Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.8 MB, 207 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
PHAM THỊ GIANG THU
Chuyên ngành : Luật kinh tếMã số : 5.05.15
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHÒNG GV _
Người hướng dân khoa học: 1. TS. Nguyễn Minh Mãn2. TS. Phạm Trọng Bình
Tơi xin cam đoan đây là cơng trìnhnghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận án chưa từng được aicơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
<small>Phạm Thị Giang Thu</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Khái quát về thi trường chứng khoán
Quan niệm về khung pháp luật thị trường chứng khoán
Đặc điểm cơ bản của quá trình hình thành khung pháp luật thị
<small>trường chứng khốn Việt Nam</small>
Vai trị của khung pháp luật thị trường chứng khoán
Chương 2: THUC TRẠNG KHUNG PHAP LUẬT THỊ TRƯỜNGCHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Về các nguyên tắc pháp lý cơ bản của khung pháp luật thị
trường chứng khoán
<small>Thực trạng pháp luật thị trường chứng khoán Việt Nam</small>
KHOÁN VIỆT NAM
Những căn cứ cho việc đề ra định hướng và giải pháp xây dựng,
noàn thiện khung pháp luật thị trường chứng khoán
Một số định hướng cơ bản của việc tiếp tục xây dựng, hoàn
thién khung pháp luật thị trường chứng khốn Việt Nam
Những giải pháp nhằm hồn thiện khung pháp luật thị trường
<small>chứng khoán Việt Nam</small>
KẾT LUẬN
NHỮNG CƠNG TRÌNH LIEN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CƠNG BO
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
192194195
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường chứng khốn hình thành và
phát triển như một tất yếu, khi nền kinh tế ấy đạt những tiêu chuẩn nhất định.Tuy nhiên, mức độ phát triển cụ thể thị trường chứng khoán từng quốc gia lại
phụ thuộc rất nhiều yếu tố, trong đó pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Sự khác nhau về mức độ phát triển nền kinh tế - xã hội, tính hồn thiện, tínhhiệu quả của hệ thống pháp luật là một trong những nhân tố quyết định choviệc vận hành bình thường thị trường chứng khoán.
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu phải hìnhthành và phát triển từng bước thị trường chứng khốn.
xã hội của đất nước. Theo đó, khung pháp luật thị trường chứng khốn nước ta
dân được hình thành và dang đi vào cuộc sống. Thị trường chứng khốn ởnước ta cịn là vấn đề mới mẻ trong khoa học pháp lý. Vì vậy, việc nghiên cứu
kịp thời, đầy đủ những yêu cầu thị trường chứng khốn đặt ra có ý nghĩa quan
để tìm ra những luận cứ khoa học, những định hướng và giải pháp cho việc
xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật thị trường chứng khốn Việt Nam là
địi hoi bức thiết cả về lý luận và thực tiến.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">khoán đã hình thành và được vận hành từ lâu. Thị trường chứng khoán gắn với
kinh tế thị trường, là đối tượng được nhiều nhà khoa học pháp lý, kinh tế
chun gia Cơng ty tài chính quốc tế, các trung tâm nghiên cứu luật thị trường
Bản, Hàn Quốc.
chuyển đổi nền kinh tế. Yêu cầu xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật thịtrường chứng khoán đang được sự quan tâm đông đảo của các nhà khoa học
qui định điều chỉnh việc phát hành chứng khốn ra cơng chúng của TS Pham
Trọng Bình; Tăng cường hồn thiện khung pháp lý thị trường chứng khoán của
TS Trần Cao Nguyên; Thuc trạng pháp luật về chứng khoán, thị trường chứngkhoán ở Việt Nam và đơi nét hồn thiện của TS Dinh Dũng Si; Đổi mới và
hoàn thiện khung pháp luật kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt
Nam, Luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Minh Mẫn; Xây dựng và hoàn thiện
khung pháp luật thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ của
<small>Phạm Thị Giang Thu.</small>
Ngoài ra, vấn đề khung pháp luật thị trường chứng khốn cịn thu hútsự chú ý của nhiều đề tài khoa học như: Dự án Tăng cường năng lực pháp luậttại Việt Nam VIE/94/001, Dự án VIE/98/001; Những vấn dé lý luận và thựctiên pháp ly của quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế - khu vực của Việt Nam,
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Nhìn chung, các bài viết, các cơng trình nghiên cứu nói trên đã dé cập
đến nhiều khía cạnh và ở các mức độ khác nhau của khung pháp luật thị
trường chứng khoán. Tuy nhiên, một cơng trình nghiên cứu ở cấp tiến sĩ luật
học mang tính lý luận về khung pháp luật thị trường chứng khoán và nhất là
<small>thực trạng khung pháp luật thị trường chứng khốn Việt Nam, trên cơ sở đó</small>
đưa ra những kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật thị trườngchứng khốn thì cho đến nay vẫn chưa có.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát
pháp luật trong thời gian qua, mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏquan niệm về khung pháp luật thị trường chứng khốn, vai trị và đặc điểm của
khung pháp luật thị trường chứng khoán để thị trường chứng khốn vận hànhđồng bộ. Trên cơ sở đó tìm ra những phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng
và hoàn thiện khung pháp luật thị trường chứng khoán.
Xuất phát từ yêu cầu của đề tài là xây dựng và hoàn thiện khung pháp
luật thị trường chứng khoán ở Việt Nam nên luận án đưa ra cơ cấu cơ bản củakhung pháp luật thị trường chứng khốn nói chung, đánh giá với thực trạng khung
<small>pháp luật thị trường chứng khoán nước ta, tìm ra những bộ phận hoặc những</small>
nội dung cịn thiếu hoặc chưa đạt yêu cầu so với tiêu chuẩn đã chọn. Nhữngnội dung chưa có, chưa hồn chỉnh, cần phải xây dựng mới hoặc tiếp tục xây
dựng cho hoàn chỉnh thêm. Những nội dung đã đạt yêu cầu bước đầu, cần phải
tiếp tục giữ vững và hoàn thiện cùng với u cầu thực tế. Đó chính là q trình
<small>vừa xây dựng, vừa hoàn thiện khung pháp luật thị trường chứng khoán nước ta.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">đối tượng điều chỉnh của khung pháp luật thị trường chứng khoán.
- Nghiên cứu, lý giải khái niệm, cơ cấu, đặc điểm khung pháp luật thịtrường chứng khốn; từ đó xác định vai trị khung pháp luật thị trường chứngkhốn đối với việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
<small>- Phân tích, đánh giá thực trạng những nội dung cơ bản của khung</small>
pháp luật thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Đây cũng chính là những thành
khung pháp luật thị trường chứng khốn nước ta trong thời gian qua.
- Đề ra những định hướng, giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện
khung pháp luật thị trường chứng khoán ở Việt Nam.4. Phạm vỉ nghiên cứu
Thị trường chứng khốn rất nhạy cảm và có quan hệ mật thiết vớinhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội và pháp luật. Pháp luật là phương tiện
quan trọng nhất đảm bảo thị trường chứng khoán vận hành bình thường vàphát huy tác dụng. Tuy nhiên, luận án chỉ tập trung nghiên cứu trong khuônkhổ khung pháp luật kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường chứng khốnmà khơng nghiên cứu tồn bộ vấn đề liên quan tới cơ chế kinh tế và cũngkhông nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng gián tiếp tới thị trường chứng
khoán. Khái niệm khung pháp luật thị trường chứng khoán được đề cập trong
luận án là khái niệm tổng hợp chỉ tổng thể các nguyên tắc pháp lý cơ bản củakhung pháp luật thị trường chứng khoán cùng tổng thể các qui phạm pháp luật
thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau có quan hệ trực tiếp đến quá trình
hình thành và vận động của thị trường chứng khốn.
Mặc dù chứng khốn và thị trường chứng khốn có mối quan hệ khôngtách rời nhau, nhưng trong khuôn khổ đề tài này, luận án chỉ giới hạn nghiên
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">chứng khốn, trong đó chứng khốn là hàng hóa của thị trường chứng khoán.
Khi nghiên cứu khung pháp luật thị trường chứng khoán, luận án cũng
<small>tập trung nghiên cứu những nội dung có liên quan trực tiếp nhất đến sự hìnhthành và hoạt động thị trường chứng khốn. Vì vậy, hướng nghiên cứu của</small>
luận án luôn bám sát những yêu cầu thị trường chứng khoán mà pháp luật cầnphải thể chế hoá và đảm bảo thực hiện.
Tác giả luận án cũng nhận thức được, để hoàn thiện khung pháp luậtthị trường chứng khoán, cần phải giải quyết nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vựckhác nhau như cải cách bộ máy hành chính, nâng cao năng lực quản lý của độingũ cán bộ, cải cách thủ tục hành chính, tạo tiền đề về cơ sở vật chất cho thịtrường... Đó là những vấn đề rất phức tạp cần phải được tiếp tục nghiên cứu ở
các cơng trình khoa học pháp lý tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bảncủa Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và pháttriển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi tiềmnăng phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luận án
vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, của lý
án đặc biệt chú ý vận dụng phương pháp biện chứng, phương pháp lịch sử đểphân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp trong quá trình giải quyết những vấn đề
mà đề tài đặt ra.
6. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án có những điểm mới sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">khung pháp luật, luận án xác định khung pháp luật thị trường chứng khoán
bao gồm:
+ Hệ thống các nguyên tắc pháp lý cơ bản chi phối toàn bộ bộ phận
pháp luật thị trường chứng khoán.
+ Hệ thống các văn bản pháp luật thực định điều chỉnh thị trườngchứng khoán.
- Luận án phân tích, đánh giá thực trạng khung pháp luật thị trườngchứng khốn một cách tồn diện ở nước ta hiện nay.
- Luận án đề xuất những định hướng và giải pháp hồn thiện những nội
triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
chứng khoán, luận án đưa ra những đề xuất cụ thể góp phần vào hoạt động xây
<small>dựng pháp luật thị trường chứng khoán trong thời gian tới.</small>
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dungluận án bao gồm 3 chương.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">1.1.1. Những vấn đề cơ bản về chứng khoán - hàng hoá của thị
trường chứng khoán
Trong đời sống kinh tế, thuật ngữ chứng khoán (stock, security) đượctìm hiểu theo những u cầu, mục đích khác nhau. Đây là khái niệm phức tạpvì bản thân nó đã hàm chứa một loạt quan hệ kinh tế phức tạp phát sinh giữa
người cần vốn và người có vốn.
Chứng khoán theo quan điểm truyền thống là phương tiện xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc
vốn của tổ chức phát hành. Hình thức tồn tại của chứng khốn rất đa đạng, phụ
thuộc vào thực tế phát triển nền kinh tế. Chứng khốn có thể có hình thức
chứng chỉ, hình thức bút tốn ghi sổ dần phát triển do yêu cầu của nhà pháthành và sở hữu chứng khoán. Khi cơng nghệ phát triển, hình thức điện tử cũngđược ghi nhận như một dang tồn tại của chứng khoán. Một số nhà nghiên cứu
đa dạng: cổ phiếu, trái phiếu, các cơng cụ tại thị trường tiền tệ như tín phiếukho bạc, kỳ phiếu ngân hàng và các loại thương phiếu. Cách hiểu này cũng cóthể dẫn tới khả năng thống nhất các bộ phận của thị trường tài chính: thị
trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường chứng khoán thành một thị
trường chứng khoán duy nhất. Tuy nhiên, nếu xem xét cấu trúc thị trường tàichính, việc tiếp tục tồn tại những bộ phận thị trường như hiện tại là hoàn toàn
cần thiết. Điều này xuất phát từ yêu cầu tác động, phương pháp tác động của
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">vụ thị trường mở, các giao dịch liên ngân hàng không thể áp dụng chung cho
mọi đối tượng trên thị trường tài chính nói chung. Mặt khác, nhìn chung cácquốc gia trên thế giới đều coi ngân hàng trung ương (Ngân hàng Nhà nước đốivới Việt Nam) là cơ quan quản lý thị trường tiền tệ. Đồng thời, những giao dịchngoại hối nhằm ổn định giá trị đồng tiền tại thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
không thể điều chỉnh giống các giao dịch chứng khốn thơng thường.
Chứng khốn xác nhận quyền, lợi ích của người sở hữu, điều đó cũngcó nghĩa là xác định quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét theo phương
diện pháp lý. Cho dù chứng khốn có hình thái biểu hiện cụ thể như thế nào
thì đều có chung đặc trưng là xác nhận quyền chủ nợ hoặc quyền sở hữu đối
với chủ thể phát hành ra nó.
trên đặc điểm của chúng. Đặc điểm quan trọng đầu tiên của chứng khốn là
tính sinh lời. Tính sinh lời thể hiện ở việc người phát hành ra chúng phải trả chongười sở hữu chứng khoán một khoản lợi tức trong tương lai để nhận về mình
đầu tư mua chứng khoán, và cũng là tiền đề xuất hiện chứng khoán. Nhưng
nếu chỉ dừng lại ở tính sinh lời thì cơ hội đầu tư cũng như hiệu quả đầu tư chưađạt được. Vì vậy, gắn liền với chứng khốn là tính thanh khoản, tức khả năng
chuyển đối được thành tiền. Tính thanh khoản tạo cho người sở hữu chứng khoán
chuyển đổi dạng tài sản từ chứng khốn sang tiền thơng qua một giao dịch tại
khốn phụ thuộc vào uy tín của chủ thể phát hành, vào chi phí chuyển đổi và sự
nói tới tính rủi ro của chứng khoán, thể hiện ngay ở bản chất của hoạt động đầutư vốn. Cũng như bất kỳ hoạt động đầu tư, kinh doanh nào khác, việc kinh doanh
chứng khoán là "đầu tư một lượng tiền trong hiện tại và chỉ có thể thu hồi
<small>trong tương lai" thì cả qng thời gian đó cũng chính là thời gian chứa đựng</small>
rủi ro. Mức độ rủi ro tiềm tàng đến đâu còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,như thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn cùng các cam kết khác chính là những
yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới độ rủi ro. Mức độ rủi ro của chứng khốn có mối
<small>quan hệ chặt chẽ với tính sinh lời và tính thanh khoản của chứng khốn.</small>
Chứng khốn rất đa đạng về chủng loại và phong phú về cách thức biểu
hiện. Đây cũng là một trong những lý do mà pháp luật nhiều quốc gia không
đưa ra một định nghĩa cụ thể về chứng khốn. Mặc dù vậy, có thể khái quát mộtsố loại chứng khoán tiêu biểu, hiện đang được phát hành và giao dịch phổ biến.
Chứng khoán vốn là loại chứng khốn xác nhận sự góp vốn và quyền
liên quan đến phần vốn góp của chủ sở hữu chứng khốn đối với đối tượngphát hành ra nó. Chứng khoán vốn tồn tại dưới hai dang cơ bản là cổ phiếu và
chứng chỉ quỹ đầu tư. Ngồi ra, cịn có các chứng khốn phái sinh từ loại
chứng khốn vốn như chứng quyền.
cổ đơng đó nắm giữ tại một công ty cổ phần và quyền được hưởng một phầnlợi nhuận dưới hình thức cổ tức cũng như quyền tham gia quản lý công ty. Cổphần là phần lợi ích sở hữu của cổ đơng đối với tổ chức phát hành. Cổ phầntrong công ty rất đa dạng về thể loại và tính chuyển nhượng. Cổ phần phổ
thơng (common stock) không qui định trước về cổ tức mà cổ đơng có thể được
hưởng và gắn liền với kết quả kinh doanh của công ty nhưng cổ đông nắm giữ
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">lại được hưởng đầy đủ quyền và lợi ích so với các loại cổ phần khác. Cổ phần
ưu đãi (preference stock) xác nhận một số ưu đãi (về tài chính, về một số
quyền uu tiên khác), đồng thời cũng chịu những hạn chế nhất định về quản lý
công ty. Do nội dung ưu đãi khác nhau nên cũng hình thành nhiều loại cổ
phiếu ưu đãi khác nhau như cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết.
Trong đời sống kinh tế, tùy mục đích của nhà phát hành, cịn có thể tồn tạinhiều hình thái cổ phiếu khác, với tính chất là sản phẩm của quá trình pháttriển, cải tiến nhằm mang lại khả năng lựa chon rộng rãi cho các nhà đầu tu,đồng thời cũng tạo ra cơ hội cạnh tranh cho các nhà phát hành.
Chứng chỉ quỹ đầu tw là loại chứng khốn do cơng ty quản lý quỹ hoặc
các quỹ đầu tư phát hành, xác nhận phần vốn góp và quyền hưởng lợi củangười đầu tư đối với quỹ. Mỗi quốc gia có thể có mơ hình quỹ đầu tư hoặccông ty quản lý quỹ đầu tư khác nhau nên quyền và lợi ích của người sở hữuchứng chỉ quỹ đầu tư đối với cơng ty quản lý quỹ có sự khác biệt nhất địnhnhưng về bản chất, chứng chi qui đầu tư đều là chứng khoán vốn. Tùy thuộc
khoán mà giá trị của chứng chỉ quỹ đầu tư có điểm khác nhau. Trường hợp
đầu tư lợi nhuận không trực tiếp từ hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thểphát hành mà từ toàn bộ hoạt động đầu tư của quỹ.
Một loại chứng khoán rất phổ biến, tạo ra sự ổn định tương đối trong
giao dịch trên thị trường là trái phiếu. Trái phiếu (bond, bill, notes) là phương
tiện vay nợ, theo đó chủ thể phát hành ra nó cam kết sẽ trả lại cả gốc và lãi
vào một thời gian nhất định trong tương lai. Với tính chất là một hợp đồng
<small>vay, người cấp vốn được hưởng khoản lãi cố định không phụ thuộc vào kết</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">quả sử dụng vốn của người nhận vốn; nhưng khơng có quyền tham gia hoạtđộng quản lý đối với bên nhận vốn. Do có sự khác biệt về mệnh giá, về lãi
suất, về quyền đối với chủ thể phát hành mà người đầu tư có thể lựa chọn hìnhthức đầu tư phù hợp nhất.
Trên thực tế tồn tại rất nhiều loại trái phiếu khác nhau, tùy thuộc vào
vị thế của người phát hành cũng như các cam kết đi kèm của nhà phát hành.
Vị thế của một loại trái phiếu có liên quan trực tiếp đến tính thanh khoản của
trái phiếu và mức độ sơi động của thị trường. Trái phiếu chính phủ có độ antồn cao, lãi suất loại trái phiếu này thường là cơ sở để các doanh nghiệp tínhtốn lãi suất trái phiếu dự định phát hành. Trái phiếu doanh nghiệp do doanhnghiệp phát hành nhằm tăng vốn vay để mở rộng sản xuất, đầu tư đổi mới
chuyển đổi, trái phiếu lãi suất thả nổi, trái phiếu thu nhập, trái phiếu trả trướcthường có khả năng thu hút đầu tư nếu xét dưới góc độ cơ hội sinh lời. Trái
phiếu chính phủ, trái phiếu có bảo đảm có khả năng thu hút đầu tư nếu xét
theo góc độ an tồn.
Ngồi những chứng khốn cơ bản nêu trên, có những loại chứng khốn
khác như chứng quyền (rights) hoặc bảo chứng phiếu; hợp đồng lựa chọn, hợpđồng giao sau. Chứng quyền hay bảo chứng phiếu đều nhằm tới quyền mua
chứng khoán của sở hữu chủ chứng khoán hiện hữu của nhà phát hành, mặc dùnội dung cụ thể có khác nhau. Hợp đồng lựa chọn và hợp đồng giao sauthường chỉ được giao dịch ở các thị trường phát triển và hình thức thể hiện cụthể cũng có nhiều lai tạp.
Như vậy, nhu cầu vốn đã làm nảy sinh rất nhiều loại chứng khoán khác
nhau. Các chủ thể có liên quan sẽ lựa chọn cho mình những loại chứng khốn
thích hợp nhất để phát hành trên cơ sở đặc tính những loại chứng khốn đó và
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">mục đích huy động vốn của mình. Mat khác, nha đầu tư dua trên kha nang
thực tế sẽ quyết định loại chứng khốn phù hợp nhất, đảm bảo tính hiệu quả,tính an tồn đối với quyết định đầu tư.
1.1.2. Khái quát về thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện cùng vớisự phát triển của nền kinh tế thị trường. Cũng như các thị trường khác, thị
trường chứng khoán cũng qua những bước phát triển sơ khai ban đầu, sau đóngày càng đa dạng, phức tạp dần theo sự phát triển của các quan hệ kinh tế xãhội. Trong nền kinh tế, ln có sự tồn tại hai thái cực: một cực có vốn cần đầu
tư, một cực cần vốn để thực hiện đầu tư kinh doanh. Khi kênh dẫn vốn trực
tiếp giữa hai cực đó với nhau được hình thành theo nguyên tắc đầu tư, cũng
Thị trường chứng khoán là nơi các giao dịch chứng khoán được tiến
hành bởi những đối tượng khác nhau. Đây là thị trường đặc biệt, lưu hành loại
tổ chức, quản lý thị trường chứng khốn cũng có sự khác biệt so với các thị
<small>trường thơng thường.</small>
kiện hồn cảnh cụ thể. Đó là nền kinh tế thị trường với những qui luật vốn cócủa nó. Tại đó, cơ hội kinh doanh, khả năng chuyển đổi mới hình thành và tồn
nền kinh tế tự do phát triển như Hà Lan, Anh, Đức, Hoa Kỳ... thì hiện nay mơhình thị trường này đã lan rộng và trở thành hiện tượng phổ biến của các quốc
sôi động của thị trường chứng khoán các quốc gia là khác nhau. Sự khác biệt
ấy không chỉ dừng lại giữa các quốc gia, ngay ở những khu vực phát triển kinh
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">tế khác nhau trong một quốc gia, mức độ lưu hoạt vốn của các bộ phận thị trường(mang tính địa phương) cũng khác nhau rõ rệt. Điều đó có thể thấy rất rõ qua
hoạt động của các loại thị trường chứng khốn Hoa Kỳ, Cộng hịa Liên bang
của thị trường chứng khoán các quốc gia ngày càng trở nên gần nhau hơn, thông
Hình thái tồn tại, hoạt động cụ thể của thị trường chứng khoán rất đadạng, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đối tượng tham gia, đặc tính của hànghóa giao dịch tại thị trường... và do vậy có nhiều cách phân loại khác nhau.
Nếu xét theo tiêu chí lưu thơng chứng khốn, có thể phân ra thị trườngso cấp và thị trường thứ cấp. Tại thi trường sơ cấp, các chứng khoán lần đầu
tiên được bán cho các nhà đầu tư nên còn được gọi là thị trường phát hành.
Điều đó cũng có nghĩa, thông qua thị trường sơ cấp, những nguồn đầu tư mới
thực sự được chuyển cho nhà phát hành. Thi trường thứ cấp diễn ra các giao dịch
<small>chứng khoán chưa được thanh tốn. Bộ phận thị trường này khơng làm tăng</small>
nguồn vốn mới cho nền kinh tế nhưng có thể hoạt động liên tục, tạo ra khả năngthanh khoản cho chứng khoán đã phát hành và tăng tối đa hiệu suất sử dụng vốncủa nhà phát hành. “Thị trường thứ cấp phục vụ cho hai mục đích chính: thúcday sự tạo vốn cho các doanh nghiệp, chính phủ và tạo ra các cơng cụ đầu tưcó khả năng sinh lời cho các nhà đầu tư” [14]. Thông qua thị trường thứ cấp,
các bên tham gia đều mong muốn đạt tới hiệu ích kinh tế của mình. Hai bộphận thị trường sơ cấp cũng như thứ cấp có mối quan hệ nội tại, mật thiết: thịtrường sơ cấp là cơ sở, tiền đề; thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thịtrường sơ cấp thì khơng có chứng khốn để vận hành thị trường thứ cấp; ngược
lại, nếu khơng có thị trường thứ cấp sẽ khó khan trong việc phát hành vì chứng
khốn hầu như khơng có khả năng thanh khoản khi chưa đến hạn thanh toán.
Nếu xét theo phương thức tổ chức và giao dịch, thị trường chứng khoánbao gồm thị trường tập trung và không tập trung.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Thị trường chứng khoán tập trung diễn ra các hoạt động mua hoặc bán
chứng khoán, hoặc tham khảo để thực hiện các giao dịch chứng khoán, đượctồn tại dưới hình thức phổ biến là Sở giao dịch chứng khốn hoặc các sàn giao
dịch chứng khốn. Thi trường khơng tập trung (OTC) diễn ra hoạt động giaodịch chứng khoán khơng có đủ điều kiện giao dịch tại thị trường tập trung, cóthể tiến hành thơng qua những hình thức đa dạng khác nhau như hệ thống giaodịch nối mạng hoặc là giao dịch chứng khoán riêng lẻ. Khi xem xét mơ hìnhhoạt động của các bộ phận thị trường theo phương diện này, điều dễ nhận thấylà, các bộ phận thị trường khác nhau thể hiện mức độ phát triển của thị trườngchứng khoán. Thị trường chứng khoán tập trung có giá trị như "bộ mặt” thịtrường chứng khốn quốc gia, các bộ phận thị trường khác thể hiện sự đa dạng
của các giao dịch có thể lựa chọn. Hàng hóa của thị trường tập trung cũng là
những hàng hóa có thể đánh giá có chất lượng hơn so với hàng hóa của thị
trường khác, do tính có tổ chức của nó; điều đó cũng có nghĩa sự an toàn hay
rủi ro, cơ hội kiếm lời là khác nhau trong các giao dịch trên thị trường.
Việc nhìn nhận đúng về cách thức, phương thức hoạt động của từng loạihình thị trường như trên giúp cho cơ quan quản lý nhà nước có sự đánh giáđúng đắn về vai trị, hình thức và mức cần thiết phải can thiệp vào thị trường;
vừa tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán vận động theo đúng qui luật vốncó của nó, vừa giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra. Trong thực tế, hoạt độngcủa từng bộ phận thị trường còn có thể xem xét chi tiết hơn theo đối tượng giaodịch tại thị trường như thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường tráiphiếu chính phủ, thị trường giao dịch kỳ han, thị trường giao dịch tương lai...nhưng chủ yếu được xem xét ở những nơi có khối lượng giao dịch lớn.
Để hoạt động bình thường, thị trường chứng khoán phải tuân thủ những
qui định rất nghiêm ngặt, chặt chẽ. Các giao dịch chứng khốn về hình thứcbên ngồi có vẻ "hỗn loạn”, nhưng thực chất lại là những giao dịch trật tự vớinhững nguyên tắc nhất định.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Từ cơ cấu thị trường chứng khoán có thể cho thấy ngun tắc cơngbằng, cơng khai, trung gian được thể hiện trong các giao dịch, nhưng ở các bộ
phận thị trường khác nhau thì yêu cầu của những nguyên tắc này là khác nhau.Nguyên tắc công bằng yêu cầu các giao dịch phải đảm bảo quyền lợi
của tất cả các bên dưới các hình thức khác nhau ở các bộ phận thị trường. Chẳng
<small>hạn, trong giai đoạn phát hành chứng khốn, nếu đó là chứng khốn phát hành</small>
ra cơng chúng thì u cầu phải dành tỷ lệ chứng khốn tối thiểu cho các nhàđầu tư phổ thơng. Tại thị trường tập trung, phương thức đấu giá là hình thứcthực hiện ngun tắc cơng bằng. Theo đó, có thể thực hiện đấu giá liên tục
hoặc đấu giá theo định kỳ nhưng đều đi đến một kết quả duy nhất là người bánsẽ bán được với giá cao nhất và người mua sẽ mua được với giá thấp nhất, khơng
phân biệt các chủ thể đó là ai. Như vậy, nguyên tắc đấu giá tạo ra sự bình đẳng
giữa các chủ thể cùng có nhu cầu như nhau. Nguyên tắc công bằng đối với thịtrường riêng lẻ phản ánh trong cơ cấu hoạt động và phân phối các lợi ích giữacác nhà đầu tư riêng lẻ.
Ngun tắc cơng khai địi hỏi trước hết các thơng tin liên quan đến
chứng khốn phải được cung cấp cho tất cả các đối tượng quan tâm. Phương
<small>thức cung cấp thông tin và nội dung thơng tin phải đảm bảo đáp ứng được u</small>
cầu tìm hiểu về cung cầu thị trường đối với từng loại chứng khoán, giá trị thực
của các loại chứng khoán để có thể đưa ra được những quyết định đầu tư có
hiệu qua. Doi hỏi của ngun tắc cơng khai đối với từng bộ phận thị trường
nhưng đối với thị trường riêng lẻ, hình thức và nội dung chủ yếu do chính chủthể phát hành chứng khoán xác định trước trên cơ sở không trái luật.
chúng và giao dịch tại thị trường tập trung, đòi hỏi các giao dịch mua bán phảiqua chủ thể trung gian. Nguyên tắc này "đảm bảo người đầu tư có những thơng
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">tin chính xác để lợi ích của mình không bị tổn thương bởi những hành vi lừadao" [12, tr. 181]
Thị trường chứng khoán ra đời do nhu cầu của chính đời sống kinh tế,xuất hiện và tồn tại khách quan. Tham gia vào thị trường có rất nhiều loại chủ
đầu tư, phát hành, giao dịch.
Thị trường chứng khoán là thị trường rất nhạy cảm, năng động, có khảnăng gây ảnh hưởng nghiêm trọng và tức thì đối với các thị trường khác cũng
như đối với nền kinh tế. Điều đó lý giải vì sao cần phải có những biện pháp tác
động hữu hiệu cũng như có sự can thiệp của Nhà nước. Sự can thiệp và tác
động này không phải bằng những biện pháp hành chính thuần túy mà thơng
qua hệ thống pháp luật, thông qua hoạt động giám sát của các cơ quan nhànước có thẩm quyền. Các kết quả nghiên cứu kinh tế, pháp lý lién quan đến thị
trường chứng khoán đều thống nhất cho rằng, thị trường chứng khoán là sản
kinh tế thị trường mà khơng thể áp dụng các biện pháp hành chính cứng nhắc.
<small>Vì vậy. cơ quan quản lý thị trường cũng phải có những cách thức và biện pháp</small>
phù hep. Do thị trường chứng khoán gồm nhiều bộ phận hợp thành nên yêu
cầu và mức độ quản lý các bộ phận đó cũng là khác nhau.
Trong thị trường chứng khốn, dù ở giai đoạn phát triển nào và ở bộ
phận rào của thị trường thì cũng tồn tại hai loại chủ thể chủ yếu là nhà pháthành và nhà đầu tư chứng khoán. Nhà phát hành là tất cả chủ thể huy động vốn
bằng cích bán chứng khốn cho người đầu tư. Tùy theo điều kiện cụ thể, pháp
thứ ha là nhà đầu tư chứng khoán - những chủ thể có nhu cầu đầu tư bằng
cách nua các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Loại chủ thể đầu
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">nhau. Thường thì người ta chia nhà đầu tư thành hai nhóm cơ bản: nhà đầu tưcó tổ chức và nhà đầu tư cá thể. Nhà đầu tư có tổ chức có thể chỉ chiếm số lượngnhỏ so với nhà đầu tư cá thể nhưng đối tượng này lại có tiém năng lớn, khả năng
phân tích đánh giá chứng khoán tốt. Nhà đầu tư cá thể chiếm tỷ trọng đông đảovề số lượng nhưng lại là đối tượng thường được quan tâm của nhà quản lý vớimục đích bảo vệ quyền lợi cho họ.
và coi đây là nghiệp vụ kinh doanh chính của mình. Hành vi kinh doanh
chứng khốn cũng nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận như hành vi kinh doanh
khác, nhưng do đặc điểm của chứng khoán rất phức tạp và rủi ro dây chuyểnnên chủ thể thực hiện kinh doanh chứng khoán thường phải đạt những tiêuchuẩn nhất định, cho dù mỗi quốc gia có thể cho phép tổ chức và cá nhâncùng kinh doanh hoặc chỉ cho phép tổ chức kinh doanh. Chủ thể kinh doanhchứng khốn thường tồn tại dưới hình thức cơng ty chứng khốn hoặc nhữnghình thức cá biệt khác.
Ngồi những chủ thể chủ yếu trên cịn có thể có một số đối tượng khácnhư các ngân hàng thương mại (tham gia với tư cách là trung gian thanh toán),các đại lý phát hành chứng khoán...
Như đã đề cập, tham gia thị trường chứng khoán một quốc gia chỉ thực
sự coi đã có thị trường chứng khốn khi đã hiện diện thực tế mơ hình thịtrường tập trung mặc dù có qui mơ khác nhau: Sở giao dịch chứng khốn hoặc
trường tập trung này có tư cách pháp nhân, mặc dù có thể thuộc về những hìnhthức sở hữu khác nhau. Đây là tổ chức có cơ cấu chặt chẽ, tồn tại nhằm cung
cấp dịch vụ cho các giao dịch chứng khốn như niêm yết, cơng bố thơng tin vànhiều dịch vụ khác với mục đích phi lợi nhuận hoặc tìm kiếm lợi nhuận.
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Tóm lai, thị trường chứng khốn là nơi diễn ra hoạt động mua bán chứngkhoán giữa các chủ thể có liên quan, có cấu trúc phức tạp và vận hành theo
những nguyên tắc nhất định. Trong các bộ phận, thị trường chứng khốn tập
trung có giá trị mang tính đại diện và các quốc gia có thị trường đều phải kiểm
<small>soát chat chế bộ phận thị trường này.</small>
chứng khoán
Nếu chỉ xem xét thị trường chứng khoán với những biểu hiện đơn giảnnhất là có giao dịch mua bán chứng khốn thì đó là cách nhìn khơng đầy đủ.Chúng tơi đã chỉ ra rằng, thị trường chứng khốn bao giờ cũng có những biểuhiện bề nổi, mang tính "bộ mat", đó là các giao dịch tại thị trường chứng khoántập trung, các giao dịch nội bộ chưa phản ánh đầy đủ tính chất của thị trườngchứng khốn. Nhưng để thị trường tập trung có thể vận hành ổn định và bìnhthường được, cần phải hội đủ những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Thứ nhất, nền kinh tế của quốc gia có thị trường phải phát triển đến mức
độ nhất định. Xuất phát từ nguồn gốc ra đời của chứng khốn, đó là nhu cầu vềvốn giữa người cần vốn và người có vốn. Mặc dù vậy, nguồn vốn có thể cung và
nguồn vốn cần thiết cho nền kinh tế phải đạt đến giới hạn nhất định. Nếu khơng
đạt đến các giới hạn đó, các nhà kinh doanh (và kể cả các nhà đầu tư) sẽ không lựa
chọn vốn qua thị trường chứng khoán mà sẽ lựa chọn những thị trường khác đơn
giản và an toàn hơn (như thị trường tín dụng, thị trường ngoại hối, thị trường bất
nền kinh tế phát triển thực (tức phải xem xét trong mối tương quan với chỉ số giá
cả). Các chuyên gia kinh tế cho rằng, để ra đời thị trường chứng khoán ở các nước
trường các nước đang phát triển, sự biến động về phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng
tức thì đến giao dịch tại thị trường và khơng loại trừ trường hợp làm vỡ thị trường.
Liên quan đến yêu cầu kinh tế, sự tham gia của các tổ chức kinh tế vàothị trường là hết sức quan trọng. Các tổ chức kinh tế được xem là những nhà
nhu cầu vốn thường xuyên. Sự tham gia của họ vào thị trường sẽ làm cho nguồnvốn giao dịch tăng, đây chính là yếu tố kích ứng mức sơi động của thị trường.
Mặt khác, tổ chức kinh tế cũng đồng thời là người có khả năng sử dụng vốn
với hiệu suất cao nhất, là nhà kinh doanh lành nghề. Vì vậy, cần phải cónhững biện pháp phù hợp cho họ có cơ hội tham gia thị trường. Các tổ chức
kinh tế được xem xét ở đây có thể là doanh nghiệp thơng thường, các tổ chức
tài chính... Qui mơ vốn, năng lực thực tế của các tổ chức kinh tế quyết địnhsức thanh khoản và lành mạnh của thị trường.
Thứ hai, phải có sự ổn định chính trị xã hội. Thị trường chứng khốn
có độ nhạy cảm cao đối với bất kỳ sự biến đổi hay bất ổn định nào về chínhtri, xã hội. Sự ổn định chính trị là tiền dé cho ổn định đầu tư; người đứng đầubộ máy nhà nước có thể ảnh hưởng tới luồng chu chuyển vốn giữa các ngànhvà khu vực kinh tế. Thực tế đời sống chính trị của Hoa Kỳ, Nhật Bản, khu vựcTrung Đông, trong những năm qua cho chúng ta rất nhiều bài học về ổn địnhchính trị và vai trị của người đứng đầu tổ chức bộ máy nhà nước đối với thị
quốc gia mà còn là sự ổn định về vị trí chính trị của quốc gia đó trên trườngquốc tế. Hoặc sự can thiệp của Tổng thống Bush vào ngành thép Hoa Kỳ
không chỉ gây ra mối quan ngại trong giao dịch thương mại quốc tế với các
quốc gia có xuất khẩu thép vào thị trường Mỹ mà cịn ảnh hưởng rõ nét tới giáchứng khốn ngành thép Hoa Kỳ.
Thị trường chứng khoán ở các quốc gia hình thành từ nhu cầu nội tại.Nếu dùng ngơn ngữ triết học, có thể nói, nó hình thành theo con đường cổ
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">sinh, đi theo sự tiến hóa dần và có nhu cầu hợp lại với nhau, dần hồn thiện.Đối với Việt Nam, thị trường chứng khốn được xây dựng có rất nhiều yếu tốtừ bên ngồi. Mặc dù có một số yếu tố nội tại trong đó, song nó khơng hồntồn mang yếu tố hình thành tự thân. Đây cũng là yếu tố chi phối tới khung
luật đối với thị trường chứng khốn nước ta.
1.1.4. Vai trị của thị trường chứng khoán
Chứng khoán và thị trường chứng khoán tồn tại như một tất yếu củanền kinh tế thị trường và giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế đó.
Thứ nhất, xuất phát từ nguồn gốc ra đời của chứng khốn và thị trường
trong việc huy động vốn trung và dai hạn. Với chi phí thấp, khả nang chủ độngtrong việc lựa chọn đối tượng, lượng vốn cần thiết cũng như hình thức huyđộng vốn, thị trường chứng khốn có vai trị rất lớn trong việc trợ giúp cho các
doanh nghiệp thu hút, huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh một
cách dé dàng. Thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán các quốc gia da
chỉ ra rằng, thị trường chứng khoán tạo ra sự cạnh tranh với các bộ phận thị
trường truyền thống mà đại diện là thị trường tín dụng. Nếu như trước đây cáctổ chức tín dụng là chỗ dựa tiểm tàng về vốn cho các doanh nghiệp, từ nguồn
vốn nhỏ nhất trong thời gian ngắn nhất đến nguồn vốn lớn nhất trong thời gian
đài nhất theo nhu cầu thì thị trường chứng khốn đã mở ra cơ hội huy động
vốn mới cho các doanh nghiệp. Nội dung, hình thức huy động vốn của doanhnghiệp thơng qua thị trường chứng khốn rất da dang, khơng đơn thuần là nguồnvốn vay; bản thân các nguồn vốn kèm theo cam kết của doanh nghiệp phát
hành cũng thể hiện nhu cầu và tính cạnh tranh to lớn.
Khơng chỉ đóng vai trị là cơng cụ huy động vốn, thị trường chứngkhốn cịn là môi trường đầu tư thuận lợi của công chúng. Thị trường chứng
khốn là mơi trường đầu tư lành mạnh với cơ hội lựa chọn phong phú. Những
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">nguồn tiền tiết kiệm của dân cư được sử dụng với hiệu suất cao nhất thông qua
<small>việc lựa chọn các loại chứng khốn với mực độ an tồn và lưu hoạt khác nhau</small>
khiến cho các nhà đầu tư có thể lựa chọn phù hợp với khả năng và sở thích của
<small>mình. Cũng chính vì sự lựa chọn đó mà bản thân các nhà phát hành cũng được</small>
"tính đếm” trong quyết định của nhà đầu tư. Có thể nói, thị trường chứng khoán
là một trong những cơ sở đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của nền kinh tếmột cách tổng hợp (kể cả giá trị hữu hình và giá trị vơ hình) thơng qua các chỉ
số giá chứng khoán trên thị trường. Tất cả các giao dịch về vốn trên thị trường
là kết quả của quá trình cạnh tranh, đảm bảo cho hiệu suất sử dụng vốn của
doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung đạt mức độ cao nhất.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, việc đánh giá nền kinh tế thông qua thị trường
chỉ thực sự phát huy hiệu quả đối với những thị trường phát triển, hoạt động
ổn định. Đối với những thị trường mới hình thành, mức độ giao dịch còn nhỏ,
các giao dịch vốn truyền thống vẫn còn là phổ biến thì vai trị này của thị
<small>trường chứng khốn chưa thực sự phát huy. Việt Nam cũng không là ngoại lệ.</small>
Thứ hai, thị trường chứng khốn cịn là cơng cụ thực hiện chính sách
tài chính tiền tệ quốc gia và các chính sách vĩ mơ khác. Thị trường chứng
khốn phản ánh các giá cả chứng khoán của các doanh nghiệp và các ngànhkinh tế. Mức độ dao động giá chứng khoán cho thấy dấu hiệu và kết quả đầu
sách nhà nước bang việc phát hành các loại trái phiếu chính phủ. Day chính lànội dung quan trọng nhằm thực hiện chính sách tài chính quốc gia. Việc thực
hiện tốt chính sách tài chính quốc gia tạo căn cứ chắc chắn cho việc ổn định
giá trị đồng tiền, là nội dung cơ bản và quan trọng nhất của chính sách tiền tệquốc gia. Chính vì thế, có thể nói rằng, thị trường chứng khốn tạo mơi trường
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">thuận lợi cho Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Đối với cácquốc gia chuyển đổi, thị trường chứng khốn cịn là nhân tố thúc đẩy tiến trìnhđa hình thức sở hữu nền kinh tế. Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước ở Trung Quốc trong giai đoạn 1983 đến nay đã chỉ ra rằng, thị trường
chứng khốn giúp Chính phủ thực hiện tốt công cuộc cải tổ nền kinh tế.
Thứ ba, thị trường chứng khốn đóng vai trị tạo khả nang thanh khoản
cho các chứng khốn. Nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán của họ thành
tiền mặt hoặc các loại chứng khốn mà họ mong muốn khác tại thị trường.Chính tính thanh khoản của chứng khốn giúp cho thị trường sơi động đồng
thời cũng là một trong những yếu tố quyết định mức hấp dẫn của chứng khoánđối với người đầu tư. Vì vậy, bản thân tính thanh khoản và hoạt động của thịtrường có mối quan hệ nội tại và đảm bảo cho thị trường chứng khốn hoạt
Bất kỳ quốc gia nào có thị trường chứng khốn đều phải tính tốn sự
trường cạnh tranh lành mạnh giữa doanh nghiệp chứng khốn trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm của nhà kinh doanh chứng
có thể ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế trong nước nếu có sự lệ thuộc quá lớn
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">vào nguồn vốn nước ngồi. Vì vậy, đối với những thị trường mới mở, Chínhphủ thường có những hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài (kể cả đầu tư trực
tiếp hay đầu tư gián tiếp).
<small>Thứ tư, thị trường chứng khoán Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với</small>
q trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Q trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước đã tạo điều kiện hết sức quan trọng thúc đẩy quá trình phát
triển của thị trường sơ cấp cũng như hình thành thị trường thứ cấp ở Việt Nam.Việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp được cổ phần hóa làm sơi độnghơn thị trường phát hành, chuyển hóa phần vốn tiết kiệm trong dân chúng thành
phiếu niêm yết tại thị trường tập trung hiện nay đều là cổ phiếu của các cơng ty
Cuối cùng, chúng tơi muốn phân tích các yếu tố tác động qua lại của
thị trường chứng khốn trong thị trường tài chính. Hệ thống pháp luật phản
ánh chính sách tiền tệ quốc gia, gây ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu tiền của
tái chiết khấu), đồng thời kích ứng mức độ sơi động thị trường chứng khốn
suất như vậy sẽ ảnh hưởng lớn tới nguồn cung vốn cho các nhà kinh doanh
trong mở rộng đầu tư và hình thành vốn, làm cho nguồn vốn được đưa vào đầu
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>tư có chi phí thấp nhất, các bộ phận thị trường tài chính có mức độ tự cạnh</small>
tranh cao nhất. Ngoài ra, thị trường ngoại hối cũng như cán cân thương mạicũng ảnh hưởng trực tiếp đến các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Đối
với đồng nội tệ có sức mua ổn định, chỉ số giá chứng khốn có mức độ cân bằngtương đối so với thị trường nước ngồi sẽ khơng xảy ra tình trạng luồng tiền được
chuyển ra đầu tư nước ngoài bằng con đường chứng khoán hay các con đườngkhác. Sức mua đối ngoại của đồng tiền ổn định cũng tạo cho nhà đầu tư chứngkhốn an tâm, khơng có sự chuyển dich đầu tư từ bộ phận thị trường nay sang
các tổ chức tiền tệ quốc tế đều có thể làm biến động thị trường chứng khốn.
Với phân tích trên chúng tơi muốn chỉ ra rằng, thị trường chứng khoán rất nhạy
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ khung pháp luật được nghiên cứu vàsử dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây, mặc dù nó đã được sử dụng rất
lâu ở các nước có nền kinh tế thị trường. Khái niệm và cấu trúc khung phápluật được xem xét và đánh giá theo những góc độ khác nhau. Trên thế giới hiệnnay cũng như theo kết quả của nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý
cấu thành: các nguyên tắc cơ bản chi phối toàn bộ trật tự pháp luật trong lĩnhvực đó, hệ thống pháp luật thực định, các định chế thiết chế đi kèm (thuộc về
đề tài thuộc chuyên ngành luật kinh tế, như một qui ước, chúng tôi quan niệm
và xác định cấu trúc của khung pháp luật thị trường chứng khoán như sau:1.2.1. Khái niệm khung pháp luật thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một định chế pháp lý của nền kinh tế thị
chứng khoán, là đối tượng tác động của khung pháp luật thị trường chứng
điều kiện có nền kinh tế thị trường mà thơi.
luật về thị trường chứng khoán cũng cho rằng, "khung pháp luật về chứng
trúc pháp luật điều chỉnh các quan hệ nảy sinh trong lĩnh vực chứng khoán vàthị trường chứng khoán ở một quốc gia" [10, tr. 35]
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Là một bộ phận của khung pháp luật nói chung, khung pháp luật thị
trường chứng khốn của một quốc gia cũng có điểm tương đồng và khác biệtso với các quốc gia khác, có những điểm thay đổi cho phù hợp trong từng giai
đoạn khác nhau. Khung pháp luật chứng khoán của các quốc gia theo cùng"Hệ thống Luật" có điểm tương đồng so với quốc gia có hệ thống luật khác.Đối với những quốc gia có thị trường phát triển, chẳng hạn như Mỹ, Nhật Bản,
Đức, Anh mức độ điều chỉnh và tính phức tạp của các đối tượng, các loại giaodịch hoặc cơ chế kiểm tra giám sát rất khác so với các nước có thị trường mới
thống luật chung (Common Law) lại có những điểm tương đồng với nhau mặc
sự tham gia của các tổ chức tài chính vào thị trường chứng khoán); tương tự
như vậy, điều này xảy ra ở các nước theo hệ thống luật thành văn (Civil Law).Sự tương đồng và khác biệt này được lý giải bởi chính những điểm khác biệtchung nhất của hai Hệ thống luật.
Khi xem xét khái niệm khung pháp luật thị trường chứng khốn, cũng
có thể đặt nó trong mối quan hệ với khung pháp luật kinh tế. Xét về bản chất,hoạt động chứng khoán là một loại hoạt động kinh doanh, vấn đề quản lý hoạtđộng chứng khoán là một nội dung quan trọng của quản lý nhà nước trong
lĩnh vực kinh tế. Cụ thể hơn, nếu xét đối tượng điều chỉnh của khung pháp luật
thị trường chứng khoán là chứng khoán và các hoạt động liên quan đến giao
dịch chứng khoán - một loại hoạt động kinh tế quan trọng thì khung pháp luật
thị trường chứng khốn cũng là một bộ phận của khung pháp luật kinh tế.
Khung pháp luật thị trường chứng khốn rất gần nhưng khơng đồng
nghĩa với mơi trường pháp lý thị trường chứng khốn. Mặc dù khung pháp luậtthị trường chứng khoán đã mang các yếu tố động hơn rất nhiều so với các loạikhung pháp luật như khung pháp luật về đất đai, khung pháp luật về phá sảnnhưng bản thân nó cũng mới chỉ dừng lại qui định những nội dung các văn bản
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">pháp luật mang tính khả thi, hệ thống các biện pháp bảo đảm cho các giao dịchđược tiến hành trong thực tế. Trong khi đó, mơi trường pháp lý thị trường chứngkhốn khơng chỉ đơn thuần là khung pháp luật mà còn bao gồm việc duy trì và
tăng cường pháp chế, năng lực vận dụng pháp luật của tất cả các chủ thể trênthị trường chứng khốn. Chúng tơi rất tâm đắc với sự so sánh:
Khung pháp luật như những tấm kính, bộ khung của chiếc bểcá; trong khi đó, để những con cá cảnh xinh đẹp có thể bơi lội tung
tăng trong cái gọi là mơi trường pháp lý thì khơng chi đơn thuần có
bể cá khơng mà cịn phải có nước đủ sạch, có những vật cản cần thiết
cho con cá có khả năng tạo ra nét đẹp cho đời [35].
Trong từng giai đoạn phát triển cụ thể, tùy theo mức độ phát triển nềnkinh tế, định hướng của chế độ chính trị và chính khả năng của thị trường mà
phù hợp. Chẳng hạn, tương ứng với mức độ phát triển của một quốc gia có
Hàn Quốc hiện hành qui định sở hữu Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc là
sở hữu thành viên [99, tr. 47] trong khi đó một thời gian dài (từ năm 1963 đếnnăm 1988) pháp luật lại cần thiết qui định tổ chức này lại thuộc về sở hữu Nhànước [76, tr. 66].
Khung pháp luật thị trường chứng khoán chịu sự chi phối của những
qui luật vốn có của nền kinh tế thị trường: tự do sở hữu, tự do cạnh tranh và tự
do kinh doanh. Sự vận động của các qui luật này trên thị trường chứng khoáncàng đa dạng và phức tạp hơn so với các giao dịch thương mại thông thường khác.Mức độ vận động, sức ảnh hưởng của các qui luật nền kinh tế thị trường phản
ánh rõ nét ngay trong nội dung của khung pháp luật thị trường chứng khốn.
của quốc gia. Điều này được các chủ thể có liên quan tuân thủ nghiêm ngặt
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">"như một lẽ tự nhiên". Đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển cũng có
xu hướng qui định ngay từ đầu những hành xử của các chủ thể giao dịch trên
thị trường trên cơ sở tuân thủ những qui luật vận động của nền kinh tế. Nhưng
chính vì mức độ phát triển cịn hạn chế nên Chính phủ cầm quyền bao giờcũng phải xét tới những mặt trái có thể gây biến động cho nền kinh tế chính từ
tự nhiên của qui luật kinh tế thị trường trên cơ sở những thực trạng của nền
khoán cho phép nhà phát hành, nhà đầu tư, nhà kinh doanh chứng khốn có
quyền quyết định phát hành chứng khốn gì, theo phương thức nào, nắm giữ
bao nhiêu chứng khoán trong thời gian nhà đầu tư cho là cần thiết. Tuy nhiên,
sự tự do này không thể tránh khỏi những sai lệch nhất định như hành vi thâutóm doanh nghiệp bất hợp pháp, mua bán khống, thông tin nội bộ. Nhiệm vụ
bức thiết của Nhà nước là điều chỉnh những sai lệch ấy thông qua hoạt độnglập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, nói khác đi khung pháp luật vớinhững nhân tố nêu trên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động lập pháp, lập qui
Cho dù khung pháp luật được xem xét dưới góc độ nào thì trung tâm
nhất vẫn là hệ thống các văn bản pháp luật. Theo ý kiến chúng tôi, khung pháp
mức độ điều chỉnh và phạm vi điều chỉnh khơng hồn tồn đồng nhất. Điều
các quốc gia thường giới hạn giá chứng khốn giao dịch trong một mức độnhất định (có biên độ dao động khác nhau tùy thuộc vào từng quốc gia); giớihạn ấy sẽ dần được nới lỏng và đi đến loại trừ hoàn toàn khi các giao dịch thựctế đã đạt đến một trình độ nhất định. Ngay cả đối với nội dung các điều cấmcũng phản ánh rất rõ sự can thiệp cần thiết từ phía Nhà nước. Đối với những
thị trường mới hình thành hoặc thị trường mới nổi như thị trường Việt Nam,
Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia... hành vi mua khống, bán khống bị coi làtrái pháp luật nhưng tại các thị trường truyền thống như thị trường New York,thị trường Tokyo, thị trường London thi đây lại là những hành vi có khả nănggift giá cho thị trường, không bị pháp luật cấm.
1.2.2. Cấu trúc khung pháp luật thị trường chứng khốn
Nói tới khung pháp luật thị trường chứng khốn là nói tới mối liên hệ
giữa các bộ phận cấu thành với tính cách là một chỉnh thể thống nhất. Các bộ
phận này là những thành tố có tính độc lập tương đối song tồn tại trong mối
bên trong” [48, tr. 501]. Theo chúng tơi, suy cho cùng, nói tới khung pháp luật
<small>là nói tới giới hạn và phạm vi. Vi vậy, việc xác định khung pháp luật thị trường</small>
chứng khoán cùng các nội hàm tối thiểu là cần thiết.
Cấu trúc được hiểu là "tồn bộ nói chung những quan hệ bên trong giữacác phần tạo nên một chỉnh thể" [85, tr. 139]. Quan điểm về cấu trúc khungpháp luật thị trường chứng khốn hiện tại cũng có những sự khác nhau nhấtđịnh, được thể hiện trong các cơng trình nghiên cứu. Mỗi quan điểm đó lại
dẫn đến một kết quả rộng hẹp khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu của ViệnNghiên cứu Nhà nước pháp luật thì cấu trúc khung pháp luật thị trường chứngkhoán được xác định theo từng bộ phận của thị trường.
Khung pháp luật về chứng khoán với ba bộ phận cấu thànhtối thiểu cần có của nó bao gồm:
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">- Những qui định về tiêu chuẩn hàng hóa và điều kiện phát hành
- Điều kiện và thể thức kinh doanh
- Quản lý nhà nước và giám sát về chứng khoán, thị trường
<small>chứng khoán đã được hình thành [86, tr. 306].</small>
Theo quan điểm này, cấu trúc khung pháp luật thị trường chứng khoán
chỉ dừng lại ở nội dung của hệ thống các văn bản pháp luật mà không đề cậptới những nguyên tắc cơ bản để hình thành nên các văn bản đó. Chúng tơi cho
rằng, đây có thể là cách xem xét trong phạm vi hẹp. Quan điểm này có thể
pháp luật trong giai đoạn cụ thể nhưng chưa bao quát và giải quyết được nhữngnội dung mang tính nguyên tắc, làm tiền đề cho sự ra đời của chính các văn
- Những nguyên tắc và định hướng chính sách cơ bản của cơ
chế kinh tế được thể chế hóa thành các qui phạm pháp luật.
- Tổng thể các qui phạm pháp luật, các văn bản qui phạm
pháp luật của Nhà nước điều chỉnh các quan hệ nảy sinh trong lĩnh
<small>vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.</small>
hoạt động của thi trường chứng khoán [10, tr. 35].
Kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra cấu trúc khung pháp luật thị trườngchứng khốn có phạm vi rộng hơn, nhưng theo ý kiến chúng tơi cịn có sự
pháp luật đó. Nếu bộ phận thứ hai của khung pháp luật thị trường chứng khoán
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">đã là các van ban pháp luật thi "các thể chế gồm: thể chế tài chính, thể chếhành chính - tư pháp; các qui định có liên quan của pháp luật hình sự; các qui
định về giải quyết tranh chấp, phá sản doanh nghiệp..." [10, tr. 51]. Như thế,
một bộ phận không nhỏ của thể chế lại chính là văn bản pháp luật đảm bảocho thị trường hoạt động. Bộ phận pháp luật này khơng hồn tồn giống như
bộ phận pháp luật thứ hai. Tuy nhiên, nếu xét về bản chất và hình thức pháp lý
hợp khác, đó là "hệ thống thể chế, định chế". Với cách phân loại này, không
Xét về tổng thể, khung pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán bao gồm ba bộ phận cấu thành sau đây:
- Thứ nhất: các qui định về chứng khoán và phát hành chứng khoán.
- Thứ hai: các qui định về giao dịch và kinh doanh chứng khoán.
- Thứ ba: các qui định về quản lý, giám sát và thanh tra chứngkhoán [3].
Tiếp cận với những quan điểm trên đây, điều dé nhận ra là mặc dù có
sự khác nhau về tên gọi, trật tự giữa các bộ phận nhưng khơng có sự khác biệtlớn về nội dung.
Đồng tình với nhiều nội dung trong các kết quả nghiên cứu đã được
rằng, nội hàm của khung pháp luật thị trường chứng khoán trong luận án này
bao gồm hai bộ phận cơ bản sau:
Thứ nhất, những nguyên tắc pháp lý cơ bản xây dựng khung pháp luật
<small>thị trường chứng khoán.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">Thứ hai, hệ thống pháp luật vat chat điều chỉnh hoạt động thị trường.Việc phân loại, xác định cấu thành khung pháp luật cho thị trường chứng
khoán giúp chúng ta tập trung xây dựng những nguyên tắc, những chế định
được coi là các yếu tố khung của thị trường chứng khốn trước khi bàn tới việchồn thiện từng bước khung pháp luật cho thị trường đặc biệt này. Xác định
trước cấu trúc khung pháp luật thị trường chứng khốn khơng chỉ giải quyếtvấn đề phạm vi nghiên cứu, định hướng nghiên cứu của luận án này mà chúngtơi cho rằng đó cịn là cơ sở để xác định cơng việc và lộ trình cho q trình
xây dựng, hồn thiện nó. Đối với những bộ phận khung pháp luật thị trườngchứng khốn chưa có, chưa hiện diện, chúng ta phải định hình và xây dựngchúng. Đối với những bộ phận đã tồn tại, hiện diện, cần phải hoàn chỉnh cho
tách rời q trình xây dựng với q trình hồn thiện. Bản thân quá trình xâydựng đã là những biểu hiện cụ thể của q trình hồn thiện. Hơn nữa, hồnthiện là một q trình khơng ngừng.
1.2.2.1. Những ngun tắc pháp lý cơ bản xây dựng khung pháp luậtvề thị trường chứng khoán
Nguyên tắc pháp lý bao giờ cũng là bộ phận cấu thành quan trọng của
pháp luật theo nghĩa day đủ của nó. PGS.TS Lê Minh Tam đã viết: "Hệ nguyên
tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo
Cần phải nhấn mạnh rằng, các nguyên tắc pháp lý ở đây không đơn thuần chỉlà các nguyên tắc mà theo đó, chúng sẽ được thấm đượm trong nội dung hệ
tắc pháp lý ở đây còn là các điều kiện để hình thành, áp dụng và tuân thủ các
hệ thống pháp luật cụ thể theo từng giai đoạn, quyết định diện mạo của khung
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Nền kinh tế thị trường với đặc trưng cơ bản là tự do sở hữu và tự dokinh doanh, sự vận hành của các giao dịch thị trường chứng khốn cũng khơng
nằm ngồi những ngun tắc cơ bản đó. Tất cả các nhà lập pháp đều thừa
nhận rằng, để có được một nền kinh tế thị trường, một thị trường chứng khốnđược định hình và phát triển thì các nguyên tắc cơ bản cho sự vận hành của thị
trường chứng khốn phải được xác định khơng chỉ ở một quốc gia cụ thể nào.Các nguyên tắc đó là: đảm bảo quyền sở hữu, tự do kinh doanh, tự do cạnh
tranh. Xét theo phương diện phân loại, đây chính là các ngun tắc chung.Ngồi những ngun tắc vốn có này, để cho thị trường vận hành thơng suốt,
bất kỳ quốc gia nào cũng cần có sự can thiệp vào thị trường, hay nói cách khác,một nguyên tắc song hành với những nguyên tắc nêu trên đó là phải đảm bảosự can thiệp của Nhà nước vào thị trường và tuân thủ các nguyên tắc vận động
các nguyên tắc đặc thù. Trong luận án, chúng tôi xác định rằng, hệ thống cácnguyên tắc pháp lý được phân tích tại đây khơng bao hàm tổng thể các nguyên
tắc của khung pháp luật nói chung mà chỉ phân tích những nguyên tắc chi phốitrực tiếp tới hệ thống luật cho thị trường chứng khoán. Điều này cũng hồntồn phù hợp với mục đích nghiên cứu của luận án khi xem xét khung pháp
luật thị trường chứng khoán như một vấn đề cụ thể (nếu coi đó là cái riêng)trong mối quan hệ của nó với cái chung là khung pháp luật: “cái chung là một
bộ phận của cái riêng, cịn cái riêng khơng gia nhập hết vào cái chung”, nhưng
"cái cái riêng lại gắn bó chặt chẽ với cái chung, khơng tồn tại ở bên ngồi mối
liên hệ dẫn tới cái chung” [34, tr. 243-244].
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nguyên tắc tự do sở hữu, tự do
cạnh tranh, tự do kinh doanh đã tồn tại như một tất yếu. Tuy nhiên, với điều kiệnnền kinh tế thị trường được hình thành trên cơ sở nền kinh tế tập trung, đồng thời
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">muốn xây dựng thị trường chứng khoán, cần phải nhấn mạnh một lần nữa cácnguyên tắc này. Mặt khác, mặc dù là các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị
nhau, đó chính là sự chuyển hóa cái chung vào cái riêng. Các nguyên tắc pháp lýchung được ghi nhận tại Hiến pháp - văn bản pháp luật có giá trị pháp lý caonhất. Các nguyên tắc pháp lý đặc thù được ghi nhận tại văn bản pháp luật cao
nhất điều chỉnh trực tiếp tới hoạt động thị trường chứng khoán.
Thứ nhất, nguyên tac dam bảo quyền tt do sở hitu, trong đó nhấn mạnhquyền sở hữu cá nhân. Vấn đề quyền sở hữu nói chung đã được pháp luật ghi
nhận như một nguyên tắc hiến định, mặc dù trong mỗi quốc gia cụ thể là khác
nhau. Đối với thị trường chứng khoán, vấn đề sở hữu chi phối tới tất cả các
giao dịch tại thị trường. Tuy nhiên, sở hữu cá nhân trong giai đoạn trước đây
chưa được pháp luật Việt Nam qui định day đủ và hồn chỉnh. Trong khi đó,thị trường chứng khốn chỉ có thể vận hành và sơi động được khi có sự tham
gia đơng đảo của các nhà phát hành, các nhà đầu tư, trong đó phần lớn là nhàđầu tư cá thể. Vấn đề sở hữu và đa hình thức sở hữu quyết định sự đa dạng vàsơi động cho các giao dịch thị trường. Có thể chỉ ra rằng, đối với các quốc gia
doanh, làm tiền đề cho thị trường cổ phiếu chính thức hoạt động 1988. Quyền
nền kinh tế thông qua thị trường chứng khoán và sử dụng vốn với hiệu suất
lượng cổ đơng nắm giữ cổ phiếu mà chủ yếu là cá nhân; hoạt động mơi giới
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">có tổ chức tại các cơng ty chứng khốn. Tất cả những ví dụ đó cho thấy, để thị
trường chứng khốn hình thành và vận động trôi chảy, trước hết, phải đảm bảo
Việc thể chế hóa nội dung của quyền sở hữu có thể là khác nhau trong những
Pháp luật Việt Nam ln xác định vấn đề sở hữu là nội dung mang
Nam [40]. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người đều có thể là chủ sở hữu thực
sự đối với tài sản của mình. Quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của cánhân công dân được Nhà nước bảo hộ như việc bảo hộ quyền sở hữu của pháp
nhân. Giải quyết được vấn đề sở hữu là nền tảng, tiền đề cho việc giao dịch các
loại chứng khoán và thu hút vốn cho nền kinh tế thông qua thị trường.
Thứ hai, nguyên tac tu do kinh doanh. Nền kinh tế thị trường phát triển
từ thấp đến cao, nhưng đều trên cơ sở thực hiện quyền tự do kinh doanh. Hiểumột cách chung nhất, đó là quyền tự do "thực hiện một, một số hoặc tất cả các
khốn chỉ có thể vận hành và sơi động nếu các giao dịch chứng khốn được thực
hiện và đảm bảo thực hiện. Nhà đầu tư, các cơng ty chứng khốn hoạt động vớicác nội dung khác nhau nhằm mực đích kiếm lời tại thị trường tập trung hay
khẳng định và được cụ thể hóa trong rất nhiều các văn bản pháp luật chuyên
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">ngành. Đây là những tiền đề ban đầu cho việc thực hiện kinh doanh nói chung và
giao dịch chứng khốn nói riêng. Chúng tơi nhất trí với TS. Bùi Ngọc Cườngkhi xác định nội dung quyền tự do kinh doanh bao gồm hệ thống các quyền:
- Quyền được đảm bảo sở hữu đối với tài sản.- Quyền tự do thành lập doanh nghiệp.
- Quyền tự do hợp đồng.
- Quyền tự do cạnh tranh theo pháp luật.
- Quyền tự định đoạt trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp [21, tr. 16].
Những nội dung của tự do kinh doanh theo cách hiểu trên bản thân đã
có nội hàm rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực khác nhau. Tại thị trường chứng khoán,nếu những nội dung này được thực hiện một cách đồng bộ và hoàn chỉnh, đó
chính là cơ sở khá đầy đủ cho thị trường chứng khoán vận hành và phát triển.
Quyền tự do kinh doanh tạo căn cứ cho nhà phát hành lựa chọn phương thứcgọi vốn (phát hành chứng khoán) phù hợp nhất với mình, nhà đầu tư lựa chọn
phương án đầu tư tốt ưu cũng như lựa chon giao kết hợp đồng với cơng tychứng khốn tin cậy nhất. Đối với cơng ty chứng khoán, quyền tự do kinhdoanh chứng khoán với những hình thức phù hợp sẽ mang lại cơ hội sinh lợi tốt
hạn của sự lựa chọn ngày càng được nới rộng. Nếu như trước đây, các chủ thể
chỉ được phép lựa chọn trên cơ sở những hành vi đã được pháp luật trù liệutrước mà không được phép "vượt rao", thì nay họ "được sản xuất kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” [40, Điều 16]. Nếu không
(đặc biệt là giao dịch tại thị trường thứ cấp) khơng có cơ sở để tồn tại, có nghĩa
thị trường. Xác định được vị trí của nguyên tắc tự do kinh doanh trong hệ thống
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">nguyên tắc pháp lý, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động tại thị trườngchứng khoán phải quán triệt nội dung đó và phải đảm bảo thực hiện nội dung
Thứ ba, nguyên tắc tu do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh với tư cách là
một qui luật vận động của nền kinh tế thị trường, vì vậy nguyên tắc tự do cạnh
tranh phải được đảm bảo thực hiện trong các giao dịch tại thị trường chứng
khoán. Tự do cạnh tranh trong thị trường chứng khoán giúp cho nguồn vốn
đưa vào nền kinh tế được sử dụng với hiệu suất cao nhất (đây chính là sự cạnhtranh giữa các nhà phát hành), đồng thời chứng khoán được giao dịch cũng
yêu cầu các nhà kinh doanh, nhà đầu tư phải có sự lựa chọn tốt nhất. Tự do
cạnh tranh còn đặt ra yêu cầu phái sinh cho các định chế tài chính, các thiết
chế đảm bảo thị trường phải có xu hướng ngày càng hồn thiện, hồn hảo với
chi phí thấp nhất. Vấn đề cạnh tranh được xem xét với tư cách là một nguyêntắc pháp lý cho thị trường chứng khốn khơng chỉ ở khung pháp luật của một
quốc gia đơn lẻ nào mà nó là một yêu cầu chung mang tính chất bắt buộc,được thể chế hóa trong rất nhiều các qui định cụ thể. Nguyên tắc giao dịch
trên thị trường (các nguyên tắc khớp lệnh tại thị trường tập trung, nguyên tắcđịnh giá chứng khốn...), nội dung giao dịch, sự đa dạng hóa các chủ thể trên
thị trường cho thấy rõ điều đó. Vấn đề cạnh tranh được dua ra như một nguyêntắc hoạt động thị trường, đảm bảo sự công bằng cho tất cả các chủ thể có nhucầu tham gia giao dịch; đồng thời cũng là biện pháp quan trọng đẩy hiệu suấtsử dụng vốn trên thị trường chứng khoán, giảm thiểu chi phí phát sinh tại thị
trường. Những ví dụ về việc giảm phí giao dịch (mơi giới, tư vấn) cùng cácdịch vụ phát sinh từ quan hệ mở tài khoản giao dịch cho khách hàng hiện nay
Mặc dù cạnh tranh là qui luật thị trường, là nguyên tắc pháp lý được
các quốc gia có thị trường chứng khốn thừa nhận và đảm bảo, nhưng khơng