Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.66 MB, 208 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Ma số : 5.05.07
TRƯỜNG DAI HOS LUATHA NOI
2. TS Bùi Xuân Nhu
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình
trong luận án là trung thực. Những kết luận
Pham Văn Tuyết
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Quyền định đoạt của người lập di chúc
Thực tiễn tranh chấp và giải quyết tranh chấp về thừa kế theodi chúc
Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế theo
di chúc
NHỮNG CÔNG TRINH ĐÃ CONG BO LIÊN QUAN TỚI LUẬN AN
DANH MỤC TÀI LIEU THAM KHẢO
2467
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Các quan hệ dân sự luôn vận động, thay đổi cùng với sự phát triển
quyền tự do dân chủ của các cá nhân càng phải được đảm bảo. Đời sống vậtchất của các cá nhân ngày càng nâng cao, đời sống xã hội càng đa dạng,
quá trình phát triển của xã hội mà không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợppháp của các cá nhân là một vấn đề tương đối khó khăn.
nghĩa Việt Nam (được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa IX, kỳ họp thứ 8 thơng qua ngày 28 tháng 10 năm 1995) là một bướcngoặt của pháp luật dân sự Việt Nam. Ra đời trong thời kỳ đổi mới của đất
trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất vàtinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội" [2, D.1], BLDSđã đáp ứng kip thời đòi hỏi bức xúc của đời sống xã hội. Tuy nhiên, luật chỉcó ý nghĩa khi được nhân dân hiểu và thực thi đúng quy định của nó. Mặc dùBLDS là kết quả cơng phu của các nhà làm luật nhưng mảng quan hệ xã hộimà Bộ luật này có nhiệm vụ điều chỉnh hết sức phong phú, đa dạng, sốngđộng và phức tạp nên cũng không thể qui định một cách chi tiết để điều chỉnh
nên nhiều điều được quy định trong BLDS còn quá chung chung. Phần thừa kếtheo di chúc cịn có nhiều điều luật quy định khơng cụ thể dẫn đến tình trạngcó nhiéu cách hiểu khác nhau. Thậm chí, có nhiều điều luật còn bất cập so với
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">thực tế nên thường thiếu sự thống nhất giữa các cấp tòa án trong việc hiểu vàáp dụng luật để giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo di chúc. Vì thế,nghiên cứu những quy định nói chung và về thừa kế theo di chúc nói riêng
trong BLDS là một cơng việc cần thiết trong q trình nâng cao dân trí pháp
các quy định của BLDS.
Các tranh chấp về thừa kế nói chung và tranh chấp về thừa kế theo di
chúc nói riêng có xu hướng ngày càng tăng trong thực tế với tính chất ngàycàng phức tạp. Sự áp dụng pháp luật khơng thống nhất giữa các cấp tịa án, sự
tranh chấp về thừa kế bị kéo đài, không dứt điểm. Hơn nữa, khi đời sống vậtchất của con người càng cao, người ta càng nghĩ đến việc định đoạt tài sản nhưthế nào trước khi chết thông qua việc lập di chúc. Tuy vậy, nếu không hiểu rõ
quyền định đoạt tài sản của mình chỉ được thực hiện trong phạm vi nào, khilập di chúc cần phải tuân thủ những điều kiện gì thì việc để lại thừa kế theo di
chúc của họ lại là nguyên nhân làm bùng phát tranh chấp giữa những người
thừa kế của họ về sau này. Việc định đoạt tài sản của người lập di chúc khơngđúng phạm vi luật định có thể cịn làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi củamột số người khác dẫn đến những tranh chấp như đã và đang xảy ra trong thựctế là một trong những nguyên nhân làm tốn hại đến truyền thống đạo đức đã
có từ lâu đời của dân tộc.
Thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng là một vấn đềthuộc về đời sống dân sự đã có từ lâu đời và tương đối quen thuộc đối vớinhân dân ta. Tuy nhiên, từ trước đến nay nhân dân ta thường hiểu và thực hiệntheo thói quen, tập tục, và đa phần là vẫn chịu ảnh hưởng của quy định về thừa
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">việc nâng cao hiểu biết pháp luật về thừa kế trong đại bộ phận nhân dân ta.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
"Thừa kế là một hiện tượng xã hội đã có từ lâu đời trong lịch sử tồn tại
nhà nước xuất hiện. Cũng như thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc đềuđược các BLDS của các nước trên thế giới đề cập đến. Ngoài việc dựa vào chếđộ kinh tế, sự quy định của pháp luạt về thừa kế còn phụ thuộc rất nhiều vàophong tục, tập quán của từng dân tộc. Vì thế, thừa kế theo di chúc ở mỗi nước
được quy định trong nhiều BLDS qua các thời kỳ. Trong chế độ phong kiến,việc quy định về thừa kế bị ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo, vì thế
được qui định một cách đơn giản và chưa đầy đủ trong hai văn bản dưới luật làThơng tư 81-TATC nay 24/7/81 của Tịa án nhân dân tối cao hướng dẫn giảiquyết tranh chấp về thừa kế và Pháp lệnh thừa kế ngày 10/9/1990 (cùng mộtsố văn bản hướng dẫn khác). BLDS có rất nhiều điểm mới và hoàn thiện so vớicác văn bản pháp luật trước đây. Vì vậy có thể nói rằng, khi chúng tơi lựachọn đề tài này thì chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cáchcó hệ thống về thừa kế theo di chúc dựa trên quy định của BLDS hiện nay.
Trước khi BLDS được ban hành, một số sinh viên chuyên ngành luật
đã thực hiện một số dé tài khoa học có liên quan đến thừa kế theo di chúc:Nguyễn Mạnh Hùng, sinh viên Đại học Pháp lý với đề tài: "Thừa kế theo dichúc ở Việt Nam hién nay", Vũ Thi hải Yến, sinh viên Đại học Luật với dé tài:
<small>att</small>"Mot số vấn dé cơ bản về thừa kế".
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Các cơng trình kể trên được thực hiện khi Nhà nước ta chưa ban hànhBLDS nên tất cả đều dựa chủ yếu vào Pháp lệnh thừa kế. Các cơng trình nàychưa giải quyết được bản chất pháp lý dân sự của di chúc, chưa nghiên cứumột cách hệ thống về hiệu lực của di chúc và hậu quả pháp lý của nó. Về cơbản, các luận văn đó chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu pháp luật.
Có một số cuốn sách nghiên cứu về thừa kế nói chung và chỉ với gócđộ của sách pháp luật thường thức như: "Câu hỏi và giải đáp pháp luật vềthừa kế” của luật sư Lê Kim Qué, "Hoi đáp về pháp luật thừa kế” của Trần
thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam" của Nguyễn Mạnh Bách (nhà xuất bảnthành phố Hồ Chí Minh) cũng là một cơng trình khoa học có liên quan đếnvấn đề thừa kế theo di chúc. Trong cơng trình khoa hoc này, tác giả có dé cập
một cách khái lược đến thừa kế theo di chúc bằng một số trang viết nhưng lạidựa vào quy định của BLDS Cộng hòa Pháp, BLDS Bắc 1931, BLDS Trung
định trong Pháp lệnh thừa kế của nước ta.
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình nhưng chỉ về qui địnhchung hoặc về thừa kế theo pháp luật: Thạc sĩ Nguyễn Minh Tuấn với dé tài:"Những quy định chung về quyền thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam";thạc sĩ Nguyễn Thị Hồng Bắc với đề tài: "Vấn đề thừa kế theo pháp luật ở ViệtNam"; thạc sĩ Dinh Thị Duy Thanh với đề tài: "Chế định thừa kế trong Bộ luật
dan sự Việt Nam"; thạc sĩ Chế Mỹ Phương Dai với đề tài: "Thừa kế theo pháp
luật trong Bộ luật dan sự Việt Nam"; thạc sĩ Nguyễn Thị Vĩnh với dé tài:"Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Việt Nam".
Gần đây nhất, NCS Phùng Trung Tập đã bảo vệ thành công luận án
tiến sĩ Luật học với dé tài: "Thita kế theo pháp luật của công dân Việt Nam tit
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">năm 1945 đến nay". Nhưng như tên gọi của đề tài, cơng trình khoa học nàynghiên cứu về thừa kế theo pháp luật và chủ yếu là về góc độ lịch sử.
Cuốn "Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam" củaTS Nguyễn Ngọc Điện là một cơng trình khá chun sâu nhưng lại nghiên cứuvề thừa kế nói chung. Trong cơng trình khoa học này, tác giả có nghiên cứu về
nhưng chỉ là một phần nhỏ so với tồn bộ cơng trình.
Với tình hình trên, có thể nói rằng kể từ khi BLDS Việt Nam được banhành, dé tài: "Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự ViệtNam" là một cơng trình khoa học nghiên cứu riêng và chuyên sâu về thừa kếtheo di chúc và là một đề tài hoàn toàn độc lập, khơng có sự trùng lặp với bấtcứ một cơng trình nào của người khác. Tuy nhiên, để hồn thành đề tài này
chúng tơi có sử dụng mot số bài viết của mình đã được đăng trên các tap chí,
đồng thời có sử dụng và phát triển một số tư tưởng trong luận văn thạc sĩ mà
mình đã thực hiện trước đây.
3. Nhiệm vụ và phạm vỉ nghiên cứu của đề tai
nêu phương hướng hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo di chúc.
Với mục đích trên, luận án thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến thừa kế theo di chúclàm cơ sở để nghiên cứu các phần tiếp theo của luận án. Với nhiệm vụ này,chúng tôi xây dựng các khái niệm khoa học về thừa kế, quyền thừa kế, thừa kế
theo luật, thừa kế theo di chúc, di chúc, người thừa kế theo di chúc v.v... Qua
đó phân tích để tìm ra mối liên hệ biện chứng và sự khác nhau giữa chúng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế theo di
mục đích, cơ sở của các điều luật nhằm đưa ra cách hiểu điều luật mang tínhkhoa học và phù hợp với thực tiễn nhất. Luận án cũng tìm ra những bất cập,thiếu khoa học, thiếu chính xác trong quy định của pháp luật về thừa kế làmtiêu đề cho hướng hoàn thiện các quy định của BLDS.
tranh chấp về thừa kế theo di chúc để tìm ra các nguyên nhân cơ bản dẫn đến
việc tranh chấp thừa kế theo di chúc trong thực tế.
lại các điều luật nhằm hoàn thiện quy định của BLDS về thừa kế theo di chúc.Luận án không nghiên cứu thừa kế nói chung mà chỉ tập trung làm rõnội dung của thừa kế theo di chúc trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề chínhcủa thừa kế theo di chúc như: Điều kiện để được hưởng di sản theo di chúc,hiệu lực của di chúc, quyền định đoạt và những hạn chế đối với quyền địnhđoạt của người lập di chúc, phương thức xác định nghĩa vụ cho từng người
thừa kế, phương thức phân chia di sản theo di chúc. Tuy nhiên, trong quá trình
nghiên cứu những vấn đề trong thừa kế theo di chúc, chúng tôi có xem xét đến
tìm ra mối liên quan giữa các vấn đề đó để làm rõ thêm nội dung của vấn đềcần trình bày.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Pháp luật chỉ mang tính kha thi khi quy định của nó phù hợp với thựctiễn của đời sống xã hội. Khi pháp luật phù hợp sẽ tác động tích cực vào đờisống xã hội và định hướng cho xã hội phát triển, ngăn chặn và loại trừ các mặttiêu cực của xã hội. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi dựa trênnguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tìm ra mối
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">quan hệ biện chứng giữa pháp luật và thực tiễn đời sống xã hội, bởi chúng tôiluôn nhận thức rõ pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hộiđược hình thành từ một cơ sở hạ tầng nhất định, là tấm gương phản chiếu xãhội và ngược lại, xã hội là cơ sở thực tiễn của pháp luật.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duyvật lịch sử, trong q trình nghiên cứu đề tài chúng tơi đã sử dụng phương
pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
định mới của BLDS về thừa kế theo di chúc với những quy định trong các vănbản pháp luật trước đây, cũng như các quy định trong pháp luật một số nướctrên thế giới nhằm làm rõ sự tương đồng của pháp luật nước ta với luật phápquốc tế.
Trong q trình nghiên cứu chúng tơi cịn dựa vào lịch sử truyền
của pháp luật về thừa kế ở Việt Nam.
xử tranh chấp về thừa kế của ngành tòa án và khảo sát thực tế công tác xét xửtranh chấp về thừa kế theo di chúc của các Tòa án quận, huyện trong địa bàn
của các cơ quan này.
"Thừa kế theo di chúc” là một định chế pháp lý được quy định trong
các Bộ dân luật đã từng được ban hành ở Việt Nam trong chế độ cũ. Đồngthời, vấn đề thừa kế theo di chúc cũng đã được quy định trong các văn bảnpháp luật về thừa kế của nước ta trước đây. Tuy vậy, thừa kế theo di chúc đượcquy định trong BLDS có rất nhiều điểm mới so với quy định trong pháp luật
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">trước đây. Vi vay, có thể nói rang, dé tai mà chúng tơi thực hiện là một cơngtrình đầu tiên nghiên cứu riêng và chuyên sâu về thừa kế theo di chúc theo quyđịnh của BLDS hiện hành. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tơi đã giảithích, đối chiếu giữa những quy định về thừa kế theo di chúc với các nguyên
- Tìm ra mối liên quan biện chứng giữa các phạm trù: Thừa kế và sởhữu; thừa kế và quyền thừa kế;
- Đưa ra quan điểm mới về quan hệ thừa kế và xác định tính đặc thùcủa quan hệ thừa kế so với các quan hệ pháp luật dân sự khác.
- Mối liên quan và sự khác nhau giữa thừa kế theo pháp luật với thừakế theo di chúc.
kế theo di chúc.
- Đã đưa ra được một số khái niệm khoa học như: khái niệm ngườithừa kế theo di chúc; khái niệm di chúc; khái niệm thừa kế theo di chúc; thay
thế di chúc.
- Luận án cũng phân tích, nêu ra những bất cập trong quy định của
thiện pháp luật về thừa kế theo di chúc.
Những kết quả có được sau q trình thực hiện đề tài sẽ là tài liệu phục
vụ cho việc giảng dạy và học tập ở các trường đại học chuyên ngành luật,
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">lập di chúc cũng như trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự củamình về lĩnh vực thừa kế.
Những kiến nghị về phương hướng hoàn thiện mà chúng tôi đưa ratrong luận án là những đóng góp khoa học có ý nghĩa thiết thực cho việc sửa
Hướng lý giải cũng như biện pháp khắc phục đối với từng tình huống
Chương I
nếu tách rời những cơ sở vật chất nhất định. Nói cách khác, con người khơng
các hoạt động sản xuất kinh doanh thì tài sản nói chung là phương tiện sống
cho người cịn sống. Q trình dịch chuyển đó được gọi là thừa kế.
được hình thành ở bất cứ một xã hội nào và dĩ nhiên, khi chưa có nhà nước vàpháp luật, nó được thực hiện theo tập tục xã hội nên được gọi là thừa kế. Khi
cách khác, khái niệm quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý mà nội dung của
<small>( |</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">thừa kế. Quyền thừa kế chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội đã có nhà nước.Bên cạnh nội dung kinh tế, quyền thừa kế cịn bao hàm ý chí của Nhà nước.
hồn tồn tn thủ sự quy định của pháp luật.
1.1.1. Thừa kế và mối quan hệ giữa thừa kế với sở hữu
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Thừa kế là hưởng của người chết để lại
chết với việc nhận di sản của người cịn sống. Qua đó chúng ta thấy rằng, thừakế bao giờ cũng là hệ luận của quyền sở hữu, có sở hữu mới có thừa kế. Thừakế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế tồn tại song song trong mọi hình thái kinhtế xã hội. Trong phạm vi một chế độ xã hội, hai phạm trù này gắn bó chặt chẽvới nhau, mỗi phạm trù là tiền dé và cũng chính là hệ quả đối với nhau. Nếusở hữu là yếu tố đầu tiên để từ đó làm xuất hiện thừa kế thì đến lượt mình,
Với tư cách là hệ luận của vấn đề sở hữu, thừa kế xuất hiện trong xãhội loài người như một hiện tượng tất yếu. Nếu quan hệ sở hữu cho thấy tàisản trong xã hội thuộc về ai, ai có quyền chiếm hữu thì thừa kế phản ánh quá
Với mối quan hệ biện chứng giữa thừa kế và sở hữu, chúng ta thấyrằng, khi nào xuất hiện vấn đề sở hữu thì khi đó đồng thời xuất hiện vấn đềthừa kế. Bất cứ chế độ xã hội nào cũng đều phải tồn tại trên một cơ sở kinh tếnhất định, nghĩa là sự tồn tại của xã hội bao giờ cũng phải dựa trên một chế độsở hữu. Vì vậy, sở hữu là một quan hệ tất yếu đối với sản xuất và do đó đối với
sản xuất nào cũng là việc con người chiếm hữu những đối tượng của tự nhiên
trong một phạm vi, một hình thái xã hội nhất định và thơng qua hình thái đó”,
"Nơi nào khơng có một hình thái sở hữu nào cả thì nơi đó cũng khơng thể cósản xuất và do đó cũng khơng có một xã hội nào cả” [36 tr. 247].
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">từ thời kỳ đó. Tuy nhiên, trong thời kỳ đó "chưa có sự phân biệt rõ rệt về kháiniệm "sở hữu” đối với tư liệu sản xuất và sức lao dong" [27, tr. 19].
Như chúng ta đã biết, cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thủy là
kỳ này, tài sản mà con người chiếm hữu được chỉ là những công cụ lao độngthô sơ và chỉ là những vật phẩm của tự nhiên mà con người thu nhận đượcthông qua việc săn bắn, hái lượm. Mặt khác, sự nhận thức của con người trongthời kỳ này còn hết sức thấp kém.
lực lượng sản xuất thấp kém, công cụ lao động thơ sơ, con người chưacó sự nhận thức đúng đắn về thiên nhiên và về bản thân mình, họln ln trong tình trạng mềm yếu, hoảng sợ và bất lực trước nhữngtai họa của thiên nhiên thường xuyên xảy ra, năng suất lao động
sống riêng biệt mà phải dựa vào nhau, cùng chung sống... [57, tr. 28].Từ đó, chế độ quần hơn đã tồn tại trong giai đoạn đầu của xã hội cộngsản nguyên thủy.
Sự tồn tại của chế độ quần hôn không cho phép xác định được ai là chacủa đứa trẻ sinh ra mà chỉ có thể biết được mẹ nó mà thơi. Vì thế, những đứatrẻ sinh ra chỉ theo dòng họ mẹ. Tập hợp những người cùng chung sống theohuyết tộc mẹ qua nhiều thế hệ đã hình thành những tổ chức thị tộc nhất định.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Thị tộc là tế bào của xã hội và mỗi một tổ chức thị tộc đã dần dần trở thànhmột tổ chức lao động và sản xuất. "Với một nền sản xuất và tổ chức xã hộigiản đơn nên sở hữu trong thời kỳ nguyên thủy chỉ là một khái niệm để phảnánh mối quan hệ giữa con người với nhau trong việc chiếm hữu những vật
qua vấn đề sở hữu có thể phân biệt được tài sản trong xã hội thuộc về ai, tổ
theo những tập tục của thừa kế nguyên thủy, nghĩa là thừa kế trong thời kỳ này
hoàn toàn do phong tục tập quán của từng thị tộc quyết định. Khi nghiên cứu
về vấn dé này, Ph.Angghen đã viết:
về bên mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thủy, người trong thị tộc
trong thị tộc, vì tài sản để lại khơng có giá trị lớn nên lâu nay trongthừa kế có lẽ người ta vẫn trao những tài sản đó cho những bà conthân thiết nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc vớingười mẹ [1, tr. 58].
quan hệ tính giao đã được hạn chế hơn nhiều nhưng huyết tộc vẫn được xácđịnh về bên mẹ. "Tuy nhiên, bắt đầu từ lúc đó, nhóm ấy ngày càng do những
lực được tạo ra từ uy tín, địa vị. Chính vì vậy mà khi so sánh địa vị của ngườiphụ nữ dưới chế độ thị tộc mẫu quyền với địa vị của người phụ nữ trong xã hộivăn minh, Ph.Angghen đã viết: "Một bà trong thời đại văn minh được tơntrọng bề ngồi và xa lạ với một lao động thực sự thì lại chiếm một địa vị xãhội thấp hơn rất nhiều so với địa vị xã hội của người đàn bà thời dã man làngười phải cực nhọc nhưng được nhân dân coi là một bà thật sự” [1, tr. 76-77].
Bằng việc chỉ ra một cách khái quát về tính chất của chế độ thị tộc
của người q cố sang người cịn sống khác nhưng khơng được vượt khỏiphạm vi một thị tộc. Trong phạm vi đó, người được giao tài sản phải là ngườicó quan hệ thân thiết nhất với người đã chết và sự thân thiết này được xác địnhtrên cơ sở huyết thống mẫu hệ. Như vậy, thừa kế trong thời kỳ này chỉ là mộttập tục xã hội thuần túy.
nghiệm đã được tích lũy, trình độ lao động của con người dần dân được nâng
của thị tộc đã đến lúc không cho phép sự tồn tại của chế độ quần hôn. Chế độhôn nhân với hình thái gia đình đối ngẫu đã xuất hiện thay cho hình thái giađình Punaluan, nghĩa là ở thời kỳ này, chế độ quần hôn đã bị chế độ gia đìnhcap đơi thay thế. Đó là hình thái hơn nhân mà trong đó một người đàn ơng
hơn nhiều so với những người cha thời nay" [I, tr. 86] (thời tư bản chủ nghĩa).
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Sự biến đổi quan trọng trên đã chuyển từ chế độ mẫu hệ thành chế độ phụ hệ,và: "thé là huyết tộc theo họ me và quyền thừa kế mẹ bị xóa bỏ, huyết tộc theohọ cha và quyền thừa kế cha được xác lập" [1, tr. 87].
Như vậy, ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy đã hình thành vấn đềthừa kế. Sự phát triển kinh tế xã hội làm cho các quan hệ sở hữu thay đổi kéo
hiện tượng xã hội tất yếu xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu mà nội dungkinh tế của nó chính là sự phản ánh quá trình dịch chuyển tài sản từ những
người đã chết sang những người còn sống khác.
1.1.2. Quyền thừa kế và mối quan hệ giữa quyền thừa kế với quyềnsở hữu
hơn nhân với hình thái gia đình đối ngẫu làm cho kinh tế gia đình đã trở thànhmột đơn vị kinh tế độc lập trong thị tộc, khơng cịn phụ thuộc vào thị tộc vàcuối cùng làm tan rã thị tộc.
đối ngẫu sang chế độ hôn nhân một vợ một chồng), trong đó mọi quyền lựcthuộc về người chồng, với tư cách là gia trưởng nên tất cả tài sản trong gia
Xét rộng ra, đo sự phân công lao động, ở thời kỳ này xã hội đã cónhiều biến đổi sâu sắc. Cùng với sự phân công lao động xã hội, chăn nuôi và
thành và dẫn đến sự phân biệt kẻ giàu người nghèo trong xã hội. Những ngườicó quyền hành trong thị tộc, bộ lạc tìm mọi thủ đoạn để chiếm hữu số của cải
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu xuất hiện và từ đó chế độ thị tộc, chế
độ cộng sản nguyên thủy dần dần bị phá vỡ và hoàn toàn tan rã nhường chỗ
cho một chế độ xã hội mà trong đó đã có sự phân hóa giai cấp.
Nếu trước đây tổ chức thị tộc đã sinh ra từ một xã hội không biết đếnmâu thuẫn nội tại, trong đó mọi thành viên xã hội hầu như hồn tồn "hịa tan”vào cuộc sống cộng đồng thì xã hội mới ra đời đã có sự phân chia giai cấp.trong đó các giai cấp có quyền lợi đối lập nhau, "luôn luôn mâu thuẫn và đấutranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình" [57, tr. 38]. Trước
phù hợp được nữa. Lúc này, "xã hội đó địi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức
cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thứcgọi là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện" [57, tr. 38].
tập quán thì khi nhà nước xuất hiện, quá trình dịch chuyển tài sản từ một người
nhằm tác động đến các quan hệ xã hội làm cho các quan hệ đó phát sinh, phát
quan hệ cũng như mọi sự kiện xảy ra trong đời sống xã hội đều được pháp luậtđiều chỉnh. Thừa kế trong xã hội đã có nhà nước cũng khơng nằm ngồi sựđiều chỉnh của pháp luật. Vì thế, có thể nói rằng khái niệm quyền thừa kế đượcxuất hiện và chỉ xuất hiện chừng nào có sự xuất hiện nhà nước và pháp luật.
Nhu vay, nếu thừa kế phát sinh ngay cả khi xã hội chưa phân chia giai
cấp, chưa có nhà nước và pháp luật thì khái niệm quyền thừa kế chỉ ra đời vàtồn tại trong những xã hội đã phân chia giai cấp và có nhà nước. Bằng việc banhành các văn bản pháp luật, nhà nước qui định quyền để lại thừa kế và nhận
cũng như qui định các phương thức dịch chuyển tài sản từ người đã chết sangnhững người còn sống khác. Tuy nhiên, mỗi một chế độ xã hội khác nhau sẽcó sự khác nhau trong quy định về quyền thừa kế. Tham chí ngay trong mộtchế độ xã hội nhưng ở từng giai đoạn khác nhau sự quy định này cũng có thểkhác nhau. Điều đó có nghĩa rằng chế độ thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn
quyết định. Vì vậy, trong mỗi chế độ xã hội, chế độ thừa kế thường tồn tại một
cách tương ứng với chế độ sở hữu.
Tất cả sự quy định của nhà nước nhằm tác động, điều chỉnh quá trình
khái niệm quyền thừa kế theo nghĩa khách quan của nó:
Quyền thừa kế là một chế định của ngành luật dân sự bao gồm mộttổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh q trìnhdịch chuyển những lợi ích vật chất từ người chết cho những người còn sống.
Việc ghi nhận và xác định các quyền, nghĩa vụ nói trên khơng phải
hồn tồn do ý chí chủ quan tuyệt đối của giai cấp lãnh đạo xã hội, dù rằngpháp luật là ý chí của giai cấp đó. Bằng ý chí chủ quan của mình trên co sodựa vào điều kiện vật chất của xã hội, Nhà nước ta đã ghi nhận các quyền
cũng như xác định các nghĩa vụ trong lính vực thừa kế cho các cá nhân và các
kinh tế, phù hợp với thực tế khách quan và do cơ sở kinh tế của xã hội quyết
định của pháp luật. Dù rằng pháp luật là ý chí của Nhà nước (do Nhà nước đặtra) nhưng nó vẫn mang tính khách quan, vì vậy, khi xem xét quyền thừa kếdưới góc độ một chế định pháp luật thì có nghĩa là xem xét, nhìn nhận ởphương diện khách quan.
phương diện chủ quan. Nhìn nhận theo phương diện này thì quyền thừa kế là
<small>TRƯỜNG ĐẠI HOCLUẬT HÀ NỘIPHONG GV _ 4 AL</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">sản thừa kế. Đó là những khả năng mà các chủ thể được phép xử sự theo quyđịnh của pháp luật như: được để lại thừa kế như thế nào, việc lập di chúc phảituân thủ những yêu cầu gì, ai là người được nhận di sản thừa kế, khi nào thì bịtước quyền hưởng di sản, người lập di chúc có những quyền năng gì v.v...Trong thừa kế, các chủ thể chủ động hiện thực hóa những quyền năng màpháp luật quy định để biến các quyển đó thành những quyền dân sự cụ thể,
qua đó đáp ứng như cầu và thực hiện lợi ích cho chính mình.
Vì vậy, quyền thừa kế theo phương diện khách quan (pháp luật) là điều
Như đã phân tích ở phần đầu, các quan hệ sở hữu, cũng như thừa kếlúc đầu tồn tại một cách khách quan với ý nghĩa là phạm trù kinh tế nhưng khichúng tồn tại trong một xã hội đã có nhà nước thì trong những quan hệ ấy, các
động đến chúng thông qua pháp luật.
Nếu sở hữu và thừa kế là hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau, songsong tồn tại bên nhau thì quyền sở hữu với quyền thừa kế cũng có mối quan hệhết sức mật thiết đốt với nhau. Từ chỗ pháp luật quy định chế độ sở hữu về tàisản của cá nhân và theo đó, cá nhân có được các quyền năng đối với tài sảncủa mình thì dựa theo đó pháp luật quy định cho họ những quyền năng tronglĩnh vực thừa kế. Hay nói cách khác, pháp luật về sở hữu là cơ sở cho việc banhành các văn bản pháp luật về thừa kế. Vì vậy, quyền thừa kế ln mang mộtbản chất giai cấp sâu sắc, nó ln là phương tiện để duy trì, củng cố quyền sởhữu ở những xã hội mà chính bản thân nó đang tồn tại. Nghĩa là, với mỗi mộtchế độ xã hội khác nhau, thông qua pháp luật, nhà nước quy định một chếđịnh thừa kế, coi nó là một phương tiện để bảo vệ quyền lợi cho các cá nhân
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">cũng như quyền lợi của giai cấp lãnh đạo xã hội. Ban than thừa kế không tạonên quyền thống trị cho giai cấp thống trị, "Thừa kế không sáng tạo ra khảnăng chuyển thành quả lao động từ một người này sang túi người khác, thừa
nhiên, thừa kế là một trong những phương tiện để duy trì quyền thống trị.
xuất thì pháp luật về thừa kế là một trong những công cụ pháp lý quan trọngmà giai cấp thống trị sử dụng để duy trì và củng cố địa vị thống trị của mình.
thừa kế đối với nô lệ của những người trong giai cấp chủ nô là việc dịch
Nhà nước phong kiến và Nhà nước tư sản, giai cấp bóc lột sở hữu những tư
thống trị khác trong cùng một giai cấp.
những tư liệu sản xuất thông thường. Những tư liệu sản xuất quan trọng như
thừa kế ở nước ta, trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thànhquả lao động của bản thân họ được tơn trọng, khi họ chết, thành quả đó được
qua đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu chính đáng của mọi cá nhân trong xã
kế ở nước ta bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi người lao động trên cơ sở bảo vệ
lợi ích chung của tồn xã hội, xóa bỏ tàn tích mà chế độ thừa kế của thực dân
phong kiến đã để lại hàng bao đời nay, nâng cao ý thức pháp luật cho mỗi ngườidân trong lĩnh vực thừa kế nói riêng cũng như trong đời sống xã hội nói chung.
Quyền thừa kế của cá nhân đã được Điều 634 BLDS của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1.7.1996 (từ đây xin được
viết tat là BLDS) quy định như sau: "Cá nhân có quyên lập di chúc để định
đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo phápluật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Bằng việc quy định trên, pháp luật nước ta tôn trọng quyền tự định
đoạt của cá nhân với tư cách là chủ sở hữu đối với tài sản của họ. Vì vậy, trướckhi chết, họ có quyền định đoạt tài sản của mình cho ai theo ý chí của họ được
nhất đối với họ. Sự quy định này chính là việc pháp luật phỏng đoán mong
Như vậy, tại điều luật trên, BLDS của nước ta trước hết ghi nhận quyền
hoặc sự định đoạt đó khơng phù hợp với u cầu của pháp luật thì di sản củahọ sẽ được phân chia theo pháp luật. Bên cạnh quyền để lại thừa kế, việchưởng di sản thừa kế cũng là một quyền năng mà pháp luật đã quy định chobất kỳ một cá nhân nào. Cho nên việc để lại thừa kế, việc nhận di sản thừa kếlà hai phạm trù khác nhau, là hai mặt đối lập nhưng lại cùng thống nhất với
nhau, là hai yếu tố cấu thành nên khái niệm quyền thừa kế. Hai yếu tố này liên
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">người đã chết sang những người cịn sống khác.
Q trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho người còn sống
từ một người đã chết cho người cịn sống khi đã có sự tác động của pháp luật
cho rằng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật chỉ có thể là các quan hệ xã hội.Thừa kế được pháp luật điều chỉnh nên nó phải là một quan hệ xã hội. Đó làmối quan hệ giữa hai bên chủ thể, một bên là người để lại di sản và một bên làngười nhận đi sản thừa kế. Tuy nhiên, thừa kế là một quan hệ pháp luật dân sự
thừa kế) đã chết.
Thứ nhất, trong một tác phẩm của mình, C. Mác đã viết: "Xã hộibất cứ dưới hình thức nào - là gì? Nó là sự tác động lẫn nhau giữa người và
Mặt khác, xã hội bao giờ cũng được định dạng thông qua hành vi xử
hệ xã hội là quan hệ giữa người với người thì phải là mối quan hệ giữa những
người đã chết đang tham gia một quan hệ nào đó. Thơng thường, mọi quan hệ
thành thì một bên chủ thể của nó (người để lại thừa kế) lại khơng còn tồn tại.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Vi vậy, pháp luật điều chỉnh hành vi của người này trong quan hệ thừa kếchính là điều chỉnh các hành vi khi họ còn sống.
nói riêng, cá nhân phải có tư cách chủ thể được tạo thành bởi năng lực pháp
luật và năng lực hành vi" [59, tr. 52]. Mặt khác, tại khoản 3 Điều 16 BLDS đã
xác định: "Năng lực pháp luật của cá nhân chấm dứt khi người đó chết". Trongcác quan hệ pháp luật dân sự khác, tư cách chủ thể được xác định khi họ thamgia quan hệ đó. Tuy nhiên, trong quan hệ thừa kế, tư cách chủ thể của người
Thứ ba, trong khoa học pháp luật dân sự, người ta thường dựa vào những
tiêu chí khác nhau để phân chia quan hệ pháp luật dân sự thành các loại:
tuyệt đối là quan hệ mà trong đó chỉ xác định được chủ thể mang quyền, tất cả
vậy, theo cách phân loại trên thì sẽ khó xếp quan hệ pháp luật về thừa kế vàonhóm quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối hay tương đối. Bởi lẽ trong quan hệ
khác, trong quan hệ này không có sự tương ứng đối lập nhau về quyền, nghĩa
pháp luật dân sự tương đối.
thì quan hệ pháp luật dân sự được phân chia thành quan hệ vật quyền và quan
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">hệ trái quyền. Quan hệ vật quyền là quan hệ pháp luật dân sự mà trong đó,quyền của chủ thể liên quan đến một vật nhất định và bằng hành vi của mình,chủ thể mang quyền tác động trực tiếp đến vật để thực hiện quyền dân sự củamình mà hồn tồn khơng phụ thuộc vào hành vi của người khác. Ví dụ: quanhệ pháp luật về sở hữu được coi là quan hệ vật quyền vì trong đó khi thực hiện
và định đoạt tài sản của mình. Quan hệ trái quyền là quan hệ pháp luật dân sự
hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên kia. Ví dụ: quan hệ nghĩa vụ vay nợ đượccoi là một quan hệ trái quyền vì quyền thu hồi nợ của bên cho vay chỉ được
thực hiện chừng nào bên vay thực hiện hành vi trả nợ.
Theo cách phân loại trên thì quan hệ pháp luật về thừa kế cũng khó có
hệ trái quyền vì quyền nhận tài sản của người thừa kế hồn tồn khơng phụ thuộc
tác động trực tiếp đến di sản chính là việc họ đang thực hiện quyền của một
kế chỉ là hệ luận của một quan hệ vật quyền và từ đó tạo ra một quan hệ vậtquyền khác. Bởi lẽ, như đã nói ở phần trước, thừa kế chi là sự tiếp nối giữa
(dù có di chúc hay khơng) thì về bản chất, đều là quyền định đoạt tài sản củamột chủ sở hữu. Việc nhận di sản chính là việc người thừa kế tiếp nhận sựđịnh đoạt của người để lại thừa kế.
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Như vậy, nếu là một quan hệ pháp luật dân sự thì nó phải thuộc hoặc
nhóm này hoặc nhóm kia theo các cách phân loại trên. Trong khi về mặt lý luận,
thừa kế có tính chất hết sức đặc biệt so với các quan hệ pháp luật dân sự khác.
1.2.1. Khái niệm
Xét trong mối liên hệ biện chứng giữa sở hữu và thừa kế thì thừa kếvừa là hệ luận vừa là cơ sở của sở hữu. Nếu sở hữu là phương tiện để xác định
tài sản nào thuộc về ai và phạm vi quyền của họ đối với tài sản đó thì thừa kế
là phương tiện để xác định phương thức dịch chuyển tài san từ người này sang
người khác khi người có tài sản (chủ sở hữu) chết. Nói cách khác, thừa kế là
phương tiện để duy trì quyền sở hữu. Tuy nhiên, với vai trị của mình, thừa kếchỉ là bước trung gian trong sự tiếp nối quyền sở hữu tài sản giữa một chủ sởhữu trước đó (người để lại di sản) với một chủ sở hữu mới (người nhận đi sản).
quyền sở hữu vẫn tiếp tục tồn tại sau khi chủ sở hữu chết. Giả sửphải đối mặt với một viễn cảnh giao trả tài sản của mình cho nhànước (hoặc một thiết chế cơng cộng nào đó bất kỳ) sau khi chết, chủsở hữu sẽ khơng có lợi ích để chăm sóc tài sản ấy: giống như mộtngười chỉ có quyền hưởng hoa lợi trọn đời, chủ sở hữu, khi đó sẽlười đầu tư, nhưng lại tiêu dùng một cách tham lam. Công nhận
lý năng động của một người được cổ vũ bởi niềm tin rằng sự nghiệpcủa mình sẽ được kế tục bởi những người mình yêu thương.
Quyền sở hữu, bởi vậy, chỉ hồn thành được vai trị động
kế [19, tr. 13].
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Khi một người chết để lại tài sản thì việc dịch chuyển tài sản ấy chongười còn sống theo phương thức thừa kế nào sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tốvà cơ bản, sẽ phụ thuộc vào hệ thống pháp luật của xã hội mà thừa kế đang tồntại. Thừa kế nói chung là quá trình dịch chuyển di sản từ người đã chết cho
theo di chúc. Mặt khác, nếu sự dịch chuyển trên được thực hiện "Theo hàngthừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật qui định" [2, D. 677] sẽđược gọi là: Thừa kế theo pháp luật.
đều là các phương thức dịch chuyển di sản mà pháp luật đã quy định, giữachúng có sự tương đồng và ngược lại, cũng có nhiều điểm khác biệt. Tính
còn sống theo phương thức nào đều do luật qui định. Nói cách khác, phải dựavào quy định của pháp luật mới xác định được di sản của người chết được dịch
Theo quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế ở Việt Nam thì thừa
ngươi chết luôn được phân chia cho những người thừa kế theo dị chúc mà
sản, pháp luật ln dành cho người có tài sản được quyền tự do ý chí trong việclựa chọn và chỉ định người thừa kế hưởng di sản của mình cũng như việc phânchia di sản và cách thức phân chia di sản. Tuy nhiên, sự tự do ý chí của cá nhântrong mọi trường hợp đều có giới hạn. Bên cạnh việc tôn trọng tự do ý chí củacá nhân, pháp luật bao giờ cũng hướng tới việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
bảo vệ quyền lợi chính đáng của các thành viên khác trong gia đình của họ. Vì
mình nhưng "khơng được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơngcộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác" [2, D.2]. Có thể nói rằng, thừa
định đoạt tài sản của họ nên thừa kế theo di chúc cũng chính là sự quy địnhcủa pháp luật thì thừa kế theo pháp luật là việc pháp luật phỏng đốn ý chí củangười để lại di sản về việc dịch chuyển di sản của họ cho người thừa kế trongtrường hợp người để lại di sản chưa thể hiện ý chí của họ hoặc ý chí đó khơng
bao nhiêu di sản, hưởng như thế nào và khi nào được hưởng di sản là những
theo quy định của pháp luật trên cơ sở phỏng đoán mong muốn chung của
người được hưởng đã được xác định trước theo một khuôn mẫu thống nhất cho
mọi trường hợp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">điều chỉnh quá trình dịch chuyển di sản của một người đã chết cho những
dung hịa hai khái niệm theo hai góc độ nói trên. Trước hết, đó là sự quy định
người đã chết cho người còn sống sẽ được thực hiện theo dị chúc. Sau nữa,
sam, nếu ý chí đó đã phù hợp với yêu cầu của pháp luật.
Trên phương diện sở hữu, quyền định đoạt tài sản của người có di sản
ln luôn được pháp luật tôn trọng và bảo đảm. Trên phương diện đạo đức và
một người khác theo ý chí của mình mà không bị pháp luật can thiệp (hạnchế) trong những trường hợp họ khơng cịn người mà họ có nghĩa vụ thương
yêu và nuôi dưỡng.
từ lâu, đã trở thành một vấn đề hết sức quen thuộc đối với nhân dân ta. Tuy |
dặn lại của một người trước lúc chết với những người khác về những việc cần,
làm, nên làm” [64, tr. 254].
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Cấu trúc làng xã Việt Nam từ xa xưa đã hình thành những cộng đồngdân cư gắn bó với nhau từ đời này qua đời khác. Những người trong cùng mộtlàng, xã quá quen thuộc nhau khơng chỉ về gia cảnh, tính tình của những ngườihiện tại mà còn biết rất rõ về cội nguồn của nhau. Với kết cấu bền vững, lâuđời đó, con người Việt Nam truyền thống ln lấy chữ "tín" làm đầu trong ứngxử đối với nhau. Người ta trọng cái tâm, cái nghĩa, cái tình hơn là chú ý vào sự
không quan tâm đến các giấy tờ giao kèo với ý nghĩa là bằng cứ pháp lý, bởilẽ theo họ, khơng có gì đảm bảo hơn là lòng tin đối với nhau. Từ lòng tin ấymà hầu hết các quan hệ xảy ra trong cuộc sống đều được ứng xử theo tâm,theo nghĩa, theo tình. Người ta cho nhau vay mượn, dù ít hay nhiều, đến hẹnngười vay sé trả, ít khi có chuyện thất hứa, lật quyt nhau. Tham chí, ngay cảviệc mua bán các tài sản lớn như nhà cửa, nhiều khi người ta cũng không nghĩđến giấy tờ khế ước. Khi có nhu cầu, thường là hai bên bàn bạc với nhau về
giá cả và theo đó, người bán nhận tiền, người mua cứ thế sử dụng những thứ
mình đã mua mà không hề băn khoăn lo lắng.
Với lối ứng xử như vậy, người nông dân Việt Nam xưa kia đã dùng
cộng đồng, sợ sự phán xét của lương tâm, sợ món nợ ác giả, ác báo giữa kiếptrước, kiếp sau nên không dám lừa lọc, phản lật nhau.
Trong quan hệ giữa các thành viên của một gia đình, lối ứng xử theo
sẽ có chuyện tranh chấp kiện tụng xảy ra giữa những người ruột thịt. Vì thế,một người trước khi nhắm mắt thường nghĩ rằng theo lời dặn lại của mình,những người cịn sống sé cứ thế mà thực hiện và hưởng di sản một cách hòa
phải tn thủ những gì mà pháp luật đã quy định.
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Ngày nay, do kinh tế - xã hội ngày càng phát triển nên các giao lưu
dân sự không chỉ giới hạn trong phạm vi của từng làng, xã. Lối ứng xử theo
tam dù là "vi ban" nhưng đã khơng cịn đủ sức để điều chỉnh các quan hệ dansự vốn hết sức phức tạp với sự tham gia của nhiều thành phần, nhiều giai tangxã hội khác nhau. Trước sự sống động và khắc nghiệt của kinh tế thị trường,lối ứng xử truyền thống trên vẫn như còn vang vọng mà dư âm của nó thườngxen lẫn cả sự ngọt ngào và cay đắng. Nó sẽ là chất men làm đượm đà damthắm tình bằng hữu, ruột thịt, dé cao tinh thần cộng đồng, nhường nhịn và hòahợp với nhau, nếu trong các mối quan hệ mọi người đều tôn trọng chữ tín, đềutuân theo cái tâm, cái nghĩa để ứng xử. Ngược lại, sẽ là chuyện đau buồn nếu
ham muốn cho lối sống thực dụng của minh.
Do ảnh hưởng của lối ứng xử đầy tính nhân bản nhưng yếu kém về trithức pháp luật nên có rất nhiều người để lại di chúc khơng có (hoặc nếu có thìcũng hết sức mong manh) về tính xác thực. Dưới sự tác động khắc nghiệt, lạnh
nguyên nhân góp phần làm phát sinh các tranh chấp về thừa kế. Pháp luật
chiều hướng ngày một đa dạng của cuộc sống. Cuộc sống càng đa dạng, đòi
chúc đã từng được Nhà nước ta ban hành đã thể hiện khá rõ nét về khía cạnh
chặt chẽ hơn (nếu so sánh quy định trong các văn bản pháp luật: Thơng tư81-TANDTC ngày 24-7-1981 của Tịa án nhân dân tối cao hướng dẫn giảiquyết các tranh chấp về thừa kế, Pháp lệnh thừa kế do Hội đồng nhà nướcnước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 30-8-1990, Bộ luậtdan sự 1995 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Bộ luật dân sự
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">của Nhà nước ta ra đời trong bối cảnh tồn cầu hóa địi hỏi những quy địnhnói chung trong Bộ luật cũng như những quy định về thừa kế theo di chúc phảitheo xu hướng hội nhập giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của các quốcgia trong khu vực cũng như trên toàn thế giới trên nguyên tắc tôn trọng đạođức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nên yêu cầu của Bộ luật dân
cạnh cách hiểu thông thường về di chúc, cần phải hiểu di chúc dưới góc độ
luật pháp qui định, phải lập di chúc như thế nào mới có tính xác thực cao, như
thế nào thì di chúc mới được coi là hợp pháp v.v...
Với thực trạng trên, tìm hiểu về khái niệm di chúc và xem xét nó dưới
góc độ pháp lý là hết sức cần thiết đối với việc nâng cao dân trí pháp luật.
Người lập di chúc muốn di chúc của mình được mọi người và cơ quan nhà
nước thừa nhận, tránh được sự tranh chấp nhau giữa những người thừa kế
trong việc hưởng di sản, cần phải hiểu và tuân thủ các quy định của pháp luậtvề thừa kế.
Trong thực tế, rất nhiều người cho đến lúc hấp hối mới gọi các con đến
căn cứ vào di chúc đó mà biết những ai là người được hưởng và hưởng bao
sống vẫn phải thực hiện theo sự quy định của pháp luật.
Trong q trình xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta,các nhà làm luật ln chú ý đến việc chuẩn hóa các thuật ngữ pháp lý. Đặc biệt,
với sự ra đời của BLDS, hàng loạt các thuật ngữ đã được xác định một cách cụ
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">"Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình chongười khác sau khi chết”. Bên cạnh đó, BLDS cịn qui định (bằng một số điềuluật khác) chỉ căn cứ vào di chúc để dịch chuyển tài sản của người chết cho người
khác nếu di chúc đó là ý chí tự nguyện và nội dung của di chúc là hợp pháp.
học về di chúc như sau: Di chúc là phương tiện phản ánh ý chí tự nguyện cuốicùng trước lúc chết của cá nhân về việc định đoạt tài sản của họ cho người
khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định (có
về việc định đoạt tồn bộ hay một phần tài sản của mình cho một người haycho nhiều người khác nhau.
Qua trên, chúng ta thấy rằng, di chúc với tư cách là căn cứ để dựa vàođó thực hiện q trình dịch chuyển di sản của người chết cho người khác luôn
Thứ nhất: Di chúc là ý chí đơn phương của cá nhân.
có ý định làm xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế. Theo đó họ quyết định
xác định trong di chúc mà khơng cần biết người đó có nhận di sản của mìnhhay khơng. Như vậy. nếu hợp đồng (giao dịch hai bên) được hình thành bởi sựthỏa thuận ý chí của nhiều bên chủ thể thì di chúc chỉ là sự quyết định đơnphương của người lập ra nó.
hiện ý chí của cả hai người nhưng di chúc vẫn mang tính chất quyết định đơn
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">muốn được coi là một căn cứ để dịch chuyển tài sản của người chết cho nhữngngười khác. Thông thường, một người chỉ lập di chúc trong trường hợp họ cómột khối tài sản trước khi chết và muốn bằng ý chí của mình để định đoạt cho
lại di chúc nhưng nếu di chúc không chứa đựng nội dung này thì cũng khơng
gì đối với q trình dịch chuyển di sản. Nói cách khác, di chúc chỉ đem lại ýnghĩa về mặt vật chất cho những người thừa kế theo di chúc đồng thời chỉ thật
luật nhằm điều chỉnh quá trình dịch chuyển di sản từ một người đã chết sangnhững người còn sống khác. Với tư cách là hệ luận của quyền sở hữu, pháp
khác. Đặc biệt, ghi nhận và tôn trọng quyền quyền định đoạt tài sản của ngườilập di chúc chính là việc pháp luật tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạtcủa chủ sở hữu đối với tài sản của họ, bao đảm cho người lập di chúc "cóquyền sử dụng tài sản ngay cả khi đã chết rồi" [38, tr. 267].
Thứ ba: Di chúc là loại giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi chính
người xác lập ra nó đã chết.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Như đã trình bày ở đặc điểm trên, việc lập di chúc và việc giao kết hợp
ý chí của cả hai bên chủ thể thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của một bên. Sự
dân sự. Nếu hợp đồng dân sự có hiệu lực từ thời điểm giao kết (trừ trường hợpcác bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định khác) thì thời điểm bat đầu
chết. Khoản 1, Điều 670, BLDS đã quy định: "Di chúc có hiệu lực pháp luật từ
chúc đó chưa có hiệu lực. Mặt khác, di chúc chỉ là ý chí đơn phương của
dung đã định đoạt trong di chúc hoặc hủy bỏ di chúc đã lập. Tính chất này cho
người thừa kế theo di chúc khơng có bất kỳ một quyền nào đối với tài sản của
khơng. Pháp luật tơn trọng quyền lập di chúc của cá nhân với hai mục đích.
tình cảm, trách nhiệm của mình đối với những người khác. Vì vậy, nếu sựđịnh đoạt trong di chúc đã lập không cịn phù hợp với điều kiện, hồn cảnh và
di chúc.
1.2.3. Hình thức của di chúc
Hoặc là bằng một văn bản, được gọi là di chúc viết (hay còn gọi là chúc thư)
hoặc là thơng qua lời nói, được gọi là di chúc miệng (hay cịn gọi là chúc ngơn).
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">* Hình thức việt của di chúc
Việc quy định một cách chặt chẽ về hình thức và thủ tục lập di chúckhông chỉ nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho các chủ thể mà còn hướngtới việc tạo ra tính xác thực cho những di chúc đã lập, qua đó nhằm tạo ra cơsở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế.
Theo quy định của pháp luật, tất cả các di chúc được thể hiện bằnghình thức văn bản phải đáp ứng các yêu cầu chung về nội dung, đồng thời,
quan tâm tới các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất: các yêu cầu về nội dung đối với mọi di chúc viết- Di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc
Đây là một vấn đề thủ tục đơn thuần nhưng hết sức quan trọng về mặt
nội dung, có ý nghĩa thiết thực trong việc xác định tính hiệu lực của di chúc, vì
lập di chúc có năng lực hành vi dân sự, có minh mẫn, sáng suốt hay khơng, tại
nhiều bản di chúc thì ngáy, tháng, năm trong di chúc sẽ cho phép chúng ta xácđịnh di chúc nào là di chúc biểu hiện ý nguyện sau cùng của người đó. Trongtrường hợp nay, tất cả di chúc lập trước đều bị hủy bỏ. Ngoài ra, ngày, tháng, nămlập di chúc còn là mốc thời gian để xác định di chúc đó có bị coi là vi phạm cácquy định của pháp luật hiện hành vào thời điểm mà di chúc được lập hay không.
- Di chúc phải ghi rõ họ tên, nơi cư trú của người lập di chúc
đơn phương nên trong di chúc cần phải xác định rõ họ, tên của người có ý chíđó. Mặt khác, địa điểm mở thừa kế, nơi đăng ký từ chối nhận di sản, thẩm
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">quyền giải quyết của Tịa án khi có tranh chấp đều được xác định thông qua
nơi cư trú của người lập di chúc. Vì vậy, trong di chúc phải xác định rõ nơi cưtrú của người lập di chúc là một việc hết sức thiết thực.
- Di chúc phải ghi rõ họ, tên người, tên cơ quan, tổ chức được hưởng di sản.
đã xác định vì đó là những người cụ thể có một trong ba mối quan hệ về hônnhân, nuôi dưỡng, huyết thống với người để lại thừa kế thì phạm vi những
một cá nhân bất kỳ (có thể nằm trong diện những người thừa kế theo luật
vậy, bằng ý chí của mình, người lập di chúc định cho ai, tổ chức nào hưởng disản của mình sau khi mình chết phải được xác định rõ trong di chúc.
Với nội dung này, chúng ta cần xác định hai vấn đề sau đây:
trong di chúc mới là người thừa kế theo di chúc của người đó. Vì thế, dù ngườilập di chúc có ý định cho một người hưởng di sản của mình nhưng vì nhầm lẫnhoặc sai sót nên người lập di chúc không xác định ho trong di chúc thì ngườiđó vẫn khơng phải là người thừa kế theo di chúc của người đã lập di chúc.
Hai là, đối với trường hợp trong di chúc không xác định rõ họ, tên củangười mà người lập di chúc muốn cho hưởng di sản nhưng thông qua các yếu
chưa sinh ra hưởng di sản của mình.
- Di chúc phải ghi rõ di sản và nơi có di sản
Người lập di chúc chỉ được định đoạt những tài sản thuộc sở hữu củaminh cho những người thừa kế. Hay nói cách khác, di sản thừa kế chỉ là những
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết (di sản là quyền sử dung đất sẽ xem
định người lập di chúc có những tài sản gì, những tài sản đó được phân địnhnhư thế nào. Tuy nhiên, sự qui định này của pháp luật với mục đích chủ yếu lànhằm hướng dẫn để các cá nhân lập di chúc được rõ ràng cụ thể nên nếu dichúc không ghi rõ, liệt kê từng loại tài sản thì cũng khơng vì thế mà coi di
quyền sẽ căn cứ vào pháp luật về quyền sở hữu tài sản mà xác định những gìthuộc về đi sản của người đã chết để lại.
Ngoài việc ghi rõ di sản, người lập di chúc cần xác định rõ trong di
cơ sở để việc xác định địa điểm mở thừa kế được dễ dàng.
- Di chúc phải ghi rõ việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nộidung của nghĩa vụ
kỷ phần tài sản mà mình được hưởng. Mặt khác, việc giao nghĩa vụ cho nhữngngười thừa kế là một trong những quyền tự định đoạt của người lập di chúc. Vì
chúc khơng có sự xác định này thì tất cả những người hưởng di sản thừa kế
cùng nhau thực hiện nghĩa vụ đó.
những người thừa kế về sau này, người lập đi chúc không nên dùng ký hiệuhoặc dùng chữ viết tắt để biểu đạt ý chí của mình. Trong trường hợp người để
phường, thị trấn thì hướng dẫn cho người lập di chúc không viết tắt, viết bằngký hiệu là công việc cần phải làm của người có thẩm quyền chứng nhận,
chứng thực di chúc.
Nếu di chúc lập ra khơng có chứng nhận, chứng thực nhưng thỏa mãnđầy đủ các yêu cầu khác của pháp luật mà có viết tắt hoặc viết bằng ký hiệudo người lập di chúc không nắm được yêu cầu này của pháp luật thì di chúc đócó bị coi là vơ hiệu hay không?
Quy định di chúc không được viết tắt, viết bằng ký hiệu của pháp luậtchỉ mang tính hướng dẫn nên không thể căn cứ vào việc người lập di chúc đãviết tắt hoặc viết bằng ký hiệu để xác định di chúc của họ là vô hiệu. Theochúng tôi, khi xem xét vấn đề này cần phải chia thành hai trường hợp:
Một là, nếu chữ viết tất, viết bằng ký hiệu trong di chúc đều được tấtcả những người thừa kế (cần lưu ý là cả người thừa kế theo di chúc, cả người
nghĩa thì việc viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu sẽ khơng ảnh hưởng gì đến hiệulực của di chúc.
Hai là, nếu mỗi người thừa kế hiểu chữ viết tắt, viết bằng ký hiệu một
viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu đó thì coi như khơng có di chúc (di chúc khơngcó giá trị pháp lý). Tuy nhiên, nếu chữ viết tắt hoặc viết bang ký hiệu đó chỉliên quan đến một phần của di chúc mà không ảnh hưởng đến phần khác củadi chúc thi chỉ riêng phần đó khơng có hiệu lực pháp luật. Phần cịn lại của dichúc vẫn có hiệu lực pháp luật.
</div>