Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Luận án thạc sĩ luật học: Phúc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.33 MB, 109 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP

TRƯỞNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Phan Thị Thanh Mai

PHÚC THẤM:

TRONG TO TUNG HINH SU VIỆT NAM

CHUYEN NGANH: Luật hình suMÃ SỐ: 50514

NGƯỜI HƯỚNG DAN KHOA HOC: PTS. LUAT HOC NGUYEN VAN TUAN

ÂN AN THAC SỸ :

HÀ NỘI - 1998

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>2.12.1.1sân L sổ2.1.3</small>

»2.1.4VĂN J H

Thủ tục và thời hạn kháng nghị

\Thong báo về việc kháng cáo, kháng nghị và hau qua

của việc kháng cáo, kháng nghị

Bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghịXét xử theo thủ tục phúc thẩm

Phạm vi xét xử phúc thẩm Thời hạn xét xử phúc thẩm

-Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm

Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm

Thủ tục phiên tòa phúc thẩm

-Quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm

Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơthẩm

<small>4244505152</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu

: Phúc thẩm là một giai đoạn quan trọng trong tố tụng hình sự. Việcquy định đầy đủ, hợp lý và việc áp dụng đúng đắn, thống nhất các chế

định về phúc thẩm góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của tố tụng

hình sự. Trong giai đoạn này, Tịa án xét xử lại những vụ án mà bản án

và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc

kháng nghị, thơng qua đó nhằm kịp thời phát hiện và khắc phục nhữngsai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới cả về nội dung cũng như về hình

thức tố tụng; đảm bảo sự cơng bằng của pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhànước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những

người tham gia tố tụng khác.

Sự phát triển của các chế định về phúc thẩm gắn liền với sự phát

triển của pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Sau Cách mạng tháng Tám,

ngay từ những ngày đầu thành lập nước, thủ tục phúc thẩm đã được quy

định và áp dụng trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố

tụng và ngày càng được hoàn thiện. Ngày 28/6/1988, BLTTHS đầu tiên

da dược ban hành, các quy định về phúc thẩm được tập hợp có hệ thống,

khoa học trong Chương XXII và XXHI của BLTTHS.

Tuy các quy định về phúc thẩm đã có một quá trình phát triển lâu

dài va đã được pháp điển hóa trong BLTTHS cũng như đã qua hai lần sửa

đổi bổ sung vào những năm 1990 và 1992, nhưng các quy định của pháp

luật về thủ tục phúc thẩm chưa được thật đầy đủ, chính xác và hồnchỉnh. Mặt khác, những hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về nhữngquy định của pháp luật tố tụng hình sự về phúc thẩm được đề cập đếntrong các báo cáo sơ kết, tổng kết của TANDTC, trong các thông tư liênngành của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ vẫn còn nhiềuthiếu sót, chưa đầy đủ dẫn đến hạn chế trong việc áp dụng luật như: Chưacó khái niệm đầy đủ, chính xác về phúc thẩm; quyền kháng cáo, khángnghị và việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị chưa quy địnhđầy đủ và chặt chế; phạm vi xét xử phúc thẩm chưa được giải thích rõràng; thủ tục phiên tòa phúc thẩm chưa được quy định cụ thể mà chỉ áp

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

dụng tương tự thủ tục phiên tòa sơ thẩm; quyền hạn của hội đồng xét xửchưa rõ ràng; chưa xác định rõ những căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm

thực hiện những quyền hạn của mình v.v..

Do có những điểm chưa đầy đủ, hoàn thiện trong quy định của pháp

luật về phúc thẩm, cùng với việc hướng dẫn giải thích của các cơ quan có

thẩm quyền chưa rõ ràng, đầy đủ nên đã dẫn đến việc cịn nhiều quan

điểm khơng thống nhất, nhiều cách hiểu khác nhau đối với cùng một vấnđề và dẫn đến việc vận dụng thiếu thống nhất trong thực tiễn xét xử của

các cấp Tòa án, làm hạn chế hiệu quả của xét xử phúc thẩm. Nhiều

trường hợp do những vướng mắc bởi các quy định của pháp luật không rõ

ràng hoặc do cách hiểu không thống nhất dẫn đến việc các sai lầm của

Tịa án cấp dưới khơng được khắc phục kịp thời, không bảo vệ đượcquyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng

khác, làm giảm uy tín của Tịa án và làm cho mục đích của phúc thẩm

<small>khơng đạt được.</small>

Việc nghiên cứu đề tai này có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn

hiện nay, khi BLTTHS đang chuẩn bị được sửa đổi, đồng thời đáp ứng

được yêu cầu của dé tài cải cách tư pháp mà miột trong những nội dungcơ bản đó là: "Phản định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án cấp huyện, cấp

tỉnh, Tòa án tối cao dua trên nguyên tắc hai cấp xét xi", theo đúng tinh

thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW Dang khóa VIII: "Thực

hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, bỏ thủ tục sơ chung thẩm của TANDTC

<small>và TAQSTW".</small>

Tình hình nghiên cứu:

Vấn đề xét xử phúc thẩm là một vấn đề quan trọng và cũng đã đượcsự quan tâm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu lý luận cũng như thựctiễn. Việc nghiên cứu các chế định về phúc thẩm đã được đề cập đếntrong các giáo trình luật TTHS, các tạp chí chuyên ngành, nhiều ý kiếntranh luận, đề xuất cũng đã được đưa ra. Vi du: Cuốn "Thủ tục phúc thẩmtrong luật TTHS Việt Nam" của tác giả Định Văn Quế, Nxb. Chính trịquốc gia, 1998; các bài viết của tác giả Nguyễn Đức Mai và các tác giả

<small>Xem: Chuyên dé đổi mới các co quan tư pháp: Những uấn dé lý luận va thực tiễn. BộTư pháp. 1994, tr. 11.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

khác, luận án nghiên cứu sinh của tác giả Phạm Gia Cương. Ở các góc độ

tiếp cận khác nhau nhưng nhìn chung các cơng trình nghiên cứu đã làm

sáng tỏ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn xét xử phúc thẩm.

Mặc dù vậy vẫn còn rất nhiều những vấn đề lý luận và thực tiễn cần được

tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện,

bao trùm toàn bộ giai đoạn phúc thẩm, đề xuất được những giải pháp hợp

lý trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn đối với những vấn đề còn

vướng mắc là một yêu cầu thiết yếu, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi

BLTTHS đang chuẩn bị được sửa đổi, đồng thời đáp ứng được yêu cầu

<small>của cải cách tư pháp.</small>

Những lý do nêu trên đã giải thích cho tính cấp thiết của đề tài mà

chúng tơi đã lựa chọn để nghiên cứu.

2. Mục dích, phạm vi, nhiệm vụ và phương phápnghiên cứu

Mục dich va phạm vi nghiên cứu:

Trên cơ sở các quy định của pháp luật trước khi ban hành BLTTHScũng như những quy định của pháp luật tố tụng: hiện hành về phúc thẩm

<small>và thực tiễn áp dụng các chế định này trong hoạt động xét xử những năm</small>

gân đây, chúng tôi đặt ra cho mình mục đích nghiên cứu những vấn đề cơbản về thủ tục phúc thẩm, liên hệ với thực tiễn xét xử và dé xuất nhữngkiến nghị cần thiết để bổ sung, hoàn thiện pháp luật tố tụng về phúcthẩm.

Phúc thẩm là một chế định có nội dung rộng và phức tạp liên quan

đến nhiều chế định khác trong pháp luật tố tụng hình sự. Bởi vậy, trongphạm vi của một luận án cao học, không thể xem xét và giải quyết mọivấn đề một cách sâu sắc và toàn diện. Chúng tơi chỉ dừng lại ở phạm vitrình bày những vấn đề cơ bản của phúc thẩm và tập trung đi sâu nghiên

cứu làm rõ tính chất của phúc thẩm; kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm;

phạm vi xét xử phúc thẩm và quyền hạn của Tòa án khi xét xử phúcthẩm.

Nhiệm vu nghiên cứu:

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Với mục đích và phạm vi nghiên cứu trên, chúng tôi tập trung giải

quyết những vấn đề sau đây:

- Nghiên cứu bản chất pháp lý của các chế định cơ bản về phúc

thẩm.

- Xác định các đặc điểm của trình tự phúc thẩm, so sánh với trình tựsơ thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm, trên cơ sở đó đưa ra khái niệm phúc

thẩm.

- Phân tích các quy định của pháp luật BLTTHS hiện hành về phúcthẩm và những điểm còn hạn chế trong quy định hiện hành.

- Liên hệ với thực tiễn áp dụng và đề xuất các giải pháp khắc phục

vướng mắc nhằm hoàn thiện pháp luật về phúc thẩm.

Phương pháp nghiên cứu:

Việc nghiên cứu đề tài này được tiến hành trên cơ sở phương phápluận Mac-Lénin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, cácquan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước phápquyền, cải cách hệ thống tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ngồi

<small>phương pháp luận trên, chúng tơi cịn sử dụng.các phương pháp nghiên</small>

cứu như: Phân tích, tổng hợp, diễn giải và quy nạp, phương pháp so sánh,phương pháp lịch su, phương pháp hệ thống, phương pháp lý luận kết hợpthực tiễn.

Để hồn thành đề tài, chúng tơi cịn dựa vào thực tiễn xét xử các vụán hình sự của các cấp Tòa án ở nước ta những năm gần đây và tham

khảo ý kiến của một số nhà nghiên cứu lý luận và các cán bộ thực tiễn

xết xu.

3. Kết quả nghiên cứu và cái mới của luận án

Kết quả nghiên cứu và cái mới của luận án thể hiện ở chỗ tác giả đãnghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống các chế định phúc thẩm,đưa ra được khái niệm phúc thẩm trên cơ sở phân tích những dấu hiệuđặc trưng của nó; phân tích nghiên cứu những nội dung cơ bản của chếđịnh phúc thẩm. Trên cơ sở lý luận, tổng hợp các quan điểm một cách có

<small>chọn lọc và phê phán, tác giả đã liên hệ với thực tế xét xử và đề xuất</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

những kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về phúc

thẩm và những kiến nghị khác.

Với kết quả khiêm tốt đã đạt được, chúng tơi hy vọng luận án này

có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu tham khảo trong quá trình sửađổi, bổ sung BLTTHS. Luận án cịn có thé dùng làm tài liệu tham khảo

trong học tập, giảng dạy, nghiên cứu và hoạt động thực tiễn cau Tòa án.

Mặt khác, do thời gian gấp, trình độ nghiên cứu có hạn, tài liệutham khảo hạn chế nên kết quả nghiên cứu chắc khơng tránh khỏi nhữngđiểm cịn thiếu sót.

4. Cơ cấu của luận án

Cơ cấu của luận án bao gồm:- Phần mở đầu

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỂ CHUNG

1.1. KHÁI NIỆM PHÚC THẤM

Phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng độc lập trong tố tụng hình sự

Việt Nam. Trong luật tố tụng hình sự, khái niệm phúc thẩm là một khái

niệm phức tạp, bao gồm nhiều nội dung, nhiều vấn đề khác nhau nhưng

cho đến nay vẫn chưa được các nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên

cứu một cách thỏa đáng. Có nhiều tác giả khi nghiên cứu về phúc thẩm

không đưa ra khái niệm phúc thẩm mà chỉ nghiên cứu những quy định

của pháp luật về phúc thẩm. Có một số quan điểm về phúc thẩm được

đưa ra nhưng chưa thật đầy đủ, hồn chỉnh. Vì vậy, cho đến nay chưa có

được khái niệm phúc thẩm một cách hoàn thiện, phan ánh đầy đủ bản

chất của phúc thẩm.

Trong cuốn "Thuật ngữ pháp lý phổ thông" (Nxb. Pháp lý - 1987) cóđưa ra khái niệm: "Xét xứ phúc thẩm là một biện pháp của Tòa án cấptrên kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án và quyết định

của Tòa án cấp dưới chưa có hiệu luc pháp luật bi kháng cáo hoặc kháng

nghị al

Quan điểm này đã nêu được đối tượng va căn cứ của phúc thẩm

nhưng chưa nêu được mục đích của phúc thẩm và có một cách hiểu khácvề tính chất của phúc thẩm so với thực tế xét xử phúc thẩm của nước ta.

Theo quan điểm này, phúc thẩm chỉ là việc Tịa án cấp trên kiểm tra tính

hợp pháp và có căn cứ của bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩmmà chưa đề cập đến chức năng xét xử lại về nội dung của Tòa ấn cấpphúc thẩm.

Quan điểm thứ hai được nêu trong Giáo trình luật tố tụng hình sự

của Trường đại học Luật Hà Nội cho rằng: "Phúc thẩm là một giai đoạncủa tố tụng hùnh sự, trong đó Tịa án cấp trên trực tiếp xét lại những bản

<small>°) Thuật ngữ phap lý phổ thông - Nxb. Pháp ly, 1987, tr. 285.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo

hoặc kháng nghị") .

Quan điểm nay cũng nêu được đối tượng va căn cứ của phúc thẩmnhưng cũng khơng nêu được mục đích của phúc thẩm và chưa xác định

rõ tính chất của phúc thẩm "xé/ /ai" có nghĩa là gì.

Theo chúng tơi, để có được một khái niệm đầy đủ, hồn chỉnh về

phúc thẩm, chúng ta cần phải làm rõ được những vấn đề sau đây:

- Tính chất của phúc thẩm;- Đối tượng của phúc thẩm;

- Căn cứ phát sinh trình tự phúc thẩm;

- Mục đích của phúc thẩm.

1.1.1. Tính chất của phúc thẩm

Điều 204 BLTTHS quy định: "Phúc thẩm là việc Tòa án cấp trêntrực tiép xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực

pháp luật bi kháng cáo hoặc kháng nghị".

Tính chất của phúc thẩm được thể hiện rõ qua những nét đặc trưng

cơ bản của phúc thẩm, qua những nét đặc trưng đó, chúng ta có thể thấy

rõ được sự khác biệt về tính chất giữa phúc thẩm với các hình thức xét xử

- Nét đặc trưng thứ nhất của phúc thẩm đó là quyền kháng cáo củabị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Sau khi xét xử sơ thẩm, bảnán và quyết định của Tịa án chưa có hiệu lực pháp luật ngay, bị cáo vànhững người tham gia tố tụng cịn có quyền được u cầu xét xử lại mộtlần nữa ở Tịa án cấp trên trực tiếp.(Thơng qua kháng cáo, họ thể hiện sựbất đồng và những quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án ở cấp sơ

thẩm, đồng thời đề đạt những nguyện vọng, những u cầu cau mình đối

với Tịa án cấp phúc thẩm.

Quyền kháng cáo được thể hiện qua việc bị cáo và những ngườitham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo đối với bất kỳ bản án sơ

thẩm nào (trừ trường hợp xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm tai Tịa

<small>Gido trừnh luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường dai học Luật Hà Nội - Nxb. Công</small>

<small>an nhân dân, 1997, tr. 9.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

hình sự TANDTC và Tòa án quân sự trung ương). Theo tinh thần của

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Dang khóa VIII

đã nêu rõ: "Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, bỏ thủ tục xét xử sơchung thẩm của TANDTC và TAOSTW”(nhằm mục đích đảm bảo quyềnkháng cáo cho bị cáo và những người tham gia tố tụngkhác.

.. Để tạo điều kiện cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác

thực hiện tốt quyền kháng cáo của mình, khi tuyên án, Hội đồng xét xử

phải giải thích cho bị cáo và những người khác về quyền kháng cáo và họ

phải được giao ban sao bản án trong thời hạn 15 ngày. Đối với bị cáo vànhững người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phiên tịa, thời hạnkháng cáo chỉ được tính từ ngày họ được giao nhận bản sao bản án hoặctrích lục án; hoặc từ ngày bản sao bản án được niêm yết tại trụ sở chínhquyền địa phương nơi cư trú hoặc làm việc cuối cùng của họ.

Quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác

không chỉ được thể hiện qua các quyền của họ mà còn được thể hiện qua

nghĩa vụ của Tòa án trong việc giải quyết kháng cáo của họ. Trongtrường hợp kháng cáo hợp lệ thì dù kháng cáo được thực hiện dưới hình

thức nào, với bất kỳ căn cứ hoặc lý do gì, Tịa án cấp phúc thẩm cũng

phải mở phiên tòa phúc thẩm để xem xét, giải quyết kháng cáo đó, việcchấp nhận hay bác bỏ kháng cáo hợp lệ phải được giải quyết tại phiêntịa. Nếu khơng chấp nhận kháng cáo, Tịa án cấp phúc thẩm cũng phảinói rõ lý do của việc khơng chấp nhận.

Tịa án cấp phúc thẩm khơng được làm xấu di tình trang của bi cáo

nếu khơng có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị

hại theo hướng bất lợi cho bị cáo. Quy định này đảm bảo cho bị cáo ntâm thực hiện quyền kháng cáo của mình mà khơng lo sợ điều đó có thểgây hậu quả bất lợi.

- Đặc trưng thứ hai của phúc thẩm được thể hiện qua nhiệm vụ củaTòa án cấp phúc thẩm. |[Tòa án cấp phúc thẩm kiểm tra tính hợp pháp va

có căn cứ của bản án và quyết định sơ thẩm, đồng thời xét xử lại về mặtnội dung. Tính hợp pháp của bản án thể hiện ở chỗ nó phải phù hợp vớipháp luật hình sự về mặt nội dung, định tội, lượng hình... và phải phù hợp

<small>với những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về mặt hình thức, đảm</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

bảo về thủ tục tố tụng về thẩm quyền, về quyền và nghĩa vụ tố tụng củangười tham gia tố tụng v.v.. Tính có căn cứ của bản án và quyết định thểhiện ở chỗ các chứng cứ đưa ra để chứng minh vụ án phải phù hợp với

những sự kiện thực tế của vụ án đã xảy ra.

Tịa án cấp phúc thẩm khơng chỉ xem xét lại bản 4n mà còn là xétxử lại vụ án. Xét xử lại vụ án về mặt nội dung ở cấp phúc thẩm là đi sâu

xác định lại thực chất của vụ án.|Trên cơ sở đánh giá lại những chứng cứ

đã thu thập được ở cấp sơ thẩm và xét những chứng cứ mới, cấp phúc

thẩm có thể có được những quyết định về những vấn đề về nội dung vụ

án và những vấn đề có liên quan khác như định tội, lượng hình, xác định

mức bồi thường v.v.. Những quyết định này có thể giống hoặc khác sovới quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Đây là điểm khác biệt của phúc

thẩm so với giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tòa án cấp giám đốc thẩm

hoặc tái thẩm chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của những bản

án hoặc quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật mà khơng xét xửlại về nội dung. Trong trường hợp Tòa án cấp giám đốc thẩm sửa án theohướng giảm nhẹ, có quan điểm cho rằng đó là xét xử lại, theo chúng tơi,Tịa án cấp giám đốc thẩm chỉ xem xét trên cơ sở hồ sơ, tài liệu, nếu thấycó sai lầm nghiêm trọng trong việc ấp dụng các điều khoản của Bộ luật

hình sự thì sửa lại cho đúng (theo hướng giảm nhẹ). Thực chất, đó cũng

chỉ là xem xét lại vụ án về mặt áp dụng luật chứ không phải là xét xử lạivề nội dung.

- Nét đặc trưng thứ ba của phúc thẩm đó là phạm vi xét xử phúcthẩm. Tòa án cấp phúc thẩm xem xét trong phạm vi kháng cáo, khángnghị, trong trường hợp cần thiết có thể xem xét các phần khác khơng bị

<small>kháng cáo, kháng nghị. Theo quy định này, việc xem xét trong phạm vikháng cáo, kháng nghị là trách nhiệm còn việc xem xét ngoài phạm vi</small>

kháng cáo kháng nghị là quyền của Tòa án cấp phúc thẩm. Đây cũng làđiểm khác biệt của phúc thẩm so với các thủ tục xét xử khác, khi xét xửsơ thẩm, Tịa án khơng được xét xử ngoài phạm vi của quyết định truy tốcua Viện kiểm sát, con khi giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, phạm vi xét xử

<small>lại là toàn bộ vụ án mà không phụ thuộc vào nội dung của kháng nghị.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

- Nét đặc trưng thứ tư của phúc thẩm là trình tự xét xử lại vụ án.Nếu như nét đặc thù của giám đốc thẩm là Tòa án chủ yếu căn cứ vào cdctài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để xem xét lại tính có căn cứ và hợppháp của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phúc thẩm

tiến hành xét xử lại vụ án bằng một phiên tịa cơng khai xét xử theonguyên tắc trực tiếp và bằng lời nói.

Bị cáo và những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị bắt

buộc phải được Tòa án triệu tập đến phiên tòa để Tòa xét hỏi. Tòa án cấp

phúc thẩm thông qua việc xem xét những chứng cứ, tài liệu được đưa ra

xem xét cơng khai tại phiên tịa và qua việc xem xét lời trình bay va

những lý lẽ tranh luận của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

xem xét ý kiến của kiểm sát viên để ra bản án và những quyết định cần

thiết khác. Tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khácđược thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Khác với giámđốc thẩm hoặc tái thẩm, phiên tịa khơng phải cơng khai, việc triệu tập bịcáo và những người tham gia tố tụng khác khơng phải là bắt buộc và nếucó được triệu tập, họ cũng khơng có các quyền như tại phiên tịa sơ thẩmvà phúc thẩm. :

- Nét đặc trưng thứ năm của phúc thẩm ,đó là việc bổ sung và xem

xét những chứng cứ mới. Giám đốc thẩm và tái thẩm xét lại bản án vàquyết định đã có hiệu lực pháp luật trên cơ sở chứng cứ, tài liệu có trong_ hồ sơ vụ ấn nên vấn đề bổ sung xem xét chứng cứ mới không được đặt ra.

TDo việc phúc thẩm khơng chỉ là kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của

bản án và quyết định mà còn xét xử lại vụ án về nội dung, nghĩa là xemxét tính đúng đắn về mặt thực chất, vì vậy, pháp luật quy định bị cáo vànhững người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị có quyền xuất trìnhnhững chứng cứ mới để bảo vệ quyền lợi cho mình khơng phụ thuộc vàonhững chúng cứ họ đã đưa ra tại phiên tòa sơ thẩm (vi du: Bi cáo có thé

khai khác với những tình tiết họ đã khai tại phiên tòa sơ thẩm). J>

Viện kiểm sát cấp phúc thẩm cũng có thé tu mình hoặc theo u cầucủa Tòa án tiến hành điều tra bổ sung thu thập thêm những chứng cứ mớiđể làm sáng tỏ những vấn đề về nội dung vụ án. Chứng cứ cũ và mới đều

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

được xem xét tại phiên tòa và là căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm ra bản

án hoặc quyết định.

Qua việc phân tích những nét đặc trưng của phúc thẩm ta có thểthấy rõ được tính chất của phúc thẩm và sự khác biệt của phúc thẩm với

các hình thức xét xử khác. Theo chúng tôi, Điều 201 BLTTHS về tinh

chất của phúc thẩm cần phải quy định như sau: "Phúc thẩm là việc Tòa

án cấp trên trực tiến xét xử lại những vụ án mà một phần hoặc toàn bộ

bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo

<small>hoặc kháng nghĩ".</small>

1.1.2. Đối tượng của phúc thẩm

Như trên đã trình bày, đối tượng của phúc thẩm khơng phải là nhữngbản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà chính là

các vụ án đó. Việc xét xử phúc thẩm không chỉ là xét lại tính hợp pháp và

có căn cứ của các bản án và quyết định sơ thẩm trên cơ sở chứng cứ, tài

liệu có trong hồ sơ vụ án mà là xét xử lại về nội dung thực chất của vụ ánđó. Việc xét xử lại đó cũng khơng chỉ trong phạm vi những phần bản ánbị kháng cáo, kháng nghị và có thể xem xét cả những phần khác ngồi

phạm vi kháng cáo, kháng nghị trong sự xem xét tổng thể nói chung của

vụ án. Vì vậy, đối tượng của phúc thẩm là những vụ án mà bản án hoặcquyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc khángnghị. Nếu bản án hoặc quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo phúcthẩm hoặc kháng nghị phúc thẩm thì khơng thuộc thẩm quyền của Tịa áncấp phúc thẩm mà thuộc đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm hoặc táithẩm và chỉ có thể được xem xét lại theo các thủ tục đó.

| Tịa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại những vụ-án mà bản án hoặcquyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo, khángnghị. Việc xác định bản án hoặc quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luậthay chưa cũng là một vấn đề phức tạp và có nhiều ý kiến khác nhau. Đểxác định được bản án hoặc quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luậthay chưa ta phải căn cứ vào thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm:Nếu còn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị, bản án hoặc quyết địnhsơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; nếu hết thời hạn kháng cáo, kháng

<small>hở ` A 2 ⁄ 2 2 . ` Z HH ^⁄ r</small>

<small>nghị mà khơng có kháng cáo, kháng nghị thì bản án và quyết định sơ</small>

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

thẩm có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành. Do thời hạn kháng

cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên khơng giống

nhau, vì vậy, việc xác định bản án hoặc quyết định sơ thẩm có hiệu lực

pháp luật hay chưa trong nhiều trường họp không phải là dé dàng. Vấn đềnày chúng tôi xin được đề cập cụ thể trong phần "thời hạn kháng cáo,kháng nghị phúc thẩm".

Trong một số trường hợp đặc biệt, những vụ án mà bản án sơ thẩm

hoặc một phần bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật thậm chí đã đượcđưa ra thi hành vẫn có thể được Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại. D6 là

kháng cáo quá hạn và xét thấy có lý do chính đáng nên đã chấp nhậnkháng cáo quá hạn. Như vậy, trong trường hợp này, Tòa ấn cấp phúcthẩm phục hồi quyền kháng cáo cho bị cáo và những người tham gia tố

tụng khác khi họ có lý do chính đáng và Tịa án cấp phúc thẩm phải xét

xử những vụ án mà bản án hoặc một phần bản án đã có hiệu lực phápluật. Quy định này nhằm đảm bảo quyền kháng cáo và thể hiện tính nhânđạo của luật tố tụng hình sự nước ta.

- Trường hợp thứ hai: Trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm xemxét ngoài phạm vi kháng cáo, kháng nghị. Nếu chỉ có kháng cáo, khángnghị đối với một phần của bản án thì phần bản án khơng bị kháng cáo,

<small>kháng nghị khi hết thời hạn kháng cáo hoặc kháng nghị sẽ có hiệu lực</small>

pháp luật và được đưa ra thi hành. Mặc dù vậy, trong trường hợp cầnthiết, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xem xét cả những phần vụ án khơng

trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị nếu có căn cứ để giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự cho bị cáo. Quy định này cũng thể hiện tính nhân đạo củaluật tố tụng hình sự nước ta, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho b

<small>cáo.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Cả hai trường hợp đặc biệt mà Tòa án cấp phúc thẩm xem xét cả

những vụ án mà bản án hoặc một phần bản án sơ thẩm đã có hiệu lựcpháp luật đều là những trường hợp nhằm để đảm bảo quyền tố tụng và lợi

ích hợp pháp cho bị cáo mà không ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của

bất kỳ người tham gia tố tụng nào khác, thể hiện tính nhân đạo trong

pháp luật tố tụng của nước ta. |

1.1.8. Căn cứ để tiến hành phúc thẩm

Nguyên tắc hai cấp xét xử khơng có nghĩa là bất kỳ vụ án nào cũng

cần phải qua cả hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Theo quy định tại

Điều 204 BLTTHS: "Tòa án cấp trên trực tiếp chỉ xét lại những ban án

hoặc quyét định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bi kháng cáo hoặckháng nghị". Như vậy, căn cứ để tiến hành phúc thẩm là kháng cáo,kháng nghị phúc thẩm. Hay nói cách khác, căn cứ làm phát sinh trình tựphúc thẩm là kháng cáo kháng nghị phúc thẩm. Căn cứ tiến hành phúcthẩm cũng là một dấu hiệu để phân biệt phúc thẩm với các hình thức xétxử khác. Nếu như căn cứ để tiến hành xét xử sơ thẩm là quyết định truy

tố của Viện kiểm sát, căn cứ tiến hành giám đốc thẩm và tái thẩm là

kháng nghị của những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền, là những

can cứ mang tính chất quyền lực Nhà nước thì trình tự phúc thẩm ngồi

căn cứ phát sinh là kháng nghị của Viện kiểm sát cịn có thể được phát

sinh bởi kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

| Trong thực tiễn, có những bản án hoặc quyết định sơ thẩm khơng bi

kháng cáo, điều đó khơng hồn tồn có nghĩa là vụ án đã được xét xửđúng người, đúng tội, đúng pháp luật mà vì lý do bị cáo và những ngườitham gia tố tụng khác đã không biết thực hiện quyền kháng cáo của

mình. Trong những trường hợp đó, Viện kiểm sát vẫn phải có trách

nhiệm chủ động trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ kháng nghị, phát

hiện những sai lầm, thiếu sót trong việc xét xử của Tịa án cấp sơ thẩm,

bao vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi hợp pháp của cơng dân. Có nhữngvụ án có sai lầm nhưng do bị cáo và những người tham gia tố tụng khôngkháng cáo, Viện kiểm sát khơng kháng nghị vì khơng phát hiện được sailầm hoặc kháng cáo, kháng nghị quá muộn nên không được Tòa án cấp

trên xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Trong những trường hợp đó,

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

những người có thẩm quyền cần phải xem xét qua cơng tác kiểm sát xétxử, giám đốc xét xử, nếu phát hiện có căn cứ phải kháng nghị theo thủtục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm để sửa chữa những sai lầm đó.

| Tịa án cấp sơ thẩm nếu trong q trình xét xử phát hiện có những

sai lầm, thiếu sót nhưng khơng thể tự mình giải quyết, khắc phục thì saukhi xét xử xong cũng phải có trách nhiệm trao đổi với Viện kiểm sátcùng cấp để Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nếu Việnkiểm sát khơng kháng nghị thì Tịa án cấp sơ thẩm phải báo cáo lên Tịấn cấp trên trực tiếp về những sai lầm, thiếu sót đó để xét lại bằng thủ tục

giám đốc thẩm. Nói tóm lại, căn cứ để tiến hành phúc thẩm là kháng cáo,

kháng nghị phúc thẩm, nếu khơng có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩmthì sẽ khơng phát sinh trình tự phúc thẩm, mọi sai lầm, thiếu sót trong

bản án phải được khắc phục, sửa chữa bằng hình thức tố tụng đặc biệt đó

là giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. )

| Mục đích trước hết của phúc thẩm đó là sửa chữa những sai lầm

trong các bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Tịấn cấp phúc thẩm, trong khi kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ và

trong q trình xét xử lại vụ án về nội dung, có khả năng phát hiện nhữngsai lầm, những vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp

sơ thẩm, nhanh chóng khắc phục và sửa chữa những sai lầm, thiếu sótđó. Bằng quyền hạn của mình, Tịa án cấp phúc thẩm khơng chỉ sửa chữasai lầm của Tịa án cấp dưới một cách gián tiếp qua việc hủy để điều tra

hoặc xét xử lại, Tòa án cấp phúc thẩm cịn có quyền trực tiếp sửa chữacác sai lầm, thiếu sót đó qua việc sửa án và hủy, đình chỉ vụ án. Nếu xét

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

thấy việc áp dụng pháp luật hình sự, dân sự về nội dung có sai lầm hoặc

sự đánh giá của Tịa án cấp sơ thẩm khơng đúng với thực chất của vụ án,

Tịa án cấp phúc thẩm có thể sửa án theo hướng tăng nặng hoặc giảm

nhẹ. Nếu có căn cứ theo luật định, Tịa án cấp phúc thẩm hủy và đình chỉ

<small>vụ án.</small>

Phúc thẩm trong tố tụng hình sự là một hình thức giám đốc của Tòa

án cấp trên đối với hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới | Bằng VIỆC xét

xử phúc thẩm, Tòa án cấp trên khắc phục những sai sót của Tịa án cấpdưới, qua đó hướng dẫn Tòa án cấp sơ thẩm hiểu và vận dụng đúng phápluật, bản án phúc thẩm phải là mẫu mực để Tòa án cấp sơ thẩm học tập,

rút kinh nghiệm. Để làm tốt được nhiệm vụ này, Tòa án cấp phúc thẩm

phải ra bản án và quyết định đúng pháp luật, việc cải sửa án sơ thẩm, hủy

án hoặc y án sơ thẩm phải rất chính xác. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét

xử những năm vừa qua khơng ít bản án hoặc quyết định phúc thẩm không

đúng pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, không những

không giúp Tịa án cấp sơ thẩm sửa chữa thiết sót, sai lầm trong việc ápdụng pháp luật mà còn dồn gánh nặng cơng việc cho Tịa án cấp giámđốc thẩm. Thậm chí, có những trường hợp Tịa'án cấp sơ thẩm xử đúng,Tòa án cấp phúc thẩm xét xử sai, bị Tòa ấn cấp giám đốc thẩm hủy ánphúc thẩm và chấp nhận án sơ thẩm xử đúng, làm cho vai trị của Tịa áncấp phúc thẩm khơng được phát huy và mục đích của phúc thẩm khơng

<small>đạt được. Chính vì vậy, việc nâng cao tính chính xác của bản án hoặc</small>

quyết định phúc thẩm là việc phải tiến hành thường xuyên và phải coi là

nhiệm vu trọng tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự.

-Bằng việc sửa chữa những sai lầm, thiếu sót trong bản án và quyếtđịnh của Tòa án cấp dưới, Tòa án cấp phúc thẩm cịn thực hiện mục đíchbảo vệ lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và của

các công dân khác, đảm bảo không để lọt tội phạm, khơng làm oan người

VƠ tdi. | N

Nếu cấp sơ thẩm bỏ lọt tội, xử quá nhẹ, buộc bồi thường khôngđúng pháp luật, làm thiệt hại cho Nhà nước và các tổ chức xã hội, khôngđảm bảo sự cương quyết triệt để trong đấu tranh phòng chống tội phạm,khơng đảm bảo sự chun chính của Nhà nước thì Tòa án cấp phúc thẩm

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

phải tiến hành cải sửa lại cho đúng trong điều kiện luật định để đảm bảolợi ích của xã hội. Trường hợp Tịa án cấp sơ thẩm xử khơng đúng người,

đúng tội, xét xử oan người vô tội, quyết định bồi thường sai... dẫn đếnviệc làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những

người tham gia tố tụng, Tòa án cấp phúc thẩm phải kịp thời, nhanh chóng

khắc phục những sai sót đó của Tịa án cấp dưới, phải cải sửa hoặc hủy

án để đình chỉ vụ án hoặc để tiến hành điều tra, xét xử lại, dam bảo

quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, của những người tham gia tố tụng

<small>và của mọi cơng dân khác.</small>

Từ những vấn đề đã trình bày ở trên, chúng tôi cho rằng khái niệm

phúc thẩm cần phải bao hàm đầy đủ các nội dung sau:

"Phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Tịa án cấptrên trực tiép xét xứ lại những vụ án mà một phần hoặc toàn bộ ban án

hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc

kháng nghị nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, đảm bdokhông để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm áp dụngthống nhất phápluật, bdo vệ lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp cua

<small>= z N4 # Prd ` - A aft</small>

<small>bi cao, NZUOL tham gia tô tung va mol CON dân a</small>

1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHAT TRIEN CUA QUY PHAM

PHAP LUAT VE PHUC THAM TRONG PHAP LUAT TO TUNG

HINH SU VIET NAM

Cách mang tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chu cộng

hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ta đời, mở ra

một thời kỳ mới trong lịch sử phát triển của dân tộc ta. Ngay sau khigiành được độc lập, chính quyền cách mạng đã nhanh chóng xây dựng bộmáy Nhà nước cách mạng để kịp thời lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảovệ nhà nước non trẻ, nhằm kịp thời trừng trị những phần tử phản cáchmạng, giữ gìn an ninh chính tri, an tồn xã hội. Cùng với các tổ chức, co

<small>quan khác, hệ thống Tòa án cũng đã nhanh chóng được xây dựng có</small>

nhiệm vụ xét xử các loại tội phạm. Tòa án ra đời là công cụ đắc lực phục

<small>vụ cho Nhà nước đề trấn áp tội phạm.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Tòa án quân sự được thành lập tạt Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòntheo Sắc lệnh 33/SL ngày 13/9/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. NhữngTịa án này là tiền thân của Tòa án nhân dân sau này. Cùng với sự ra đờicủa Tòa án với tu cách là cơ quan xét xử của Nhà nước, việc xét xử phúc

thẩm cũng đã được quy định và phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sửkhác nhau, phù hợp với quá trình phát triển của đất nước, phù hợp với

nhận thức và yêu cầu thực tiễn của xã hội.

- Giai đoạn thứ nhất: Từ tháng 8/1945 đến 1959 (trước khi có

Luật tổ chức Tịa án nhân dan 1960).

Sau khi giành độc lập, để bảo vệ thành quả cách mạng trấn áp bọn

tội phạm, Nhà nước ta đã thành lập Tòa án quân sự với chức năng, nhiệmvụ: "Xét xử tất cả những người nào phạm mội việc gì có phương hại đến

nên độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa" (Điều 2 Sắc lệnh33/SL ngày 13/9/1945). Trong hoàn cảnh đất nước lúc đó, để kịp thời trấn

áp bọn tội phạm trấn áp bọn phan cách mạng, thực hiện chuyên chínhnhà nước, Sắc lệnh đã quy định việc xét xử của Tòa án quân sự là chungthẩm, các bản án được thi hành ngay, đương sự khơng có quyền chốngán. Tuy nhiên, đối với các bản án tuyên xử tử các đương sự vẫn có quyềnchống án. Điều 3 Sắc lệnh này quy định: "Những quyết định của Tòa án

<small>quân sự sẽ được thi hành ngay khơng có quyền chống án, trừ các bản án</small>

tuyên xử tử". Có thể nói, việc xét xử phúc thẩm đã có cơ sở hình thành.

Các sắc lệnh được ban hành sau đó như Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về

tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán, Sắc lệnh 51/SL ngày

17/4/1946, Sắc lệnh 112/SL ngày 28/6/1946 đã có những quy định cụ thểvề xét xử phúc thẩm, đề ra nguyên tắc hai cấp xét xử và những quy định

cụ thể khác về việc kháng cáo, kháng án khuyết tịch và thẩm quyền của

Tòa án khi xét xử phúc thẩm.

<small>Ngày 9/11/1946, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hịa thơng</small>

qua Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta. Hiến

<small>pháp 1946 ra đời có ý nghĩa quan trọng đối với lịch sử lập pháp của Nhà</small>

nước ta, bản Hiến pháp cũng đã quy định việc thành lập các Tịa án,trong đó có Tòa án phúc thẩm, đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử vàquyền chống án của bị cáo (Điều 63 Hiến pháp 1946).

LA 445

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Sau khi Hiến pháp 1946 ra đời, các văn bản pháp luật về phúc thẩm

tiếp tục được ban hành cụ thể hóa nguyên tắc hai cấp xét xử. Sắc lệnh số85-SL ngày. 22/5/1950 quy định: "Cơng tố viên có quyền kháng cáo cả

việc Hình và việc Hộ” (Điều 15). "Về việc hình, người bị thiệt hai cóquyền kháng cáo để xin tăng hình phạt, tiên bồi thường và các khoản bồi

hồn". Thơng tư số 1828-VHC ngày 18/10/1955 của Bộ Tư pháp về

quyền chống án và thời hạn chống án, quy định rõ những người có quyền

chống án, kháng án, khuyết tịch và thời hạn thực hiện các quyền đó.Trong thời kỳ kháng chiến, vì điều kiện giao thơng liên lạc khó

khăn, để dam bao cho việc xét xử được kịp thời nên có ủy ban hànhchính liên khu đã ủy quyền cho các Tòa án nhân dân tỉnh xử chung thẩmmột số việc hình - hộ khơng đảm bảo ngun tắc hai cấp xét xử. Sau

ngày hịa bình lập lại cơng tác xét xử ngày càng phức tap, cần có sự lãnh

đạo tập trung thống nhất, cho nên về mặt tổ chức cần phải theo đúng các

nguyên tắc đã được các văn bản pháp luật quy định. Thông tư số1459/HCTP ngày 19/8/1955 đã nhấn mạnh: "Vguyên tắc hai lần xét xử làmột trong những nguyên tac tố tung của nhân dân cần phải duoc bdodam". Riêng đối với các vụ phạm pháp về chính tri, từ sau Cách mangtháng Tám, theo Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946 và Sắc lệnh số 156/SLngày 17/11/1950 vẫn chỉ xử một cấp và chung thẩm ngay. Do nhân dânta mới giành được chính quyền phai đối phó với tình hình gay go phứctạp và phải bắt tay vào cuộc kháng chiến trường kỳ ác liệt, trong hoàncảnh đó, một số nguyên tắc pháp lý dân chủ chưa được thực hiện đầy đủ.Sau ngày hồ bình lập lại, trong hoàn cảnh mới, Dang và Nhà nước tachủ trương mở rộng dân chủ nên thống nhất Tòa án quân sự với hệ thốngTòa án thường, đồng thời thống nhất áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử.Sắc lệnh số 12-SL được ban hành ngày 30/3/1957 đặt Tòa án nhân dân

phúc thẩm và sửa đổi thẩm quyền xét xử các vụ án chính trị của Tịa ánnhân dân. Sắc lệnh nói trên giao cho Tịa án nhân dân tỉnh thẩm quyền

xét xử sơ thẩm về các vụ án chính trị là phúc đáp được yêu cầu thực tế,đồng thời giải quyết tình trạng bất hợp pháp là chế độ ủy quyền xét xử,

<small>chế độ này khơng cịn lý do tồn tại nữa trong hịa bình và trong khi chúng</small>

ta tăng cường chế độ pháp trị dân chủ. Mặt khác, các Tòa án nhân dân

<small>phúc thẩm va Toa án nhân dân tinh đã được dần dần tăng cường thì việc</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

xét xử hai cấp đối với các vụ phạm pháp chính trị khơng gặp khó khăn,trở ngại nhiều như trước. Nguyên tắc hai cấp xét xử cần được thực hiệnđầy đủ đối với các vụ án chính trị cũng như đối với các việc bình thường

Thơng tư số 1458/HCTP ngày 19/8/1955 của Bộ Tư pháp có đặt vấn

đề biệt lệ trong việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử đối với các vụ án

hộ và hình thường "7a án nhân dân phúc thẩm nếu nhận thấy tính chấtquan trọng của vụ án, thấy cân phải do Tòa án nhân dân phúc thẩm xử

thì có thể giữ lại để xử sơ thẩm và chung thẩm ngay". Sau đó, do sự phát

triển của tổ chức tư pháp và do chủ trương bảo đâm đầy đủ quyền bàochữa của bị cáo và các đương sự khác, vì vậy, biệt lệ nói trên cần đượcbãi bỏ. Theo Sắc lệnh số 12 khơng nói đến trường hợp biệt lệ, đối với cácvụ án hình và hộ đều nhất luật thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử.

Tóm lại, trong giai đoạn đầu của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộnghòa mặc dù phải thực hiện nhiệm vụ cách mạng quan trọng là chiến đấuchống thù trong giặc ngoài, nhưng Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng xây

<small>dựng bộ máy Nhà nước, trong đó có cơ quan xét xử là Tịa án và thực</small>

hiện hai cấp xét xử cũng như đã có những quy định cụ thể về việc xét xử

phúc thẩm. Thực hiện tốt việc xét xử lại những bản án bị kháng cáo làm

<small>cho nhân dân ngày càng tin tưởng vào chế độ xã hội và hệ thống pháp</small>

<small>luật mà Nhà nước ta đang xây dựng.</small>

- Giai đoạn thứ 2: Tir 1960 đến 1988 (trước khi có BLTTHS

Sau kháng chiến chống Pháp thành cơng, miền Bắc được hồn tồngiải phóng, nhằm đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới, Hiến pháp 1959ra đời thay thế Hiến pháp 1946. Để cụ thể hóa những quy định của Hiếnp¿hp 1959 về Tịa án, Quốc hội Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành

Liat tổ chức Tòa án nhân dân ngày 14/7/1960. Kể từ khi hệ thống Tòa án

được thành lập đến nay mới có Luật tổ chức, đánh dấu bước phát triểnmdi của ngành Tòa án.

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 đã kế thừa truyền thống hai

cắp xét xử của Sac lệnh số 13 năm 1946 và nguyên tắc này trở thành

<small>nauyên tac luật định. TANDTC tiếp tục ra những văn ban hướng dẫn việc</small>

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

xét xử phúc thẩm như: Công văn số 507/TC ngày 2/4/1963 về thủ tục gửi

hồ sơ án bị kháng án hoặc bị kháng nghị; Công văn số 1932/NCPL ngày

4/9/1963 giải đáp về thủ tục kháng cáo, kháng án; Công văn số

2014/NCPL ngày 18/11/1963 về giải quyết don kháng cáo quá han; Công

văn số 244/TC ngày 1/3/965 về quyển hạn của Tịa án phúc thẩm...

Ngày 19/5/1967, TANDTC ra Thơng tư số 03-NCPL, lần đầu tiên hướng

dẫn có hệ thống về trình tự tố tụng phúc thẩm hình sự. Văn bản này đã

đáp ứng một địi hỏi cấp thiết trong hồn cảnh pháp luật về trình tự tốtụng hình sự của ta còn thiếu nhiều quy định (về thời hạn kháng cáo,

kháng nghị, về quyền thu thập tài liệu trước khi mở phiên tịa đã góp

phần bảo đảm việc xét xử ở các Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm ngày

càng nhanh chóng hơn, tạo điều kiện cho Tịa án nhân dân xét xử đúngngười, đúng tội, đúng pháp luật và kịp thời. Việc xét xử lại vụ án về nộidung cho phép Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm phát hiện và tự mình sửa

chữa những sai lầm của Tịa án nhân dân cấp sơ thẩm, đâm bảo phương

châm chính xác, không oan, không lọt trong công tác xét xử. Mặc dùvậy, Thơng tư số 03 ngày 19/5/1967 vẫn cịn nhiều điểm hạn chế khi quyđịnh Tòa án cấp phúc thẩm phải xét xử lại toàn bộ vụ án; quyền củanhững người tham gia tố tụng còn chưa được đảm bảo đầy đủ; quyền hạn

của Tòa án cấp phúc thẩm quy định chưa cụ thể v.v. Vi vậy, trên cơ sở

rút kinh nghiệm việc thực hiện Thông tư 03, TANDTC xây dung bảnhướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự (kèm theo Thơng tưsố 19-TATC ngày 2/10/1974) để thay thế văn ban cũ, với những quy địnhtương đối đầy đủ và hợp lý hơn.

Văn bản này gồm hai phần:

Phần I: Xác định chức năng của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm làxét xử lại những vụ án đã được xét xử theo trình tự sơ thẩm, khi bản ánchưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hay kháng nghị. Nhiệm vụ cụ thểcủa Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm là thẩm tra lại tính chất hợp pháp vàcó căn cứ của bản án sơ thẩm và xét xử lại vụ án về nội dung.

Phần II: Quy định những vấn đề cụ thể trong trình tự tố tung phúcthẩm hình sự: Kháng cáo và kháng nghị; thủ tục xét xử ở cấp phúc thẩm;

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm trả về để xử lại, sau khi

hủy bản án sơ thẩm cũng bị kháng cáo, kháng nghi.

Bản hướng dẫn này đã có tác dụng tích cực trong việc hướng dẫn

hoạt động của các Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm. Đảm bảo việc xét xử

phúc thẩm được nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo sự phối hợp giữa Tịa ánvà Viện kiểm sát trong xét xử phúc thẩm nhằm mục đích sửa chữa nhữngsai lầm của Tịa án nhân dân cấp sơ thẩm, xét xử đúng người, đúng tội,

đúng pháp luật, đồng thời đảm bảo quyền của những người tham gia tố

tụng. Văn bản này là cơ sở quan trọng để phát triển và hoàn thiện thành

những quy định của BLTTHS về phúc thẩm.

Sau năm 1975, đất nước hoàn tồn thống nhất. Để có thể áp dụng

thống nhất pháp luật trong cả nước, áp dụng các văn bản pháp luật ở

miền Nam cho phù hợp đường lối chính sách của Đảng, ngày 2/7/1976,

Quốc hội khóa VI kỳ họp thứ nhất đã ra nghị quyết quy định: "Ở miền

Nam chưa có sẽ áp dụng những văn bản miền Bắc đã có, như vậy, kể từthời điểm này, việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được áp dụng thốngnhất trong cả nước. Trong giai đoạn cách mạng mới này, để phù hợp vớitình hình mới, Hiến pháp 1980 đã ra đời thay thế cho Hiến pháp 1959.Tuân theo những quy định của Hiến pháp 1980, Luật tổ chức Tòa án

<small>nhân đân 1981 đã được ban hành ngày 4/7/1981 tại kỳ họp thứ nhất Quốc</small>

hội khóa VII. Về cơ bản, chức năng, nhiệm vu của phúc thẩm vẫn được

<small>duy trì như trước đây, mặc dù trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1981</small>

không quy định nguyên tắc hai cấp xét xử nữa.

Điều 28 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1981 quy định về thẩm

quyền của Tòa phúc thẩm TANDTC đã nêu rõ: "Phúc thẩm những bảnán và quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trựcthuộc trung ương và cấp tương đương".

Điều 31 và Điều 34 quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấptỉnh: "Phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm của các Tòa án

<small>nhân dân quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh".</small>

Tóm lại: Trong giai đoạn 1960-1988, việc xét xử phúc thẩm vụ án

<small>hình sự đã được quy định rõ ràng, tiến bộ hơn nhiều so với giai đoạntrước.</small>

<small>2</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

- Giai đoạn thứ 3: Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ 1988-1997.

Năm 1985, Bộ luật hình sự ra đời đánh dấu bước phát triển quan

trọng trong lịch sử lập pháp của Nhà nước ta sau 40 năm giành được độclập. Sau đó, BLTTHS cũng đã được thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hộikhóa VIII (ngày 25/6/1988), đáp ứng được những yêu cầu, địi hỏi củacơng cuộc cải cách tư pháp, đây là BLTTHS đầu tiên của nước ta.BLTTHS đã giành toàn bộ Chương XXII và Chương XXIII quy định thủtục về phúc thẩm. Đây là những quy định hoàn thiện và đầy đủ nhất của

nước ta kể từ ngày thành lập nước. Đến nay qua hai lần sửa đổi bổ sung,

các chế định về phúc thẩm ngày càng được hoàn thiện phù hợp với thựctiễn xét xử, góp phần tích cực nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, kịpthời khắc phục những sai lầm trong công tác xét xử, đảm bảo lợi ích củaxã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án và các đương sự

<small>khác.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<small>CHUONG 2</small>

NHUNG QUY DINH CUA PHAP LUAT HIEN HANH

VE THU TỤC PHÚC THẤM

9.1. KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ PHÚC THẤM

Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, sau khi Tòa án cấp sơ thẩm

tuyên án, bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay

mà Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cịn có

quyền kháng cáo, kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử

Thông qua kháng cáo, kháng nghị, Viện kiểm sát, bị cáo và ngườitham gia tố tụng khác biểu thị sự bất đồng quan điểm của mình đối với

việc giải quyết vụ án của Tòa ấn cấp sơ thẩm. Kháng cáo là một hìnhthức quan trọng để bị cáo và những người tham gia tố tụng bảo vệ quyềnvà lợi ích hợp pháp của mình. Kháng nghị là một hình thức pháp lý đểViện kiểm sát thực hiện quyền kiểm sát xét xử đối với hoạt động xét xử

của Tòa án. Luật tố tụng hình sự nước ta đã có những quy định cụ thể về

những vấn đề có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị như: Chủ thể của

quyền kháng cáo, kháng nghị; thủ tục, thời hạn kháng cáo, kháng nghị;thông báo về kháng cáo, kháng nghị cũng như việc bổ sung, thay đổi và

<small>rút kháng cáo, kháng nghị. |</small>

— 9.1.1. Chủ thể của quyền khang cáo, kháng nghị

Việc quy định chủ thể có quyền kháng cáo, kháng iighi và phạm vi

quyền của các chủ thể đó là một vấn đề rất quan trọng. Trên cơ sở những

quy định đó, các chủ thể thực hiện quyền của mình và cũng trên cơ sở

<small>các quy định đó, Tịa án xem xét việc kháng cáo, kháng nghị có hợp lệ</small>

hay khơng. Tùy theo quy định của từng nước mà những chủ thể có quyền

kháng cáo, kháng nghị và phạm vi quyền của họ có những điểm khácnhau nhưng nói chung vấn đề đó đều dược quy định rõ ràng, cụ thể trongBLTTHS. Ví du: Điều 325 BLTTHS của Liên bang Nga, và từ Điều 351

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

đến Điều 355 BLTTHS Nhật Bản, Điều 129 BLTTHS của nước Cộng hòa

nhân dân Trung Hoa... À1- Về quyên bháng cáo theo thủ tục phúc thẩm (Điêu 205

BLTTHS Việt Nam).

Những người có quyền kháng cáo được quy định cụ thể như sau:

Bị cáo và đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo đối với bảnán và quyết định sơ thẩm, họ có quyền kháng cáo tất cả các quy địnhtrong bản án sơ thẩm. Nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người cónhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì họ vẫn có quyền kháng cáo,đồng thời, đại diện hợp pháp và người bào chữa của họ cũng có quyền

kháng cáo để bảo vệ quyền lợi cho bị caó, đây là quyền kháng cáo độclập, không phụ thuộc vào yêu cầu của bị cáo. Trong luật của một số nướclại quy định về việc kháng cáo thay cho bị cáo. Ví dự: Điều 353 BLTTHSNhật Bản quy định: "Người đại điện hợp pháp hoặc người quản ly bị cáo

có thể kháng cáo thay mặt bị cáo", hay Điều 355 quy định: "Người đại

điện theo ủy quyên hoặc luật su bào chữa ở cấp xét xử ban đầu có thé

<small>kháng cáo thay mặt bị cáo".</small>

Người được Tòa án tuyên là vơ tội có quyền kháng cáo phần lý doban án đã tuyên là họ vô tội, trong trường hợp này họ có quyền kháng

cáo về căn cứ mà Tịa án đã áp dụng để tuyên là họ vô tội.

- Người bị hại, đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án

hoặc quyết định sơ thẩm. Nếu người bị hại là người chưa thành niên hoặc

là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì đại diện hợp phápcủa họ cũng có quyền kháng cáo. Trong trường hợp người bị hại chết thì

đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo để bảo vệ quyền lợi cho

người bị hại đã chết, phạm vi quyền kháng các của những người nàycũng như quyền của người bị hại.

Trước đây, theo Thông tư số 19-TATC ngày 2/10/1974 quy định:

Người bị hại khơng có quyền kháng cáo theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo,quy định này là không hợp lý và hạn chế quyền của người bị hại. Trongnhiều trường hợp, việc người bị hại kháng cáo theo hướng giảm nhẹ làmong muốn tự nguyện của họ, không phải do bi dụ dé hoặc ép buộc.Thực tế có nhiều trường hợp người bị hại là người thân thích đối với bị

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

cáo (bố, mẹ, vợ (chồng), con...). Việc quy định cho họ có quyền khángcáo theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo không chỉ đảm bảo quyền kháng cáo

của họ mà còn phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc ta. Vì vậy,BLTTHS của nước ta đã không hạn chế hướng kháng cáo của người bị

Nguyên đơn dân su, bị đơn dân sự va đại diện hop pháp của họ có

quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan đến

quyền lợi, nghĩa vụ của họ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện

hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có

liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.

- Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm (Điều 206).

Ngoài việc quy định về quyền kháng cáo, Luật tố tụng hình sự Việt

Nam cịn quy định về quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát.Điều 206 BLTTHS quy định: "Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trựctiép có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm".

Kháng nghị của Viện kiểm sát đối với bản án hoặc quyết định chưa

có hiệu lực pháp luật của Tịa án cấp sơ thẩm khơng chỉ là quyền mà cịnlà hình thức để Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ của mình trong lĩnh

vực kiểm sát xét xử. Viện kiểm sát kháng nghị nhằm yêu cầu Tòa án cấptrên trực tiếp xem xét lai ban án hoặc quyết định sơ thẩm mà mình cho là

<small>khơng có căn cứ hoặc chưa đúng pháp luật.</small>

Về quyền kháng nghị trong TTHS của một số nước có những điểm

khác với quy định của Việt Nam. Theo luật tố tụng hình sự của nướcCộng hịa nhân dân Trung Hoa, chỉ có Viện kiểm sát cùng cấp có quyềnkháng nghị (Điều 130 BLTTHS Trung Hoa), hay luật tố tụng hình sựNhật Bản quy định luật sư thực hiện chức năng cơng tố có quyền kháng

nghị (Điều 373).

Kháng nghị phúc thẩm cũng có điểm khác so với kháng nghị giám

đốc thẩm và tái thẩm: Chủ thể có quyền kháng nghị phúc thẩm là Viện

kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã xử sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp trên

trực tiếp; chủ thể có quyền kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm là Việntrưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp hoặc cấp trên nữa, Viện trưởng

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Viện kiểm sát cùng cấp khơng có quyền kháng nghị giám đốc thẩm, táithẩm.

Viện kiểm sát được tổ chức và hoạt động theo hệ thống ngành dọc,cấp dưới phải phục tùng cấp trên nên trong trường hợp có mâu thuẫn giữahai bản án kháng nghị của hai Viện kiểm sát mà vì một lý do nào đó,

Viện kiểm sát cấp trên khơng ra lệnh rút kháng nghị của Viện kiểm sát

cấp dưới thì đối với phần mâu thuẫn, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ chấp

nhận để xét kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên. Trường hợp hai bản

kháng nghị có tính chất bổ sung cho nhau thì Tịa án cấp phúc thẩm chấp

nhận để xét cả hai bản kháng nghị“

2.1.2. Thủ tục và thời hạn kháng cáo, kháng nghị

(Điều 207-208)

- Thủ tục khang cáo, khang nghĩ:

Nội dung của quyền kháng cáo, kháng nghị là cơ sở để Tòa án cấp

phúc thẩm xét lại bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Vì vậy, việc kháng

cáo, kháng nghị phải được thể hiện bằng những hình thức hợp a va

theo một thủ tục luật định với Tòa án có thẩm quyền.

Người kháng cáo có thể thực hiện việc kháng cáo của mình dưới hai

hình thức: Bằng đơn hoặc trực tiếp trình bày. Người kháng cáo phải gửi

đơn đến Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm. Trong trường

hợp bị cáo đang bị tạm giam, Ban giám thị trại giam phải bảo đảm cho bị

cáo thực hiện quyền kháng cáo. Bị cáo gửi đơn kháng cáo thông qua Ban

giám thị trại giam và Ban giám thị trại giam phải tiếp nhận và gửi ngayđơn kháng cáo của bị cáo đến Tòa án đã xử sơ thẩm. Người kháng cáocũng có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xử sơ thẩm về việc khángcáo. Tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo đó. Dù kháng cáo dướihình thức nào, nội dung kháng cáo cũng phải ghi rõ thời gian kháng cáo,tư cách tố tụng của người kháng cáo, kháng cáo về vấn đề gì, lý do khángcáo và yêu cầu của người kháng cáo.

<small>© Xem: Hệ thống hóa luật lệ vé tố tụng hành sự. TANDTC. (1976-1979), tr. 214.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Viện kiểm sát phải kháng nghị bằng văn bản gửi đến Tòa án đã xử

sơ thẩm. Trong bản kháng nghị phải nêu rõ ngày kháng nghị, kháng nghị

về vấn đề gì, lý do và yêu cầu của Viện kiểm sát.

- Thời han khang cáo, khang nghị:

Việc kháng cáo, kháng nghị phải được thực hiện trong thời gian luậtđịnh, nếu quá hạn, kháng cáo, kháng nghị bị coi là không hợp lệ và

không được chấp nhận (trừ trường hợp kháng cáo q hạn có lý do chính

Luật tố tụng hình sự các nước đều quy định rõ về thời hạn kháng

cáo, kháng nghị. Thời hạn này có thể mang tính chất ổn định, không thay

đổi như trong luật tố tụng hình sự của Trung Hoa, Nhật Bản... nhưngcũng có thể có những thời hạn khác nhau trong những trường hợp khác

nhau. Ví du: Luật tố tụng hình sự Pháp quy định: Về nguyên tắc, thời hạn

yêu cầu phúc thẩm là 10 ngày trừ trường hợp bất khả kháng, từ ngày

tuyên án hoặc tống đạt bản án. Thời hạn yêu cầu phúc thẩm đôi khi kéo

dài, vi du: Thời hạn kháng nghị phúc thẩm của chánh biện lý viện công tố

là 2 tháng. Thời hạn yêu cầu phúc thẩm cũng có thể rất ngắn: 24 giờ đốivới bản án tuyên thả tự do cho bị cáo hoặc liên quan tới việc kiểm tra tư

Trong luật TTHS Việt Nam, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ

ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tịa thì thờihạn kháng cáo được tính từ ngày bản sao bản án được giao cho họ hoặcđược niêm yết. Thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày đầu tiên saungày tuyên án. Trong trường hợp Tòa án xét xử vắng mặt người kháng

<small>cáo thì thời hạn được tính từ ngày đầu tiên sau ngày giao bản sao bản án</small>

hoặc trích lục bản án cho người đó, hoặc tính từ ngày bản án được niêmyết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc làm việccuối cùng của người đó. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày lễ, tết,cơ quan nhà nước không làm việc thì ngày cuối cùng được tính là ngày

<small>cơ quan nhà nước làm việc lại.</small>

Việc xác định thời điểm người kháng cáo thực hiện quyền kháng

<small>cáo căn cứ vào ngày họ đến Tòa án nộp đơn kháng cáo hoặc kháng cáobang miệng. Nếu đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo</small>

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trongtrường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại giam thì ngày khángcáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị nhận được đơn.

Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, củaViện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án, cáchtính thời hạn kháng nghị và xác định thời điểm kháng nghị tương tự nhưcách tính thời hạn kháng cáo và xác định thời điểm kháng cáo.

- Kháng cdo qua han (Điều 209).

Kháng cáo, kháng nghị chỉ được chấp nhận khi được thực hiện trong

thời hạn luật định, tuy nhiên, Tịa án cũng có thể chấp nhận kháng cáo

q hạn nếu có lý do chính đáng. Về vấn đề này, luật tố tụng hình sự của

các nước cũng có những quy định khác nhau. Có nước không quy định về

kháng cáo, kháng nghị quá hạn (Cộng hịa nhân dân Trung Hoa), có nướclai chấp nhận ca kháng cáo và kháng nghị quá hạn (phục hồi quyềnkháng cáo, kháng nghị khi có lý do chính đáng) (Điều 362 BLTTHS NhậtBản 1991).

Theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, việc kháng cáo quá hạn có thể

được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng. Lý do chính đáng là lý do

khiến người có quyền kháng cáo khơng thể thực hiện được quyền của

mình trong thời hạn luật định (như bị bệnh hiểm nghèo, bị tai nạn phải đicấp cứu ngay hoặc bị cản trở khách quan khác, không thể kháng cáo

<small>trong thời hạn luật định). Trong những trường hợp này, người kháng cáo</small>

quá hạn phải nói rõ lý do kháng cáo quá hạn và ngay sau khi cản trởkhơng cịn nữa phải làm đơn kháng cáo ngay. Tòa án đã xử sơ thẩm xácđịnh về lý do kháng cáo quá hạn. Tòa án, cấp phúc thẩm xem xét và

<small>quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo quá hạn. Viện</small>

kiểm sát cùng cấp đựoc thông báo để có thể tham gia việc xét đơn kháng

cáo quá hạn đó). Nếu việc kháng cáo quá hạn được chấp nhận thì Tịa

án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm theo quy định chung. Nếuđơn kháng cáo quá hạn khơng được chấp nhận thì bản án sơ thẩm có hiệu

<small>lực pháp luật.</small>

<small>Xem: Các van bản vé hình sự, dân sự va tố tụng - TANDTC. 1990, tr. 137.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Luật không quy định về việc kháng nghị quá hạn, cần phải coi mọi

trường hợp kháng nghị quá hạn là không hợp lệ. Bất cứ một sự chậm trễ

nào cũng làm ảnh hưởng đến công tác xét xử và làm giảm hiệu lực thi

hành bản án hoặc quyết định: Chỉ chấp nhận kháng cáo quá hạn vì lý do

dam bảo tính nhân dao của pháp luật, dam bao quyền lợi cho bị cáo vàngười tham gia tố tung\chit không thể chấp nhận những sự vi phạm thờihạn của chính cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp cần thiết khi

có căn cứ, sau khi bản án hoặc quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp

luật, Viện kiểm sát cấp trên thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tụcgiám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

2.1.3. Thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị và

hậu qua của việc kháng cáo, kháng nghị (Điều 210, 211

- Thông báo uề uiệc khdng cáo, kháng nghị (Điều 220).

Khi có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp sơ thẩm cần phải thơng

<small>báo cho những người tham gia tố tụng biết có kháng cáo, kháng nghị nội</small>

dung tóm tắt của kháng cáo, kháng nghị về những phần có liên quan đến

quyền lợi của họ. Việc thơng báo này là để họ có thể cung cấp thêm

những tài liệu làm sáng to vụ án, chuẩn bị tốt hơn cho việc bảo vệ quyền

lợi hợp pháp của mình. Riêng đối với bị cáo, việc thơng báo về khángcáo, kháng nghị cịn là để họ chuẩn bị tốt hơn cho việc thực hiện quyềnbào chữa tại phiên tòa phúc thẩm.

Tòa án cấp sơ thẩm cũng phải thơng báo cho Viện kiểm sát trong

trường hợp có kháng cáo của bị cáo và các đương sự khác. Sau khi nhậnđược thông báo về kháng cáo, kháng nghị, Viện kiểm sát và những ngườitham gia tố tụng có quyền phát biểu ý kiến của mình bằng văn bản hoặc

<small>cung cấp thêm tài liệu, có liên quan đến vụ án và gửi cho Tòa án cấp</small>

phúc thẩm.

Về trách nhiệm thơng báo kháng nghị, vấn đề này cịn có những ýkiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng Viện kiểm sát là người kháng nghịthì Viện kiểm sát phải có trách nhiệm gửi kháng nghị cho Tòa án đã xétxử sơ thẩm và những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.Người nhận được kháng nghị biết được lý do kháng nghị, nội dung cụ thể

<small>a</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

của kháng nghị, trên cơ sở đó họ chuẩn bị ý kiến gửi Tịa án cấp phúcthẩm hoặc trình bày tại phiên tòa. Nếu để Tòa án cấp sơ thẩm thơng báo

thì nội dung thơng báo sẽ khơng đầy đủ, người bị kháng nghị không

chuẩn bị được ý kiến của mình trước phiên tịa.

Có ý kiến lại cho rằng cần quy định việc thơng báo kháng nghị vẫngiao cho Tịa án cấp sơ thẩm nhưng ngồi việc thơng báo cần có quy

định: Kháng nghị phải được gửi cho người bị kháng nghị và người có liênquan đến việc kháng nghị và việc này nên giao cho người đã kháng nghị

(Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp).

Theo chúng tôi, việc thông báo về kháng cáo, kháng nghị đã được

quy định thuộc trách nhiệm của Tòa án đã xử sơ thẩm là đúng đắn. Tịấn cấp sơ thẩm nơi đã ra bản án hoặc quyết định sơ thẩm và cũng là nơinhận đơn kháng cáo, kháng nghị và làm thủ tục để chuyển hồ sơ lên Tịa

án cấp phúc thẩm néw việc thơng báo kháng cáo, kháng nghị vừa thuận

tiện, vừa đảm bảo tính chính xác, nếu để Tịa án cấp sơ thẩm thơng báo

kháng cáo cịn Viện kiểm sát thơng báo kháng nghị là phức tạp một cáchkhông cần thiết.

- Hậu qua của uiệc kháng cáo, kháng nghị (Điều 211).

Trong thời gian kháng cáo, kháng nghị, tồn bộ bản án chưa có hiệulực pháp luật. Khi đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu có khángcáo, kháng nghị đối với tồn bộ bản án thì tồn bộ bản án sơ thẩm chưacó hiệu lực pháp luật và chưa được đưa ra thi hành. Riêng đối với trườnghợp bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị một phần theo trình tự

phúc thẩm thì cịn có những quan điểm khác nhau về hậu quả của kháng

<small>cáo, kháng nghị.</small>

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Bản án sơ thẩm dù chỉ bị kháng cáo,kháng nghị một phần nhưng phải coi tồn bộ bản án chưa có hiệu lựcpháp luật vì theo quy định của Điều 214 BLTTHS: "Nếu xét thấy canthiết thì Tịa án cấp sơ thẩm có thể xem xét các phần khác khơng bịkháng cáo, kháng nghị", khoản 2 Điều 221 BLTTHS cũng quy định:

<small>a’ ⁄ x ⁄ ` yA ^“ ⁄ NA 7+ ` * ⁄</small>

"Nếu có căn cứ, Tịa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp

<small>Xem: Dinh Văn Quế - Thủ tục phúc thẩm. trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Nxb.</small>

<small>Chính trị quốc gia. 1998, tr. 46.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

dung điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn cho ca những bị cáo không khángcáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghĩ".

Quan điểm này cho rằng, nếu coi phần bản án khơng bị kháng cáo,

kháng nghị có hiệu lực pháp luật là vơ nghĩa vì thực tế nó vẫn được Tịấn cấp phúc thẩm xem xét lại.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Chỉ phần bản án sơ thẩm bị kháng cáo,

kháng nghị theo trình tự phúc thẩm mới chưa có hiệu lực pháp luật, phần

cón lại sẽ phát sinh hiệu lực sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Quan điểm này phù hợp với Điều 211 và khoản | Điều 226 BLTTHS, baođâm tính ổn định tương đối của bản án và đảm bảo cho việc thi hành án

được nhanh chóng, kịp thời phát huy tác dụng thiết thực của việc xét xử.

Còn việc Tòa án cấp phúc thẩm quyết định cả về những phần của bản ánsơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo ngun tắc khơng làm xấu

đi tình trạng của bị cáo là đặc thù của phúc thẩm Việt Nam, nét đặc thù

đó thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật tố tụng hình sự của nước ta.Chúng tơi đồng ý với quan điểm này.

Khi có kháng cáo hoặc kháng nghị bản án sơ thẩm, Tòa án cấp sơthẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo hoặc kháng nghị cho Tòa án cấpphúc thẩm trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng

nghị. Các Tòa án cấp sơ thẩm phải chấp hành nghiêm chỉnh quy địnhnày, vì nếu Tịa án cấp sơ thẩm chậm gửi hồ sơ thì việc xét xử phúc thẩm

sẽ bị chậm trễ, gây ảnh hưởng đến lợi ích của những người có quyền lợi

<small>hợp pháp trong vụ án.</small>

2.1.4. Bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị

(Điều 212 BLTTHS)

Luật tố tụng hình sự nước ta không chỉ quy định về quyền kháng

cáo, kháng nghị mà còn quy định cho các chủ thể của quyền kháng cáo,kháng nghị có quyền được bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị.

Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáohoặc Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghịnhưng khơng được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, rút một phần hoặc

<small>toàn bộ kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo,</small>

kháng nghị tại phiên tịa thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ.

<small>31</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Về việc bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị, TANDTC cóhướng dẫn như sau: "Sau khi có kháng cáo, kháng nghị cho đến trước khi

hội đồng xét xứ nghị án, người đã kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã

kháng nghị có quyền bổ sung hoặc thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng

không được làm xdu hơn tinh trạng của bi cáo.

Người đã kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã kháng nghị về tội nào thìcó quyền bổ sung hoặc thay đổi kháng cáo, kháng nghị của mình về tội

đó. Cịn đối với những tội chưa có kháng cáo, kháng nghị thì khơng được

bổ sung hoặc thay đổi.

Làm xấu hơn tình trạng của bị cáo là làm cho bị cáo có thể bị Tịa

án cấp phúc thẩm phạt nặng hơn, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng

hơn hoặc tăng mức bồi thường so với quyết định cud Tịa án cấp sơ thẩm.

Do đó, người đã kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã kháng nghị theo hướng

giảm nhẹ cho bị cáo so với quyết định của Tịa án cap sơ thẩm, thì khơng

được bổ sung, thay đổi theo hướng tăng nặng cho bị cáo. Nếu đã kháng

cáo hoặc kháng nghị theo hướng tăng nặng hình phạt thì khơng được bổsung thêm hình phạt khác hoặc thay bằng loại hình phạt hoặc nặng

<small>n(Ì H À TA a ns ⁄ Lên Z Z .</small>

sl Quy định về việc bổ sung, thay đối, rút kháng cáo, kháng nghị

phúc thẩm có những điểm khác so với quy định ở trình tự giám đốc thẩm.

Theo quy định tại Điều 210 BLTTHS, nội dung của kháng cáo, khángnghị được thông báo trước cho bị cáo để bị cáo có thể chuẩn bị tốt cho

<small>việc bào chữa tại phiên tòa, cung cấp thêm những chứng cứ, tài liệu cho</small>

Tòa án cấp phúc thẩm để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, nếu bổ

<small>sung kháng cáo, kháng nghị theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáomà bị cáo khơng được thông báo trước sẽ làm cho bị cáo bị động khơng</small>

có điều kiện để bảo vệ quyền lợi của mình. Quy định tại Điều 212BLTTHS chính là nhằm dam bảo cho việc thực hiện quyền bảo chữa chobị cáo tại phiên tịa phúc thẩm. Tính chất của giám đốc thẩm là xét lạibản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật về mặt áp dụng phápluật, phạm vi xem xét là tồn bộ bản án, khơng phụ thuộc vào kháng

<small>nghị, giai đoạn này cũng khơng có sự tham gia và thực hiện các quyền vànghĩa vụ tố tụng của bị cáo. Vì vậy, chủ thể kháng nghị có thể bổ sung,°) Các uăn ban vé hình sự, dân sự va tổ tụng - TANDTC - 1990, tr. 138</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

thay đổi kháng nghị theo bất kỳ hướng nào mà, không bị hạn chế bởi

nguyên tắc “khơng làm xấu ải tình trạng của bị cáo".

Quy định về việc "bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng

khơng được làm xấu hon tình trạng của bị cáo" có nhiều cách hiểu và

giải thích khác nhau.

- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tất cả những bổ sung, thay đổi theo

hướng bất lợi cho bị cáo (về hình sự, dân sự, án phí, xử lý vật chứng...)

đều là "lam xấu đi tình trang của bị cdo".

- Quan điểm thứ hai (như hướng dẫn của TANDTC) cho rằng: "Làm

xdu đi tình trạng của bị cáo" là làm cho bi cáo có thé bị Tịa án cấp phúc

thẩm phạt nặng hơn, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn hoặc

tăng mức bồi thường so với quy định của Tòa án cấp sơ thẩm. Vì vậy,

khơng được bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó.

- Quan điểm thứ 3 cho rang: "Làm xấu đi tình trạng cua bị cáo"

phải được hiểu là đưa đến những bất lợi cho bị cáo về mặt hình su.

Theo chúng tơi, các quan điểm nói trên đều cịn có những điểm

chưa được thỏa đáng.

Quan điểm thứ nhất đưa ra khái niệm về "lam xấu hơn tình trạng

cua bi cdo" quá rộng. BỊ cáo là đối tượng buộc tội trong vụ án hình sự,tình trạng của bị có có trở nên xấu hơn hay không phải được xác định bởimối quan hệ của họ với các chế tài hình sự. Cịn những vấn đề giải quyếtvề bồi thường thiệt hại (trong trường hợp không dẫn đến việc tăng tráchnhiệm hình sự) chỉ đơn thuần là việc giải quyết về dân sự, phải tuân theonhững nguyên tắc và quy định của luật dân sự và tố tụng dân sự, nên

không thể coi mọi bổ sung, thay đổi về phần dân sự là "Jam xấu di tình

trạng của bị cáo".

Quan điểm thứ hai vừa rộng lại vừa hẹp. Về phần dân sự, quan điểm

này cũng như quan điểm trên cho rằng, tất cả mọi trường hợp yêu cầutăng mức bồi thường là "lam xấu hon tinh trạng cua bị cdo" là qua rộng.

<small>€ Xem: Nguyễn Đức Mai - Thế nào là làm xấu hơn tình trang của bị cáo trong xét xửphúc thdm.. Tạp chí toa án nhân dân 8/1994.</small>

<small>®) Xem: Lưu Tiến Dũng - Xung quanh uấn dé sửa đổi nội dung khang nghị, rút khang</small>

<small>nghị. Tạp chi tòa adn nhân dân 7/1992, tr. 21.</small>

<small>33</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Nhưng về mặt hình sự, quan điểm này lại quá hẹp, chỉ đề cập đến những

trường hợp yêu cầu tăng hình phạt, áp dụng điều khoản về tội nặng hơnmà không đề cập đến những trường hợp khác cũng làm xấu di tinh trạng

của bị cáo như yêu cầu kết tội bị cáo được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên vô

tội, yêu cầu phat tù giam thay cho tà nhưng cho hưởng án treo, yêu cầucho miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt đối với những người đã

được Tòa án cấp sơ thẩm cho miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt...như vậy là làm hạn chế quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghịcủa các chủ thể. |

Quan điểm thứ ba xác định bổ sung kháng cáo, kháng nghị theo

hướng "làm xấu đi tình trạng của bị cáo" là làm cho bị cáo có thể bị bất

lợi về mặt hình sự cịn theo hướng có thể bị bất lợi về mặt dân sự khơngphải là "Jam xấu di tình trạng của bị cáo". Theo quan điểm này, việc giải

quyết bồi thường trong vụ án hình sự thực chất là giải quyết về dân sự,

pháp luật cho phép hoặc có thể giải quyết vấn dé dân sự trong vụ án hình

sự hoặc có thể tách phần giải quyết bồi thường thành một vụ kiện dân sựvà giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự (khoản 2 Điều 166 BLTTHS).

Khi một vấn đề có thể giải quyết bằng cách này hoặc cách khác (trong vụ

án hình sự hoặc bằng vụ kiện dân sự) thì các quan hệ pháp luật đối với

vấn đề đó phải bình đẳng và cách giải quyết phải như nhau. Điều 60 Pháp

lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định: "Trước hoặc trongphiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền sử đổi nội dung đãkháng cáo hoặc rút kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền sửa đổi nội dung

đã kháng nghị hoặc rút kháng nghị". Như vậy, việc bổ sung kháng cáo,kháng nghị về mặt dân sự, các chủ thể có thể bổ sung theo bất kỳ hướng

nào, vì nếu theo hướng có lợi cho bên ngun đơn tức là khơng có lợi chobị đơn và ngược lại, quyền của đương sự nào cũng phải được tôn trong

như nhau theo nguyên tắc bình đẳng giữa các đương sự nên không thể

giới hạn quyền bổ sung kháng cáo, kháng nghị của các chủ thể. Theo

chúng tôi, quan điểm này đã phân biệt rõ hai loại quan hệ pháp luật hìnhsự và dân sự là hai loại quan hệ pháp luật khác nhau và là đối tượng điềuchỉnh của những ngành luật khác nhau, việc giải quyết các quan hệ đó

cũng bằng những quy định khác nhau, cả về nội dung và hình thức. Vì

vậy, việc bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng mức

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

bồi thường thiệt hại đối với bị cáo cần phải được xem xét theo quy địnhtại Điều 60 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự là hợp lý.

Tuy vậy, việc tác giả khẳng định việc giải quyết vấn dé bồi thường

thiệt hại thực chất là việc giải quyết về dân sự, tách rời vụ án hình sự là

khơng đúng trong mọi trường hợp. Những vấn đề dân sự phát sinh trong

vụ án hình sự có thể chỉ là việc giải quyết bồi thường thiệt hại đơn thuần,nhưng cũng có nhiều trường hợp mức độ thiệt hại do hành vi phạm lộigây ra sẽ ảnh hưởng đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị cáo, vì -vậy, việc giải quyết bồi thường thiệt hại lại ảnh hưởng đến việc giải quyếtvụ án hình sự. Phải giải quyết các trường hợp khác nhau đó bằng những

cách giải quyết khác nhau, tùy thuộc vào việc các vấn đề đó do các quan

hệ pháp luật nào điều chỉnh.

Từ những phân tích trên, chúng tơi cho rằng, việc bổ sung, thay đổi

kháng cáo, kháng nghị theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo là

việc bổ sung, thay đổi đó có thể dẫn đến tình trạng bất lợi về mặt hình sự

đối với bị cáo. Khơng hạn chế quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, khángnghị theo hướng tăng mức bồi thường, nhưng việc chấp nhận bổ sung

kháng cáo, kháng nghị về tăng mức bồi thường ¢hi là chấp nhận hợp lệ về

mặt hình thức, cịn việc Tịa án cấp phúc thẩm có được sửa án theo hướngtăng mức bồi thường hay không lại phải đảm bảo những điều kiện về việc

sửa án theo hướng tăng nặng. Cần chú ý phân biệt trường hợp sửa tăngmức bồi thường khơng dẫn đến việc tăng trách nhiệm hình sự và trườnghợp tăng mức bồi thường dẫn đến tăng trách nhiệm hình sự cho bị cáo

phải có những điều kiện khác nhau (chúng tơi xin được trình bày kỹ tại

phần: Quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm). ~

Một vấn đề nữa cần xem xét, đó là về hướng dẫn của Thông tư sốO1/TTLN ngày 8/12/1988 của TANDTC và VKSNDTC có những điểmkhơng đúng như tinh thần của điều luật. Điều 212 BLTTHS quy định việcbổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị không bị hạn chế về tội danhmà bị cáo đã kháng cáo hoặc bị kháng táo, kháng nghị chỉ cần việc bổsung, thay đổi đó khơng làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Cịn trongThơng tư 01 lại hướng dẫn: "Người đã kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã

<small>kháng nghị về tội nào thì có quyền bổ sung kháng cáo, kháng nghị của</small>

<small>35</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

mình về tội đó, cịn đốt với tội chưa có kháng cáo, kháng nghị thì khơng

được bổ sung". Như vậy, phạm vi của quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo,

kháng nghị theo Điều 212 BLTTHS rộng hon so với hướng dẫn của

Thơng tư 01. Nói cách khác, Thơng tư này đã làm hạn chế Điều 212BLTTHS. Trong trường hợp bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về nhiều

tội, nếu như trước đó bị cáo chỉ kháng cáo hoặc bị kháng cáo, kháng nghịvề tội này thì theo tinh thần của Điều 212 BLTTHS, bị cáo đó hoặc Viện

kiểm sát và những người đã kháng cáo đối với bị cáo đó vẫn có quyền bổ

sung kháng cáo, kháng nghị của mình về những tội khác của bị cáo theohướng có lợi cho bị cáo hoặc khơng làm xấu ởi tình trạng của bị cáo.

Nhưng cũng trường hợp đó, theo Thơng tư 01 thì việc bổ sung, thay đổikháng cáo, kháng nghị về những tội khác lại không được chấp nhận, kể

cả trường hợp việc bổ sung đó khơng làm xấu đi tình trạng của bị cáo.

Việc nội dung điều luật và Thông tư hướng dẫn không thống nhấtnhư vậy rõ ràng làm ảnh hưởng đến việc áp dụng trong thực tế xét xử.

Theo ý kiến của chúng tôi, việc người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát bổ

sung kháng cáo, kháng nghị về tội mà trước đó chưa kháng cáo hoặckháng nghị mà khơng làm xấu di tình trạng của bị.cáo cần phải đượcchấp nhận giải quyết theo tinh thần của Điều 212 BLTTHS. TANDTC và

VKSNDTC nên xem xét để có hướng dẫn hợp lý hơn về vấn đề này.

- Về uiệc rút khang cáo, khang nghị

<small>Sau khi kháng cáo hoặc kháng nghị, những người kháng cáo hoặc</small>

Viện kiểm sát đã kháng nghị có thể rút một phần hoặc toàn bộ khángcáo, kháng nghị trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tịa phúc thẩm.

Luật tố tụng hình sự của một số nước cũng có quy định về việc rút

<small>kháng cáo, kháng nghị. Ví du: Luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang</small>

Nga quy định: Trước khi bắt đầu phiên tịa phúc thẩm, Viện kiểm sát cấptrên có quyền rút kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới. Việc rút khángcáo (khơng có kháng cáo khác) hoặc kháng nghị sẽ dẫn đến việc đình chỉtiến hành xét xử phúc thẩm (Điều 338). Luật tố tụng hình sự Nhật Bảncũng quy định về việc từ chối hoặc rút kháng cáo, kháng nghị và ngườiđã từ chối hoặc rút kháng cáo, kháng nghị không được đưa ra kháng cáo,kháng nghị mới đối với cùng vụ án đó (Điều 359 - Điều 361).

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Luật tố tụng hình sự của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước

đây cũng quy định về việc rút kháng cáo, kháng nghị với những nội dung

khác nhau về thời hạn rút và điều kiện rút. Về thời hạn rút: Có thể rút

trước khi xét hỏi (Điều 369 Bộluật tố tụng hình sự Rumani); trước khi

nghị án (khoản 2 Điều 250 BLTTHS Tiệp Khắc); trước khi tuyên quyếtđịnh (Điều 361 BLTTHS Nam Tư). Một số nước có quy định điều kiện

rút kháng cáo, kháng nghị, ví du:

- Kháng cáo, kháng nghị vì mục đích của bị cáo chỉ được rút nếu có

sự đồng ý của bị cáo (khoản 3 Điều 244 BLTTHS Ba Lan, khoản 3 Điều250 BLTTHS Tiệp Khắc - trừ trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị).

- Luật sư của bị cáo khơng có quyền rút kháng cáo nếu khơng có sựđồng ý của bị cáo (khoản 4 Điều 319 BLTTHS Bungari).

- Luật sư của người chưa thành niên có thể rút kháng cáo của mình

nếu có sự đồng ý của người chưa thành niên đó và đại diện hợp pháp củahọ (khoản 4 Điều 286 BLTTHS Đúc).

Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, việc rút kháng cáo, khángnghị khác với việc bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị và không bị

hạn chế bởi nguyên tắc không làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Tính chấtcủa phúc thẩm là xét xử lại những vụ án mà bản án hoặc quyết định sơ

thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị, hay nóicách khác, căn cứ phát sinh trình tự phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị

phúc thẩm, vì vậy, nếu các chủ thể đã rút kháng cáo, kháng nghị thì căn

cứ để xét xử phúc thẩm khơng cịn nữa. Có thể rút kháng cáo, kháng nghịvào trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tịa phúc thẩm trước khi nghị án, nếu

rút tồn bộ kháng cáo, kháng nghị thì phiên tịa phải được đình chỉ.

Đối với trường hợp rút một phần kháng cáo, kháng nghị theo hướngbất lợi cho bị cáo, ví dụ như Viện kiểm sát kháng nghị yêu cầu tăng hình

phat và giảm mức bồi thường cho bị cáo. Sau đó, Viện kiểm sát rút kháng

nghị về phần bồi thường thiệt hại, việc rút này là bất lợi cho bị cáo. Cóquan điểm cho rằng, phải coi đây là trường hợp thay đổi kháng cáo,kháng nghị và việc thay đổi này là khơng hợp lệ vì vi phạm ngun tắc"làm xấu di tình trạng của bi cáo". Quan điểm nay khơng có căn cứ, bởivì, như ví dụ nêu trên, Viện kiểm sát rút kháng nghị về phần bồi thường

<small>37</small>

</div>

×