Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Thừa kế là một trong những chế định quan trọng của dân luật các nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.37 KB, 14 trang )

A.MỞ ĐẦU:
Thừa kế là một trong những chế định quan trọng của dân luật các nước.
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân
luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm,theo dõi và
bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển với 4000 năm
lịch sử,có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ
đời này qua đời khác. Do đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi
trọng các phong tục, tập quán,tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó
keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa
kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người
đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di
chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật
phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc
vốn có. Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải
quyết theo qui định của pháp luật.
Việt Nam đang trên bước đường hội nhập thế giới đồng thời xu hướng toàn
cầu hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ .Vì vậy tầm quan trọng của pháp luật
ngày càng nâng cao. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù
hợp với tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết.
Phương pháp nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung tốt nhất cho pháp luật Việt Nam
có rất nhiều phương pháp,nhưng phương pháp chính và chủ yếu chính là
nghiên cứu, so sánh pháp luật Việt nam với pháp luật các nước trên thế giới
để tìm ra những yếu tố đặc sắc, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử,điều kiện kinh
tế-xã hội-văn hoá của nước ta từ đó có những sửa đổi,bổ sung tốt nhất để áp
dụng vào thực tiễn nước ta.
Từ những lí do nêu trên ta thấy nghiên cứu vấn đề thừa kế theo qui định của
pháp luật ở một số nước trên thế giới có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
B.NỘI DUNG:
I.Vấn đề chung về thừa kế:
1.Khái niệm về thừa kế:
-Theo Từ Điển Tiếng Việt:


-Theo Từ Điển Luật Học: Thừa kế là sự truyền lại tài sản của người đã chết
cho người khác theo di chúc hoặc theo qui định của pháp luật.
Quyền thừa kế:cá nhân có quyền để lại di sản cho người thừa kế và người
thừa kế có quyền nhận di sản đó.
Quyền thừa kế gắn liền với quyền sở hữu của cá nhân.
- Theo quan điểm của Ăng- ghen: “là sự chuyển dịch tài sản của người chết
cho người còn sống”. Quyền thừa kế là quyền thừa hưởng tài sản của người
chết để lại theo một trình tự do pháp luật quy định. Pháp luật cho phép
những người thừa kế được hưởng di sản đồng thời buộc họ phải thực hiện
những nghĩa vụ tài sản của người chết.
- Theo pháp luật thực định: Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự bao
gồm tổng hợp các qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành qui định về
thừa kế,về việc bảo vệ và điều chỉnh chuyển giao tài sản của người đã chết
cho những người còn sống là người thừa kế.
2.Các hình thức thừa kế:
-Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc (testato)
và thừa kế theo luật (intestato), ngoài ra còn có thừa kế theo lệnh của các
quan. Ở thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu là thừa kế theo luật, sau đó thừa kế
theo di chúc trở thành phổ biến hơn.
-Hiện nay đa số pháp luật các nuớc trên thế giới đều qui định có hai hình
thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
+Thừa kế theo pháp luật:là thừa kế theo hàng thừa kế,điều kiện và trình tự
thừa kế do pháp luật qui định.
+Thừa kế theo di chúc;là việc để lại di sản và việc huởng di sản theo ý chí
của người chết được thể hiên bằng văn bản hoặc bằng lời nói của người đó
trước khi chết. Đây là hình thức thừa kế nhằm bảo đảm cho cá nhân truớc
khi chết định đoạt tài sản của mình theo ý muốn của người đó,tuy nhiên sự
định đoạt đó chỉ hợp pháp khi đảm bảo các điều kiện luật định.
II. Pháp luật về thừa kế của một số nước trên thế giới.
2.1. pháp luật thừa kế ở Việt Nam

2.1.1. Diện thừa kế:
Theo pháp luật Việt Nam, diện những người thừa kế được dựa trên 3
mối quan hệ chính với người chết:
+ Thứ nhất, quan hệ hôn nhân: xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và
chồng.
+ Thứ hai, theo quan hệ huyết thống: Quan hệ giữa những người cùng
dòng máu (cụ với ông, bà; ông bà với cha mẹ; cha mẹ với các con; Anh chị
em ruột…)
+ Thứ ba, theo quan hệ nuôi dưỡng: xuất phát từ sự quan tâm, chăm
sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa những người không cùng huyết thống hay
không có quan hệ hôn nhân (cha mẹ nhận nuôi con nuôi).
2.1.2. Hàng thừa kế:
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ
gần gủi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản
thừa kế mà người chết để lại.
Theo khoản 1 điều 678 BLDS 2005, pháp luật Việt Nam chia những
người trong diện thừa kế ra làm 3 hàng:
+ Hàng thứ nhất bao gồm: Vợ (chồng), cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
+ Hàng thứ hai bao gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
chị em ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết là ông
bà nội, ngoại.
+ Hàng thứ ba bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cô ruột, gì ruột, cậu ruột; cháu ruột của người chết mà người chết là
chú, bác, cô, dì, cậu (ruột), chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội,
ngoại.
2.2. Pháp luật thừa kế của nước Nga
Ở nước Nga cũng như VN chế định về thừa kế được chia thành thừa kế theo
pháp luật và thừa kế theo di chúc.
Trước hết, ta xem xét trên phương diện thừa kế theo pháp luật.

Nga là nước đầu tiên bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. Do đó việc
nghiên cứu pháp luật của Nga là rất phù hợp cho việc phát triển pháp luật
Việt Nam.
2.2.1. thừa kế theo pháp luật
Hàng thừa kế
• Bộ luật dân sự Nga chia diện những người thừa kế ra 7 hàng với các
qui định tương đối giống với Việt Nam (điều 1141-BLDS Nga):
Hàng trên thừa kế trước, hàng dưới thừa kế sau; nhưng điều này vẫn
có khác so với pháp luật thừa kế ở VN. Vì theo khoản 1 điều 676
BLDS 2005 thì chia diện những người thừa kế ra 3 hàng. Theo pháp
luật nước Nga thì tại các điều 1142, điều 1143, điều 1144 thì những
người thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước hưởng di sản thừa kế ( giống khoản 2 điều 676 BLDS
2005 của VN).
• Những người thừa kế cùng hàng được chia phần bằng nhau (điều 1146
BLDS LIÊN BANG NGA)
• Cũng áp dụng các qui định về thừa kế thế vị đối với các hàng thừa kế.
(điêu 1146 blds LIÊN BANG NGA), đồng thời khi quy định về thừa
kế thế vị thì pháp luật nước nga quy định người thừa kế hợp pháp bị
tước quyền thừa kế thì không được thừa kế thế vị (khoản 2 điều 1446
BLDS LIÊN BANG NGA). Ba hàng thừa kế đầu bao gồm những
người theo trình tự ưu tiên hưởng di sản tương tự như điều 679 của
nước ta (điều 1142-1144). Những hàng thừa kế sau họ áp dụng
phương pháp tính bậc tương tự như của nước cộng hòa Pháp để xác
định mối quan hệ thân thuộc của những người thân thích khác đối với
người chết.
• Qua đó họ xác định những người thừa kế ở ba hàng sau bao gồm:
(điều 1145-BLDS Nga- Hàng thừa kế thứ 4 bao gồm những thân thích
bậc 3
- Hàng thừa kế thứ 5 bao gồm những thân thích bậc 4

- Hàng thừa kế thứ 6 bao gồm những thân thích bậc 5
- Hàng thừa kế thứ bảy là những người không có mối quan hệ huyết
thống với người chết là : Con riêng, bố dượng, mẹ kế.
Pháp luật Nga cũng có những qui định về trường hợp nuôi con nuôi
nhưng khác với Việt Nam, luật pháp Nga không công nhận quyền
thừa kế của con nuôi đối với cha mẹ nuôi và ngược lại (khoản 2 điều
1147).
Diện thừa kế
• theo pháp luật VN dựa trên 3 quan hệ là quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Và theo pháp luật Nga thì diện
thừa kế cũng tương tự như VN.
• Đặc biệt trong chế định thừa kế theo pháp luật của Liên Bang Nga còn
quy định về người nhận di sản (người hưởng thừa kế) là trẻ em (điều
1147) và người tàn tật (điều 1148).
2.2.2. THỪA KẾ THEO DI CHÚC
• Cũng như các nước khác trên thế giới thì nước Nga cũng quy định
ngoài chế định thừa kế theo pháp luật còn có thừa kế theo di chúc.
• Giống như pháp luật VN mà cụ thể là tại điều 652 BLDS 2005 quy
định các điều kiện để 1di chúc được coi là hợp pháp. Thì pháp luật
nước Nga quy định các trường hợp di chúc hợp pháp là di chúc phải
được lập thành văn bản và phải có công chứng bởi một công chứng
viên. Nếu không thỏa mãn điều kiện này thì di chúc sẽ vô hiệu ( theo
điều 1124 BLDS Liên Bang Nga) trừ trường hợp bất thường quy định
tại điều 1129 (Một công dân người đang ở trong một tình huống mà rõ
ràng là đe dọa cuộc sống của mình và những người, do đức hạnh của
hoàn cảnh bất thường hiện hành) thì không cần phải theo quy định tại
điều 1124.
• Luật cũng xác định những người không được làm chứng, chứng thực
di chúc gồm có: người liên quan đến di chúc như vợ chồng, cha mẹ,
con cái của người lập di chúc; công dân mà không có năng lực dân sự

đầy đủ;
người mù chữ;
công dân có khuyết tật về thể chất…(khoản 2 điều 1124).
• Theo pháp luật VN thì có 3 loại di chúc đó là di chúc bằng văn bản
không có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm
chứng, di chúc có công chứng hoặc chứng thực. còn theo pháp luật
liên Bang Nga thì di chúc gồm có những loại sau: di chúc được xác
nhận bởi 1 công chứng viên, di chúc bố trí nguồn kinh phí trong ngân
hàng và di chúc dưới những trường hợp bất thường.
• Pháp luật VN có quy định tuổi lập di chúc (điều 647 BLDS 2005)
nhưng BLDS Liên Bang Nga thì không quy định tuổi lập di chúc.
• Hình thức di chúc của theo pháp luật VN là bằng miệng hoặc bằng
văn bản còn theo pháp luật Nga thì hình thức chỉ bằng văn bản.
• Pháp luật nước Nga cũng như pháp luật VN đều quy định các trường
hợp sửa đổi, hủy bỏ di chúc.(điều 1130 BLDS Liên Bang Nga và điều
662 BLDS 2005 của VN).
• Tuy nhiên BLDS Liên Bang Nga không quy định về di chúc chung
của vợ chồng như BLDS VN. Và di sản dung vào việc thờ cúng và di
tặng theo pl VN không được quy định trong pl LBN.
2.2.3. So sánh với pháp luật Việt Nam
Như vậy, thông qua việc tìm hiểu về chế định thừa kế theo pl các nước
trong đó có nước Nga để đối chiếu, so sánh với pl VN chúng ta nhận thấy
chế định thừa kế giữa 2 nước có một số điểm tương đồng nhưng phần lớn
là khác nhau. Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là vì 2 nước VN và Nga là 2
nước có chế độ chính trị khác nhau là XHCN và TBCN. Do đó pl chịu
ảnh hưởng bởi chế độ chính trị là điều tất yếu.
2.3. Thừa kế theo pháp luật cộng hoà Pháp
2.3.1. Diện và hàng thừa kế
*Diện thừa kế
Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản được xác định

trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ vợ chồng giữa người thừa kế và
người để lại di sản. So với pháp luật thừa kế của Việt Nam thì diện thừa kế
được xác định trên ba cơ sở là quan hệ huyết thống, quan hệ vợ chồng và
quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế và người để lại di sản, mặt khác
pháp luật Pháp quy định về diện thừa kế chủ yếu là thừa kế dựa trên quan hệ
huyết thống.
* Hàng thừa kế

×