Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.83 MB, 102 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

NGUYÊN THANH THỦY

HOAN THIỆN PHAP LUẬT

VỀ THI HANH ÁN DÂN SỰ

Chuyên ngành : Luật dân sựMã số : 5.05.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Dinh Trung Tung

<small>^ tem 8 5</small>

<small>he sce HẠ</small>

<small>—....</small>

HÀ NỘI - 2001 in bạ, hộ! HAT HÁ HBE 1166 $v

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Tác giả xin bay tỏ lịng biết on sâu sắc

đối với các thầy giáo, cơ giáo đã chỉ bảo tậntình; xin cảm ơn các anh, chị, bạn bè đồng

nghiệp và gia đình đã động viên, khuyến

khích, giúp đỡ, đóng góp ý kiến q báu để

tác giả hoàn thành bản luận văn này.

TAC GIA LUẬN VAN

Nguyễn Thanh Thủy

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Khái niệm, nguyên tắc, ý nghĩa của thi hành án dân sự

Vài nét về sự hình thành, phát triển của thi hành án dân sự

Việt Nam từ năm 1945 đến nay

Vài nét về thi hành án dân sự ở một số nước

Chương 2: THUC TRẠNG PHÁP LUAT VÀ THUC TIEN THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ

Thực trạng pháp luật về thi hành án dân sựThực tiễn hoạt động thi hành án dân sự

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHAP IOÀN THIỆN PHAP LUATTHI HANH ÁN DÂN SU

Những giải pháp trước mắt nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng

mắc trong thi hành án dân sự hiện nay

Những giải pháp cơ bản, lâu dài nhằm hoàn thiện pháp luật

về thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng

<small>101</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

1. Tính cấp thiết của đề tài

Một trong những nhiệm vụ quan trọng hang đầu của công cuộc đốimới mà Đảng ta đã đề ra là từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam. Đó là một Nhà nước, trong đó vai trị pháp chế được đềcao, pháp luật được tơn trọng và bảo đảm thực hiện. Ở đây, yêu cầu bức xúc

hàng đầu là phải tạo ra và duy trì ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã

hội, quản lý nhà nước. Đặc biệt, yêu cầu pháp chế phải được coi là một nộidung hết sức quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Pháp chế đòi hỏi phải

chấp hành nghiêm chỉnh các phán quyết nhân danh Nhà nước của Tòa án nhân

dân. Điều 136, Hiến pháp 1992 đã khẳng định: "Các bản án và quyết định củaTòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổchức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng;

những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.

Phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước sẽ chỉ là những quyết định

trên giấy nếu không được tổ chức thi hành hoặc thi hành không đây đủ trên

thực tế. Hoạt động thi hành án kém hiệu quả sẽ gây dư luận xấu, ảnh hưởngtrực tiếp đến lịng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật.

Xác định đúng vai trò và ý nghĩa của hoạt động thi hành án, trước tìnhhình hoạt động thi hành án kém hiệu quả, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IXđã quyết định bàn giao cơng tác thi hành án dân sự từ Tòa án nhân dân các cấp

sang các cơ quan của Chính phủ từ tháng 6 năm 1993. Thực tiễn đã chứng

minh sự đúng đắn, kịp thời của chủ trương nêu trên, bước đầu tạo ra sự chuyển

biến đáng khích lệ, làm thay đổi cục diện thi hành án sau nhiều năm trì trệ,

góp phần quan trọng vào việc thiết lập kỷ cương, nâng cao ý thức pháp luậtcủa nhân dân. Song bên cạnh những kết qua đạt được, thực tế hoạt động thi

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Các văn bản pháp luật về thi hành án, đặc biệt là Pháp lệnh thi hành ándân sự năm 1993 - van bản pháp lý có hiệu lực cao nhất trong lĩnh vực thi

hành án dân sự, được ban hành trong bối cảnh nước ta đang chuyển đổi từ cơ

chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theođịnh hướng xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ đó, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm

tổ chức thi hành án theo cơ chế mới. Về cơ bản, pháp lệnh này vẫn giữ nguyêncác quy định về trình tự, thủ tục thi hành án của Pháp lệnh thi hành án dân sự

năm 1989, chưa có điều kiện sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quan trọng về

trình tự, thủ tục thi hành án. Nhiều quy định còn sơ hở, thiếu chặt chẽ dẫn đếntình trạng áp dụng pháp luật khơng thống nhất, pháp luật khơng được chấphành nghiêm chỉnh, gây nên tình trạng tồn đọng án kéo dài nhiều năm khôngthi hành được (tính đến 30/6/2001 số việc tổn dong khơng thi hành được là150.475 việc, chiếm 42,7%). Đây là mối quan tâm, trăn trở của nhiều cấp,nhiều ngành gây nên sự bất bình và thiếu lịng tin trong dư luận xã hội.

Mặt khác, chủ trương xây dụng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật địi hỏi phải hồn thiện phápluật về thi hành án. Nghị quyết Trung ương Dang lần thứ tám, khóa VII đã chủtrương: "sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án theo hướng tiến

tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ Tưpháp”. Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ ba, Nghị quyết Trung ương Đảnglần thứ bay, khóa VII và Báo cáo chính trị tại Đại hội Dang lần thứ IX tiếp

tục khẳng định chủ trương hoàn thiện pháp luật về thi hành án theo hướng gọn

đầu mối.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu chun sâu vấn đề hoàn thiện pháp luậtthi hành án dân sự là hết sức cấp bách, cần thiết, góp phần giải quyết tìnhtrạng án tồn đọng nói riêng và hồn thiện pháp luật về thi hành án nói chung.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành án dân sự, đề tài đưa ra

những giải pháp thích hợp trong giai đoạn trước mat va lâu dài nhằm hoànthiện pháp luật về thi hành án dân sự, làm luận cứ để sửa đổi, bổ sung Pháp

lệnh thi hành án dân sự năm 1993, xây dựng Luật thi hành án, góp phần giảiquyết tình trạng tồn đọng án, nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án.

3. Phạm vỉ nghiên cứu của đề tài

Thi hành án dân sự không phải chi là hoạt động có tính chất chunmơn, nghiệp vụ đơn thuần, mà cịn mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Việcnghiên cứu toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành án dân sự là một vấn đềrộng lớn, phức tạp không chỉ nêng đối với khoa học pháp lý, mà còn là nhiệm vụcủa các Tinh vực khoa học xã hội khác như xã hội học, lịch sử, quản lý nhà nước...

Phạm vi nghiên cứu của đề tài này chủ yếu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thi

hành dân sự trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành của Nhà nước ta,

kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành dân su, nâng

cao hiệu qua của hoạt động thi hành án. Luận án có những nhiệm vu sau đây:- Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự, làm

rõ khái niệm, bản chất, đặc trưng; nguyên tắc ý nghĩa thi hành án dân sự; lich

sử hình thành, phát triển thi hành án dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay;

- Đánh giá đúng thực trạng tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự, cơ

chế thi hành án dân sự và thực trạng pháp luật thi hành án dân sự;

- Trên cơ sở đó, nêu lên các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật thi

hành án nói chung và pháp luật thi hành án dân sự nói nêng.4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Luan án được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận củachủ nghĩa duy vat biện chứng, chủ nghĩa duy vật lich sử và phương pháp luận

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

điều tra, phương pháp phân tích, tổng hợp...

5. Tình hình nghiên cứu và điểm mới của đề tài

Về mặt lý luận, trong thời gian qua, việc nghiên cứu về cơng tác thihành án nhìn chung là một hoạt động còn rất mới mẻ, chưa được quan tâm đầyđủ. Trong quá trình thực hiện đề tài cải cách tư pháp, cũng như góp phần xâydựng các Nghị quyết Trung ương Đảng, vấn đề thi hành án đã được đặt ra và

triển khai nghiên cứu ở mức độ nhất định. Đề tài Thừa phát lại do Viện

Nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ ChíMinh phốt hợp thực hiện đã bước đầu đưa ra những căn cứ cho khả năng xãhội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự. Bên cạnh đó cịn có đề tài khoahọc cấp Bộ về mơ hình quản lý thống nhất cơng tác thi hành án do Cục quảnlý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì; Luận văn Thạc sĩ Luật học "Một số

vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự Việt Nam" của tác giả Trần

Văn Quang; Luận văn Thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành ándân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hồn thiện" của Nguyễn Cơng Long; đặcbiệt là đề tài khoa học cấp Nhà nước độc lập "Luận cứ khoa học và thực tiễn

của việc đổi mới tổ chức hoạt động thi hành án ở Việt nam trong giai đoạn

mới" do Bộ Tư pháp chủ trì đang được triển khai thực hiện một cách tích cực.

Ngồi ra, trên diễn đàn sách, báo pháp lý cũng xuất hiện một số bài nghiên

cứu, trao đổi về thi hành án. Tuy nhiên, nhìn chung kết quả của những cơng

trình nghiên cứu trên đang là bước đầu, mới dừng lại ở một số khía cạnh củacác vấn đề về thi hành án. Chưa có một đề tài nào tập trung nghiên cứu sâu,toàn diện vấn đề hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự.

Luận văn này là một trong những cơng trình nghiên cứu chun khảođầu tiên về thi hành án dân sự Việt Nam. Nội dung của luận văn đề cập mộtcách có hệ thống khái niệm, bản chất, đặc trưng, nguyên tac, ý nghĩa thi hành

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

giới và khu vực; đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật thi hành án dân sự và

thực tiễn thi hành án dân sự; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

về thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng. Những kết luận và

kiến nghị được đưa ra trong luận văn này nhằm góp phần trực tiếp vào việc sửađổi, bổ sung Pháp lệnh thi hành án dân sự hiện hành, cũng như quá trình

nghiên cứu xây dựng Luật thi hành án, nâng cao hiệu quả hoạt động thi hànhán dân sự ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục;luận văn gồm có 3 chương, 7 tiết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

1.1. KHÁI NIEM, NGUYEN TÁC, Ý NGHĨA CUA THI HANH ÁN DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm thi hành án

Xét trong mối quan hệ với quyền lập pháp và quyền hành pháp thìquyền tư pháp thực hiện xoay quanh trục của hoạt động xét xử, là quá trình đi

tìm chân lý để áp dụng công lý, phán quyết sự công bằng theo quy định củapháp luật. Toàn bộ hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động bổ trợ tư pháp

đều nhằm phục vụ công tác xét xử để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp phápcủa Nhà nước, cơ quan, tổ chức và của cơng dân. Song q trình điều tra, truy

tố, xét xử vụ án mới chỉ là những giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền vàlợi ích hợp pháp của đương sự. Kết thúc giai đoạn xét xử, Tòa án đưa ra những

phán quyết về nội dưng vụ án, kết án người phạm tội hay tuyên bố một ngườilà vô tội hoặc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Bản án của Tòa án thể

hiện quyền lực tối cao của Nhà nước trong việc quản lý xã hội nhằm mục đíchbảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và các chủ thể khác, bảo đảm trật tự, kỷ

cương. Khi những phán quyết đó của Tịa án được thực thi trên thực tế, thìquyền tư pháp của Nhà nước mới được thực hiện tron ven, công lý mới trở

thành hiện thực, trật tự pháp luật mới được khơi phục. Chính vì vậy, Điều 136

của Hiến pháp 1992 đã nêu rõ: "Các bản án và quyết định của Tịa án đã có

hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã

hội, các đơn vị vũ trang nhân dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan

phải nghiêm chính chấp hành".

Có thể nói. vấn đề bảo đảm hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án là

yêu cầu tất yếu khách quan trong hoạt động nhà nước, là nguyên tac hiến địnhchỉ đạo toàn bộ ié chức và hoạt động thi hành án ở nước ia từ nhiều năm nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

của Nhà nước ta. Thi hành án vừa có những đặc tính phổ biến của một dạnghoạt động nhà nước, vừa có những đặc trưng cơ bản sau đây:

a) Thi hành án là một hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử của Tịấn. Các bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến

hành các hoạt động thi hành án. Do đó, có thể khẳng định rằng: khơng có kết

quả của hoạt động xét xử thì khơng thể có hoạt động thi hành án. Song thi

hành án là một dạng hoạt động hành chính - tư pháp, chứ không phải là hoạt

động tố tụng (hình sự, dân sự), bởi vì xét về mặt bản chất của vấn đề, thì thi

hành án hồn tồn khác với tố tụng. Bản chất và mục đích của tố tụng là xác

định sự thật của các vụ việc để trên cơ sở đó giải quyết từng trường hợp theo

đúng quy định của pháp luật. Tồn bộ q trình tố tụng diễn ra theo một trình

tự hết sức chặt chẽ, tn thủ các ngun tac bình đẳng, cơng khai, dân chủ,

tơn trọng quyền và lợi ích của người tham gia tố rụng. Khi có phán quyết của

Tịa án, nghĩa là khi sự thật đã được khẳng định và việc áp dụng pháp luật đã

hồn thành thì q trình tố tụng kết thúc.

Có thể nói một cách hình ảnh thì tố tụng là quá trình đi tìmchân lý để áp dụng cơng lý (pháp luật). Trong khi đó, thi hành án là

q trình thực thi chân lý bằng cơng lý. Ở đây chân lý đã rõ, có tội

hay vơ tội, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng, còn thi hành án làquá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án vàquyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật [49, tr. 22-23].

b) Thi hành án là hoạt động có tính chấp hành, vì thi hành án chỉ đượctiến hành trong khuôn khố pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án,quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy vây, tính chấp hành trongthi hành án có những nét đặc thù nêng, bởi lẽ đây là hoạt động chủ yếu do cơquan tư pháp (theo nghĩa rộng) hay đối tượng phải thi hành án tiến hành. Mặt

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

khác, cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án bao gồm các quy định củapháp luật (thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật) và bản án, quyết

định của Tòa án (văn bản áp dụng pháp luật) đã có hiệu lực pháp luật. Hơnnữa, mục đích cuối cùng của hoạt động thi hành án là bao đảm cho các nộidung của các bản án quyết, định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật đượcthực thi chứ không phải là ra các văn bản áp dụng pháp luật hoặc các quyếtđịnh có tính điều hành như trong hoạt động của cơ quan hành chính.

c) Thị hành án là hoạt động có tính quản lý, vì nó địi hỏi các yếu tố kế

hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử lý... nhằm tác động tới các đối tượng

phải thi hành án để họ tự nguyện thi hành hoặc áp dung các biện pháp buộc ho

phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyết định của Tịấn. Qua đó, giáo dục họ và những người xung quanh về ý thức tơn trọng pháp

luật, tơn trọng lợi ích của tập thể và cá nhân, tôn trọng trật tự, kỷ cương, kỷ

luật Nhà nước và đồn thể... Trong trường hợp này, tính chất quản lý cũng có

những đặc trưng riêng về chủ thể, đối tượng và khách thể quản lý; phạm vi và

phương pháp quản lý...

d) Đối với thi hành án, phương pháp giáo dục, thuyết phục hết sức cầnthiết, nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thi hành lại có tính chấtđặc trưng (đặc biệt trong thi hành án hình sự đó là phương pháp chủ yếu).Ngay cả việc tự nguyện của người phải thị hành án cũng chính là trên cơ sở họnhận thức được tính bắt buộc, cưỡng chế trong việc thực thi bản án, quyết địnhcủa Tòa án.

đ) Thi hành án không chi là hoạt động chuyên mơn, nghiệp vu đơnthuần mà cịn có ý nghĩa chính trị, xã hội rộng lớn, địi hỏi phải có sự tham giacủa nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều cơ quan.

Xuất phát nừ những đặc trưng trên đây, có thể hiểu thi hành án là hoại

động hành chính - tu pháp mang tinh quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà

nước có thấm quyền tiến hành theo trình tự, thủ lục do pháp luật quy định,

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

nhằm buộc người bị kết án phải chịu các hình phạt hoặc buộc những cá nhân,

tổ chức phải thực hiện các nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án.1.1.2. Khái niệm và đặc trưng của thi hành án dân sự

Kết thúc quá trình giải quyết các tranh chấp về dân sự, Tịa án ra bảnán, quyết định trong đó xác định các quan hệ pháp lý, sự kiện pháp lý, buộcngười phải thi hành án có nghĩa vụ phải làm một việc hoặc khơng làm mộtviệc vì lợi ích của người được thi hành án. Việc thi hành bản án, quyết địnhcủa Tòa án là một giai đoạn độc lập, tiếp theo sau giai đoạn xét xử. Căn cứ

theo Pháp lệnh thi hành án dân sự hiện hành - văn bản có hiệu lực pháp lý caonhất trong lĩnh vực thi hành án dân sự, thì việc thi hành án dân sự chỉ bao gồmcác bản án, quyết định về dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động, quyết địnhvề tài sản trong bản án, quyết định hình sự (Điều 1). Song, từ sau khi Pháplệnh thi hành án dân sự 1993 được ban hành đến nay, Nhà nước ta cũng đãban hành một loạt các văn bản pháp luật như: Bộ luật dân sự, Luật phá sản

doanh nghiệp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự;

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, Pháp lệnh thủ tục giải

quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính,

Pháp lệnh cơng nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự củaTịa án nước ngồi, Pháp lệnh cơng nhận và thi hành tại Việt Nam quyết địnhcủa trọng tài nước ngồi... trên cơ sở đó, phạm vi, nội dung của thi hành ándân sự đã mở rộng hơn nhiều so với trước. Nhiều vụ việc có tính chất khácnhau, được giải quyết theo các trình tự tố tụng khác nhau, nhưng đến giai đoạnthi hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Theo

quy định tại các văn bản nêu trên, thì phạm vi của thi hành án dân sự hiện nay

gồm có: Bản án, quyết định về dân sự, kinh tế, lao động, hơn nhân và giađình; Quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự (phạt tiền, tịchthu tài sản, án phi): Quyết định về tài sản và quyền tài sản trong bản án, quyết

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

định hành chính; Bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi, quyết địnhcủa Trọng tài nước ngồi được Tịa án Việt Nam cơng nhận và cho thi hành ở

<small>Việt Nam.</small>

Việc ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 đã tạo ra bước

ngoặt mới trong sự phát triển của pháp luật về thi hành án dân sự, là cơ sở

pháp lý vững chắc cho việc hình thành tổ chức và hoạt động thi hành án theo

một cơ chế mới, bước đầu đã mang lại những kết quả khả quan trong công tácthi hành án dân sự. Tuy nhiên, từ khi Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 và cácvan bản pháp luật có liên quan được ban hành, thì cũng phát sinh những ý kiến

khác nhau về tính chất đặc trưng của thi hành án dân sự.

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, thi hành án dân sự thuộc tố tụng dân sự,

giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng của tố tụng dân sự vì nó mang đầyđủ tính chất, đặc trưng của tố tung dân sự. Quan niệm này cho rằng, cơ quan thihành án dân sự hiện nay tuy được đặt trong hệ thống các cơ quan hành chính,nhưng nó khơng có chức năng quản lý hành chính mà chỉ có chức năng thựchiện các bản án, quyết định của Tòa án - cơ quan xét xử. "Do vậy thực chất cơquan thị hành án dân sự là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhiém vụ củatố tung dân sự là thi hành các ban án, quyết định của Tòa án” [SO, tr. 6].

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, thi hành án là tố tụng hành chính vì từ

khi cơng tác thi hành án dân sự được chuyển giao từ Tòa án sang các cơ quan

thuộc Chính phủ thi cơ quan tiến hành tố tụng thi hành án khơng phải là Tịa

án nữa. Việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị trong thi hành án đã khác han

về hình thức, thủ tục so với việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị trong tốtụng dân sự [48, tr. 60].

Loại ý kiến thứ ba cho rằng, thi hành án là một thủ tục tố tụng đặc biệt

mang cả đặc trưng của tố tung dân sự và tố tung hành chính, nó vừa tơn trọng quyềntư định đoạt của đương sự, vừa biểu hiện tính cưỡng chế nhà nước [48, tr. 60].

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Loại ý kiến khác lại cho rằng, thi hành án thuộc loại tố tụng "hỗn hợp”

vì "thi hành án có rất nhiều trình tự, thủ tục và đặc trưng giống các loại tố tụngkhác” [51. tr. 29].

Thực ra, khó có thể "xếp" thi hành án dân sự vào bất cứ loại tố tụng

nào, vì những lẽ sau đây:

Thứ nhất, như đã trình bày ở phần khái niệm thi hành án, bản chất va

mục đích của tố tụng là xác định sự thật khách quan của các vụ việc để trên cơsở đó áp dụng đúng đắn quy định của pháp luật vào từng trường hợp cụ thể, là"quá trình đi tìm chan lý để áp dụng cơng lý" [49, tr. 22-23]. Q trình này kếtthúc khi sự thật đã được khẳng định bằng một phán quyết của Tòa án. Ở đây

chân lý đã được sáng tỏ, nội dung quan hệ pháp luật đã được Tòa án xác định

cụ thể bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong quá trình tổ chức

thi hành án, cơ quan thi hành án chỉ thực thi các nghĩa vụ đã được xác định mà

khơng có quyền thay đổi chúng.

Thứ hai, do việc Nhà nước ban hành một loạt văn bản pháp luật mới,phạm vi các loại việc mà co quan thi hành án được giao ngày càng mở rộng,

khơng cịn mang tính chất dân sự thuần túy như trước đây. Nhiều quan hệ

pháp luật trước đó đã được giải quyết theo các trình tự tố tung khác nhau, vi

dụ: tố tụng kinh tế, lao động, hành chính, trọng tài, hình sự... nhưng kết quảcủa các quá trình tố tụng đó là các phán quyết của Tịa án, cuối cùng đều được

thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Như vậy, nếu coi thi hành án dân sựlà một giai đoạn của tố tụng, thì chúng ta sẽ xếp nó vào loại tố tụng nào?

Thứ ba, xét về mặt truyền thống cũng như pháp luật thực định, thì Tịấn hoặc cơ quan trọng tài ln là chủ thể trung tâm của bất cứ hoạt động tố

tung nào. Trong khi đó chủ thể trung tâm của hoạt động thi hành án khơng

phải là Tịa án, mà là cơ quan thi hành án thuộc hệ thống hành pháp và chấphành viên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Thứ tw, thi hành án dân sự là dạng hoạt động mang tính hành chính - tưpháp, vì cơ sở của thi hành án dân sự là các bản án, quyết định dân sự của Tịấn, đồng thời các cơ quan tham gia vào thi hành án dân sự chủ yếu là các cơquan tư pháp (theo nghia rộng).

Xuất phát từ những đặc trưng nêu trên, có thể hiểu thi hành án dân sựlà hoạt động hành chính - tư pháp nhằm thực hiện đầy đủ, kịp thời những bản

án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án do cơ quan thi hànhán, chấp hành viên tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

1.1.3. Các nguyên tac thi hành án dan sự

Pháp luật thi hành án dân sự là một bộ phận cấu thành trong hệ thống

pháp luật của Nhà nước ta, vì vậy các nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy

nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng cũng được áp dụng cùng những

nguyên tac đặc thù của tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Các nguyên tắcthi hành án dân sự là những quan điểm chỉ đạo, quán triệt trong toàn bộ tổ chức

và hoạt động thi hành án dân sự, phan ánh tính chất đặc thù của hoạt động này.

* Nguyên tắc đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật của Tòa án.

Việc thi hành nghiêm chỉnh và tơn trọng triệt để các bản án, quyết định

có hiệu lực pháp luật của Tòa án là một tất yếu khách quan trong hoạt động tưpháp của bất kỳ Nhà nước nào. Bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết địnhdân sự của Tòa án là một nhiệm vụ quan trọng, phải được thực hiện nghiêm chỉnhtrong hoạt động của các ngành, các cấp, trực tiếp liên quan đến việc bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ chức kinh tế,tổ chức xã hội, góp phần đáng kể vào việc giữ gìn trật tự, an tồn xã hội. Bản án,

quyết định của Tòa án là sự phán xét nhân danh Nhà nước phải được đảm bảothực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Hiến pháp, luật cơ bản của

Nhà nước ta. tại Điều 136 đã xác định: "Cac bản án và quyết định của Tòa án

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh

tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng;

những người và đơn vi hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Day là nguyên

tac hiến định chỉ đạo toàn bộ tổ chức và hoạt động thi hành án nói chung và thi

hành án dân sự nói riêng, nó khơng cho phép bất kỳ một sự cản trở, chống đối nàođối với việc thị hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án.

* Ngun tắc chỉ có chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự là cóthẩm quyền thi hành án dân sự.

Đây là nguyên tắc vừa khẳng định tính chuyên trách của hoạt động thihành án dân sự, vừa thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân. Chấp hành viên là người được Nhà nướcgiao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo quy địnhcủa pháp luật và được pháp luật bảo vệ (Điều 12 của Pháp lệnh thi hành án

dân sự 1993). Trước đó, trong lịch sử xây dựng và phát triển của thi hành án

dân sự nước ta, pháp luật đã xác lập những cơ sơ pháp lý về tính chuyên tráchcủa tổ chức thi hành án dân sự. Điều 24, Luật tố chức Tòa án nhân dân 1960quy định: "Tai các Tịa án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án(theo Quyết định số 186/TC, ngày 13/12/1972 của Tòa án nhân dân tối cao,chức danh này được gọi là chấp hành viên) làm nhiệm vụ thi hành những bảnán và quyết định về dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong cácbản án, quyết định về hình su". Pháp lệnh thi hành án dân sự 1989 trước đây

và Pháp lệnh thi hành án dân sự hiện hành đều khẳng định chức năng thi hành

án dân sự thuộc thẩm quyền của chấp hành viên.

* Nguyên tắc kết hop vai trò chuyên trách, chủ động của cơ quan thihành án và chấp hành viên với sự chỉ đạo, tổ chức của Chính quyền địaphương, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan.

Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 trong khi khẳng định: Chấp hành

viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành bản án, quyết định của

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Tịa án (Điều 12), thì đồng thời cũng giao trách nhiệm cho Chủ tịch Uy ban

nhân dân các cấp chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong

việc thi hành án ở địa phương; lực lượng cảnh sát có nhiệm vụ giữ gìn trật tự,kịp thời ngăn chặn những hành vi can trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành

án; cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và cơng

dân có trách nhiệm giúp đỡ thực hiện yêu cầu của chấp hành viên trong việc

thi hành án (Điều 7).

Đây là một nguyên tắc quan trọng xuất phát từ tính chất đặc thù của tổ

chức và hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta. Hoạt động thi hành án dân sự

nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của cơng dân, tập thể, giữ gìn kỷ cương phép

nước, không chỉ là hoạt động chuyên môn thuần túy của cơ quan thi hành án,chấp hành viên mà cịn là trách nhiệm của các cấp chính quyền và toàn xã hội.Sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy trách nhiệm của cơ quan

thi hành án, chấp hành viên và sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Ủy ban nhândân các cấp, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan, tạo ra sức

mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của cả cộng đồng trong hoạtđộng thị hành án dân sự.

* Nguyên tắc kết hợp tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự với

việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể.

Bản án, quyết định của Tịa án chỉ được đưa ra thi hành khi có yêu cầu

của người được thi hành, thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự. Đây làđiểm khác biệt căn bản giữa thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Khi

bản án hình sự có hiệu lực, việc thị hành án đó được cơ quan chức năng thựchiện theo quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào ý chí của đương sự.Đối với các vụ án dân sự nói chung, sau khi các bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật, các bên vẫn có quyền tiếp tục thể hiện ý chí của mình về việc thi

hành các phán quyết của Tòa án. Pháp luật khuyến khích sự thỏa thuận tự

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

nguyện của người được thi hành án và người phải thi hành án về thể thức,

phương pháp và những vấn đề khác liên quan đến việc thi hành bản án, quyếtđịnh của Tịa án nếu khơng trái với pháp luật, đạo đức xã hội và không làmcan trở hoạt động thị hành án.

Bên cạnh đó, xuất phát từ yêu cầu bảo vệ lợi ích của Nhà nước và

chính sách nhân đạo nhằm bảo đảm quyền lợi cấp thiết của đương sự, phápluật quy định quyền chủ động ra quyết định thi hành án của cơ quan thi hànhán trong những trường hợp "bản án, quyết định về trả lại tài sản hoặc bồithường tài sản xã hội chủ nghĩa; phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí, các quyết

dinh khẩn cấp, tạm thời..." (Điều 20 của Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993).

Kết hợp chặt chế việc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự và sự

chủ động thi hành án của cơ quan thi hành án và chấp hành viên tạo nên cơchế đặc thù của thi hành án dân sự, bảo đảm quyền tự lựa chọn cách ứng xử

cing như sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên đương sự, đồng thời khẳng

định trách nhiệm của Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp phápcủa công dân và tổ chức trong hoạt động thi hành án dân sự.

* Nguyên tắc thi hành án kip thời, đúng nội dung bản án, đảm bdo

trình tự, thủ tục luật định.

Chấp hành viên có trách nhiệm thi hành đầy đủ, đúng din phán quyết

của Tịa án, khơng được tùy tiện thay đối nội dung bản án, quyết định của Tịa

4a. "Chấp hành viên khơng thi hành đúng bản án, quyết định của Tịa án, trìhỗn việc thi hành án, áp dụng cưỡng chế thi hành án trái pháp luật, vi phạm

phẩm chất đạo đức của người chấp hành viên, thì bị xử lý kỷ luật hoặc truycứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường" (Điều 14 củaPháp lệnh thi hành án dân sự 1993). Trong quá trình tổ chức thi hành án, chấphành viên phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục do pháp luật về thi hành

án quy định. Điều 12 của Pháp iệnh quy định rõ: “Khi thực hiện nhiệm vụ,

<small>= =e</small>

Am...

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

quyền hạn của mình, chấp hành viên phải tuân theo pháp luật và chịu trách

nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án được giao".

Nguyên tắc này tạo điều kiện thuận lợi bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của các bên đương sự, chống sự sách nhiễu, gây phiền hà trong quá trình

thi hành án, góp phần tạo nên niém tin của nhân dân vào tính nghiêm minh

của pháp luật.

* Nguyên tắc kết hợp phương pháp giáo dục, thuyết phục đương sự tự

nguyện thi hành và áp dụng biện pháp cưỡng chế khi cần thiết.

Bản án, quyết định của Tòa án thể hiện sự cơng bằng và cơng lý của

chế độ, do đó trước hết nó phải được thực thi một cách tự giác trên cơ sở tự

nguyện của các bên. Việc cưỡng chế là cần thiết nhằm đảm bảo uy quyền củaNhà nước, nhưng chỉ có thể áp dụng khi đương sự khơng tự nguyện thi hành,

có hành vi cố tình chống đối, can trở việc thi hành án.

Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 thể hiện tỉnh thần kết hợp chặt chẽ

giữa yếu tố tự nguyện và cưỡng chế thi hành án. Điều 6 và Điều 12 của Pháp

lệnh quy định việc chấp hành viên phải ấn định thời hạn để đương sự tự

nguyện thi hành án. Việc cưỡng chế chỉ được áp dụng khi đã hết thời hạn tự

nguyện mà đương sự không chịu thi hành, trừ trường hợp tẩu tán tài sản.

Nguyên tác này đòi hỏi chấp hành viên phải biết cách giáo dục, thuyết phụcđương sự để họ nhận thức được nghĩa vụ, trách nhiệm của mình, trên cơ sở đó

mà tự nguyện thi hành án. Để làm được điều này, chấp hành viên phải biết dựavào chính quyền địa phương, tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của các đồn thể xãhội, sự đồng tình của nhân dân nhằm vận động, giáo dục, thuyết phục đương

sự tự nguyện thi hành án.

Kết hợp tốt việc giáo dục, thuyết phục đương sự tự nguyện thị hành

với biện pháp cưỡng chế khơng những giúp cho q trình thi hành án đượcthuận lợi, đạt hiệu quả cao, mà cịn góp phần nâng cao ý thức pháp luật củanhân dân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

1.1.4. Ý nghĩa của thi hành án dân sự

* Thị hành án dân sự góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, tăng cườngpháp chế xã hội chi nghĩa.

<small>Trong hoạt động nhà nước, cơng tác thi hành án nói chung và thi hành</small>

án dân sự nói riêng, có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông qua hoạt động thị

hành án, những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước, thể hiện ý chí

của Nhà nước được trở thành hiện thực, cơng lý xã hội được thực hiện. Qtrình giải quyết một vụ án chỉ kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án đượcthi hành kịp thời và đầy đủ. Nếu công tác thi hành án dân sự khơng được quantâm đầy đủ và khơng có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toànbộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử; trật tự kỷ cương xã hội bị viphạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường, quyền và lợi ích hợp pháp của côngdân bị xâm phạm. Thi hành án dân sự đạt hiệu qua sẽ mang lại niềm tin chonhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần lập lại kỷ cương,tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

* Thi hành án dân sự góp phân nâng cao chất lượng, hiệu quả củahoạt động xét xử.

Việc điều tra, hòa giải, xét xử vụ án mới chỉ là giai đoạn đầu của quá

trình bảo vệ quyền lợi của đương sự. Ở giai đoạn này, Tòa án mới chỉ giải

quyết nội dung vụ án, xác định được quyền và nghĩa vụ của các đương sự.Phán quyết của Tịa án có trở thành hiện thực hay khơng tùy thuộc vào qtrình thực thi nó trong cuộc sống. Thơng qua giai đoạn thi hành án, bản án,quyết định của Tịa án mới có hiệu lực trên thực tế, cơng lý mới được thựchiện. Với ý nghĩa đó, thi hành án dân sự là một hoạt động không thể thiếuđược của q trình bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Thông qua thi hànhán, kết quả của công tác xét xử được củng cố, hiệu lực các bản án, quyết định

của Tòa án được bảo đảm. Mặt khác, thi hành án dân sự còn là giai đoạn kiểm

nghiệm qua thực tiễn những phán quyết của Tòa án, phản ánh trung thực chất

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

lượng và hiệu quả cua hoạt động xét xử. Thông qua hoạt động thi hành án, các

thẩm phán Tịa án nhân dân có thể rút ra cho mình những bài học bổ ích, nâng

cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử.

* Thi hành án dân sự góp phan nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.Đặc thù của thi hành án dân sự nước ta là sự kết hợp chặt chẽ giữa vaitrò chủ động, phát huy trách nhiệm của chấp hành viên, cơ quan thi hành án

và sự chỉ đạo sát sao cụ thể của chính quyền địa phương, sự phối hợp của cáccơ quan tổ chức có liên quan, sự đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnhtổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong hoạt động thi

hành án dân sự. Thi hành án không chi là hoạt động nghiệp vụ riêng của cơquan thi hành án, chấp hành viên mà còn là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng,

chính quyền địa phương, đoàn thể xã hội và mọi thành viên trong cộng đồng.

Thông qua công tác thi hành án, ý thức pháp luật của nhân dân, vai trò, trách

nhiệm của các cơ quan, tổ chức được nâng lên, niềm tin của mọi tầng lớp nhân

dân vào tính nghiêm minh của pháp luật và sức mạnh của Nhà nước ngày càngđược củng cố vững chắc.

1.2. VAI NET VỀ SỰ HÌNH THÀNH, PHAT TRIEN CUA THI HANH ÁNDAN SU VIET NAM TU NAM 1945.DEN NAY

Từ sau Cách mang tháng Tám (năm 1945) thành công, hệ thống chínhtrị mới được ra đời, trong đó Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (sau nàylà Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã đóng vai trị lịch sử hếtsức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Cùng với sự ra đời của

Nhà nước kiểu mới, nền tư pháp mới của chế độ dân chủ nhân dân cũng được

hình thành và phát triển, thay thế nền tư pháp cũ của chế độ thực dân phong

kiến đã tổn tại ngót một trăm năm trước đó.

Ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hịađã ra tun cáo cơng bố danh sách nội các thống nhất quốc gia, trong đó có

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đánh dấu sự ra đời của ngành tư pháp nước ta. Tiếp đó,tại Sắc lệnh số 33-SL ngày 13/9/1945 đã thành lập các Tòa án quân sự, thiếtlập hệ thống cơ quan xét xử của Nhà nước mới. Cùng với sự ra đời của Bộ Tư

pháp và tổ chức Tòa án, tổ chức thi hành án dân sự cũng từng bước được hình

thành, đáp ứng các u cầu của cơng tác xét xử và bảo vệ pháp chế.

Qua hơn 50 năm hình thành và phát triển, cơng tác thi hành án dân sựViệt Nam đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.Qua từng giai đoạn lịch sử, tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự Việt Nam

ngày càng được hoàn thiện, củng cố phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mà Nhà

nước đặt ra. Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đang đồi

hỏi cấp thiết phải cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhànước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghiên cứu sự hình thành và phát

triển của tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong

việc tira hiểu thực chất cũng như vai trò, vị trí cơng tác thi hành án dân sự

trong hệ thống tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp Việt Nam, giúp

chúng ta rút ra những bài học kinh ngiiệm q báu trong q trình cai cách tupháp nói chung, cũng như trong việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về thihành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng.

1.2.1. Giai đoạn từ thang 8 - 1945 đến năm 1989

Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến trước khi có Pháp lệnh

thi hành án dân sự 1989, là giai đoạn mà tổ chức hoạt động thi hành án dân sự

chưa được dựa trên một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao

do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành (Quốc hội hoặc cơ quanThường trực của Quốc hội), thậm chí có thời kỳ chỉ căn cứ vào “Điều lệ tạm

thời" [35] do Tòa án nhân dân tối cao ban hành. Công tác thi hành án dân sựđặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tòa án. Tuy nhiên, về vấn đề quản lý nhà

nước và hình thức tổ chức thi hành án dân sự có những thay đổi nhất định qua

các thời kỳ 1945 -1949, 1950 - 1980, 1981 - 1989.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

* Thời kỳ 1945 đến 1949

Trước Cách mạng tháng Tám, ở nước ta đã tồn tại chế định thừa phátlại. Căn cứ Luật tố tụng dân sự ban hành theo Nghị định ngày 16/3/1910 của

Toàn quyền Đông Dương, Thừa phát lại được tổ chức ở Việt Nam, với nhiệm

vụ: tại phiên tòa, thừa phát lại có nhiệm vụ thơng báo tịa khai mạc và bế mạc,gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự phiên tịa; ngồi Tịấn: Thừa phát lại tống đạt giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án, thi hành án văn có

hiệu lực pháp luật, triệu tập đương sự, lập các vi bằng theo quy định của pháp luật(tại Nghị định 111/BTP ngày 2/2/1950 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (chính quyền

do Bảo Đại làm Quốc trưởng) đã xác định: "Thừa phát lại là những công lại

được pháp luật giao cho việc làm các truyền phiếu, các việc về tư pháp, việc

thi hành các bản án, công văn cùng là các cơng việc nội bộ trong Tịa án").Điều này cho thấy, một trong những nhiệm vụ chính của Thừa phát lạilà thi hành án dân sự. Chế định thừa phát lại đã hình thành, tồn tại ở Việt Namtrước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến năm 1950, và sau đó cịn tiếptục tồn tại dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn cho đến ngày miền Nam hồntồn giải phóng (1975).

Thừa phát lại (huissier) là cơng lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm

và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật, được hưởng thù lao

của khách hàng theo biểu giá quy định. Khác với luật sư, thừa phát lại khơng

có quyền từ chối thi hành nhiệm vụ khi được yêu cầu. Trong quá trình thực thi

nhiệm vụ, thừa phát lại chịu sự chỉ đạo trực tiếp của những cơng chức có trách

nhiệm của Tòa án như: chưởng lý, biện lý, thẩm phán, lục sự... Tổ chức thừa

phát lại chủ yếu tồn tại, hoạt động ở các thành phố lớn, còn ở các vùng nơng

thơn việc thi hành án do chính quyền cơ sở đảm nhiệm.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chucộng hòa ra đời, hệ thống cơ quan tư pháp mới được thiết lập trong cả nước.

Trên cơ sở Sắc lệnh ngày 10 tháng 10 năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

việc cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam Bộ cho đến khiban hành những bộ luật chưng thống nhất cho toàn quốc, nếu những đạo luật

ấy "không trái với các nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính

thể dân chủ cộng hòa" [23]. Chế định thừa phát lại tiếp tục được duy trì. Tại

Nghị định số 37 ngày 1/12/1945 vẻ tổ chức Bộ Tư pháp, Phòng giám đốc Hộvụ được thành lập, trong đó có Ban cơng lại thực hiện nhiệm vụ quản lý tổ

chức thừa phát lại. Cũng theo tỉnh thần Sắc lệnh ngày 10/10/1945, những quy

định về thủ tục thi hành án dân sự tiếp tục được áp dụng, đáp ứng yêu cầu củahoạt động tư pháp trong những năm đầu của chính quyền cách mạng. Tuy

nhiên, tổ chức thừa phát lại - hình thức tổ chức và hoạt động thi hành án dân

sự đầu tiên của chế độ mới, khơng cịn mang ý nghĩa là cơng cụ của chính

quyền thực dân phong kiến như trước đây, mà trở thành công cụ đắc lực trong

việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực của Tịa án nhân dân.

Sac lệnh số 13, ngày 20/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt

Nam dân chủ cộng hịa về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán đã đặtcơ sở pháp lý đầu tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam. Tại khoản 3,Điều 3 của Sắc lệnh quy định Ban Tư pháp xã (theo Điều 2 của Sắc lệnh này,

thì Tư pháp xã chính là Ban thường vụ của Ủy ban hành chính xã gồm có Chủ

tịch, Phó chủ tịch và thư ký của ủy ban sẽ kiêm luôn cả việc tư pháp. Cả ba ủy

viên này đều có quyền quyết nghị, trong đó thư ký giữ cơng việc lục sự, lưu

trữ cơng văn, làm các giấy tờ, biên bản) có quyền "thị hành những mệnh lệnh

của thẩm phán cấp trên" bao gồm các bản án, quyết định của Tòa án.

Như vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã được hình thành ngay trong

những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám thành cơng và tồn tại dưới hai hìnhthức là: Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã. Tuy tồn tại hai lực lượng thi hànhán, nhưng việc thi hành án dù do thừa phát lại hay Ban Tư pháp xã tiến hành

đều thể hiện quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chếcủa Nhà nước. Điều này được thể hiện tại Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946 của

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều thứ nhất của Sắc lệnh nàyquy định: “Các bản tồn sao hoặc trích sao bản án hoặc mệnh lệnh do các phòng

lục sự phát cho các người đương sự để thi hành các án, hoặc mệnh lệnh của cácTịa án hộ đều phải có thể thức thi hành, ấn định như sau: "Vậy, Chủ tịch Chính

phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa truyền cho các thừa phát lại theo yêu cầu củađương sự thi hành bản án này, các ông chưởng lý và biện lý kiểm sát việc thi

hành án, cai thị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật u cầu”...

Về trình tự thi hành án, Thơng tư số 24-BK ngày 26-4-1949 của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp về việc thi hành án Hình và Hộ đã quy định cụ thể nhữngnguyên tắc chấp hành, thể thức chấp hành, cách thức thi hành các bản án và

quyết định của Tòa án. Thông tư trên đã xác định trách nhiệm thi hành án củaThừa phát lại, Ban Tư pháp xã và nhấn mạnh vai trò của ủy ban xã, thị xã, khuphố va các cơ quan có liên quan trong việc hỗ trợ thi hành án. Rõ ràng Nhànước không chỉ tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong giao lưu

dân sự, thương sự và tố tụng mà còn đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự

trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.

Tuy còn ở những bước đi ban đầu nhưng tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự

đã có những đóng góp quan trọng vào việc hình thành và phát triển của nền tư

pháp mới thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước dân chủ nhân dân.

* Thời kỳ từ năm 1950 đến năm 1980

Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về "Cảicách bộ máy tư pháp và luật tố tụng” tạo nên sự thay đổi có tính chất bước

ngoặt trong tổ chức và hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức hoạt động thi

hành án dân sự nói riêng. Điều 19 của Sắc lệnh quy định: "Thẩm phán huyệndưới sự kiểm sốt của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về

khoản bồi thường hay bồi hồn và các án hộ, mà chính Tịa án huyện hay Tịấn trên đã tun” [23]. Theo quy định này, việc thi hành án dân sự do thừa

phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bằng thẩm phán

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Sự kiện nay đã làm thay đổi cănbản cơ chế, tổ chức hoạt động thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự từ chỗ

căn cứ vào yêu cầu của đương sự đã trở thành trách nhiệm của Nhà nước. Tịa

án chủ động thi hành án dân sự mà khơng chờ yêu cầu của người được thi

186/TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên. Tên gọi "chấp

hành viên" ra đời từ và đó tồn tại cho đến ngày nay.

Nhà nước không tổ chức cơ quan thi hành án dân sự riêng mà chỉ đặtchấp hành viên tại các Tòa án nhân dân địa phương để thực hiện chuyên trách

việc thi hành án dân sự. Chấp hành viên có nhiệm vu thi hành những bản án,

quyết định về dân sự, những khoản xử phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường,

hoàn trả lại tài sản trong các bản án, quyết định hình sự; giúp Chánh án Tịa án

nhân dân đôn đốc, kiểm tra công tác thi hành án tại các Tòa án nhân dân cấp

dưới. Chấp hành viên thực thi nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tịa án

nhân dân nơi mình cơng tác, khơng có quyền trực tiếp chỉ đạo cơng tác của

chấp hành viên Tịa án nhân dân cấp dưới.

Trong q trình thực thi nhiệm vụ, chấp hành viên có quyền định cho

đương sự một thời hạn để tự nguyện thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế

mà pháp luật cho phép sau khi có sự thỏa thuận của Chánh án nơi chấp hànhviên công tác, yêu cầu lực lượng bảo vệ trật tự trị an giúp sức khi cần thiết, đề

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

nghị Tịa án có thẩm quyền cho hỗn, tạm đình chỉ thi hành án. Đồng thời,

chấp hành viên phải có trách nhiệm thi hành đầy đủ và nhanh chóng các banán, quyết định của Tịa án (Điều 4,5 của Quyết định số 186/TC ngày 13/10/1972).

Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trách nhiệm của Ủy ban hành chính

xã, phường cùng các cơ quan có liên quan trong việc hỗ trợ thi hành án, Viện

kiểm sát nhân dân các cấp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấphành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân (Điều 7 của Luật Tổ chức Viện

kiểm sát nhân dân). Thơng tư số 442-TC ngày 4/7/1968 của Tịa án nhân dân

tối cao về việc đẩy mạnh công tác thi hành án đã xác định nhiệm vụ của chính

quyền cấp xã là giáo dục, theo dõi, đôn đốc đương sự tự nguyện thi hành án,

giúp Tòa án điều tra nắm tình hình trong quá trình thi hành án. Để đưa công

tác thi hành án từng bước đi vào nề nếp, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hànhĐiều lệ tạm thời về công tác thi hành án (kèm theo công văn số 827/CV ngày

23/10/1979) quy định khá chi tiết, cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành án. Nét

đặc trưng trong nội dung quy định của Điều lệ tạm thời, cũng như các văn bản

pháp luật trong thời kỳ này là khẳng định trách nhiệm chủ động của Nhà nước

(Tòa án) đối với việc thi hành các ban án, quyết định của Tòa án; đồng thờitạo ra tâm lý thụ động, ý lại của đương sự chỉ biết trông đợi vào sự bao cấpcủa Nhà nước.

* Thời kỳ từ năm 1981 đến năm 1989

Với sự ra đời của Hiến pháp 1980, hàng loạt các đạo luật về tổ chứccủa bộ máy nhà nước cũng được ban hành nhằm kiện toàn bộ máy nhà nước,

phân định rõ chức năng của từng loại cơ quan, tang cường hiệu lực quản lý

nhà nước bằng pháp luật. Điều 16 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981

đã giao cho Bộ Tư pháp (mới được thành lập lại sau hơn 20 năm giải thể) đảmnhiệm cơng tác quản lý Tịa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức. Nghị

định số 143 -HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chínhphủ) về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp đã quy định: Bộ Tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

pháp có chức năng quản lý Tịa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, trongđó bao gồm cả việc quan lý công tác thi hành án dân sự. Theo Nghị định nàyBộ Tư pháp có nhiệm vụ "trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc ban hành

theo thẩm quyền các quy chế chấp hành án". Tòa án nhân tối cao đã bàn giao

nhiệm vụ quản lý công tác thị hành án trong phạm vị cả nước sang Bộ Tư phápbát đầu từ ngày 1/1/1982. Ngày 18/7/1982, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tốicao đã ký Thông tư liên ngành số 472 về "quản lý công tác thi hành án trong

thời kỳ trước mắt” quy định: ở địa phương tại các Tịa án cấp tỉnh có phòng thihành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Tòa án để giúp Chánh án

chỉ đạo cơng tác thi hành án; ở các Tịa án cấp huyện có chấp hành viên hoặccán bộ làm cơng tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án. Việc quản lý,

chỉ đạo và tổ chức thực thi nhiệm vụ của chấp hành viên vẫn do Chánh án Tòa

án nhân dân cùng cấp đảm nhiệm như đã quy định trong Quyết định 186-TCngày 13/10/1972. Biên chế của Tòa án nhân dân địa phương do Bộ Tư pháp

phân bổ. Căn cứ vào như cầu của công tác thi hành án, Chánh án Tòa án cấp

tỉnh xác định số lượng và bổ nhiệm chấp hành viên hoặc cử cán bộ làm cơng

tác thi hành án của Tịa án mình và Tịa án cấp dưới. Cơ chế quản lý công tácthi hành án địi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp vaTòa án từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là giữa các cơ quan tư pháp vàTịa án địa phương nơi cơng tác thi hành án được trực tiếp thực hiện.

Có thể thấy rằng, trong thời kỳ này tổ chức bộ máy cũng như nguyên

tắc hoạt của cơ quan thi hành án chưa được chú trọng. Cơ chế quản lý và tổ

chức thi hành án chưa tạo được vi trí của chấp hành viên tương xứng với yêu

cầu của nhiệm vụ đặt ra; mặt khác, tổ chức và hoạt động thi hành án là một

giai đoạn khép kín trong Tịa án và tùy thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh án Tịấn nhân dân địa phương. Vai trò của Tòa án nhân dân tối cao (và tiếp đó là BộTư pháp từ 1981 đến 1992) trong việc quản lý Tòa án địa phương mới dừng lạiở vai trò quản lý chung, còn thực chất việc quản ly đội ngũ cán bộ Tòa án,

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

cũng như việc xây dựng đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử, thi hành

án do chính quyền địa phương đảm nhiệm. Nhiều năm liền mối quan tâm chútrọng của Tòa án vẫn dành cho cơng tác xét xử, cịn thi hành án hầu như ít

quan tâm. Điều này dẫn đến tình trạng án xét xử xong không được thi hành

chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong lượng án phải thi hành hàng năm.1.2.2. Giai đoạn từ năm 1990 đến tháng 6/1993

Ngày 28/8/1989, Pháp lệnh thi hành án dân sự, một hình thức văn bản

pháp lý có hiệu lực cao, lần đầu tiên đã được ban hành, đặt cơ sở pháp lý cho

việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Trên cơ

sở đó, quy chế chấp hành viên đã được ban hành kèm theo Nghị định số68/HDBT ngày 6/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của Pháp

lệnh thi hành án dân sự 1989 và Quy chế chấp hành viên, thi chỉ có chấp hànhviên là người được nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án quyết định

của Tòa án (trước đây việc thi hành án, ngồi chấp hành viên cịn có thể do

cán bộ thi hành án thực hiện). Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định số lượng biên

chế chấp hành viên, cán bộ thi hành án cho từng Tòa án địa phương. Việc bổ

nhiệm, miễn nhiệm chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo

dé nghị của Chánh án Tòa án nhân dân địa phương. Chấp hành viên được bổnhiệm ở các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện.

Với Pháp lệnh thi hành án dân sự 1989, lần đầu tiên những quy định vềthi hành án dân sự đã được pháp điển hóa. Việc tập trung thống nhất những

quy định về thi hành án dân sự vào một hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực

cao đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật trong việc thị hành

án dân sự, góp phần bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định về dân sự

của Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và

cơng dân, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Điểm khác biệt quan trọng nhất so với việc thi hành án trước khi có

Pháp lệnh thi hành án dân sự thể hiện ở quy định: người được thi hành án phải

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

có đơn yêu cầu thi hành án, thì Tịa án có thẩm quyền mới tiến hành việc thihành án (Điều 14). Điểm mới thứ hai không kém phần quan trọng là quy định

về thời hiệu thi hành án, có nghĩa là việc thi hành các bản án, quyết định củaTịa án cũng có thời hạn nhất định. Ngoài ra, Pháp lệnh thi hành án dân sự1989 còn quy định nhiều vấn đề mới liên quan đến q trình thi hành án nhưviệc hỗn thi hành án (Điều 18), tạm đình chỉ thi hành án (Điều 19), đình chỉ

thi hành án (Điều 20), trả lại đơn yêu cầu thi hành án (Điều 21).

Với việc ban hành Pháp lệnh năm 1989, cơ chế thi hành án đã có bước

thay đổi cơ bản. Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của

đương sự với sự chủ động của Cơ quan thi hành án và chấp hành viên đã tạo ra

sự phát triển mới trong công tác thi hành án dân sự. Quyền tự định đoạt củađương sự, một trong những nguyên tắc đặc trưng của tố tụng dân sự, trước đây

mới chỉ được áp dụng trong giai đoạn xét xử, thì nay đã được vận dụng trong

giai đoạn thi hành án dân sự.

Tuy nhiên, Pháp lệnh năm 1989 vẫn có những quy định về quyền chủđộng thi hành án của co quan thi hành án trong những trường hợp nhất định

nhằm bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập

thể và cơng dân (ví dụ: những bản án, quyết định về trả lại tài sản, hoặc bồi

thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền, tịch thu, án phí; những bản

án,quyết định của Tịa án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay

như bản án quyết định sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người

lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏecơng dân...)

Tiếp đó, hàng loạt văn bản pháp luật đã được ban hành nhằm cụ thể

hóa, hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp lệnh, đảm bảo cho Pháp

lệnh được thi hành nghiêm chỉnh như Thơng tư liên ngành số 06-89/TTLNngày 7/12/1989 của Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

Bộ Tư pháp; Thông tư liên ngành số 07- 89/TTLN ngày 10/12/1989 của Tòa án

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ hướng dẫn việc bảo vệ cưỡng chế thi hành án v.v...

Đây là một bước phát triển mới trong q trình xây dựng, hồn thiện pháp luật

của Nhà nước ta nói chung và trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng, đặt

cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án.

Cùng với sự đổi mới của cơ chế thi hành án, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hànhán cũng không ngừng được củng cố và tăng cường. Từ chỗ thẩm phán vừa làmnhiệm vụ xét xử, vừa tổ chức thực hiện nhiệm vụ thi hành án, đội ngũ cán bộthi hành án đã được chun mơn hóa, có chức danh, tiêu chuẩn nêng và chịu

trách nhiệm trước Nhà nước về việc thực hiện các phán quyết của Tòa án.

Tuy vậy, mặc dù cơ chế thi hành án đã từng bước được hoàn thiện, độingũ cán bộ làm công tác này được củng cố, tăng cường một bước, nhưng sự

chỉ đạo điều hành công tác thi hành án vẫn chưa được thay đổi phù hợp. Cơ

quan thi hành án, chấp hành viên thuộc Tòa án, do Tòa án trực tiếp chỉ đạo về

nghiệp vu và chịu trách nhiệm báo cáo cấp trên về kết quả của hoạt động thi

hành án. Mọi quyết định quan trọng trong thủ tục thi hành án đều thuộc thẩm

quyền của Chánh án. Chấp hành viên với trách nhiệm là "người được Nhànước giao nhiệm vu thi hành các bản án, quyết định của Tòa án”, thực ra chỉ là

người thừa hành sự chỉ đạo của Chánh án, khơng có quyền năng thực sự để

dam bảo thực thi nhiệm vu của mình. Mặt khác, Chánh án với tư cách là người

chịu trách nhiệm về tổ chức và hoạt động xét xử phải đồng thời là người chỉ

đạo việc thi hành các phán quyết của Tịa án, dẫn đến tình trang q tải vềcơng việc, có nơi, có lúc chưa giải quyết kịp thời các yêu cầu thi hành án đặt

ra. Hơn nữa, Tòa án vừa là cơ quan xét xử duy nhất, vừa là cơ quan làm nhiệm

vụ thi hành án, dẫn đến tinh trạng "vừa đá bóng, vừa thổi cịi”, chưa thực sự

đảm bảo sự khách quan, công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, khólịng tránh khỏi sự băn khoăn, lo lắng trong nhân dân về hiệu quả cơng tác này.

Do trọng tâm của Tịa án là xét xử nên trong một thời gian dài tổ chức

hoạt động thi hành án chưa được quan tâm đầy đủ. Số cán bộ giỏi thường được

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

bổ sung sang làm thẩm phán, đội ngũ cán bộ luôn luôn bị xáo trộn không được

quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xun, chế độ chính sách khơng đượcchú ý đúng mức. Lực lượng chấp hành viên, cán bộ thi hành án vừa thiếu về sốlượng, vừa yếu về chất lượng. Cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho hoạtđộng thi hành án hầu như không được trang bị. Quản lý nhà nước về công tác

thi hành án bị buông lỏng... Công tác thi hành án không nghiêm "nhiều bản

án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được tôn

trọng, không được thi hành nghiêm chỉnh, ảnh hướng xấu đến việc giữ gìn trậttự an tồn xã hội; các quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức và công dân

tiếp tục bị xâm phạm, pháp luật, kỷ cương phép nước bị coi thường, gây nênsự phản ứng của dư luận và sự bất bình trong nhân dân” [31 ].

Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Quốc hội khóa IX,

kỳ họp thứ II (tháng 12/1992) cho biết: Trong 9 tháng đầu năm 1992 tổng số

bản án, quyết định phải thi hành là 154398 việc, thi hành xong 42.744 việc,

đạt tỷ lệ 27,68%, số tiền thi hành án thu được đạt 26,55% trên tổng số tiền

phải thu [24]. Như vậy, số việc tồn đọng chưa được thi hành chiếm tỷ lệ lớn(hơn 2/3), điều này đã vi phạm trật tự kỷ cương nhà nước, vi phạm pháp chế xãhội chủ nghĩa, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự nghiêm minh củapháp luật.

1.2.3. Giai đoạn từ 1/7/1993 đến nay

Đầu những năm 1990, cơng cuộc đổi mới nói chung và cải cách bộ máynhà nước nói riêng đã được tiên hành một cách khá tích cực, khẩn trương. Hiếnpháp 1992 và các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước được Quốc hội khóa IX

thơng qua vào tháng 10/1992, đã đặt ra những nguyên tắc nền tảng cho q

trình cải cách tư pháp, trong đó cơng tác thi hành án dân sự được đổi mới một

cách cơ bản. Khác với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1981, Luật Tổ chức Tịa

án nhân dân 1992 khơng quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việcthi hành án. Trong khi đó Luật Tổ chức Chính phủ ¡992 lần đầu tiên đã xác

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

định việc "quan lý công tác thi hành án” là một trong những nhiệm vụ vàquyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp. Đểthực hiện quy định của các đạo luật trên đây về công tác thi hành án, tại kỳhọp thứ nhất Quốc hội khóa IX ngày 6/10/1992 đã thơng qua Nghị quyết về

<small>việc bàn giao cơng tác thi hành án từ Tịa án nhân dân các cấp sang các cơ</small>

quan của Chính phủ "chậm nhất vào tháng 6/1993". Pháp lệnh thi hành án dânsự ban hành ngày 21/4/1993, có hiệu lực ngày 1/6/1993 thay thế Pháp lệnh thi

hành án dân sự ban hành ngày 28/8/1989 đã tạo ra bước ngoat về tổ chức và hoạt

động của công tác thi hành án dân sự ở nước ta, đưa công tác này sang một

giai đoạn phát triển mới, đáp ứng yếu cầu của đất nước trong thời kỳ đổi mới.

Điểm khác biệt căn bản nhất của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm

1993 so với Pháp lệnh thi hành án dân sự 1989 chính là ở khâu tổ chức, cơ chếthi hành án mới. Theo Pháp lệnh thi hành án dan su 1989, Tòa án có nhiệm vụthi hành án dân sự, cịn theo Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 thì nhiệm vụ

thi hành án dân sự được chuyển cho một cơ quan nhà nước mới được thành lập

và đi vào hoạt động từ 1/7/1993, đó là hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự.Việc ra các quyết định về thi hành án trước đây thuộc thẩm quyền của Chánh

án Tịa án, thì nay thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan thi hành án.

Bất đầu từ ngày 1/7/1993, tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự chính

thức tiến hành theo cơ chế mới. Các cơ quan quản lý nhà nước về công tác thihành án dân sự, các cơ quan thi hành án dân sự được hình thành từ Trung ươngđến các địa phương trong cả nước. So với trước đây, công tác thi hành án dân

sự đã được đổi mới căn bản từ tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động.

* Các cơ quan quản ly nhà nước về công tác thi hành án dân sự

Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993, việc thi hành ándân sự được Nhà nước giao cho cơ quan thi hành án dân sự thuộc Chính phủ

đảm nhiệm. Trong việc tổ chức thi hành án dân sự, co quan thi hành án va

chấp hành viên hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

trước pháp luật, không một cơ quan, cá nhân nào được can thiệp vào quá trìnhthực thi nhiệm vu thi hành án. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức và hoạt

động, cơ quan thi hành án, chấp hành viên khơng thể thốt ly sự quản lý của

Chính phủ, cơ quan được giao chức năng thống nhất quản lý nhà nước về côngtác thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước.

Theo quy định tại Điều 10, Điều 11 của Pháp lệnh thi hành án dân sự1993, các cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác thi hành án

dân sự bao gồm: Bộ Tư pháp; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Bộ trưởng Bộ Quốcphòng phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý về công tác thi hành quyếtđịnh về tài sản trong các bản án hình sự của Tòa án quân sự.

Căn cứ Nghị định số 30/CP ngày 2/6/1993 của Chính phủ, hệ thống cơquan quản lý thi hành án dân sự đã nhanh chóng được hình thành ở cả ba cấp,bao gồm: Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp; Phòng quản lý thihành án thuộc Bộ Quốc phòng; Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp.

Ngày 20/7/1993, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ra Quyết định số 473/QDthành lập Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp với nhiệm vụ,quyền hạn: Giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý nhà nước vềcông tác thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước; quản lý nghiệp vụ cơng tácthi hành án dân sự. Phịng quan lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng cũng đãđược thành lập nhằm giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ trưởngBộ Tư pháp thực hiện việc quản lý công tác thi hành án trong quân đội và phốihợp với Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp quản lý nghiệp vucông tác thi hành án trong quân đội.

Các cơ quan Tư pháp địa phương, nhất là ở một số huyện, thị xã mà

trước đây Phòng Tư pháp bị giải thé do chủ trương sắp xếp, tinh gon bộ máy,

nay đã được khẩn trương thành lập lại nhằm giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

và cơ quan Tư pháp cấp trên trong việc quản lý nhà nước về công tác thi hànhán dân sự ở địa phương.

* Các cơ quan thi hành án dân sự

Cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hànhcác bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành của Tòa án, được thành lập ởcấp tỉnh và cấp huyện, gồm có: Phịng thi hành án thuộc Sở Tư pháp; Phòng thihành án quân khu và cấp tương đương; Đội thi hành án thuộc Phòng Tư pháp.

Trong cơ cấu tổ chức của các cơ quan thi hành án, Trưởng phòng thihành án cấp tỉnh, Trưởng phòng thi hành án thuộc quân khu và cấp tương đương,

Đội trưởng đội thi hành án cấp huyện, là chấp hành viên trưởng, đồng thời làThủ trưởng cơ quan thi hành án. Pháp lệnh thi hành án dân sự cũng quy địnhrõ: Chỉ có Thủ trưởng cơ quan thi hành án mới có quyền ra quyết định thi hànhán, quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, trả lại đơn yêu cầu thi hành án.

Cùng với việc hình thành các cơ quan quản lý nhà nước về công tác thihành án dân sự, hệ thống cơ quan thi hành án cũng đã được nhanh chóngthành lập trong cả nước và đi vào hoạt động có nề nếp. Đến nay, Phịng thihành án đã được thành lập ở tất cả 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;9 Phòng thi hành án ở 8 quân khu và quân chủng Hải quân đã được thành lập;620 Đội thi hành án được thành lập tại 623 đơn vị hành chính cấp huyện trongtồn quốc.

* Đội ngũ chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án

Cán bộ là khâu có ý nghĩa quyết định toàn bộ tổ chức và hoạt động thi

hành án dân sự. Ngay sau khi tiếp nhận bàn giao công tác thi hành án dân sựtừ Tòa án sang, Bộ Tư pháp đã quan tâm củng cố và tăng cường đội ngũ cánbộ cả về số lượng và chất lượng. Khi tiếp nhận bàn giao (tháng 7/1993) sốlượng cán bộ thi hành án dân sự có 1.126 người, trong đó có 700 Chấp hành

viên từ các Tòa án chuyển sang. Nhiều noi Tịa án chỉ bàn giao có 1 đến 2 cán

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

bộ thi hành án. Có nơi chấp hành viên lại do thẩm phán kiêm nhiệm. Phần lớnlà cán bộ chưa có nghiệp vụ tương xứng với tiêu chuẩn quy định.

Trong 8 năm qua đội ngũ chấp hành viên đã khơng ngừng được củng

cố, kiện tồn. Tính đến tháng 6 năm 2001, tổng số biên chế các cơ quan thihành án trong toàn quốc là 4.500 người, tăng gấp 4 lần so với thời điểm chuyểngiao, đã tuyển dụng được 4.179 người, trong đó có 1.747 chấp hành viên được

bổ nhiệm mới và bổ nhiệm lại theo quy chế mới, tăng gấp hơn hai lần. Theo

quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993, Nghị định 30/CP ngày2/6/1993 của Chính phủ, chấp hành viên các cấp tỉnh, huyện đều phải có trìnhđộ Đại học Luật và tương đương (trước đây, theo quy định tại Thông tư số

394/QLTA ngày 25/5/1990 của Bộ Tư pháp thì tiêu chuẩn chấp hành viên cấp

huyện u cầu có trình độ trung học pháp lý hoặc tương đương). Hiện nay,phần lớn các chấp hành viên được bổ nhiệm đều đảm bảo tiêu chuẩn quy định,

có trình độ đại học luật và tương đương.

Việc quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của chấp

hành viên và quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh nàyđã khẳng định địa vị pháp lý của đội ngũ chấp hành viên trong tổ chức bộ máy

nhà nước tương xứng với nhiệm vụ được Nhà nước giao phó. Ngồi ra Pháp

lệnh thi hành án dân su 1993 ciing có những quy định nhằm xác lập cơ chế

phối hợp của các ngành, các cấp trong công tác thi hành án dân sự, đảm bảocho việc thi hành án đạt hiệu quả.

Trong những năm qua, công tác thi hành án đã đạt được những kết quả

bước đầu quan trọng, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt sau nhiều năm trì trệ. Theo

thống kê chưa đầy đủ, nếu như năm 1994 là năm đầu tiên sau khi công tác thi

hành án dân sự được chuyển giao từ Tòa án sang, các cơ quan thi hành án đã

thụ lý 181.613 vụ, giải quyết xong 106.027 vụ, thì đến năm 2000, các cơ quanthi hành án đã thụ lý 398.066 việc, giải quyết xong 219.597 việc, tăng hơn gấphai lần.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Kết quả trên đây cho thấy, trong những năm qua số vụ việc phải thihành tăng lên nhanh chóng, đồng thời kết quả mà cơ quan thi hành án thu đượccũng ngày càng cao hơn. So với thời kỳ trước khi bàn giao (1/7/1993) thì đây

thực sự là một cố gắng vượt bậc của đội ngũ cán bộ thi hành án trong toàn quốc.

Kết quả, chất lượng công tác thi hành án dân sự trong những năm qua

đã khẳng định chủ trương của Quốc hội về việc chuyển giao công tác thi hành

án từ Tịa án sang các cơ quan của Chính phủ là hồn tồn đúng dan. Nó

chứng minh tính ưu việt của cơ chế thi hành án mới phù hợp với tiến trình cải

cách tư pháp ở Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc thiết lập kỷ cương,nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của

đất nước, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức thi hành án dân sự đang ngày

càng mở rộng và tăng cường, đồng thời thực tế hoạt động thi hành án cũng đặtra những vấn đề mới, yêu cầu mới có tính cấp bách cần giải quyết trong công

tác thi hành án dân sự hiện nay.

1.3. VAI NET VỀ THI HANH ÁN DÂN SU 6 MOT SỐ NƯỚC

Trong phần này chúng tôi xin giới thiệu vai nét về tổ chức bộ máy và

thủ tục thi hành án dân sự của một số nước tiêu biểu trên thế giới và khu vực.

1.3.1. Cộng hòa Pháp

* Về tổ chức: Việc thi hành án được thực hiện thông qua thừa phát lại

-tổ chức nghề nghiệp, không phải là cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, việc thi

hành án cần có sự giám sát của Nhà nước, đó là sự giám sát của Tòa án, trực

tiếp là của thẩm phán thi hành án. Trong q trình thi hành án, nếu có các vấndé tranh chấp phát sinh, thì thẩm phán thi hành án giải quyết. Thừa phát lạikhông phải là công chức nhà nước mà là người được Nhà nước bổ nhiệm để

thực hiện sứ mệnh công, nhưng theo qui chế của người hành nghề tự do,

không an lương nhà nước, tự hạch toán.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

* Về thu tục thi hành án:

- Quyền yêu cầu thi hành án: việc thi hành án căn cứ vào đơn yêu cầucủa người được thi hành án. Người yêu cầu phải nộp lệ phí thi hành án theo

biểu giá do Nhà nước quy định.

- Căn cứ, điều kiện để thi hành án: Mọi bản án quyết định chỉ được

đưa ra thi hành nếu đương sự xuất trình một bản sao có ghi rõ để thi hành, trừkhi pháp luật có quy định khác; bản án chỉ được thi hành khi người phải thihành đã được tống đạt, trừ trường hợp họ tự nguyện thi hành. Theo quy địnhcủa pháp luật thì các giấy tờ có hiệu lực thi hành ngồi bản án của Tịa án cịn

có các văn bản cơng chứng có ghi "để thi hành", trích lục biên bản hịa giải

thành, séc thanh toán...

- Các biện pháp cưỡng chế: Theo luật số 90-650 ngày 9/7/1991 về cải

cách thủ tục thi hành án dân sự thì mọi tài sản của người mắc nợ đều có thể bị

kê biên ngay cả khi tài sản đó do người thứ ba giữ. Các biện pháp cưỡng chếchủ yếu là:

+ Kê biên thanh toán nợ: mọi chủ nợ có trong tay một văn bản có hiệu

lực thi hành ghi nhận một khoản nợ bằng tiền mặt có thể địi được đều có thể,nhằm thu hồi tiền nợ, kê biên những khoản nợ mà người thứ ba nợ con nợ theo

những quy định riêng về tiền lương trong Bộ luật lao động;

+ Kê biên tiền lương căn cứ vào định mức có thể kê biên tiền cơng,lương, tổng số nợ và lãi suất con nợ theo yêu cầu của chủ nợ hoặc người mắc nợ;

+ Kê biên - bán: Bất kỳ một chủ nợ nào có một quyết định thi hành án

xác nhận có một khoản nợ bằng tiền mặt và có thể địi được, sau khi đã cótống đạt lệnh thi hành án, có thể tiến hành kê biên và bán các tài sản là động

sản của người mắc nợ, dù tài sản đó khơng nằm trong tay của người mắc nợ.

Khi các tài sản bị kê biên do người thứ ba giữ và hiện đang ở trong nhà người

này thì việc kê biên chỉ được tiến hành khi có lệnh của thẩm phán thi hành án;

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

+ Phong tỏa động sản, tức là việc thừa phát lại cho phong tỏa các động

sản mà người mắc nợ phải giao hoặc trả lại cho chủ nợ theo quyết định thi

hành án, trừ khi người mắc nợ tự nguyện vận chuyển động sản này và chịu

mọi chi phí;

+ Các biện pháp thi hành án đối với các phương tiện cơ giới đường bộ:

Thừa phát lại có thể báo cho cơ quan quản lý và đăng ký xe cơ giới đường bộ củatỉnh. Việc tống đạt khai báo này cho người mắc nợ có giá trị như việc kê biên;

+ Kê biên các tài sản vơ hình: Mọi chủ nợ nếu có được quyết định thi

hành xác nhận có khoản nợ tiền mặt và có thể địi được đều có thể tiến hành

kê biên và bán các quyền tài sản vơ hình ngồi các khoản nợ bằng tiền củangười mắc nợ;

+ Các biện pháp cưỡng chế trả nhà: Trừ trường hợp có quy định đặc

biệt việc trục xuất hoặc cưỡng chế ra khỏi một tòa nhà, một nơi ở chỉ đượctiến hành nếu có quyết định của Tịa án hoặc trên cơ sở một biên bản hịa giải

có hiệu lực thi hành, sau khi đã có lệnh tống đạt giải toa nhà.

- Những tài sản không được kê biên: Pháp luật thi hành án quy định

những tài sản sau đây "không thể bị kê biên": Tài sản không thể bị kê biên

theo luật; thực phẩm, tiền trợ cấp nuôi dưỡng, trừ khoản tiền mà bên kê biêntrả để cấp dưỡng cho bên bị kê biên; các tài sản có thể định đoạt được nhưngđược người viết di chúc hoặc người tặng cho tuyên bố không thể kê biên, hoặclà theo sự cho phép của thẩm phán và trong một tỷ lệ do thẩm phán quyết

định, được các chủ nợ sau này khi đã quyết định tặng cho hoặc mở thừa kế mà

không thể kê biên; động sản cần thiết cho cuộc sống, công ăn việc làm củangười bị kê biên và gia đình họ, nếu như khơng phải để chi trả cho động sanđó trong chừng mực mà sắc lệnh của Tổng thống cho phép, tuy nhiên nhữngđộng sản đó vẫn có thể bị tịch biên nếu nằm ngoài nơi cư trú và nơi làm việcthường xuyên của con nợ, nếu đó là tài sản có giá trị như tài sản quý, hiếm, cổ

hay xa Xi, hoặc là tài sản có số lượng lớn vượt quá nhu cầu cần thiết; những

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

động sản hữu hình của nghiệp sản thương mại; vật dụng cần thiết của ngườitàn tật hay dùng để chăm sóc người ốm...

1.3.2. Cộng hòa Liên bang Đức

* Về 16 chức: Việc thi hành án dân sự do Tòa án khu vực đảm nhiệm.

Ở Tịa án này có thẩm phán, nhân viên Tịa án, chấp hành viên và nhân viên

thi hành án. Chấp hành viên chịu sự giám sát trực tiếp của Chánh án Tịa áncấp khu vực. Tuy là cơng chức nhưng chấp hành viên thực hiện cơng việc của

<small>mình một cách độc lập, có con dấu riêng, được hưởng một khoản lương cố</small>

định. Chấp hành viên không làm việc tại cơ quan Tòa án mà mở văn phòngriêng và được quyền tuyển các nhân viên giúp việc. Chấp hành viên đượchưởng lương, được nhận 15% lệ phí thi hành án, các khoản tiền thanh tốn cácchi phí khác như: di lại, sao chụp tài liệu...

* Về thủ tục thi hành án:

- Quyền yêu cầu thi hành án: để tiến hành cưỡng chế thi hành án thìphải có đơn u cầu của người được thi hành án, người đệ đơn có quyền rútđơn bất cứ lúc nào nhưng phải chịu mọi chi phí.

- Lệ phí thi hành án: chi phí cưỡng chế thi hành án do con nợ chịu,

trong trường hợp con nợ khơng đủ các tài sản để chi trả chi phí thì chủ nợ

chịu. Lệ phí thi hành án được tính theo bảng biểu do Nhà nước quy định tùytheo giá ngạch của đơn yêu cầu.

- Thời hiệu thi hành án: là 30 năm kể từ ngày bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật.

- Căn cứ, điều kiện để tiến hành việc thi hành án: Để có thể cưỡng chế

thi hành án cần phải có ba điều kiện: Phải có văn bằng xác nhận quyền yêucầu được đưa ra thi hành; phải có quy định về điều khoản thi hành; phải đượcthực hiện việc tống đạt.

</div>

×