dùng ở nước xuất

khẩu. Tuy nhiên, việc xác định phá giá trên cơ sở này có thể không phù hợp

khi giá bán trên thị trường nội địa không theo ý nghĩa thương mại thông

thường và với khối lượng hàng không đáng kể. Đồng thời, Hiệp định ADPcòn quy định cụ thể, "các yếu tố liên quan về tình trạng cơng nghiệp" phảiđược tính đến để xác định hiện hàng nhập khẩu phá giá có gây thiệt hại cho

<small>ngành công nghiệp trong nước hay không.</small>

Để áp dụng thuế chống phá giá cần phải khẳng định rõ ràng tên của

quốc gia xuất khẩu, cơ sở chứng minh có sự phá giá và tóm tắt những lập

luận cho rằng có gây ra thiệt hại, nhiều nhà sản xuất bị ảnh hưởng. Tuy

nhiên, thuế chống phá giá không được áp dụng nếu các yếu tố chủ yếu liênquan đến khó khăn của ngành công nghiệp là các nguyên nhân nằm ngoàinguyên nhân hàng nhập khẩu phá giá. Hiệp định chống phá giá đưa ranhững chỉ dẫn để các cơ quan điều tra sử dụng, xác nhận mức phá giá cóthể ảnh hưởng lớn đến mức thuế chống phá giá phải trả. Trong trường hợpcó thể, nên xác định mức thuế chống phá giá một cách riêng rẽ cho từngnhà sản xuất hoặc xuất khẩu.

Các quy định điều chỉnh thương mại hàng hóa có tính nhạy cẩm

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

chuyển đổi và đang phát triển giảm 30% mức thuế của mình. Để đạt được

mức thuế cuối cùng được thỏa thuận vào ngày 1/1/2000, những cất giảm

thuế nêu trên sẽ được thực hiện trong 5 giai đoạn. Đồng thời, các nước phát

triển và một số nước đang phát triển cũng đồng ý sẽ xóa bỏ tất cả hàng rào

thuế quan trong một số lĩnh vực thường được gọi là lĩnh vực cố mức thuế

0%. Đó là các lĩnh vực dược phẩm, thiết bị nông nghiệp, thiết bị xây dựng,

thiết bị y tế, đồ nội thất, giấy, thép va đồ chơi.

Như vậy, cộng với các cam kết khác tỷ lệ sản phẩm công nghiệpnhập vào thị trường các nước đang phát triển trên cơ sở miễn thuế sẽ tăng

gấp đôi từ 22% đến 44%. Điều đáng chú ý là mac dù các nước đang phát

triển giảm thuế áp dụng trung bình từ 6,3% năm 1995 xuống còn 3,8% vào

ngày 1/1/1999 (tức giảm 40%), song các sản phẩm xuất khẩu nhạy cảm củacác nước đang phát triển khơng được giảm thuế nhiều, cịn các mặt hàng

khơng nhạy cảm và ít nhạy cảm giảm mạnh thuế suất so với mức trung bình.Hiệp định về dệt may (Hiệp định ATC) có mục đích chính là đưa

thương mại dét may tuân thủ các quy định của GATT bằng cách, yêu cầu

các nước thành viên đang áp dụng những hạn chế số lượng phải cắt giảm<small>chúng trong thời hạn 10 năm. Từ ngày 1/1/2005 không nước nào được sử</small>

dụng những hạn chế đối với hàng dệt may nhập khẩu, trừ khi họ chứngminh được rằng những biện pháp này phù hợp với các điều khoản của Hiệpđịnh về các biện pháp tự vệ. Những biện pháp hạn chế này phải được ápdụng cho hàng nhập khẩu từ tất cả các nguồn, không phân biệt đối xử vớihàng nhập khẩu từ một hoặc 2 nước nào như trong trường hợp các hạn chế

của Hiệp định da sợi (MFA). Bên cạnh đó, Hiệp định về đệt may (ATC)cũng yêu cầu các quốc gia đang áp dụng những hạn chế không nằm trong

Hiệp định đa sợi phải cắt giảm chúng trong 10 năm. Chương trình cắt giảm

này sẽ được nước nhập khẩu chuẩn bị và đệ trình lên Ủy ban giám sát hàngdét may. Ủy ban này được thành lập theo Hiệp định về dét may để giám sát

việc thực hiện các cam kết được ghi trong Hiệp định.

Hiệp định về nơng nghiệp được dam phán tại vịng Uruguay thiếtlập một chương trình cải tổ dần thương mại trong nơng nghiệp, nhằm mục

đích thành lập "một hệ thống thương mại nơng nghiệp định hướng thịtrường, bình đẳng và cơng bang" bang biện pháp kiểm soát hàng nhập khẩu

tai biên giới và sử dụng những biện pháp trị giá xuất khẩu và các biện pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

hỗ trợ khác nhằm bảo đảm thu nhập cho người nông dân. Lần đầu tiên,

Hiệp định về nơng nghiệp đã có những cố gắng có tính hệ thống để xây

dựng các quy định cho trợ cấp đối với sản phẩm nông nghiệp. Hiệp định vềnơng nghiệp khơng có quy định về trợ cấp đèn đỏ. Cách tiếp cận Hiệp định

là yêu cầu các quốc gia giảm bớt việc sử dụng trợ cấp xuất khẩu và nhậpkhẩu với tỷ lệ phù hợp và được triển khai thực hiện theo một lịch trình đã

hành theo các quy định của luật trong nước hoặc các quy định hành chính

nhằm đạt được lợi thế và để hạn chế việc nhập khẩu của một doanh nghiệpđối với các loại sản phẩm có liên quan hoặc để sử dụng cho sản xuất trong

nước bằng cách hạn chế việc trao đổi ngoại tệ của doanh nghiệp đó theo số

lượng ngoại tệ liên quan mà doanh nghiệp đó được phép nhập vào...

Hiệp định TRIMS của WTO ký tại vòng đàm phá Uruguay được coi

là bước thỏa hiệp ban đầu của hai nhóm quan điểm đối lập: Một bên là cácnước phát triển đòi hỏi nội dung đàm phán về đầu tư phải bao gồm cả cácvấn đề chính sách tác động đến luồng đầu tư trực tiếp; còn bên kia các nướcđang phát triển cho rằng, GATT khơng có chức năng, nhiệm vụ đàm phánvề đầu tư, đồng thời họ yêu cầu đàm phán cả về vấn đề các hoạt động kinh

doanh hạn chế (RBP) của các tập đồn cơng ty xun quốc gia. Chính vì

vậy, phạm vi của TRIMS có phần bi hạn chế. Sự hạn chế này đã dẫn đến sự

thỏa thuận giữa các quốc gia nhất trí xem xét lại hoạt động của Hiệp địnhtrong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định này có hiệu lực (tức trước ngày

1/1/2000). Điều này chỉ ra rằng các đàm phán phát triển hệ thống các quyđịnh đa phương về đầu tư trực tiếp (FDI) có thé được trực tiếp tiến hành

<small>trong tương lai.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

3. Hoạt động của WTO trong lĩnh vực thương mại dịch vụ

Trên thế giới hiện nay, dịch vụ là một lĩnh vực hoạt động có tốc độ

phát triển rất nhanh chóng, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế củacác quốc gia và kinh tế thế giới. Dịch vụ ngày càng chiếm thị phần quantrọng trong thương mại quốc tế. Theo ước tính hiện nay thương mại dịch vụ

chiếm khoảng 20% tổng giá trị thương mại thế giới.

Trên thực tế, thương mại dịch vụ hình thành và phát triển, gắn liền

vỚi sự gia tăng liên tục của thương mại hàng hóa quốc tế, nhưng nó khơng

hề được nhắc đến vì thương mại dịch vụ bị coi là phụ thuộc vào sản xuất và

thương mại hàng hóa. Thương mại dịch vụ quốc tế bị kiểm soát và được

điều tiết chặt chế do các quốc gia có chính sách bảo vệ người tiêu dùng vàdịch vụ trong nước. Kể từ giữa những năm 1980 các quốc gia bắt đầu ý thứcrõ hơn về tầm quan trong của thương mại dịch vụ quốc tế, đồng thời đi đếnkết luận về việc cần thiết phải xóa bỏ các cản trở đối với thương mại địchvụ quốc tế để tạo ra nhiều khả năng xuất khẩu dịch vụ, từ đó thúc đẩy sảnxuất phát triển, giảm lạm phát và giải quyết công ăn việc làm trong nước.Các quốc gia cũng nhận thức được rang việc xóa bỏ các cản trở trongthương mại dich vụ quốc tế để thúc đẩy tự do hóa thương mại chỉ có thé

được giải quyết thông qua một Hiệp định đa phương về thương mại dịch vụ.Kết thúc vòng đàm phán Ủruguay, hai cuộc đàm phán về tự do hóathương mại dịch vụ được hồn tất đó là dịch vụ viễn thơng và dịch vụ tàichính. Như vậy, một Hiệp định quốc tế đa phương về thương mại dịch vụ đãra đời có tên gọi là "Hiệp định về thương mại dich vu" (GATS).

Kết thúc vòng đàm phán Uruguay, các nước thành viên thỏa thuận tiếp<small>tục đàm phán trên một số lĩnh vực dịch vụ như tài chính, viễn thơng cơ bản và di</small>

chuyển của nhân thể cung cấp dịch vụ. Đàm phán về dịch vụ viễn thông cơ bản

kết thúc vào tháng 2/1997, về dịch vụ tài chính kết thúc vào tháng 12/1997, về ©

di chuyển của các thể nhân cung cấp dich vụ kết thúc vào tháng 6/1995...

Hiệp định về thương mại địch vụ áp dụng cho tất cả các loại dịch<small>vụ. Tuy nhiên, trong GATS các điều khoản được áp dụng ở mức độ khácnhau. GATS xác định 4 phương thức cung cấp dịch vụ được xác định trên</small>CƠ SỞ xuất xứ của người cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng dịch vụ.Phương thức qua biên giới, phương thức tiêu dùng trong nước, phương thức

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

hiên diên thương mại và phương thức hiện diện của thể nhân. Bốn phươngthức này được thể hiện trong các cam kết tiếp cận thị trường và đãi ngộ

quốc gia nằm trong danh mục của từng nước thành viên GATS. Mặc dù

GATS điều chỉnh rất nhiều loại hình địch vụ nhưng vẫn cịn một số lĩnh vực

có ý nghĩa quan trọng trong thương mại quốc tế không được GATS điều

chỉnh. Chẳng hạn, quy định về nhập cảnh, các dịch vụ được cung cấp theo

sự ủy quyền của chính phủ, các chính sách tài chính và biện pháp thuế...

GATS là điều ước quốc tế đa phương về thương mại dich vụ, là cơ

sở pháp lý quan trọng nhất cho hoạt động thương mại dịch vụ của WTO, với

mục tiêu thúc đẩy tiến trình tự do hóa thương mại dịch vụ quốc tế nhằm đẩynhanh sự phát triển kinh tế thương mại và đầu tư giữa các nước. Theo

GATS, nghĩa vụ pháp lý của các quốc gia thành viên trong hoạt động

thương mại quốc tế bao gồm các nội dung dưới đây:

Theo nguyên tắc Tối huệ quốc, nếu một thành viên WTO đã dànhsự đối xử ưu đãi cho các công ty nước ngồi của một nước thành viên nàođó thì cũng phải dành sự đối xử ưu đãi cho công ty của tất cả các nước

thành viên khác của WTO. Nghĩa vụ này buộc các nước thành viên WTOphải áp dụng trong tất cả các ngành, ở tất cả các biện pháp liên quan đếnthương mại dịch vụ, không phụ thuộc vào đã cam kết cho các cơng ty nướcngồi tiếp cận thị trường của mình hay chưa.

Theo nguyên tắc dai ngộ quốc gia, được xây dựng trên cơ sở nguyêntắc không phân biệt đối xử giữa người nước ngoài và người trong nước.

Theo nguyên tac minh bạch, mỗi nước cam kết sẽ nhanh chóng

đáp ứng moi đồi hỏi về thơng tin cụ thể của các nước thành viên khác. Tuynhiên, nguyên tắc minh bạch không bắt buộc các nước thành viên phải cơng

bố các thơng tin bí mật của mình mà việc tiết lộ có thể gây ra thiệt hại cho

<small>lợi ích quốc gia.</small>

_ Về tiếp cận thị trường, với mục đích thúc đẩy nhanh chóng tự do

<small>hóa thương mại quốc tế, GATS quy định về tiếp cận thị trường nhằm bảo</small>đảm các điều kiện thuận tiện cho địch vụ và người cung cấp dịch vụ của tấtcả các quốc gia thành viên. Việc tiếp cận thị trường được tiến hành trongtừng lĩnh vực và theo cách thức nào đó do từng thành viên WTO cam kết cụ<small>thé và mô tả trong danh mục cam kết về tiếp cận thị trường.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Về công nhận lan nhau, GATS kt.uyén khích các nước thành viên

xây dựng những thỏa thuận song phương về công nhận lẫn nhau, các nước

thành viên phải tuân thủ các chuẩn mực quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi

hoặc được công nhận trong các văn bản liên quan về chuyên môn.

Về quy dịnh trong nước, điều khoản quy định trong nước đặt ra ucầu có tính nguyên tắc đối với các quốc gia thành viên trong việc đưa ranhững biện pháp trong nước trên cơ sở khách quan không thiên vị và hợp lý.

Theo yêu cầu của GATS, các quốc gia không được ra các quy định quá khất

khe về việc bảo đảm chất lượng dịch vụ, về năng lực cung cấp dịch vụ, vềthủ tục cấp giấy phép để gây trở ngại, hạn chế việc cung cấp dịch vụ của thể

nhân, pháp nhân nước ngoài.

Các lĩnh vực dịch vụ thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS được phânra thành 11 lĩnh vực lớn, trong đó mdi lĩnh vực lại bao gồm các loại hình

dịch vụ khác nhau, đó là:

1. Dịch vụ kinh doanh, gồm: dịch vụ về nghề nghiệp như dịch vụpháp lý, kế toán, kiểm toán, kiến trúc, y tế... và các dịch vụ khác như tư vấn

quản lý, quảng cáo, bảo dưỡng, sửa chữa, in ấn...

2. Dịch vụ liên lạc, gồm: dịch vụ viên thông cơ bản và giá trị giating, kể cả thông tin trực tuyến và xử lý dữ liệu; dich vụ bưu chính vàchuyển phat; dich vụ nghe nhìn như phát thanh, truyền hình...

3. Dịch vụ về xây dựng và thi công.

4. Dịch vụ phân phối, kể cả bán lẻ, bán buôn và đại lý mượn danh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

11. Dịch vụ vận tải: đường biển, đường sông, đường bộ, đường hàngkhơng và vận tải đa phương thức...

Ngồi ra cịn có các dịch vụ khác, gồm tất cả các :oại hình dịch vụ

chưa được nêu ở trên

4. Các vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí

tuệ theo quy định của tổ chức thương mại thế giới (WTO)

Sở hữu trí tuệ hiện nay đang là vấn đề mang tính tồn cầu, và đượcxem là một "tài sản quý báu” chung của loài người. Rất nhiều điều ước quốc tếđa phương và song phương đã được ký kết giữa các quốc gia trên thế giới để

thiết lập một khung pháp lý quốc tế bảo hộ đối với loại "tài sản" đặc biệt đó.

Việc bảo hộ này mang rất nhiều ý nghĩa quan trọng. Đó là quyền được hưởng

những lợi ích chính đáng đối với sản phẩm lao động của mình. Quyền này của

con người được ghi nhận trong rất nhiều các điều ước quốc tế cũng như trongpháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Quyền sở hữu trí tuệ bị viphạm, nó ảnh hưởng lớn đến quyền nhân thân và lợi ích kinh tế của người sáng

tạo, làm hạn chế sự sáng tạo, kìm hãm sự phát triển của nhân loại. Bảo hộ

quyền sở hữu trí tuệ nhằm chống và ngăn chặn các hành vi vi phạm, bảo đảm

một cách đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của người đã sáng tạo ra các

đối tượng của sở hữu trí tuệ. Là động lực quan trọng để thúc đẩy sự sáng tạoqua đó khoa học kỹ thuật được đổi mới khơng ngừng và phát triển.

Quyền sở hữu trí tuệ có mối liên hệ mật thiết với sự phát triển kinh

tế và thương mại thế giới. Xu hướng tăng tỷ trọng trí tuệ trong sản xuất

công nghiệp, dich vụ và thương mại đã thúc đẩy sự canh tranh trong lĩnh

<small>vực nghiên cứu và sử dụng các thành quả sáng tạo trí tuệ, đồng thời đã kích</small>thích khuynh hướng tự giảm chi phí bằng các biện pháp thiếu trung thực

như sử dụng kết quả nghiên cứu của người khác, mạo sản phẩm, mạodanh... Thực trạng nêu trên, không chỉ gây ra tổn thất lớn cho các nhà đầu

tư mà còn gây thiệt hại chung cho toàn bộ nền kinh tế thế giới. Bảo hộquyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực này góp phần quan trọng làm lành mạnhhóa các quan hệ thương mại thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển.

Một số nội dung cơ bản liên quan đến thương mại của quyền sởhữm trí tuệ theo quy định của tổ chức thương mại thế giới.

Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở

<small>hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS), là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

quyền và nghĩa vụ của các nước thành viên trong lĩnh vực này. Truéc khi

Hiệp định TRIPS ra đời đã có khá nhiều các diéu ước quốc tế được ký kết

ziữa các quốc gia về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như cơng ước Paris năm

1483 về bảo hộ sở hữu công nghiệp; công ước Béc-nơ năm 1886 về bảo hộ

các tác phẩm văn học nghệ thuật; công ước Rôma về bảo hộ người biểu4iễn, người đạo diễn các chương trình phát thanh truyền hình; Hiệp định về

sở hữu trí tuệ lên quan đến mạch tích hợp (IPIC) năm 1989... Tuy nhiên,

~iệc bảo hộ theo các công ước, hiệp định như trên vẫn chưa đủ, chưa toàndiện về nhiều phương diện. Một số yêu cầu quan trọng như việc xây dựng

¬ột cơ chế phù hợp và hữu hiệu nhằm thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí

t, việc giải quyết nhanh chóng các tranh chấp phát sinh giữa các nước

trong lĩnh vực này và một số vấn đề khác có liên quan chưa được quy định

rõ. Xuất phát từ ý nghĩa đó, Hiệp định TRIPS đã được ký kết và bat đầu cóhiệu lực từ 1/1/1995. Đây là Hiệp định duy nhất được ký kết trong khuôn

chổ WTO để điều chỉnh các vấn dé liên quan đến thương mại của quyền sởnữu trí tuệ trong khuôn khổ các nước thành viên.

Những nội dung cơ bản của Hiệp định TRIPS:

Hiệp định TRIPS gồm 73 điều được chia thành VỊI phần. Nội dungcủa Hiệp định tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau: -

Thứ nhất, các chế độ pháp lý cơ bản: Hai chế độ pháp lý quan trọng<small>được ghi nhận trong Hiệp định là "chế độ đối xử quốc gia" và "chế độ Tốihuệ quốc”.</small>

Thứ hai, tiêu chuẩn bảo hộ đối với các đối tượng thuộc quyền sở

<small>nữu trí tuệ, bao gồm 7 đối tượng: bản quyền và các quyền có liên quan;</small>sing chế; nhãn hiệu hàng hóa; thiết kế bố trí mạch tích hợp; bảo hộ cácthơng tin kín (bí mật thương mại); kiểu dáng công nghiệp; chỉ dẫn địa lý.

Một trong những nội dung quan trọng của Hiệp định TRIPS là các

quy định, các biện pháp để thực thi có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ. Theo

uy định của Hiệp định, các nước thành viên trong pháp luật của mình phải

Šó những chế tài kịp thời để ngăn chặn vi phạm và những chế tài có tác

Jung ran đe đối với những vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Và các biện pháp,‘ao gdm: biện pháp dân su; hành chính; các biện pháp tạm thời; các biện

Phíp liên quan đến kiểm sốt biên giới và biện pháp hình sự.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Như vậy, tất cả các quy định trong Hiệp định TRIPS từ các quy địnhmang tính nguyên tắc chung, tới các quy định về tiêu chuẩn bảo hộ, quy

định về thực thi quyền... đã tạo nên một khung pháp lý ổn định, có giá tri

pháp lý cao là cơ sở vững chắc để bảo hộ có hiệu quả các quyền và lợi ích

hợp pháp cho các chủ thể quyền, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy

khoa học, kỹ thuật phát triển và lành mạnh hóa các quan hệ thương mại trên

phạm vi toàn thế giới. Sự ra đời của Hiệp định TRIPS đã đánh dấu một sựđổi mới trong cách nhìn nhận của thế giới về vai trị ý nghĩa của việc bảo hộquyền sở hữu trí tuệ: bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ khơng chỉ là vấn đề bảo hộ

các quyền dân sự của con người mà còn là một điều kiện bắt buộc đối với

các quốc gia muốn tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Bảo hộquyền sở hữu trí tuệ là một yếu tố tất yếu khách quan trong sự tồn tại và

phát triển của nền kinh tế thế giới.

5. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO

Giải quyết tranh chấp thông qua các tổ chức quốc tế là một trongcác biện pháp hịa bình để giải quyết tranh chấp quốc tế khá hữu hiệu.WTO là một tổ chức thương mại quốc tế phổ cập với phạm vi điều chỉnh

rộng nên WTO có một cơ chế giải quyết tranh chấp khá hiệu quả.

Tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại quốc tế là các bất

déng, mâu thuẫn, các va chạm giữa các chủ thể luật quốc tế xảy ra trongquá trình các chủ thể này thực hiện các cam kết quốc tế liên quan tới lĩnh

<small>vực thương mại. Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế là quá trình điều</small>

chỉnh các bất đồng, các xung đột phát sinh giữa các bên thành viên dựa trên

cơ sở sử dụng các căn cứ pháp lý, các quy định mà các bên hữu quan đãthỏa thuận và ghi nhận trong điều ước quốc tế tương ứng. Với tư cách là

một tổ chức kinh tế quốc tế toàn cầu, GATT trước kia cũng như WTO hiện

<small>nay đều cần có một cơ chế giải quyết các tranh chấp hiệu quả và thực sự</small>công bằng, nhằm bảo đảm cho tất cả các quốc gia thành viên dù lớn hay

nhỏ, di nghèo hay giàu, dù phát triển hay đang phát triển cũng đều phải

<small>tuân thủ các quy định chung của "một sân choi" thương mại quốc tế van</small>hành theo cơ chế thị trường.

Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT 1947, đã xác định rõ ràng

và cụ thể: các tranh chấp hay mâu thuẫn về việc hiểu và áp dụng các điều

Khoản của GATT phát sinh giữa các bên thành viên sẽ được giải quyết theo

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

con đường tham vấn, theo một trình tự, thủ tục giải quyết đã được các bên

thỏa thuận đồng ý. Về bản chất tham vấn là một trong các biện pháp giải

quyết hịa bình tranh chấp quốc tế, là loại hình có thay đổi của biện pháp

thương lượng. Biện pháp tham vấn được chia làm hai loại: tham vấn bắt

buộc và tham vấn tùy nghi (có lựa chọn). Tham vấn bắt buộc là tham vấn

được các bên thỏa thuận và nhất trí ghi trong điều ước quốc tế để giải quyếtcác tranh chấp phát sinh giữa các bên trong tương lai khi các bên hữu quan

này có bất đồng quan điểm với nhau. Tham vấn tuỳ nghi là loại hình tham

vấn mà các bên sử dụng trong từng trường hợp cụ thể theo sự thỏa thuận

đồng ý của các bên hữu quan.

Bên cạnh các thủ tục tham vấn của GATT, để điều chỉnh các tranhchấp giữa các bên trong việc áp dụng và thực thi các điều khoản của GATT,

Hiệp định này còn quy định một thủ tục khác nằm trong cơ chế giải quyết

tranh chấp đó là thủ tục hòa giải. Trong trường hợp vụ việc tranh chấp

không được giải quyết theo con đường tham vấn thì ngun đơn có thể u

cầu Hội đồng giải quyết theo con đường hòa giải. Trong thực tế ta thấy, cơ

chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ GATT 1947 thể hiện tính chất

hịa giải nhiều hơn là tranh tụng, điều này có mục đích làm cho các bênhiểu nhau hơn nhằm đi đến một giải pháp mà cả hai bên tranh chấp đều cóthể chấp nhận được.

Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT còn bộc lộ nhiều hạn chế,

trước hết, cả thủ tục và các biện pháp chế tài được áp dụng trong việc xử lý

vi phạm, kể cả trong trường hợp áp dụng đối với bên vi phạm nghiêm trọng

nhất các quy định pháp ly bắt buộc của GATT, về ban chất mang tính chínhtrị và kinh tế nặng hơn là tính pháp lý. Hệ thống giải quyết tranh chấp của

GATT cịn có nhược điểm trong lĩnh vực liên quan đến vấn đề thủ tục. Đó

<small>là việc thỏa thuận thành lập nhóm chuyên gia, thành phần nhóm chuyên gia</small>

giải quyết tranh chấp và quyền hạn của nhóm này tốn rất nhiều thời gian.

Bên cạnh đó, việc thơng qua báo cáo và thực hiện các khuyến nghị được ghinhận trong báo cáo, sau khi báo cáo được thông qua tại Hội đồng GATT đãgap rất nhiều khó khăn và thường bị kéo dài.

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề giải quyết tranh chấp

<small>các bên tham gia GATT đã có những hoạt động tích cực theo xu hướng cải</small>

tiên các thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế vào năm 1989

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

trong q trình điển ra vịng dam phán Uruguay đạt được một số kết quakhả quan. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cịn lỏng lẻokhơng chặt chế dựa trên cơ sở dàn xếp là chủ yếu. Cơ chế này đã được thaythế bảng cơ chế điều chỉnh tranh chấp mới hồn tồn có hiệu quả và năngđộng hơn trong khuôn khổ của WTO.

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO:

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả. Đó

là một cơ chế giải quyết tranh chấp đặc thù, phù hợp với mục đích và cácnguyên tắc tổ chức, hoạt động của WTO.

Các tranh chấp là đối tượng để giải quyết trong khuôn khổ WTO làtranh chấp phát sinh giữa các thành viên. Nói một cách khác, chủ thể củatranh chấp là thành viên của WTO. Xét về tính chất, các tranh chấp đượcgiải quyết trong khuôn khổ WTO là các tranh chấp quốc tế mang tính chấtkinh tế (cịn được gọi là các tranh chấp kinh tế quốc tế) giữa các chủ thể của

Nguyên tắc giải quyết nhanh chóng các tranh chấp: Do tính chất

của các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên là các tranh chấp mang tínhchất thương mại nên việc phát sinh tranh chấp ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích

kinh tế của các quốc gia đó, đặc biệt trong trường hợp nó liên quan đến cácchính sách ngoại thương của bên tranh chấp. Vì vậy, các tranh chấp giữa

các thành viên của WTO đòi hỏi phải được giải quyết trong thời gian ngắn

nhất để không làm phương hại đến quyền lợi của các bên có liên quan.

Nguyên tắc hiệu quả, trong xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấpphải xây dựng được một cơ chế giải quyết tranh chấp có hiệu quả. Đó là cơ

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

chế đồng thời đáp ứng được hai yêu cầu: thứ nhất, phải đảm bảo cho mộtgiải pháp tích cực, đảm bảo quyền lợi các bên; thứ hai, các quyết định phải

thỏa đáng với các bên để bảo đảm các quyết định đó được các bên tn thủ

nghiêm chỉnh.

Ngồi ra, WTO vẫn tiếp tục duy trì các nguyên tac giải quyết tranh

chấp mà GATT 1947 áp dụng như: cấm đơn phương áp dụng các biện pháptrả đữa khi chưa được WTO cho phép. Day là nguyên tắc được đánh giá "cóý nghĩa sống còn với sự tồn tai của hệ thống thương mại toàn cầu”.

Các phương thức và thủ tục giải quyết tranh chấp bao gồm: tham

vấn, mơi giới, hịa giải, trung gian hoặc khiếu nại trước Cơ quan giải quyết

tranh chấp (DSB). Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp sẽ được thực hiệnthông qua các thủ tục nhất định.

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và các nước đang phát triển:

Hệ thống các quan hệ thương mại quốc tế do WTO điều chỉnh ln

thể hiện q trình mâu thuẫn, va chạm về lợi ích giữa các quốc gia vớinhau, nổi bật là giữa hai nhóm nước chính: nhóm các nước phát triển vànhóm các nước đang phát triển. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTOkhông cho phép các nước phát triển áp đặt luật của mình trong việc giảiquyết tranh chấp thương mại quốc tế. Các nước đang phát triển nhanh

chóng nhận thức được những lợi ích từ việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh

chấp của WTO trong quan hệ thương mại quốc tế. Có thể khẳng định cơ chếgiải quyết tranh chấp của WTO được các nước đang phát triển sử dụng như

là một công cụ giải quyết có hiệu quả các tranh chấp thương mại quốc tế

giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển. Xét tổng thể, thì cơchế giải quyết tranh chấp của WTO là một bước phát triển tiến bộ theohướng công bằng và dân chủ hơn trong quan hệ thương mại quốc tế đầy khókhăn và phức tạp của một thế giới đan xen ràng buộc lẫn nhau về quyền lợi

<small>và nghĩa vụ.</small>

Bên cạnh những tác động ảnh hưởng tích cực của cơ chế giải quyết

tranh chấp của WTO thì những hạn chế của cơ chế này khơng phải là khơng

có. Chẳng han, do cơ chế giải quyết thiên về kỹ thuật đòi hỏi các nước đangphát triển phải có sự chuẩn bị cơng phu đầy tốn kém, đặc biệt khi bên kiện

là nước phát triển. Thực tế này đòi hỏi các nước đang phát triển phải gánh

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

chịu những khó khăn trở ngại và cơng sức rất lớn, khi quá trình thuần túykỹ thuật này rất khó đáp ứng với các nước đang phát triển do hạn chế về

kinh nghiệm, kiến thức và tài chính trong q trình tham gia tố tụng trong

khn khổ WTO.

Ill. TIẾN TRÌNH VIET NAM GIA NHAP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THE

GIỚI (WTO)

1. Chính sách gia nhập WTO của Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế thế giới có những chuyển biếnsâu sắc dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện

đại, của quá trình phân cơng lao động quốc tế ngày càng sâu rộng, tạo nên

xu thế tồn cầu hóa và khu vực hóa mạnh mẽ. Biểu hiện rõ nét nhất của xu

thế tồn cầu hóa nền kinh tế là sự gia tăng mạnh mẽ về khối lượng trao đổi

hang hóa, dịch vụ và các dong tài chính, cũng như sự xuất hiện của nhiều

thể chế kinh tế tài chính và thương mại quốc tế. Quá trình này tạo thuận lợicho các nước, kể cả các nước đang phát triển, mở rộng thị trường, có thêmvốn và cơng nghệ, tập hợp lực lượng để bảo vệ lợi ích của mình... Trong bối

cảnh quốc tế đó, bất cứ quốc gia nào muốn phát triển đều phải nỗ lực tham

gia vào quá trình hội nhập.

Để Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, nhận

thức sâu sắc vấn đề hội nhập, thấm nhuần bài học "kết hợp sức mạnh dân

tộc với sức mạnh thời đại", Dang Cộng Sản Việt Nam luôn quan tâm đến

việc triển khai quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngay từ Nghị quyếtTrung ương lần thứ 4 khóa VIII của Đảng đã nhấn mạnh: "Chủ động chuẩnbị các diéu kiện cần thiết về cán bộ, pháp luật và nhất là về những sản

phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực

và thị trường quốc té”

"Tiển hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán

Hiệp định thương mại với Mỹ, ra nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thểchủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTATM.

Ngay từ đầu những năm 1990, cùng với việc thực hiện chính sách

đổi mới, Việt Nam đã triển khai một cách tích cực và từng bước tiến trình

<small>(1) Dang cong sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứV1TIT, Nxb Chính trị quốc gia.</small>

<small>H. 1996, tr. 84</small>

<small>(2) Trên đã dẫn. tr. 60.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

hội nhập kinh tế quốc tế của mình. Năm 1993, Việt Nam khai thơng quan

hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB),

quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Chau A (ADB) và các tổchức phát triển kinh tế khác trong hệ thống Liên hiệp quốc; nội dung đàmphán với các tổ chức này, gắn bó mật thiết với những yêu cầu của WTO;

tháng 7/1995 gia nhập ASEAN; Tháng 3/1996, tham gia với tư cách là

thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác A - Au (ASEM); ngày 15/6/1996, gửiđơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

(APEC) và 11/1998 là thành viên chính thức của Diễn đàn này.

Ngày 12/1/1995, Việt Nam đã chính thức gửi đơn xin gia nhập

WTO và cho đến nay đã trải qua 4 phiên họp để đàm phán với Nhóm cơngtác về việc gia nhập WTO, nhằm minh bạch hóa các chính sách kinh tế -thương mại của Việt Nam, chuẩn bị cho các cuộc đàm phán cụ thể về mởcửa thị trường, tiến tới gia nhập tổ chức này.

Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã rõ ràng, chủtrương gia nhập WTO đã minh bạch và đang trên đường đàm phán để gianhập tổ chức này.

Việc gia nhập WTO sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội tốt để

phát triển, song cũng có nhiều thách thức đặt ra.

2. Mục tiêu, cơ hội và thách thức của Việt Nam gia nhập WTOGia nhập WTO Việt Nam sẽ đạt được các mục tiêu cơ bản sau:Thứ nhất, gia nhập WTO sẽ giúp cho Việt Nam có cơ hội mở rộngthị trường xuất khẩu ra thế giới. Bởi vì, hàng hóa của Việt Nam sẽ đượchưởng các quy chế của WTO, có nhiều ưu đãi hơn và sức cạnh tranh tăng,

thâm nhập được nhiều hơn vào thị trường các nước, góp phần thúc day phát

triển sản xuất trong nước để tăng cường xuất khẩu.

Thứ hai, gia nhập WTO sẽ tạo cơ hội và khả náng cho Việt Nam thuhút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam.

Thứ ba, gia nhập WTO sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam tranh thủ được

nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn và giảm đáng kể

các khoản nợ nước ngoài.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>Thứ uc, gia nhập WTO Việt Nam sẽ có điều kiện tiếp thu được sự</small>

tiến bộ của khoa học. kỹ thuật, công nghệ, kỹ năng quản lý, tăng cường khảnăng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh.

Thứ năm, gia nhập WTO Việt Nam sẽ có thêm cơ hội để góp thêm

trí tuệ và sức mạnh của mình cho việc đấu tranh vì sự dân chủ và bình dangtrong khn khổ WTO.

Gia nháp WTO sẽ mở ra cơ hội và thách thức nhất định đối với

Việt Nam. Chúng ta sẽ xét trên các bình diện sau:

* Về việc thực hiện những nguyên tắc cơ bản của WTO.

- Khi trở thành thành viên của WTO, thực hiện nguyên tắc Tối huệquốc, hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam được đối xử bình đẳng như hànghóa và địch vụ của nước nhập khẩu là thành viên của WTO và chịu cùng

một mức thuế như các nước thành viên khác.

- Trên cơ sở thực hiện nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, trong quá trìnhđàm phán song phương, chúng ta phải đưa ra cam kết về việc cắt giảm thuếsuất thống nhất áp dụng với một hàng nhập khẩu cụ thể từ một nước thànhviên, sẽ được đành cho tất cả các nước thành viên khác cùng hưởng. Đồng

thời, phải tiến hành loại bỏ một số đối xử ưu đã hơn cho hàng hóa và dịch

vụ trong nước, chang hạn ưu đãi về thuế tiêu thụ đặc biệt hay chi phí sử

<small>dụng điện...</small>

- Thực hiện nguyên tắc mở cửa thị trường, chúng ta phải nỗ lực loạibỏ các hàng rào cản trở thương mại, đảm bảo cho thương mại ngày càngthơng thống hơn. Việt Nam phải cam kết thuế trần hoặc ràng buộc thuếnhập khẩu với rất nhiều mặt hàng. Một số các nhà doanh nghiệp đang đượchưởng đặc quyền sẽ mất toàn bộ hay một phần các đặc quyền bất... Đây

<small>cũng là khó khăn cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam tham gia cạnh tranh</small>

trong điều kiện khơng cịn đặc quyền.

- Thực hiện ngun tắc cạnh tranh công bằng là cơ hội tốt cho ViệtNam ở chỗ, trong điều kiện các nước phát triển phải giảm trợ cấp cho nhiều

hàng hóa của họ, sẽ khiến cho một số mặt hàng của ta tăng thêm sức cạnh

tranh, có lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc xuất khẩu. Tuy

nhiên, thách thức lớn là ở chỗ, chúng ta cần phải xây dựng một cơ chế vàmột bộ máy hành chính chống cạnh tranh khơng lành mạnh. Một số các

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

doanh nghiệp sẽ mất các đặc quyền, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập

khẩu và phân phối hàng hóa.

- Thực hiện nguyên tắc dành cho các nước thành viên đang phát triển

một số ưu đãi nhất định, chúng ta có cơ hội duy trì chính sách bảo hộ cho các

ngành sản xuất non trẻ có tiềm nang trong tương lai một thời gian xác định.

Nhưng điều này cũng có thể tạo ra sự ở lại thái quá, đe dọa hạn chế sức cạnhtranh lâu dài khi phải cạnh tranh trong điều kiện cạnh tranh không có ưu đãi.

* Về lĩnh vực thương mại hàng hóa:

Về chính sách thuế quan, cơ hội lớn nhất cho Việt Nam là ở chỗ, kể

từ thời điểm gia nhập WTO, chúng ta sẽ được hưởng ngay lập tức và vôđiều kiện kết quả của hơn 50 năm với 8 vòng đàm phán cắt giảm thuế quanđa phương. Việt Nam đương nhiên được hưởng thuế quan Tối huệ quốc vàcác ưu đãi liên quan đến thủ tục về thuế quan khác của tất cả các thành viênWTO dựa trên cơ sở không phân biệt đối xử. Riêng trong lĩnh vực xuấtkhẩu, các nhà xuất khẩu nơng sản Việt Nam nhờ có chính sách thuế rõ ràngvà cơng khai có thể xác định được chính xác mức bảo hộ đối với hàng nôngsản xuất khẩu của các nước thành viên khác.

Đối với Việt Nam, việc chấp nhận cơ chế thuế suất ràng buộc, nhất

là hàng nơng sản, điều đó cho phép làm tăng sự ổn định thị trường cho các

nhà kinh doanh xuất và nhập khẩu. Tuy nhiên, thách thức đối với chúng talà ở chỗ, trong mọi trường hợp, trừ các trường hợp khẩn cấp, theo các quyđịnh cụ thể, không được tăng thuế vượt quá mức trần cam kết. Do đó, nhu

cầu bảo hộ đối với một ngành sản xuất trong nước cần phải được xác định

ngay từ bây giờ trong ý đồ chiến lược dai hạn (trong tiến trình đàm phán).

Sau khi ràng buộc thuế, các nước sẽ phải cam kết không ngừng cắt

giảm thuế quan. Đối với Việt Nam, sẽ có một cơ hội lớn là các doanh

nghiệp và người tiêu dùng sẽ được mua hàng hoặc thiết bị vật tư đầu vàocùng chất lượng với giá thấp nhất do việc cắt giảm thuế suất. Thiết bị,

nguyên liệu đầu vào rẻ hơn, đương nhiên dẫn đến sản phẩm đầu ra của các

nhà sản xuất trong nước cũng có sức cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, thách thức

gay gắt đặt ra là ở chỗ, thuế nhập khẩu giảm sẽ kích thích nhập khẩu nhiều

hơn. Vì thế, doanh nghiệp trong nước sẽ phải cạnh tranh ngày càng trựcdiện và gay gắt hơn với hàng ngoại nhập.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Về vấn dé phi thuế, sử dụng các biện pháp phi thuế để hạn chế nhậpkhẩu trong những trường hợp cần thiết để bảo đảm an ninh quốc gia, vănhóa truyền thống, môi trường, sức khỏe con người... Nhưng dù sao cácthành viên cũng khơng được duy trì các biện pháp hạn chế định lượng như

cấm, hạn ngạch mà khơng có lý do chính đáng. Điều này đem lại cơ hội cho

Việt Nam là cho phép các nhà xuất khẩu Việt Nam có được sự bảo đảm

chác chắn rằng, hàng hóa của mình sẽ được nhập khẩu vào thị trường các

quốc gia thành viên. Nhưng thách thức là ở chỗ, chúng ta không thể sử

dụng các biện pháp cấm nhập khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, chưa cho nhậpkhẩu... để bảo hộ cho sản xuất trong nước. Đồng thời, chúng ta cũng không

được phép sử dụng các biện pháp mang tính chất hạn ngạch kiểu "chỉ tiêuđịnh hướng”.

Thực hiện các quy định đối với các vấn đề trị giá tính thuế hải quanvà các phụ thu tại cửa khẩu mang lại cho Việt Nam cơ hội mới. Đó là cácnhà xuất khẩu Việt Nam có thể tính trước được các chi phí cho hàng xuấtkhẩu, kể cả thuế nhập khẩu và các chi phí phát sinh khác liên quan đến hảiquan. Điều khó khăn với ta ở đây là không thể đặt ra các loại phụ thu tạicửa khẩu nhằm mục tiêu bảo hộ - điều mà lâu nay chúng ta vẫn có thể làm.

Về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu phải đơn giản, rõ ràng và dễ dự

đoán, thuận lợi đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam là dễ dàng có được

thơng tin cần thiết về thủ tục cấp phép nhập khẩu của các nước thành viên

WTO. Thách thức đặt ra cho chúng ta trong vấn đề này là ở chỗ, các doanh

nghiệp không thể sử dụng các thủ tục giấy phép như là một cơng cụ trá hìnhđể bảo hộ cho sản xuất trong nước. Vì vậy, quyết định của Chính phủ vềviệc tăng cường cắt giảm mạnh mẽ hơn nữa các loại giấy phép trá hình, gâyphiền nhiễu cho các nhà doanh nghiệp trong thời gian qua là một bước đón

trước, tạo thế chủ động thuận lợi cho Việt Nam gia nhập WTO.

Về vấn đề bán phá giá, thực hiện nguyên tắc chống bán phá giá,Việt Nam có quyền áp dụng thuế chống phá giá để bảo đảm sản xuất trong

nước khơng bị hàng hóa nước ngồi cạnh tranh bất bình đẳng thơng qua

việc bán phá giá. Hàng xuất của Việt Nam không bị các nước đánh thuế

chống phá giá một cách tùy tiện như là một công cụ bảo hộ trá hình. Khó

khăn đối với chúng ta là thủ tục điều tra tốn kém, một nước nghèo như ViệtNam khó có thể sử dụng đầy đủ cơng cụ này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Về việc tự vệ khẩn cấp, cơ hội đối với nước ta trong vấn dé này là

hàng xuất khẩu của ta khó có thể bị hạn chế một cách tùy tiện. Khi thấy

hàng ngoại nhập khẩu với số lượng tăng một cách đột ngột gây khó khăn

cho sản xuất trong nước, các doanh nghiệp có quyền yêu cầu chính phủ áp

dụng các biện pháp tự vệ khẩn cấp dé khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, thủ

tục điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ cũng rất phức tạp và tốn kém.

Về chính sách đầu tư đối với Việt Nam cũng có nhiều cơ hội lớn.

Giả sử sau này chúng ta có tiềm năng đầu tư ra nước ngồi thì Hiệp định

TRIPS sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam tránh được một số trở ngại.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi sẽ không bị buộc phải thực

hiện một số nghĩa vụ như thực hiện chương trình nội địa hóa. Tuy nhiên,

khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ mất đi một số ưu đãi đầu

tư, ví dụ như miễn giảm thuế theo tỷ lệ xuất khẩu của doanh nghiệp.

Về hàng đệt may, đối với Việt Nam gia nhập WTO sẽ tạo cơ hội chocác doanh nghiệp Việt Nam gia tăng xuất khẩu hàng dệt may, sẽ không bị

các nước áp đặt hạn ngạch nữa và do đó, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếpcận thị trường thế giới mà hồn tồn khơng bị hạn chế định lượng. Hiệnnay, tại một số thị trường chính, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn được bảođảm thị phần bằng lượng hạn ngạch được hưởng. Việc bãi bỏ hạn ngạch

đồng nghĩa với các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ khơng cịn chắc chan giữ

được thị phần đó nữa. Để thắng được cuộc cạnh tranh này, các doanhnghiệp Việt Nam phải không ngừng vươn lên, không chỉ dừng lại ở giacông mà phải tạo thêm nhiều giá trị gia tang hơn nữa.

Về lĩnh vực thương mại dịch vụ, gia nhập WTO có thể đem lại cơhội tốt cho Việt Nam vì trong bối cảnh cạnh tranh, yêu cầu phát triển và sứcép của thương mại dịch vụ có thể sẽ tạo ra nhiều dịch vụ sẵn sàng hơn, tiệnlợi và kinh tế hơn, chất lượng hoàn hảo hơn để phục vụ các ngành khác và

nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, một số ngành dịch vụ của Việt

Nam có mức bảo hộ rất cao như bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, thôngqua những biện pháp hạn chế về hình thức đầu tư, sở hữu, trị giá giao dịch,sẽ làm cho đối tượng được cung cấp dich vụ sẽ phải cạnh tranh gay gat với

các nhà cung cấp dịch vụ hàng đầu thế giới. Đó là một thách thức không

nhỏ trong điều kiện đối với Việt Nam, khi lĩnh vực này chỉ phát triển ở quy

mơ nhỏ, chưa hồn hảo như nhiều nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Về trách nhiệm thực hiện những nội dung chính của Hiệp định

GATS sau khi Việt Nam gia nhập WTO.

Về chế độ Tối huệ quốc, nguyên tắc bat buộc trong GATS, trong đócác nước cam kết dành cho nhau những ưu đãi đối với mọi lĩnh vực dịch vụ,trừ các lĩnh vực đã được đưa vào danh mục loại trừ đãi ngộ Tối huệ quốctạm thời. Trên ưu thế đó, nhà cung cấp dịch vụ và dịch vụ của Việt Nam có

thể thâm nhập vào thị trường các nước thành viên một cách bình đẳng.Về chế độ đãi ngộ quốc gia, theo nguyên tắc này cơ hội đành cho

nhà cung cấp dịch vụ và dịch vụ Việt Nam được hưởng những ưu đãi nhưnhà cung cấp dịch vụ và dịch vụ của nước sở tại.

Vấn đề cam kết mở cửa thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho các

nhà cung cấp dịch vụ và dịch vụ Việt Nam thâm nhập thị trường nước<small>ngồi. Trên cơ sở đó, nhà cung cấp dịch vụ và dịch vụ nước ngoài cũng sẽthâm nhập thị trường Việt Nam một cách tự do hơn, phù hợp với những điều</small>kiện đưa ra trong cam kết.

Vấn đề thừa nhận lẫn nhau là cơ sở để Việt Nam thực hiện quyền lợivà nghĩa vụ một cách bình đẳng với các thành viên khác gia nhập Hiệp định.

Vấn đề thanh toán quốc tế, thực hiện các quy định WTO, sẽ tạo

thuận lợi cho thanh toán quốc tế của các Ngan hàng Việt Nam.

Về vấn đề dịch vụ tài chính, việc gia nhập WTO và tiến hành giảmgiá thành địch vụ, nâng cấp cơ sở dịch vụ, sẽ tạo cơ hội và điều kiện thuậnlợi cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận các nguồn tài chính bên

ngồi. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đương đầu với một thách thức khơng

nhỏ, khi đó, dịch vụ tài chính hùng mạnh về vốn, công nghệ và khả năng

quản lý của nước ngồi.

Về dịch vụ viễn thơng, cơ hội đặt ra với Việt Nam là ở chỗ, nhà cungcấp dịch vụ viễn thơng của Việt Nam có thể tranh thủ vốn và cơng nghệ củanước ngồi đồng thời vươn ra thị trường thế giới. Chi phí dịch vụ viễn thơngsẽ giảm mạnh nhờ tác động của cạnh tranh. Các nhà cung cấp dịch vụ ViệtNam sẽ phải khẳng định mình nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm giá sảnphẩm, giảm sự dựa đẫm vào độc quyền.

Dịch vụ hàng không và di chuyển cá nhân sẽ tạo điều kiện cho nhà

cung cấp dich vụ của Việt Nam được tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

đi lại giữa các thành viên... Điều này đòi hỏi Việt Nam phải sửa đổi, bổ sungpháp luật hiện hành về xuất, nhập cảnh cũng như cải tiến quy trình đăng ký

cư trú (tạm trú) ngay tại cửa khẩu mới có thể đáp ứng được tình hình.

Về quyển sở hữm trí tuệ liên quan tới thương mại; thực hiện những

nguyên tắc cơ bản của Hiệp định TRIPS có thể đem lại cho Việt Nam nhiều

cơ hội, song cũng có thể gặp khơng ít khó khăn. Thuận lợi là các tác phẩm,

sáng chế và nhà phát minh, sáng chế là cơng dân Việt Nam có thể được

công nhận và bảo hộ trên thị trường và lãnh thổ của tất cả các quốc giathành viêr. khác của WTO. Tuy nhiên, điều này vơ hình chung cũng làmcho một số doanh nghiệp Việt Nam sẽ mất quyền sử dụng phát minh sángchế... của nước ngoài một cách bất hợp pháp, do đó chi phí cho sản phẩm cóthể bị tăng lên.

Tóm lại, nếu gia nhập WTO Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi

trong q trình tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Khi gia nhập tổ chứcthương mại thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi để phát triển nền kinhtế, nhất là kinh tế đối ngoại, song chắc chắn sẽ phải đối mặt với hàng loạtcác thách thức, khó khăn, thậm chí có thể coi là "nguy cơ" đối với nền kinhtế. Các nguy cơ đó có thể sẽ là:

Một là, sau khi gia nhập WTO hàng hóa nhập khẩu sẽ 6 ạt tràn vàothị trường Việt Nam. Việt Nam buộc phải xuất khẩu nhiều hơn để cân bằng

cán cân thanh toán và hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian đài sắp

tới chủ yếu vẫn chỉ là hàng nông sản chế biến đơn giản và các nguyên liệu

thô. Thực tế này sẽ dẫn đến hậu quả làm kiệt quệ các nguồn tài nguyên,

nguy cơ tàn phá môi trường sinh thái...

Hai là, hàng ngoại nhập tràn vào sẽ chèn ép hang nội địa và nềnkinh tế trong nước. Từ đó có nhiều khả năng thu hẹp nền sản xuất trongnước. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp tăng lên, dân chúng bị bần

<small>` Pa</small>

<small>cung héa...</small>

Ba là, khoảng cách phân hóa giàu nghèo trong xã hội chắc chắn sẽ

tăng lên làm cho tình trạng đời sống nhân dân, nhất là ở vùng nông thôn,miền núi, vùng sâu, vùng xa càng trở nên khó khăn hơn.

Bốn là, khi gia nhập WTO theo kinh nghiệm của nhiều nước, nếu

muốn đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình, thì quốc gia phải có một lực

</div>

×