Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

BẢN TIN THÔNG TIN THUỐC SỐ 12018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 22 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<i><small>Cộng đồng Anh………..……… 5 3. WHO đưa ra báo cáo giám sát AMR đầu tiên…………7 4. Chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống ……….…… ……….………..8 5. 11 thuốc cần cân nhắc xuống thang hoặc ngừng kê đơn ……… ………. 11 6. 5 vấn đề căng thẳng nhất trong công việc của bác sỹ </small></i>

<i><small>………16 7. 6 thành tựu y tế đáng chú ý nhất 2017…….. ………...17 8. CMDh khuyến cáo hạn chế sử dụng Domperidone </small></i>

<i><small>….……….18 9. Những nguy cơ sử dụng corticoid ngắn hạn……… </small></i>

<i><small>………..…..………. 20 </small></i>

<b>Bản tin Thông tin thuốc số 01 -2018 </b>

<i>BAN BIÊN TẬP: </i>

<i>Trưởng ban: BSCKII. Nguyễn Văn Ngãi Phó ban: BSCKII. Tơn Quang Chánh Thư ký: BSCKII. Lê Văn Đức </i>

<i>Ủy viên: DSCKI. Đặng Ngọc Thạch </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Kháng kháng sinh (AMR): thời gian đang hết, bây giờ chúng ta cần hành động </b>

<i>AMR là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với y học hiện đại và nền kinh tế tồn cầu, nhưng hàng triệu người khơng ý thức được tiềm năng gây ra thảm hoạ này. </i>

Các số liệu thống kê gây sốc rằng 44% dân số nói chung trên khắp châu Âu vẫn khơng biết rằng thuốc kháng sinh khơng có tác dụng chống lại virus cảm lạnh thông thường [1]. AMR là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với y học hiện đại và nền kinh tế toàn cầu, nhưng hàng triệu người không ý thức được tiềm năng gây ra thảm hoạ này.

Trong bài báo về đề kháng kháng sinh được xuất bản vào tháng 5 năm 2016, nhà kinh tế Lord Jim O'Neill đã cảnh báo rằng đến năm 2050, AMR có thể dẫn tới 10 triệu người chết mỗi năm và giảm GDP từ 2-3.5% trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) với một chi phí 100 nghìn tỷ £ cho nền kinh tế tồn cầu [2]. Theo Ngân hàng Thế giới, trừ khi có hành động tập thể đầy đủ, chi phí hàng năm của AMR có thể lớn như các cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu bắt đầu năm 2008 [3] .

Những cảnh báo khắc nghiệt này đã dẫn đến cam kết chính trị chưa từng có trên quy mơ tồn cầu và các dự án ấn tượng đang được tiến hành hoặc đang được lên kế hoạch. Bao gồm các chương trình giám sát tiêu dùng; các sáng kiến phịng chống và kiểm soát nhiễm khuẩn; hợp tác với các hiệp hội thú y để thúc đẩy cách tiếp cận One Health (một khái niệm công nhận rằng sức khoẻ của con người, động vật và hệ sinh thái được kết nối với nhau) và nhiều dự án phát triển kháng sinh, vắc-xin hoặc các biện pháp điều trị thay thế.

Tuy nhiên, mặc dù điều này, đến 50% của tất cả các kháng sinh được kê đơn trên toàn cầu là không cần thiết. Quá nhiều bệnh nhân, không ý thức được cuộc khủng hoảng đang diễn ra, bằng cách nào đó được kê đơn kháng sinh, dù bệnh tật của họ có cần hay khơng [4]. Hành động khẩn cấp đang chạy theo thời gian là cần thiết để thay đổi cơ bản suy nghĩ này.

Trong Kế hoạch hành động quốc gia về AMR, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xác định năm mục tiêu chiến lược [5].

 Nâng cao nhận thức và hiểu biết;

 Tăng cường kiến thức thông qua giám sát và nghiên cứu;  Giảm tỷ lệ mắc bệnh;

 Tối ưu hóa việc sử dụng thuốc kháng sinh;

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

 Đảm bảo đầu tư bền vững cho nghiên cứu và phát triển cũng như thực hiện các biện pháp kiểm soát.

Nhưng nếu khơng được hỗ trợ từ bệnh nhân thì những mục tiêu này sẽ khó đạt được. Nhà thuốc cộng đồng có thể đóng một vai trị quan trọng. Rất nhiều nỗ lực đang được tiến hành khắp Châu Âu. Cơ quan Dược phẩm Châu Âu (EMA) đã hợp tác với Trung tâm Phòng chống Bệnh tật Châu Âu (ECDC) và Cơ quan An toàn Thực phẩm Châu Âu (EFSA) nhằm nỗ lực làm cho EU thành một khu vực thực hành tốt nhất trong cuộc chiến chống lại AMR thông qua nghiên cứu, đổi mới.

Ngày nâng cao ý thức về kháng sinh hàng năm của châu Âu (EAAD) vào ngày 18 tháng 11 là một cơ hội lý tưởng để dược sĩ hoạch định chiến lược của mình [6]. Sự kiện được phối hợp bởi ECDC và được hỗ trợ bởi Ủy ban châu Âu, Quốc hội Châu Âu, các nước thành viên EU và các bên liên quan đến y tế phi chính phủ trên khắp EU, được thiết kế để nâng cao nhận thức về AMR và giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh. Có rất nhiều tài nguyên có sẵn trên trang web của EAAD mà các dược sĩ nên sử dụng đầy đủ, bao gồm các tài liệu về chiến dịch, áp phích, thơng tin chi tiết và câu hỏi bệnh nhân…

Tại một buổi Hội thảo gần đây do EMA tổ chức tại Luân Đơn, chính phủ Anh đã được ca ngợi như một ví dụ sáng suốt trên tồn cầu về các bước mà họ đã thực hiện để giải quyết vấn đề AMR. Trong phản hồi của mình đối với đánh giá của O'Neill, chính phủ đã đặt mục tiêu giảm 50% liều thuốc kháng sinh vào năm 2020; cam kết cắt giảm 50% bệnh nhiễm trùng đường tiêu hóa ở Anh trước khi đến năm 2020 và cam kết sẽ triển khai một chiến dịch thí điểm nhắm mục tiêu nâng cao nhận thức kháng thuốc và thay đổi hành vi trong việc sử dụng kháng sinh [7] . Một lần nữa, các dược sĩ có một phần trách nhiệm rất lớn để đạt được những mục tiêu này. Bộ Y Tế Công cộng Anh, đứng đầu trong nỗ lực giảm AMR ở Anh, đang khuyến khích tất cả các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ cam kết hỗ trợ thơng qua trang web Antibiotic Guardian [8] . Cuối năm nay, lần đầu tiên PHE sẽ khởi động một chiến dịch quảng cáo y tế công cộng nhằm nâng cao nhận thức về AMR, bao gồm một loạt các bộ phim có nội dung "nói chuyện kháng sinh".

Tại hội nghị thường niên năm nay, Hiệp hội Dược phẩm Hoàng gia đã đưa ra chiến lược quản lý kháng sinh (AMS), trong đó nêu cụ thể những gì dược sĩ có thể làm ở cấp cơ sở [9] .

Trong chiến dịch của mình, Hiệp hội đã đưa ra một hướng dẫn tham khảo nhanh về những gì dược sĩ có thể làm và kêu gọi tất cả các học viên làm quen với các nội dung của nó [10] . Nhóm dược phẩm của Liên minh châu Âu (PGEU) cho biết khi đưa ra một bài báo về thực hành tốt nhất vào tháng 6 năm 2017, vai trò của các dược sĩ trong việc "tư vấn cho bệnh nhân và tăng cường công tác chống vi khuẩn, cung cấp các hoạt động dự phòng, điều trị tại hiệu thuốc và liên tục phấn đấu để cải tiến chất lượng và đổi mới trong thực hành dược phẩm "là then chốt [11] .

Thông điệp quan trọng nhất là chúng ta "cùng tham gia với nhau" và khơng có những nỗ lực và cam kết của các cá nhân trên trận chiến tồn cầu thì khơng thể thắng được. Với ý nghĩ này, mỗi một dược sĩ nên cẩn thận kiểm tra xem mình đang làm gì để chống lại mối đe dọa toàn cầu của AMR.

<b>Tài liệu tham khảo: </b>

<small>[1] Antimicrobial resistance — summary. April 2016. </small>

<small>[2] Tackling drug-resistant infections globally: final report and recommendations. The Reviewe on Antimicrobial Resistance chaired by O’Neill J. May 2016. </small>

<small>[3] The World Bank. Drug-resistant infections: a threat to our economic future. April 2017. [4] Centers for Disease Control and Prevention. About antimicrobial resistance. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>[5] World Health Organization. Global action plan on antimicrobial resistance. 2015. [6] European antibiotics awareness day. A European health initiative. </small>

<small>[7] Government response to the Reviw on Antimicrobial Resistance. September 2016. </small>

<small>[8] Antibiotic Guardian. Available at: (accessed September 2017) [9] Royal Pharmaceutical Society. Antimicrobial resistance and stewardship. 2017. </small>

<small>[10] Royal Pharmaceutical Society. Antimicrobial stewardship (AMS): quick reference guide. [11] Pharmaceutical Group of the European Union — best practice paper on AMR. June 2017. </small>

Chiến dịch Sức khoẻ cộng đồng Anh nhằm để giáo dục công chúng về những nguy cơ kháng thuốc kháng sinh gây ra khoảng 5.000 người chết mỗi năm ở Anh và các chuyên gia dự đoán trong 30 năm sẽ giết nhiều người hơn là ung thư và bệnh tiểu đường cộng lại.

Dược sĩ dự kiến sẽ đóng vai trị then chốt trong chiến dịch mới nhất của Public Health England (PHE) để giáo dục công chúng về việc sử dụng kháng sinh thích hợp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Các áp phích dược phẩm và email thơng điệp có sẵn trong chiến dịch "Hãy giữ cho kháng sinh có hiệu lực" – tun truyền thơng điệp rằng mọi người chỉ nên dùng kháng sinh khi cần thiết nếu khơng họ đang đặt mình và gia đình họ vào nguy hiểm.

Khởi đầu chiến dịch vào ngày 23 tháng 10 năm 2017, dược sĩ đứng đầu cho chương trình kháng kháng sinh của PHE, Dian Ashiru-Oredope cho biết: "Các dược sĩ đang trong giai đoạn đầu của cuộc chiến chống lại sự đề kháng kháng sinh và đóng một vai trò quan trọng bằng cách quản lý những nhu cầu của bệnh nhân xung quanh việc kê đơn kháng sinh. Chiến dịch ủng hộ bằng cách giáo dục công chúng về những nguy cơ kháng kháng sinh và những nguy cơ đối với sức khoẻ của họ trong việc sử dụng thuốc kháng sinh khi họ không cần thiết. "

Chiến dịch quảng cáo truyền hình, phát thanh và báo chí trên tồn quốc đang diễn ra và thúc giục các dược sĩ sử dụng tài liệu của chiến dịch để hỗ trợ các cuộc tư vấn với bệnh nhân tại hiệu thuốc về việc sử dụng kháng sinh thích hợp.

Đi cùng với chiến dịch này, PHE đã cập nhật bộ hướng dẫn về AMR bao gồm danh sách kiểm tra phụ thêm cho bác sĩ; một bộ công cụ cho các chuyên gia y tế; và thậm chí cả các câu đố và trị chơi ơ chữ về nhận thức về kháng sinh.

Hiệp hội Dược phẩm Hoàng gia (RPS), với chiến dịch kháng kháng sinh riêng, đã hoan nghênh sáng kiến mới nhất của PHE.

Một phát ngôn viên cho biết: "Chiến dịch mới này cho công chúng rất cần thiết trong việc làm rõ lời cảnh báo gần đây của bộ y tế rằng ‘hiện tượng kháng kháng sinh’ là do chúng ta tiếp tục sử dụng kháng sinh tràn lan như hiện nay.

"Dược sĩ có vai trị quan trọng trong việc vận động tích cực giúp duy trì kháng sinh, và chiến dịch của chúng ta đang hướng tới họ bằng các nguồn lực chun mơn. Đã có rất nhiều sáng kiến từ NHS cho các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ đang cho thấy một số kết quả tốt, vì vậy tuyệt đối chính xác nếu cơng chúng hiện đang được u cầu đóng góp thêm sức của họ. "

Trong khi đó, báo cáo mới nhất về tình hình kháng kháng sinh hiện nay - chương trình giám sát tiếng Anh về sử dụng kháng sinh và kháng khuẩn (ESPAUR) Report 2017 - đã được công bố. Báo cáo, vào năm thứ tư, tiết lộ rằng vào năm 2016, nguyên nhân phổ biến nhất gây ra nhiễm trùng máu là E. coli; trong số này, 41% kháng lại kháng sinh phổ biến dùng để điều trị các bệnh nhiễm trùng ở các bệnh viện (co-amoxiclav) và gần 20% trong số những vi khuẩn này kháng với ít nhất một kháng sinh chính khác. Tuy nhiên, kháng thuốc đa kháng (kháng với ba kháng sinh) ít gặp ở dưới 5%.

Kháng kháng sinh được tìm thấy phổ biến trong hơn một triệu chứng nhiễm trùng đường tiểu do vi khuẩn được xác định trong phịng thí nghiệm NHS vào năm 2016. Trong số các mẫu phân tích, 34% đã được tìm thấy kháng thuốc kháng sinh trimethoprim, so với 29.1% vào năm 2015. Báo cáo cho thấy giữa năm 2012 và năm 2016, kê đơn thuốc kháng sinh đã giảm 5%, với sự sụt giảm trong hầu hết các nhóm kháng sinh. Nhưng có những thay đổi khu vực "đáng kể".

Tổng số lượng thuốc kháng sinh được kê đơn trong chăm sóc ban đầu tiếp tục giảm xuống 13,4% giữa năm 2012 và năm 2016.

Tuy nhiên, chăm sóc thứ cấp, vẫn chưa giảm được tổng số thuốc kháng sinh kê đơn.

Từ năm 2015 đến năm 2016, các bệnh viện đã giảm việc sử dụng thuốc kháng sinh phổ rộng phổ rộng piperacillin / tazobactam và carbapenems xuống 4%. Điều này được ESPAUR xác định là "bước đi đầu tiên trong việc giảm sử dụng kháng sinh trong bệnh viện".

<i><b>Nguồn: bởi Debbie Andalo - Sức khoẻ cộng đồng Anh </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>WHO đưa ra báo cáo giám sát AMR đầu tiên </b>

GLASS, được đưa ra bởi WHO vào tháng 10 năm 2015, là nỗ lực hợp tác tồn cầu đầu tiên để chuẩn hóa giám sát AMR. Nó nhằm mục đích nâng cao hiểu biết về tác động của AMR đối với sức khoẻ con người và cho phép phân tích tốt hơn và dự đốn xu hướng AMR. Sau một chiến dịch vào tháng 3 năm 2016, hơn 25% các quốc gia thành viên của WHO (52 quốc gia) hiện đang tham gia GLASS.

Hiện tại "giai đoạn triển khai sớm", Glass đang làm việc để kết hợp dữ liệu về tình trạng của 40 hệ thống giám sát AMR của các quốc gia đã đăng ký với dữ liệu AMR cho các vi khuẩn đã chọn gây nhiễm trùng ở người, bao gồm Esherichia coli, Neisseria gonorrhoeae và Staphylococcus aureus.

Báo cáo mới cho thấy sự khác biệt trong việc trình bày dữ liệu, về chất lượng và tính đầy đủ của dữ liệu được gửi, kết quả từ sự khác biệt về khả năng của các quốc gia trong việc cấu trúc và điều hành hệ thống giám sát.

Tuy nhiên, dữ liệu cho thấy mức độ kháng thuốc kháng sinh cao trên tồn thế giới, cả ở các nước có thu nhập cao và thấp, theo báo cáo khẳng định nhu cầu tất cả các nước phải xây dựng hệ thống giám sát chặt chẽ để chống lại AMR.

"Các dữ liệu trình bày cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về năng lực giám sát và cơ chế báo cáo ở các quốc gia, và sẽ cho phép chúng ta tinh chỉnh phương pháp GLASS", một đại diện của WHO cho biết.

"Cơng trình này thể hiện nỗ lực đầu tiên để báo cáo dữ liệu AMR chính thức của quốc gia về các mầm bệnh chủ chốt đối với một hệ thống toàn cầu sử dụng các phương pháp giám sát chuẩn” "Khi nhiều nước tham gia vào hệ thống GLASS, và họ cung cấp nhiều dữ liệu hơn (bao gồm

cả việc kết hợp các dữ liệu về AMR trong thực phẩm và động vật), hệ thống cuối cùng sẽ

<i>cung cấp một bức tranh toàn cảnh về tình hình AMR trên tồn cầu", đại diện này bổ sung. </i>

Để chuẩn hóa các hệ thống giám sát AMR, GLASS đang hỗ trợ phát triển ba thành phần cơ bản cho giám sát AMR quốc gia - trung tâm điều phối quốc gia, phịng thí nghiệm tham chiếu quốc gia và các điểm giám sát trọng điểm - nơi thu thập được cả các kết quả chẩn đoán và dữ liệu dịch tễ. Hầu như tất cả các nước tham gia vào GLASS đều đã có hoặc đang thiết lập một hệ

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

thống có cả ba thành phần, nhưng, như bản báo cáo đã chỉ ra, một số nước vẫn cịn đang ở phía sau.

"Truyền thơng, hài hồ và phối hợp giữa các tổ chức quốc tế, khu vực và quốc gia là những ưu tiên hàng đầu cho sự thành công của hệ thống", báo cáo kết luận

<i><b>Nguồn: Shutterstock.com </b></i>

<b>Chuyển đổi Kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống </b>

<b>1. Tại sao nên thực hiện chuyển đổi đường tiêm IV sang đường uống ? </b>

Việc sử dụng thuốc dạng tiêm quá mức trong khi có dạng đường uống phù hợp hơn, là một trong những yếu tố then chốt trong vấn đề sử dụng thuốc khơng hợp lý. Vì vậy chuyển đổi từ đường tiêm sang đường uống (IV to PO) trong khoảng thời gian thích mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân và bệnh viện:

<small> </small> Cải thiện sự thoải mái và khả năng di động cho bệnh nhân (đi lại hay xuất viện) <small> </small> Giảm thời gian nằm viện

<small> </small> Giảm phơi nhiễm với các mầm bệnh bệnh viện xâm nhập qua vị trí tiêm IV <small> </small> Giảm nguy cơ viêm tĩnh mạch

<small> </small> Giảm thời gian pha chế và tiêm

<small> </small> Giảm thiểu các chi phí ẩn danh: chủ yếu là chi phí thuốc, ống truyền IV, ống tiêm, bơm tiêm IV và thời gian của điều dưỡng.

<b>2. Vậy làm thế nào để chuyển đổi đường tiêm (IV) sang đường uống (PO)? </b>

<small> </small> Rà soát các bệnh nhân có chỉ định kháng sinh IV vào mỗi buổi sáng.

<small> </small> Đối chiếu mỗi trường hợp với những điều kiện lựa chọn/loại trừ chuyển đổi IV sang PO để đánh giá xem mỗi BN có phù hợp chuyển đổi hay không.

<small> </small> Nếu bệnh nhân đáp ứng các tiêu chí, đề xuất chuyển đổi IV sang PO.

<b>3. Tiêu chí lựa chọn hoặc loại trừ bệnh nhân là gì? </b>

Một BN phải thỏa mãn tất cả các tiêu chuẩn lựa chọn và không thỏa mãn bất kỳ tiêu chuẩn loại trừ nào, thì có thể cân nhắc chuyển IV sang PO (Bảng 1).

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i><b>Bảng 1. Tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ bệnh nhân </b></i>

<b>Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân </b>

1.BN có thể uống thuốc được

·ăn uống bình thường

·BN có sử dụng thuốc dạng uốngkhác

·Bệnh nhân có ống tiêu hóa làm việc tốt (dung nạp ít nhất 1L/ngày dung dịch uống hoặc 40mL/h dinh dưỡng qua ruột)

<b>1. Khơng có khả năng dùng thuốc đường uống: </b>

·Tắc nghẽn ống tiêu hóa, hấp thu kém, xuất huyết tiêu hóa, tắc ruột hoặc tiêu chảy nặng, nơn mửa.

·Co giật và nguy cơ đường thở

·BN từ chối dùng thuốc đường uống được ghi nhận trong bệnh án

2. Dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm trùng đã được giải quyết và tiến triển:

· Số lượng bạch cầu giảm về giới hạn bình thường

· Phim X-quang ngực có tiến triển

· Nhiệt độ cơ thể thấp hơn 37,7<small>0</small>C trong ít nhất 24-48 h

· Nhịp thở < 20 lần/phút

<b>2. Tình trạng bệnh nặng </b>

· Viêm màng não, viêm màng tim, nhiễm trùng khi lắp bộ phận giả, viêm tủy xương, nhiễm trùng, viêm mô tế bào…

· BN bị nhiễm microcystis độ 3 hoặc 4

· Nhiễm trực khuẩn mủ xanh đã được ghi nhận và/hoặc tiêm kháng sinh < 24 h

·<i> Nhiễm nấm Candida huyết < 7 ngày </i>

· Huyết áp thấp hoặc sốc

· BN suy giảm miễn dịch (sốt kèm giảm bạch cầu trung tính, hóa trị ung thư, ghép tạng, thiểu năng lá lách chức năng, AIDS)

3. Thuốc: Độ hấp thu và sinh khả dụng của thuốc dạng uống có thể tương đương được

<i>với dạng tiêm (Bảng 2). </i>

<b>3. Tuổi < 14 tuổi </b>

<b>4. Các hình thức chuyển đổi từ đường tiêm sang đường uống? </b>

Có ba hình thức chuyển đổi kháng sinh từ đường IV sang PO :

dùng

nhưng khác nhau về hoạt chất, đường dùng.

<b>nhóm. Các đặc điểm về liều dùng, tần suất dùng và phổ kháng khuẩn có thể khơng giống nhau. </b>

<i><b>Bảng 2. Danh sách kháng sinh và liều lượng để chuyển đổi từ đường IV sang PO </b></i>

<b>Nhóm thuốc Thuốc Liều IV Liều PO </b>

Kháng sinh nhóm Β-lactam

Amipicillin 1g mỗi 6 h 250 – 500 mg mỗi 6 h Cefuroxim 500 – 740 mg mỗi 8 h 250 – 500 mg mỗi 12 h Kháng sinh

nhóm macrolid

Azithromycin 250 mg mỗi 24 h 500 mg mỗi 24 h

250 mg mỗi 24 h 500 mg mỗi 24 h Erythromycin 5000 – 1000 mg mỗi 6 h 500 mg mỗi 6 h

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Kháng sinh nhóm Quinolon

Ciprofloxacin

200 – 400 mg mỗi 12 h 400 mg mỗi 8 h

250 – 500 mg mỗi 12 h 750 mg mỗi 12 h Levofloxacin 200 mg mỗi 24 h

400 mg mỗi 24 h 800 mg mỗi 24 h

200 mg mỗi 24 h 400 mg mỗi 24 h 800 mg mỗi 24 h Kháng sinh

nhóm Lincosamid

Clindamycin 600-900 mg mỗi 8 h 300-450 mg mỗi 6 h Kháng sinh

nhóm Tetracyclin

Doxycyclin 100-200 mg mỗi 12 h 100 -200 mg mỗi 12 h Minocyclin 200 mg mỗi 12 h 200 mg mỗi 12 h Kháng sinh

nhóm Oxazolidion

Linezolid 600 mg mỗi 12 h 600 mg mỗi 12 h Kháng sinh

<sup>Esomeprazol </sup>Pantoprazol <sup>20-40mg mỗi 24 h </sup>40 mg mỗi 24 h <sup>20-40mg mỗi 24 h </sup>40 mg mỗi 24 h Nhóm kháng H2 Cimetidine 300 – 600 mg mỗi 12 h 200 mg mỗi 12 h Nhóm kháng

nấm

Fluconazol 100 – 200 mg mỗi 24 h 100 – 200 mg mỗi 24 h Voriconazol 200 mg mỗi 24 h 200 mg mỗi 24 h Corticoid Hydrocortisol 100 mg mỗi 24 h 50 mg mỗi 8 h

<b>Nhóm thuốc Thuốc Liều IV <sup>Kháng sinh đường uống </sup><sub>thay thế – Liều PO </sub></b>

Kháng sinh nhóm Aminoglycosid

Gentamycin hoặc Tobramycin

6mg/kg cân nặng lý tưởng mỗi 24h

Ciprofloxacin 750 mg mỗi 12h

Kháng sinh nhóm Macrolid

Azithromycin <b>500mg mỗi 24h Azithromycin 250 mg mỗi 24 </b>

h Kháng sinh

nhóm Β-lactam

Ampicillin 1-2g mỗi 6h Amoxicillin 500 mg mỗi 8h Piperacillin/Tazob

actam

3.375 g mỗi 6h Amoxicilin/Clav. 500/125mg mỗi 8h

<b>Hoặc </b>

Ciprofloxacin 500 – 750mg + Metronidazol 500 mg mỗi 12h

<b>Hoặc </b>

Ciprofloxacin 500 -750 mg mỗi 12h + Clindamycin 450 mg mỗi 8h

Kháng sinh nhóm Cephalosporin

Cefazolin 1g mỗi 8h Cefalexin 500 mg mỗi 6h Ceftriaxone 1g mỗi 12h Cefixim 200 mg mỗi 12h Cefuroxim 750 mg mỗi 8h Cefuroxim 500 mg mỗi 12h

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Penicillin

Penicillin G 1-2 triệu đơn vị mỗi 6h

Penicillin V 300 mg mỗi 6h

<b> TÀI LIỆU THAM KHẢO: </b>

<small>1. Jissa MC and Emmanuel J. Switch over from intravenous to oral therapy: A concise overview. Journal of Pharmacology Pharmacotherapy. 2014; 5(2): 83–87. </small>

<small>2. Noah SS. Intravenous –to-Oral Switch Therapy. Medscape. Webpage. Available from: [Access 10th October 2017] </small>

<small>3. IV to PO conversion. Quick Reference Guide for Hospital Pharmacy 4. </small>

<small>5. Antimicrobial Stewardship Program Coordinator. Intravenous to oral conversion for antimicrobials. Vice President Medicine and Clinical Programs. 2016 </small>

<small>6. Sổ tay “Thực hành Dược lâm sàng tại các bệnh viện ở TP.HCM” 2017 </small>

<b>11 thuốc cần cân nhắc xuống thang hoặc ngừng kê đơn </b>

<i><b>Vấn đề dùng nhiều thuốc </b></i>

<i>Dùng nhiều thuốc (polypharmacy) được định nghĩa là sử dụng ít nhất năm loại thuốc khác nhau mỗi ngày.<small>1 </small>Dược sĩ có thể giúp giảm số lượng thuốc sử dụng trên bệnh nhân để có thể hạn chế được các tác động phụ cũng như tương tác thuốc. </i>

<i>khi dùng docusat (P = 0,07) và tăng khối lượng phân thêm 359,9 gam mỗi tuần so với 271,9 gam khi dùng docusat (P = 0,05). </i>

<b>2. Kháng sinh trước các thủ thuật nha khoa </b>

Theo các thay đổi của hướng dẫn sử dụng kháng sinh dự phòng trong phòng ngừa viêm nội tâm mạc năm 1997,<small>4</small> các nhà lâm sàng nên cắt giảm đáng kể lượng kháng sinh dự phòng cho bệnh nhân trước khi tiến hành vệ sinh nha khoa hoặc các thủ thuật nha khoa khác. Nhiều bệnh nhân có khớp nhân tạo vẫn được kê kháng sinh dự phòng trước các thủ thuật nha khoa mặc dù chưa có bằng chứng ủng hộ, đồng thời các khuyến cáo mới nhất của Viện Phẫu thuật Chỉnh hình Hoa

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Kỳ (AAOS) và Hiệp hội Nha khoa Hoa Kỳ (ADA) đều khơng khuyến khích việc này.<small>6</small> Năm 2015, hướng dẫn của ADA đã đưa ra khuyến cáo khơng sử dụng kháng sinh dự phịng trong những trường hợp như vậy.<small>7</small>Tuy nhiên, đối với các bệnh nhân có cấy ghép, quyết định dùng thuốc trước khi gây mê trong các thủ thuật nha khoa xâm lấn và lựa chọn phác đồ thích hợp nên dựa trên từng trường hợp cụ thể.<small>8</small>

<b>3. PPI - ức chế bơm proton </b>

Thuốc ức chế bơm proton (PPI) có liên quan đến các tình trạng giảm hấp thu canxi (cùng với tăng nguy cơ gãy xương), vitamin B12 và hormon tuyến giáp, tổn thương thận mạn tính và tăng

<i>nguy cơ nhiễm Clostridium difficile. Tỉ lệ tử vong có thể tăng ở người dùng PPI.</i><small>9</small>

Một số bệnh nhân thực sự cần dùng PPI kéo dài (như bệnh trào ngược dạ dày-thực quản kháng trị, trào ngược do xơ cứng bì, bệnh nhân lớn tuổi đang điều trị mạn tính với thuốc kháng viêm không steroid).

Tuy nhiên, nhiều đối tượng bệnh nhân khác khơng cần thiết duy trì kê đơn PPI. Ví dụ:

<small> </small> Phịng ngừa lt dạ dày có liên quan đến stress ở các bệnh nhân nhập viện nhưng khi bệnh nhân đã xuất viện thì khơng cần tiếp tục PPI.

<small> </small> Một chỉ định phổ biến khác của PPI là làm giảm cơn đau bụng không rõ nguyên nhân. Trong trường hợp này, nên thử cho bệnh nhân ngừng sử dụng PPI.

Hiện nay vẫn chưa thể đưa ra kết luận cuối cùng về lợi ích và tác hại của việc ngưng PPI. Một bài tổng quan trên Cochrane<small>10</small> cho thấy mặc dù có làm giảm số lượng thuốc bệnh nhân phải uống nhưng việc ngừng PPI có thể làm tăng các triệu chứng ở dạ dày-ruột.

<b>4. Statin trong dự phòng tiên phát </b>

Sau khi Hiệp hội Tim Hoa Kỳ (AHA) công bố hướng dẫn sử dụng statin vào năm 2013,<small>11</small> có sự gia tăng đáng kể việc sử dụng statin trong dự phòng tiên phát nhưng những bằng chứng về lợi ích của statin trong dự phòng tiên phát ở bệnh nhân trên 75 tuổi vẫn cịn rất hạn chế.<small>12,13</small>

Statin có thể liên quan đến sự xuất hiện các triệu chứng ở cơ và có thể tương tác với một số thuốc khác, làm tăng độc tính của thuốc ở bệnh nhân lớn tuổi. Có sự khác nhau về lợi ích của statin trong dự phòng thứ phát (sau một biến cố tim mạch hoặc đột quỵ) so với dự phòng tiên phát. Nguy cơ so với lợi ích của việc dự phịng tiên phát là một vấn đề cần quan tâm đặc biệt ở bệnh nhân trên 80 tuổi.

Ở bệnh nhân lớn tuổi, nguy cơ gặp phải các tác động phụ là rất cao. Hiện nay, nhiều bệnh nhân lớn tuổi đang điều trị với thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin (SSRI) và cũng có thể thêm thuốc nhóm benzodiazepin để điều trị mất ngủ gây ra bởi SSRI. Cả ba nhóm thuốc này - benzodiazepin, SSRI và Z - đều làm tăng nguy cơ té ngã ở người lớn tuổi.<small>16</small>

</div>

×