Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Kháng cáo theo thủ thục phúc thẩm trong tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh bắc kạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 103 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG NGC ANH

KHáNG CáO THEO THủ TụC PHúC THẩM
TRONG Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Kạn)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG NGC ANH

KHáNG CáO THEO THủ TụC PHúC THẩM
TRONG Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Kạn)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. TH PHNG

H NI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hoàng Ngọc Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ KHÁNG CÁO THEO THỦ
TỤC PHÚC THẨM ............................................................................ 8
1.1.

Khái niệm kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. ............................... 8


1.2.

Cơ sở của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm................................ 11

1.2.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................... 11
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................... 13
1.3.

Sơ lược lịch sử phát triển những qui định của pháp luật về
kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự
trước khi ban hành bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 ................ 17

1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1960 ...................................... 17
1.3.2.

Giai đoạn từ 1960 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự 1988 ........ 19

1.3.3. Giai đoạn từ 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 ....................................................................................... 21
1.4.

Quy định pháp luật của một số nước trên thế giới về kháng
cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự ........................ 24

Kết luận chương 1 ......................................................................................... 29
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2003 VÀ NĂM 2015 VỀ KHÁNG CÁO THEO THỦ TỤC
PHÚC THẨM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BẮC KẠN ..................................................................... 30
2.1.


Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và năm 2015
về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm ............................................. 30


2.1.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ............................... 30
2.1.2. Những quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ............. 48
2.2.

Thực tiễn thi hành các quy định của BLTTHS năm 2003 về
kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong hoạt động xét xử
các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn ................. 51

2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ........................................... 51
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân ......................................................... 61
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 69
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA KHÁNG CÁO THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM CÁC
VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................................. 70
3.1.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS về kháng
cáo theo thủ tục phúc thẩm ............................................................. 70

3.1.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về kháng cáo theo thủ tục
phúc thẩm ........................................................................................... 70
3.1.2. Hoàn thiện các văn bản pháp luật khác liên quan đến Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 theo thủ tục phúc thẩm ................................. 74
3.2.


Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của kháng cáo
theo thủ tục phúc thẩm .................................................................... 76

3.2.1. Đổi mới hệ thống, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân .......... 76
3.2.2. Đội ngũ cán bộ ................................................................................... 79
3.2.3. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, phục vụ cho công tác
xét xử .................................................................................................. 82
3.2.4. Nâng cao nhận thức pháp luật của người tham gia tố tụng và
những người khác ............................................................................... 84
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử

TAND:


Tòa án nhân dân

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TTHS:

Tố tụng hình sự

VKSND:

Viện kiếm sát nhân dân

XHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Tổng hợp số bị cáo đã xét xử phúc thẩm, tỷ lệ y án, sửa
án, hủy án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn từ
năm 2010 – tháng 6/2016

51

Bảng 2.2. Tổng hợp số bản án sơ thẩm và quyết định đình chỉ, tạm

đình chỉ sơ thẩm bị kháng cáo của Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Kạn từ năm 2010 đến tháng 6/2016

53

Bảng 2.3. Bảng tổng hợp chủ thể kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm
các vụ án hình sự trong thời gian từ 2010 đến tháng
6/2016 ở địa bàn tỉnh Bắc Kạn

54

Bảng 2.4. Tổng hợp số bị cáo đưa ra xét xử phúc thẩm được sửa án
theo hướng giảm nhẹ hình phạt từ năm 2010 đến tháng
6/2015 của TAND tỉnh Bắc Kạn

55

Bảng 2.5. Tổng hợp số bị cáo kháng cáo, số bị cáo rút kháng cáo
và tỷ lệ rút kháng cáo từ 2010 đến tháng 6/2016 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Kạn

59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kháng cáo là một chế định quan trọng trong luật tố tụng hình sự. Sau
khi xét xử sơ thẩm trong một thời hạn do luật định, bị cáo, những người tham
gia tố tụng có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án và những người
khác theo qui định của pháp luật có quyền kháng cáo bản án hoặc các quyết

định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đây là cơ sở pháp lý
để Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, qua đó kịp thời phát hiện và khắc
phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới, đảm bảo sự công bằng của
pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Đặc trưng của xét xử hình sự là có thể đưa đến hậu quả bất lợi cho bị
cáo, buộc bị cáo phải chịu hậu quả và các biện pháp tư pháp khác. Vì vậy,
Bản án hay quyết định của Tòa án khi xét xử phải đảm bảo chính xác, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp
ngay từ đầu phán quyết của Tòa án đã đảm bảo được yêu cầu này. Do đó, chế
định kháng cáo chính là sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc công
bằng, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Sự tồn tại của chế định này là cơ
sở cho những người làm công tác pháp luật đưa ra một quyết định đúng đắn,
đó là một bản án công minh.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 ra đời đã khắc phục được những vướng
mắc, thiếu sót của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Tuy nhiên, vẫn còn
những điểm chưa đầy đủ, hoàn thiện trong quy định của pháp luật về kháng
cáo, cùng với việc hướng dẫn, giải thích của các cơ quan có thẩm quyền chưa
rõ ràng, đầy đủ dẫn đến trong thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp còn nhiều
sai phạm. Nhiều trường hợp các sai phạm của Tòa án cấp dưới không được

1


phát hiện, khắc phục kịp thời, không bảo vệ được quyền và lợi ích của người
tham gia tố tụng, làm giảm uy tín của Tòa án nói riêng và của hệ thống tư
pháp nói chung.
Trong giai đoạn hiện hay, khi Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Và chúng ta đang đẩy nhanh tiến trình cải
cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ

chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới",
đặc biệt là theo Nghị quyết 49- NQ/TW ngày 02/06/2002 về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị nhằm xây dựng nền tư pháp
vững mạnh, dân chủ, công bằng và nghiêm minh theo hướng ngày càng chú
trọng hơn đến lợi ích của cá nhân và chống làm oan người vô tội. Thì việc
nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm các
vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng.
Vì những lý do trên, học viên chọn đề tài: "Kháng cáo theo thủ tục
phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa
bàn tỉnh Bắc Kạn)" làm luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm các vụ án hình sự là một chế định
quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự cho nên đã có nhiều nhà khoa học,
luật gia nghiên cứu ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh khác nhau
về vấn đề này.
Một số công trình nghiên cứu, một số khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
học và một số đề tài luận văn thạc sĩ, tiến sĩ đã nghiên cứu về vấn đề này như:
Luận văn thạc sĩ Luật học: "Phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam",
Nguyễn Thị Thanh Mai, 1998; Luận án tiến sĩ: "Phúc thẩm trong tố tụng hình
sự", Nguyễn Đức Mai, 2004; Luận án tiến sĩ: "Nguyên tắc hai cấp xét xử
trong tố tụng hình sự Việt Nam", Võ Gia Lâm, 2008; Luận án tiến sĩ: “Hiệu

2


lực của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự
Việt Nam”, Mai Thanh Hiếu, 2015.
Vấn đề này còn được đề cập, phân tích trong một số giáo trình và sách
chuyên khảo như: "Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam", PGS.TS
Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2013;

"Giáo trình luật Tố tụng hình sự", Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản
Công an nhân dân, 2009; "Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm", Đinh Văn
Quế, Chánh án Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao, 2004; “Bình luận khoa
học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Bộ Tư pháp, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, 2004.
Một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề cập đến
vấn đề này như: “Cải cách hệ thống tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam”, TSKH Lê Cảm, tạp chí Nhà nước pháp luật số
4, 2001; "Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xét xử phúc
thẩm", Nguyễn Đức Mai, tạp chí Nhà nước và pháp luật, 2002; “Bổ sung, thay
đổi và rút kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm”, Nguyễn Đức Mai, tạp chí Nhà
nước và pháp luật, 1999; “Bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo”, Nguyễn
Đức Mai, tạp chí Tòa án nhân dân số 5, 1995; "Bàn về tính chất của phúc
thẩm", Phan Thị Thanh Mai, tạp chí Luật học số 1, 2000; "Hoàn thiện một số
quy định về xét xử phúc thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp", Nguyễn Văn
Trượng, tạp chí Tòa án nhân dân số 22, 2008; “Một số trường hợp giải quyết
kháng cáo, kháng nghị liên quan đến phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình
sự”, Quách Thành Vinh, tạp chí Tòa án nhân dân số 17, 2009; “Kháng cáo
không hợp lệ trong tố tụng hình sự”, Nguyễn Thị Hoa, Tòa án nhân dân số 2,
2000; “Bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo”, Nguyễn Đức Mai, tạp chí Tòa
án nhân dân số 5, 1995.

3


Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên cho thấy vấn đề này mặc dù đã
được quan tâm, nghiên cứu nhưng vẫn còn những vấn đề chưa thống nhất, còn bỏ
ngỏ và cần tiếp tục nghiên cứu tiếp. Những nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu chung về xét xử phúc thẩm, chứ chưa được triển khai nghiên cứu độc lập,

đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn trên một địa bàn nhất định.
Và trên cơ sở nghiên cứu đó thì việc nghiên cứu một cách đầy đủ về lý
luận các qui định của pháp luật về và nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy
định về pháp luật về kháng cáo các vụ án hình sự theo thủ tục phúc thẩm trên địa
bàn tỉnh miền núi Bắc Kạn trên cơ sở đó rút ra những hạn chế từ thực tiễn áp
dụng pháp luật cũng như nguyên nhân và từ đó đề xuất các biện pháp phù hợp
giữa lý luận và thực tiễn để đưa ra được hướng hoàn thiện tổng hợp cho công tác
xét xử nói riêng trong công cuộc cải cách tư pháp nói chung mà Đảng đã khẳng
định "các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo
vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp
luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm
và vi phạm" (Nghị quyết số 49/NQ/TW- ngày 02/06/2005).
Từ những luận giải trên, một lần nữa khẳng định việc nghiên cứu đề tài:
"Những vấn đề lý luận và thực tiễn về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm các
vụ án hình sự (trên cơ sở thực tế tại địa bàn tỉnh Bắc Kạn)" là cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là trên cơ sở lý luận và thực tiễn
(cụ thể là địa bàn tỉnh Bắc Kạn), luận văn tìm hiểu những tồn tại vướng mắc,
xác định nguyên nhân, qua đó đề xuất những phương hướng, giải pháp hoàn
thiện các qui định của pháp luật tố tụng hình sự và một số giải pháp khác
nhằm tăng cường sự phù hợp giữa lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của
hoạt động kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm
vụ sau đây:

+ Phân tích khái niệm và ý nghĩa của kháng cáo các vụ án hình sự theo
thủ tục phúc thẩm.
+ Làm rõ và đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
+ Phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành hoạt động kháng cáo theo thủ
tục phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, làm rõ những vướng mắc trong quy
định của pháp luật, những tồn tại trong thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của
những vướng mắc, tồn tại đó.
+ Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động kháng cáo theo thủ tục phúc
thẩm trên thực tế.
3.3. Phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề chung về kháng
cáo theo thủ tục phúc thẩm. Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là một chế
định rộng và phức tạp liên quan đến nhiều chế định khác trong pháp luật tố
tụng hình sự. Bởi vậy, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, không thể xem
xét và giải quyết mọi vấn đề một cách toàn diện và sâu sắc. Do đó, luận văn
chỉ tập trung trình bày những nội dung cơ bản của kháng cáo theo thủ tục
phúc thẩm như: chủ thể, thời hạn, thủ tục, vấn đề thay đổi bổ sung kháng
cáo… đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc
thẩm trong BLTTHS năm 2003.
- Về địa điểm: Luận văn nghiên cứu thực tiễn của hoạt động kháng cáo
theo thủ tục phúc thẩm các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
- Về thời gian: Trong khoảng thời gian 6 năm trở lại đây (2010 - 2015) và
06 tháng đầu năm 2016.
5


4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật

lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách
hình sự, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống
kê để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng
được nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Với ý nghĩa phục vụ cho công tác nghiên cứu, với động lực tìm hiểu
pháp luật để góp phần làm phong phú thêm lý luận về pháp luật tố tụng hình
sự. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận
và thực tiễn. Những điểm mới của luận văn là:
- Làm rõ những khái niệm và những qui định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm các vụ án hình sự.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện hoạt động kháng cáo theo
thủ tục phúc thẩm các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn trong khoảng
thời gian 6 năm (2010 - 2015) và 6 tháng đầu năm 2016. Đồng thời phân tích
làm rõ những tồn tại, hạn chế của thực tiễn hoạt động kháng cáo nói chung và
hoạt động kháng cáo ở địa bàn nghiên cứu nói riêng.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động
kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trên thực tế. Hoàn thiện các qui định của
pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm các
vụ án hình sự.

6


Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích

không chỉ dành cho các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc
chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo Luật. Kết quả nghiên cứu
của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các
cán bộ thực tiễn đang công tác trong các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời là
cơ sở cho các nhà lập pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành để
góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần hoàn
thiện pháp luật trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
Chương 2: Qui định của BLTTHS năm 2003 và năm 2015 về kháng
cáo theo thủ tục phúc thẩm và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
và nâng cao hiệu quả hoạt động kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm

7


Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ KHÁNG CÁO
THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM
1.1. Khái niệm kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
Theo Từ điển tiếng Việt, “kháng cáo là chống án lên Tòa án cấp trên yêu
cầu xét xử lại” [38, tr.492]. Khái niệm trên chỉ nêu một cách chung chung, cho
ta một khái niệm khái quát và mang tính hình thức mà chưa đề cập đến những
vấn đề cơ bản của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm như: chủ thể, đối tượng…
Theo cách định nghĩa này thì khái niệm “kháng cáo” đồng nghĩa với “chống án”

mà trước đây một số người thường dùng. Pháp luật TTHS nước ta hiện nay
không dùng thuật ngữ này mà thống nhất dùng thuật ngữ “kháng cáo”.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, còn có những khái niệm khác nhau về
kháng cáo. Trong cuốn “Từ điển giải thích luật học” của Trường Đại học Luật
Hà Nội có đưa ra khái niệm kháng cáo “Người tham gia tố tụng có quyền và lợi
ích trong vụ án yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án hoặc quyết
định sơ thẩm” [31, tr.182]. Khái niệm trên đã nêu được đối tượng, chủ thể, mục
đích của kháng cáo nhưng chưa chỉ rõ được đối tượng là bản án có hiệu lực hay
chưa có hiệu lực pháp luật. Nên định nghĩa này cũng chưa đầy đủ.
Tác giả Đinh Văn Quế trong cuốn “Thủ tục phúc thẩm trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam” đã đưa ra khái niệm “Kháng cáo là biểu thị sự bất
đồng của mình đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu
cầu tòa án cấp trên xét xử lại” [15, tr.8]. Đây là một khái niệm khá đầy đủ đã
nêu được chủ thể, đối tượng và Tòa án có thẩm quyền xét xử, nhưng chưa
chính xác ở điểm “tòa án cấp trên”. Theo Điều 230 BLTTHS 2003 thì chỉ có
“Tòa án cấp trên trực tiếp” mới có quyền xét xử lại bản án, quyết định theo
thủ tục phúc thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Mặt

8


khác, định nghĩa trên đã nêu được đối tượng của kháng cáo nhưng chưa chỉ rõ
đối tượng của kháng cáo phúc thẩm.
Kháng cáo “là quyền theo luật định của những người tham gia tố tụng
được đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm đang còn trong thời gian kháng cáo” [1, tr.249]. Đây là một khái niệm
khá hợp lý, đã nêu được chủ thể có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là
những người theo luật định mà không phải là bất cứ người tham gia tố tụng nào
cũng có quyền kháng cáo như: Người bị tạm giữ, người làm chứng... Ngoài ra,
khái niệm này còn nêu được Tòa án có thẩm quyền xét xử, thời hạn kháng cáo.

Tuy nhiên, khái niệm trên chưa chỉ rõ được đối tượng của kháng cáo.
Nhìn chung, các khái niệm nêu trên đều chưa đưa ra được một khái
niệm chính xác về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Theo chúng tôi, để có
được khái niệm đầy đủ và hoàn chỉnh về kháng cáo, chúng ta cần làm rõ
những vấn đề sau:
Thứ nhất, đối tượng của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là các bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Trong thời
hạn luật định (hoặc ngoài thời hạn luật định nhưng có lý do chính đáng), nếu
bản án hoặc quyết định bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì
Tòa án cấp trên của Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải xét xử lại bản án theo thủ
tục phúc thẩm.
Thứ hai, chủ thể có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là những
người tham gia tố tụng, nhưng không phải tất cả người tham gia tố tụng đều có
quyền kháng cáo mà chỉ những người được pháp luật quy định cụ thể mới có
quyền kháng cáo. Chủ thể của quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm có thể
là những người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, bản án và quyết định
của Tòa án đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Chủ thể của
quyền kháng cáo còn có thể là những người không có quyền và lợi ích pháp lý

9


liên quan đến vụ án nhưng họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho những
người khác. Đó là người mà họ đại diện hợp pháp hoặc là người họ nhận bào
chữa, bảo vệ quyền lợi trong trường hợp những người này chưa thành niên
hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Do bản án, quyết định của Tòa án có
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ hoặc của người mà
họ đại diện, bảo vệ nên pháp luật quy định cho họ quyền kháng cáo theo thủ tục
phúc thẩm đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án
cấp sơ thẩm, để họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thứ ba, mục đích của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Khi xét xử Tòa án phải
tuân theo pháp luật từ việc đánh giá chứng cứ đến việc đưa ra bản án, quyết
định. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà bản án có thể không đúng pháp luật,
không đảm bảo sự chính xác. Pháp luật quy định quyền kháng cáo phúc thẩm
để Tòa án cấp trên trực tiếp phải xem xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật có sai sót, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người tham gia tố tụng, tạo cho công dân niềm tin vào sự công minh của pháp
luật. Trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị và trong thời gian xét xử phúc
thẩm, bản án sơ thẩm chưa được đưa ra thi hành. Cho nên, khi xét xử phúc
thẩm bản án hoặc quyết định đó còn có thể được sửa theo hướng có lợi cho
người tham gia tố tụng. Mặt khác, nếu họ bị xử oan sai ở giai đoạn sơ thẩm
thì sẽ được sửa sai, minh oan và trả tự do ngay sau khi HĐXX phúc thẩm
tuyên án. Hay nếu bị cáo bị xử quá nhẹ so với hành vi phạm tội của mình thì
sẽ phải chịu hình phạt thích đáng và tương ứng với thiệt hại mà mình gây ra.
Quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm còn nhằm để thực hiện
“nguyên tắc hai cấp xét xử”, một nguyên tắc đã có quá trình hình thành lâu
dài và mới được quy định lại trong BLTTHS năm 2003. Theo đó, xét xử sơ
thẩm là cấp xét xử thứ nhất, bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm

10


sau khi tuyên thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị, bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trực tiếp yêu
cầu xét xử lại. Phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai. Thực hiện tốt “nguyên tắc hai
cấp xét xử” là đảm bảo nền pháp chế XHCN.
Thứ tư, quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm của những người tham
gia tố tụng phải được thể hiện dưới hình thức nhất định và theo thời hạn được
quy định trong luật TTHS mới được coi là hợp pháp. Thời hạn kháng cáo

được quy định chung cho tất cả các chủ thể có quyền kháng cáo nhưng cách
tính thời điểm bắt đầu khác nhau.
Từ những điểm đã phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm kháng cáo
theo thủ tục phúc thẩm như sau: “Kháng cáo là quyền của những người tham
gia tố tụng theo quy định của pháp luật được yêu cầu Tòa án cấp trên trực
tiếp xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật trong thời
hạn và theo thủ tục luật định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
1.2. Cơ sở của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm
1.2.1. Cơ sở lý luận
Tư pháp hình sự là lĩnh vực hoạt động đặc thù của Nhà nước thông qua
các cơ quan có thẩm quyền của mình nhằm thực hiện quyền tư pháp. Lĩnh vực
hoạt động này mang tính phức tạp và nhạy cảm, bởi nó động chạm trực tiếp đến
các quyền và tự do dân chủ (kể cả tính mạng của công dân). Mọi sai lầm dù lớn
hay nhỏ xảy ra trong quá trình xử lý tội phạm và người phạm tội đều dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí không thể khắc phục được. Bởi vậy, phải
đề ra các hình thức, phương thức tối ưu để “phát hiện nhanh chóng, chính xác
và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.. bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân” [24, Điều 1]. Một trong những phương thức như vậy là quy định và bảo
đảm thực hiện có hiệu quả quyền của những người tham gia tố tụng hình sự
được kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm tại Tòa án cấp cao hơn.
11


Căn cứ pháp lý của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự, trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
BLTTHS 2003 đã quy định về tính chất của xét xử phúc thẩm là “việc Tòa án
cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết
định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc
kháng nghị” [24, Điều 230]. Tiếp đó các Điều từ 231 đến 240 của BLTTHS

2003 đã quy định về chủ thể có quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo, thời
hạn kháng cáo, kháng cáo quá hạn, thời hạn kháng cáo, thay đổi bổ sung
kháng cáo, hậu quả của kháng cáo..... Tại Điều 6 của Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 cũng đã quy định Tòa án nhân dân đảm bảo chế độ xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm.
- Việc quy định và thực hiện chế định kháng cáo phúc thẩm là cơ sở
pháp lý làm phát sinh thủ tục phúc thẩm. Khi có kháng cáo phúc thẩm Tòa
án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành mở phiên tòa
phúc thẩm xét xử lại vụ án về nội dung. Tòa án cấp phúc thẩm khi xét lại bản
án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo và trong quá
trình xét xử lại vụ án có khả năng phát hiện những sai lầm, thiếu sót trong
việc xét xử sơ thẩm và sửa chữa những sai lầm, thiếu sót đó một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp. Qua đó, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Mặt khác, thông qua việc sửa chữa sai
lầm của Tòa án cấp dưới, Tòa án cấp phúc thẩm hướng dẫn Tòa án cấp dưới
giải thích và vận dụng đúng pháp luật.
- Hệ quả của kháng cáo phúc thẩm hình sự là để tiến hành một
phiên tòa xét xử cấp thứ hai (cấp phúc thẩm)
- Chế định kháng cáo phúc thẩm còn là sự đảm bảo thực hiện một số
nguyên tắc cơ bản của luật TTHS như nguyên tắc “thực hiện chế độ hai
cấp xét xử” đây là nguyên tắc thể hiện thái độ thận trọng của Nhà nước trong

12


việc đưa ra phán xét về số phận pháp lý, sinh mạng và quyền lợi của người đã
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Sự hình thành và phát triển của
quyền kháng cáo trong tố tụng hình sự gắn liền với sự hình thành và phát triển
của các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ và tiến bộ của tố tụng hình sự như
công bằng, nhân đạo, suy đoán vô tội, đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị

cáo, xét xử công khai, trực tiếp bằng lời nói..
- Quyền kháng cáo trong tố tụng hình sự là phạm trù có thể được
nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau tùy thuộc vào vấn đề nghiên cứu.
Dưới góc độ là quyền con người, quyền kháng cáo thể hiện khả năng của
công dân – những người tham gia tố tụng hình sự (bị cáo, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ
án hình sự) được bày tỏ trong đơn kháng cáo sự không đồng ý của mình đối
với phán quyết của Tòa án đã xét xử sơ thảm và đề nghị Tòa án cấp trên trực
tiếp của Tòa án đã ra phán quyết (bản án hay quyết định hình sự) đó xét xử lại
theo trình tự phúc thẩm. Dưới góc độ pháp luật, quyền kháng cáo được hiểu là
chế định của pháp luật tố tụng hình sự, bao gồm tổng thể các quy định về các
chủ thể có quyền kháng cáo; thủ tục kháng cáo, thời hạn kháng cáo, kháng
cáo quá hạn, thông báo về việc kháng cáo; hậu quả của việc kháng cáo; bổ
sung, thay đổi, rút kháng cáo..
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
-Việc quy định và thực hiện chế định kháng cáo trong TTHS có ý nghĩa
quan trọng trong việc đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Quy định quyền kháng cáo cho bị cáo và những người tham gia tố tụng liên
quan là Nhà nước đã tạo điều kiện cho họ tự mình đứng ra bảo vệ các quyền
và lợi ích chính đáng của công dân. Quyền kháng cáo của bị cáo và người đại
diện hợp pháp của họ là một trong những cách thức để thực hiện quyền bào
chữa của bị cáo. Kháng cáo là cơ sở pháp lý để Tòa án cấp trên mở phiên tòa

13


phúc thẩm, qua đó bị cáo có thể trình bày thêm những chứng cứ hay thông tin
liên quan để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét và quyết định. Thông qua kháng
cáo, họ thể hiện sự bất đồng và những quan điểm của mình về việc giải quyết
vụ án ở cấp sơ thẩm, đồng thời đề đạt những nguyện vọng, yêu cầu của mình

đối với Tòa án cấp phúc thẩm, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, đảm bảo sự dân chủ. Tòa án với nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp của
nhà nước, trong phạm vi xét xử của mình phải đảm bảo xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Vì thế, khi nhận được một bản kháng cáo thì cả Tòa
án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều phải có trách nhiệm kiểm tra lại
bản án, quyết định đã tuyên. Bản án, quyết định nếu có sai sót thì sửa chữa,
khắc phục, nếu đúng pháp luật thì bác đơn kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ
thẩm. Đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật sẽ nâng cao uy
tín của Tòa án, tạo lòng tin cho người bị hại, người có quyền và lợi ích liên
quan, thậm chí cả bị cáo khi nhận được một bản án đúng với hành vi của
mình, đồng thời tạo lòng tin cho cả xã hội.
- Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết định bị kháng cáo đã
thể hiện mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và công dân, đáp ứng yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền.
- Khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo Tòa án phúc thẩm
sẽ tiến hành nhiều biện pháp nhằm làm sáng tỏ nội dung kháng cáo, xem xét
những vấn đề khác có liên quan, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết
khác để đưa vụ án ra xét xử. Trong toàn bộ quá trình này, Viện kiểm sát có
nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với tất cả các hoạt động tố
tụng của HĐXX và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa phúc
thẩm. Hoạt động này của Viện kiểm sát cũng là một nhân tố bảo đảm cho hoạt
động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa (như tham gia
xét hỏi, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát, tranh luận, đối đáp, đề nghị

14


HĐXX chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị) đạt hiệu quả
cao. Kiểm sát viên theo dõi chặt chẽ diễn biến phiên tòa, kịp thời phát hiện
những sai lầm thiếu sót của HĐXX trong quá trình giải quyết vụ án để yêu

cầu khắc phục ngay, đảm bảo vụ án được giải quyết đúng đắn, khách quan,
công bằng và đúng pháp luật, đảm bảo nguyên tắc pháp chế và đảm bảo tính
tối thượng của pháp luật.
- Khi các chủ thể thực hiện quyền kháng cáo của mình đồng nghĩa với
việc họ đã giúp Tòa án cấp trên biết những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp
dưới để có sự chỉ đạo, hướng dẫn, kịp thời khắc phục những sai phạm và rút
kinh nghiệm cho công tác xét xử, đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật thống
nhất của Tòa án các cấp. Từ nội dung kháng cáo các cơ quan bảo vệ pháp luật
sẽ thấy những vướng mắc trong quy định của pháp luật, từ đó có kiến nghị
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
- Xét xử phúc thẩm xét về bản chất là hình thức kiểm tra của Tòa án
cấp trên trực tiếp đối với hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới trực tiếp nhằm
phát hiện và khắc phục kịp thời những sai lầm, thiếu sót có thể có trong bản
án hoặc quyết định của Tòa án cấp dưới trực tiếp chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị. Chính vì thế mà tất cả các nước văn minh đều thừa
nhận chế độ hai cấp xét xử: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm đối với vụ án
mà chưa có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Xét xử phúc thẩm
chỉ đặt ra khi có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của
Tòa cấp dưới trực tiếp chưa có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, kháng cáo là một
trong những cơ sở để mở phiên tòa phúc thẩm.
- Sự ra đời của quyền kháng cáo trong tố tụng hình sự là nhu cầu tất yếu
khách quan, xuất phát từ bản chất của tố tụng hình sự là bảo vệ ngày càng có
hiệu quả hơn quyền con người trong lĩnh vực hoạt động đặc thù – tố tụng hình
sự. Quyền kháng cáo là biểu hiện của dân chủ và tiến bộ, bảo đảm pháp lý cho
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự.
15


- Sự ra đời của quyền kháng cáo còn xuất phát từ quan niệm đúng đắn
của các nhà lập pháp cho rằng, nhờ xét xử phúc thẩm các vụ án khi kháng

cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm Tòa án cấp trên trực tiếp sẽ hạn chế
những sai sót về xét xử cả các Thẩm phán Tòa án sơ thẩm cấp dưới trực tiếp.
Tòa án cấp trên trực tiếp làm được điều đó, bởi Tòa án có những Thẩm phán
giỏi hơn, có kinh nghiệm xét xử đúng và công bằng hơn. Đồng thời, do Tòa
án cấp trên ở xa các đương sự nên không chịu ảnh hưởng từ phía địa phương.
- Sự ra đời của quyền kháng cáo là một nhu cầu tất yếu khách quan của
xã hội, gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng về nguyên tắc
dân chủ và tiến bộ xã hội của tố tụng hình sự. Ngày nay, dân chủ hóa mọi mặt
đời sống xã hội đang trở thành xu hướng tất yếu của các quốc gia, vì vậy,
quyền được kháng cáo trong tố tụng hình sự ngày càng được hoàn thiện và trở
thành một trong những hình thức phương tiện đảm bảo và bảo vệ có hiệu quả
quyền con người trong tố tụng hình sự
Việc quy định và thực hiện chế định kháng cáo phúc thẩm là cơ sở
pháp lý đảm bảo cho quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng được bảo vệ
một cách công khai và chính đáng. Với nhiều lý do khác nhau, bản án sơ thẩm
có thể quá nặng hoặc quá nhẹ so với mức độ nguy hiểm của tội phạm gây ra,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng. Trong
trường hợp đó người có quyền kháng cáo thực hiện quyền kháng cáo nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích của chính họ hoặc cho người mà họ đại diện. Quy
định quyền kháng cáo là cách mà pháp luật trao sự chủ động và quyền tự bảo
vệ chính mình cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Như vậy, việc quy định và thực hiện chế định kháng cáo theo thủ tục
phúc thẩm trong tố tụng hình sự góp phần rất lớn vào việc đảm bảo công bằng
xã hội, nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức pháp luật và phòng ngừa tội phạm,
góp phần củng cố lòng tin của của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án,

16


nâng cao uy tín của Tòa án nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói

chung. Bởi vì, mục đích cao nhất của hoạt động xét xử là đảm bảo xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai và bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
1.3. Sơ lược lịch sử phát triển những qui định của pháp luật về
kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự trước khi ban
hành bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Luật tố tụng hình sự là một bộ phận quan trọng trong pháp luật Việt
Nam, được hình thành và phát triển qua quá trình dựng nước và giữ nước
hàng nghìn năm của dân tộc. Bên cạnh yếu tố truyền thống được kế thừa qua
các thời đại, tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng giai đoạn lịch
sử đất nước, luật tố tụng hình sự của nước ta có những nét riêng. Đặc biệt sau
cách mạng tháng tám 1945 thành công, nhà nước Việt Nam kiểu mới được
hình thành, luật tố tụng hình sự xã hội chủ nghĩa đã có những bước biến đổi
về bản chất, với nhiều chế định dân chủ, tiến bộ mới.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1960
Trong giai đoạn này, do đặc thù của lịch sử - đất nước vừa dành được
độc lập từ tay phát xít Nhật, chế độ phong kiến sụp đổ. Chính quyền đang
trong giai đoạn xây dựng đã lại phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống thực dân
Pháp lâu dài, gian khổ. Do đó, tố tụng hình sự không có bộ luật quy định cụ
thể mà được quy định rải rác trong các Sắc lệnh, Nghị định của Chính phủ.
Trong năm 1945, Tòa án chỉ tổ chức một cấp, những quyết định của
Tòa án sẽ được thi hành ngay sau khi tuyên án, không có quyền chống án. Trừ
trường hợp bị Tòa án quân sự kết án tử hình thì có quyền làm đơn lên Chủ
tịch Chính phủ xin ân giảm án tử hình, thì bản án sẽ chưa được thi hành mà
phải chờ quyết định của Chủ tịch Chính phủ [4].
Ngày 24/01/1946 – Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ

17



cộng hòa đã ra sắc lệnh số 13 về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán.
Đây là sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ tổ chức giải quyết các
tranh chấp, xử phạt các việc vi cảnh ở cơ sở cũng như tổ chức các Tòa án
theo quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán.
Theo quy định tại Điều 34 của sắc lệnh thì Tòa đại hình sẽ xử sơ thẩm; ông
biện lý, bị can và nguyên đơn có quyền chống án lên tòa Thượng Thẩm. Sắc
lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 (được sửa đổi bằng sắc lệnh số 112 ngày
28/6/1946) [27, tr. 205], quy định thời hạn kháng cáo đương tịch của Tòa sơ
cấp hay đệ nhị cấp là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Nếu đương sự vắng mặt,
thì thời hạn trên kể từ ngày tống đạt bản án. Hạn kháng án khuyết tịch về hình
sự là 15 ngày, kể từ ngày tống đạt. Nếu không tống đạt được cho đích thân,
thì đương sự mất quyền kháng án khuyết tịch một khi án đã được thi hành
xong. Đối với những việc mà theo luật đương sự có quyền kháng cáo, thì thời
hạn kháng cáo là 30 ngày. Hạn kháng cáo cho Biện lý là 15 ngày, kể từ ngày
tuyên án và Chưởng lý là 30 ngày, kể từ ngày Phòng chưởng lý nhận được
trích lục hàng tuần quyển án bạ lược biên các án đã xử trong tuần (không tính
ngày tuyên án hay ngày tống đạt, ngày ký đơn kháng án khuyết tịch hay
kháng cáo). Ngày kháng cáo của Chưởng lý là ngày gửi giấy kháng cáo cho
lục sự Tòa đệ nhị cấp. Người kháng án khuyết tịch hay kháng cáo có thể đến
phòng lục sự Tòa án đã xử để ký vào sổ, gửi dây thép hoặc thư hay khai ngay
vào giấy tống đạt.
Như vậy, có thể thấy rằng, trong giai đoạn này, các nguyên tắc của
pháp luật TTHS nói chung và các quy định về kháng cáo phúc thẩm trong
TTHS nói riêng mới chỉ là những quy phạm mang tính chất định hướng cho
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ở nước ta nói chung và các cấp
Tòa án nói riêng. Các quy định về phúc thẩm chủ yếu được ghi nhận trong các
văn bản dưới luật và có nội dung rất khái quát, chung chung. Tuy nhiên đây là

18



×