Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Luận văn: HỘI NÔNG DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ (GIAI ĐOẠN 1997 – 2007) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 96 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

TRẦN TUẤN CƢỜNG

HỘI NƠNG DÂN TỈNH THÁI NGUN
TRONG THỜI KÌ CƠNG NGHIỆP HỐ - HIỆN ĐẠI HOÁ
(GIAI ĐOẠN 1997 – 2007)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

TRẦN TUẤN CƢỜNG
TRẦN TUẤN CƢỜNG

HỘI NÔNG DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
HỘI NÔNG DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
TRONG THỜI KÌ CƠNG NGHIỆP HỐ --HIỆN ĐẠI HỐ
TRONG THỜI KÌ CƠNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ
(GIAI ĐOẠN 1997 – 2007))


(GIAI ĐOẠN 1997 – 2007

Chuyên ngành ::Lịch sử Việt Nam
Chuyên ngành Lịch sử Việt Nam
Mã số ::60. 22 . .54
Mã số 60. 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN XUÂN MINH
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: TS. NGUYỄN XUÂN MINH

Thái Nguyên, tháng- 01 năm 2010
Thái Nguyên 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: HỘI NÔNG DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN TRƢỚC NĂM 1997.............. 7
1.1- Khái quát điều kiện tự nhiên, xã hội tỉnh Thái Nguyên. ........................................... 7
1.1.1- Điều kiện tự nhiên ............................................................................................ 7
1.1.2- Điều kiện xã hội: ............................................................................................ 12
1.2 - Sự hình thành và phát triển của Hội Nơng dân Thái Ngun qua các thời kì. ........ 13
CHƢƠNG 2: HỘI NƠNG DÂN TỈNH THÁI NGUN TRONG THỜI KÌ CNH –

HĐH (1997 – 2007) ........................................................................................................ 22
2.1. Một số vấn đề lí luận chung về CNH – HĐH ......................................................... 22
2.2. Hội Nơng dân tỉnh Thái Ngun trong thời kì CNH - HĐH.................................... 33
2.2.1. Củng cố, phát triển tổ chức Hội các cấp........................................................... 33
2.2.2. Tuyên truyền, vận động hội viên áp dụng tiến bộ khoa học- kĩ thuật để phát
triển sản xuất. ........................................................................................................... 35
2.2.3. Tham gia chương trình xóa đói giảm nghèo ..................................................... 43
2.2.4. Tham gia cuộc vận động “ Toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố ở
khu dân cư ”. ............................................................................................................ 48
2.2.5. Tham gia các hoạt động xã hội, xây dựng nông thôn mới. .............................. 49
CHƢƠNG 3: VỊ TRÍ, VAI TRỊ HỘI NƠNG DÂN TỈNH THÁI NGUN
TRONG SỰ NGHIỆP CNH - HĐH ............................................................................... 52
3.1 Vị trí của Hội Nơng dân tỉnh Thái Ngun .............................................................. 52
3.2 Vai trị của Hội Nông dân tỉnh Thái Nguyên ........................................................... 53
3.2.1 Vai trị tổ chức, giáo dục, vận động hội viên nơng dân trong tỉnh thực hiện
thắng lợi các mục tiêu kinh tế- xã hội. ....................................................................... 53
3.2.2 Vai trò tổ chức, mở rộng các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân sản
xuất, nâng cao đời sống ............................................................................................ 55
3.2.3 Vai trị tổ chức, động viên nơng dân xây dựng nơng thôn mới .......................... 59
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 64

PHỤ LỤC.................................................................................................... 73
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Số thứ


Chữ viết tắt

Nghĩa của chữ viết tắt

1

ATK

An toàn khu

2

BCH TW

Ban chấp hành trung ương

3

CNH

Cơng nghiệp hố

4

CNH - HĐH

Cơng nghiệp hố, hiện đại hố

5


CNXH

Chủ nghĩa xã hội

6

HĐH

Hiện đại hoá

7

HTX

Hợp tác xã

8

Nxb

Nhà xuất bản

9

UBDSGĐ & TE

Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em

10


VAC

Vườn, ao, chuồng

11

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

tự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trải qua các thời kì,
Đảng ta đã nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, củng cố được
liên minh công nông. Đảng ta đấu tranh chống những xu hướng “hữu
khuynh” và “tả khuynh” đánh giá thấp vai trị của nơng dân là quân chủ lực
của cách mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất của giai cấp công
nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng chủ nghĩa xã
hội” [78, tr.18].
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã dành một

chương viết về tổ chức của nơng dân, phân tích hết những nỗi tủi nhục, cực
khổ của giai cấp nông dân và Người đã vạch ra lối thoát: “Nếu dân cày Việt
Nam muốn thốt khỏi vịng cay đắng ấy, thì phải tổ chức nhau để kiếm đường
giải phóng” [73, tr.310 ].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác vận động nơng dân đã mở ra một
định hướng đúng đắn để Đảng và Nhà nước ta khai thác hết tiềm lực to lớn
của giai cấp này. Trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội IX của
Đảng đã đề ra mục tiêu: “Đối với giai cấp nông dân, ra sức bồi dưỡng sức
dân ở nông thôn và phát huy vai trị giai cấp nơng dân trong sự nghiệp đổi
mới, tập trung sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nơng nghiệp, phát triển nơng thơn; thực hiện tốt các chính sách
về ruộng đất, phát triển nơng nghiệp tồn diện, tiêu thụ nơng sản hàng hóa,
bảo hiểm sản xuất và bảo hiểm xã hội; phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ
vùng khó khăn; phân bổ dân cư theo quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải
quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, xây
dựng nơng thơn mới ...” [39, tr.125].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




2
Vận dụng Nghị quyết Đại hội IX, Đảng và Nhà nước đề ra những chủ
trương và chính sách phù hợp để phát huy vai trị của giai cấp nơng dân trong
xây dựng nông thôn mới và đã mang lại hiệu quả thiết thực, đời sống vật chất,
tinh thần của nông dân được nâng cao, bộ mặt nông thôn không ngừng
chuyển biến với sự đầu tư mạnh về cơ sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm...
Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện tốt việc chăm lo những lợi ích thiết thực
của nơng dân về dân sinh, dân trí và dân chủ, ngày càng khắc sâu thêm lịng

tin của nơng dân với Bác Hồ, với Đảng, Nhà nước và chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp
nơng thơn, chúng ta cần phải làm tốt công tác vận động nông dân tham gia
thực hiện tất cả những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương, tạo mọi điều
kiện thuận lợi để phát huy vai trị chủ lực của nơng dân.
Thái Ngun có khoảng 76,08% số dân nông thôn [64, tr.25]. Hội
Nông dân tỉnh Thái Nguyên là một tổ chức chính trị - xã hội có số hội viên
khá đơng. Trong thời kì CNH - HĐH, Hội có nhiều phong trào thi đua, nhiều
hoạt động phong phú, thiết thực, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
Việc nghiên cứu Hội Nông dân tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 10 năm
(1997 - 2007) góp phần làm rõ vai trị của nơng dân Việt Nam nói chung và
nơng dân tỉnh Thái Ngun nói riêng trong sự nghiệp CNH - HĐH.
Việc nghiên cứu Hội Nông dân tỉnh Thái Ngun giai đoạn 1997-2007
khơng chỉ có ý nghĩa khoa học, mà cả về thực tiễn.
Thông qua đề tài nghiên cứu này, chúng tơi rất mong muốn và hi vọng
góp phần cung cấp thêm tư liệu phục vụ cho việc học tập giảng dạy, nghiên
cứu lịch sử địa phương.
Xuất phát từ những lí do đó, chúng tơi chọn vấn đề:
“Hội Nơng dân tỉnh Thái Ngun trong thời kì CNH - HĐH (giai đoạn
1997-2007)” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Sử học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề nông dân từ trước đến nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu
với nhiều cách nhìn từ các góc độ khác nhau.

Cuốn “Hướng dẫn kế hoạch làm ăn cho hộ nông dân để xố đói giảm
nghèo” (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2000) của tác giả Lê Trọng đã trình bày về
tình trạng và ngun nhân đói nghèo của Việt Nam; chương trình mục tiêu quốc
gia xố đói giảm nghèo; lập kế hoạch làm ăn của hộ nơng dân đói nghèo; hạch
tốn giá thành đơn giản và phân tích kế hoạch làm ăn của hộ nơng dân đói nghèo.
Trong cuốn “Những mơ hình kinh tế hộ nơng dân miền núi đi lên sản
xuất hàng hóa” (Nxb Nơng nghiệp, Hà Nội, 1996), tác giả Nguyễn Trần Trọng
đã trình bày và nhận xét một cách khái quát về cách làm giàu của các hộ nơng
dân các tỉnh phía Bắc, đưa ra những giải pháp và kiến nghị với Nhà nước, các
cấp, các ngành nhằm giúp nông dân phát triển sản xuất.
Trong cuốn “ Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nơng nghiệp
nơng thơn theo hướng cơng nghiệp hố hiện đại hố ” (Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2004) của tác giả Lưu Văn Sùng trình bày từ kinh nghiệm một số
mơ hình điển hình và giải pháp cho nhiệm vụ thực tiễn, gợi mở đưa con đường
nông nghiệp và nơng thơn lên chủ nghĩa xã hội trong thời kì cơng nghiệp hố hiện đại hố.
Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu Hội Nơng dân Thái Ngun hiện nay cịn
là một khoảng trống. Tổ chức Nông hội tỉnh Thái Nguyên mới được thể hiện
qua các báo cáo hằng năm của các cấp ủy, chính quyền và đồn thể.
Trên cơ sở tiếp thu các báo cáo trên, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu Hội
Nông dân tỉnh Thái Nguyên (giai đoạn 1997 - 2007)
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hội Nông dân tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




4
3.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Phạm vi không gian: Tỉnh Thái Nguyên.
- Phạm vi thời gian: Giai đoạn 1997 - 2007; tuy nhiên, để làm rõ được
yêu cầu của đề tài, Luận văn đề cập đến sự hình thành, phát triển Nông hội
tỉnh trước năm 1997.
3.3.Nhiệm vụ của đề tài:
- Khái qt sự hình thành Hội Nơng tỉnh Thái Ngun.
- Trình bày sự hoạt động của Hội Nơng dân trong thời kì CNH - HĐH.
- Đánh giá vị trí, vai trị của Hội Nơng dân tỉnh Thái Ngun trong sự
nghiệp CNH - HĐH, giai đoạn 1997-2007.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu:
4.1 Nguồn tài liệu:
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng:
- Các tác phẩm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh bàn về vấn
đề nơng dân làm cơ sở lí luận nghiên cứu.
- Các văn kiện chủ yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Các chỉ thị của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
- Các nghị quyết, báo cáo tổng kết của Trung ương Hội Nông dân
Việt Nam và Hội Nông dân của tỉnh được lưu trữ tại các Trung tâm
Lưu trữ Thái Nguyên.
- Các tài liệu tuyên truyền, đề cương các cuộc thi có liên quan đến nội
dung đề tài.
- Các sách, báo đã xuất bản; các kỉ yếu hội thảo đã được cơng bố.
4.2 Phương pháp nghiên cứu :
Trong q trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch
sử kết hợp với phương pháp lơgíc là chủ yếu.
Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, phương pháp điều tra điền dã cũng được sử dụng để hiểu sâu sắc hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên





5

vai trị của Hội Nơng dân trong sự phát triển kinh tế của tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 1997 - 2007.
5. Đóng góp của Luận văn
- Đây là cơng trình đầu tiên trình bày một cách hệ thống bộ máy tổ
chức và hoạt động của Hội Nông dân tỉnh Thái Nguyên trong thời kì CNH HĐH (giai đoạn 1997 - 2007).
- Tập hợp và hệ thống các nguồn tư liệu về Hội Nông dân của tỉnh
Thái Nguyên trong những năm sau khi tách tỉnh.
- Đánh giá vị trí, vai trị của Hội Nông dân tỉnh Thái Nguyên trong sự
nghiệp CNH - HĐH.
- Luận văn dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy,
học tập trong các nhà trường và công tác giáo dục truyền thống của Hội Nông
dân tỉnh.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
được xây dựng thành 3 chương bao gồm 92 trang: Phần mở đầu (6 trang),
ba chương nội dung (53 trang), kết luận (4 trang). Ngồi ra cịn có phần tài
liệu tham khảo (9 trang) và phụ lục (20 trang).
Chƣơng 1: Hội Nông dân tỉnh Thái Nguyên trƣớc năm 1997
1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, xã hội tỉnh Thái Nguyên.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.2. Điều kiện xã hội
1.2. Sự hình thành và phát triển tổ chức Hội Nông dân Thái Nguyên qua các
thời kì.
Chƣơng 2: Hội Nơng dân tỉnh Thái Ngun trong thời kì CNH - HĐH
(1997 - 2007)
2.1. Một số vấn đề lí luận chung về CNH - HĐH.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




6
2.2. Hội Nơng dân tỉnh Thái Ngun trong thời kì CNH – HĐH.
2.2.1. Củng cố, phát triển tổ chức Hội các cấp.
2.2.2. Tuyên truyền, vận động hội viên áp dụng tiến bộ khoa học – kĩ
thuật để phát triển sản xuất.
2.2.3. Tham gia chương trình xố đói giảm nghèo.
2.2.4. Tham gia cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá ở khu dân cư”.
2.2.5. Tham gia các hoạt động xã hội, xây dựng nông thôn mới.
Chƣơng 3: Vị trí, vai trị Hội Nơng dân tỉnh Thái Ngun trong sự
nghiệp CNH - HĐH
3.1 Vị trí của Hội Nơng dân tỉnh Thái Ngun.
3.2 Vai trị của Hội Nơng dân tỉnh Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




7

CHƢƠNG 1
HỘI NÔNG DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN TRƢỚC NĂM 1997
1.1- Khái quát điều kiện tự nhiên, xã hội tỉnh Thái Nguyên.
1.1.1- Điều kiện tự nhiên

Thái Nguyên là một tỉnh miền núi trung du, nằm trong hệ toạ độ địa lí từ
21019’ đến 22003’ vĩ Bắc. Từ 105029’ đến 106015’ kinh Đông. Từ bắc đến nam
dài 43’ vĩ độ (80 Km). Từ tây sang đông rộng 46’ kinh độ (85Km). [47, tr.11].
Phía bắc tỉnh Thái Nguyên tiếp giáp tỉnh Bắc Kạn, phía tây giáp các
tỉnh Vĩnh Phúc, Tun Quang, phía đơng giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang
và phía nam tiếp giáp thủ đô Hà Nội. Là một trong những trung tâm chính trị,
kinh tế, giáo dục của khu Việt Bắc, Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc giao
lưu đã được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sơng
hình rẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên là điểm nút.
Dưới thời Nguyễn Gia Long, Thái Nguyên thuộc tổng trấn Bắc Thành.
Năm 1831, 1832, Minh Mạng chia cả nước làm 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên.
Trấn Thái Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên, sau đó đất Thái Nguyên
có nhiều biến động.
Năm 1835, Minh Mạng tách một số vùng đất thuộc phủ Phú Bình để
lập phủ Tịng Hố gồm châu Định Hoá, các huyện Phú Lương, Đại Từ và
Văn Lãng; phủ Phú Bình (phần đất cịn lại) có châu Võ Nhai, các huyện
Đồng Hỷ, Tư Nơng (nay là Phú Bình), Phổ n và Bình Tuyền (nay thuộc
Vĩnh Phúc) Phủ Thơng Hố là vùng đất thuộc tỉnh Bắc Kạn ngày nay, gồm
có châu Bạch Thông (nay là đất huyện Bạch Thông, Chợ Đồn, Chợ Rã tức
Ba Bể (trước năm 2003), huyện Cảm Hố (nay là đất các huyện Na Rì, Phủ
Thơng và Ngân Sơn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




8
Ngày 11/4/1900, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định thành lập tỉnh
Bắc Kạn trên cơ sở tồn bộ phủ Thơng Hoá của Thái Nguyên. Để mở rộng địa
giới tỉnh Bắc Kạn, ngày 25/6/1901, Pháp cắt tổng Yên Đĩnh khỏi huyện Phú

Lương, phủ Tịng Hố (Thái Ngun), sáp nhập về châu Bạch Thông (Bắc
Kạn). Năm 1913, Pháp cắt tiếp tổng Nghĩa Tá khỏi châu Định Hoá nhập về
huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn) và cắt hai xã Phúc Lâm, Tự Lập khỏi tổng Định
Biên Thượng, châu Định Hoá (Thái Nguyên) sáp nhập về huyện Sơn Dương
(Tuyên Quang).
Thực hiện Nghị quyết ngày 21/4/1965 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, từ ngày 1/7/1965, tỉnh Thái Nguyên hợp
nhất với tỉnh Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái, gồm 13 đơn vị hành chính trực
thuộc. Ngày 29/12/1978, Quốc hội khố VI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ra nghị quyết tách 2 huyện Ngân Sơn và Chợ Rã sáp nhập vào tỉnh
Cao Bằng, tên huyện Chợ Rã được đổi thành huyện Ba Bể. Bắc Thái còn 11
đơn vị hành chính trực thuộc với diện tích 6.500 km2.
Ngày 6/11/1996, tại kì họp thứ 10, Quốc hội khố IX đã phê chuẩn việc
chia lại địa giới hành chính của một số tỉnh. Tỉnh Bắc Thái được tách thành 2
tỉnh: Thái Nguyên và Bắc Kạn, có địa giới như trước khi hợp nhất (7/1965) và
hoạt động theo đơn vị hành chính mới kể từ ngày 1/1/1997.
Ngay sau khi có nghị quyết của Quốc hội, Tỉnh uỷ Bắc Thái đã kịp thời
đề ra chủ trương lãnh đạo việc thực hiện chia tách tỉnh. Ngày 20/11/1996 Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp để qn triệt chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị
quyết kì họp thứ 10 của Quốc hội khoá IX và chỉ thị của Thủ tướng Chính
phủ về việc chia tách tỉnh. Hội nghị nêu rõ phải làm tốt công tác tư tưởng để
cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh nhận thức rõ yêu cầu
khách quan những lợi ích lâu dài cũng như các khó khăn ban đầu của việc
chia tách tỉnh. Trong quá trình chia tách tỉnh, phải bảo đảm các mặt kinh tế,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




9

xã hội phát triển bình thường, đẩy mạnh sản xuất, giữ vững an ninh chính trị
trật tự an tồn xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
các dân tộc trong tỉnh.
Ngày 22/12/1996, Bộ Chính trị ra Quyết định số 131/QĐNS/TW về
việc kết thúc hoạt động của Đảng bộ và Tỉnh uỷ Bắc Thái; đồng thời thành
lập Đảng bộ Thái Nguyên. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 1/1/1997. Từ
đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, nhân dân các
dân tộc trong tỉnh bước vào thời kì mới: Thời kì đẩy mạnh CNH – HĐH.
Sau khi tách tỉnh, Thái Ngun có tổng diện tích tự nhiên là 354.655
ha, chiếm 1,07% diện tích tự nhiên cả nước.[64, tr.14]. Cơ cấu đất đai gồm
các loại sau:
- Đất núi chiếm 48,1% diện tích tự nhiên, có độ cao trên 200m, hình
thành do sự phong hóa trên các đá Macma, đá biến chất và trầm tích. Đất núi
thích hợp cho việc phát triển lâm nghiệp, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng
hộ, rừng kinh doanh nhưng cũng thích hợp để trồng cây ăn quả, một phần cây
lương thực cho nhân dân vùng cao.
- Đất đồi chiếm 24,5% diện tích tự nhiên chủ yếu hình thành trên cát kết,
bột kết phiến sét và một phần phù sa cổ kiến tạo. Đây là vùng đất xen giữa
nông và lâm nghiệp. Đất đồi tại một số vùng như Đại Từ, Phú Lương... ở từ độ
cao 150m đến 200m có độ dốc từ 50 đến 200 phù hợp đối với cây công nghiệp
và cây ăn quả lâu năm, đặc biệt là cây chè (một đặc sản của Thái Nguyên)
- Đất ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó một phần
phân bố dọc theo các con suối, rải rác, không tập trung, chịu sự tác động lớn
của chế độ thủy văn khắc nghiệt (lũ đột ngột, hạn hán...) khó khăn cho việc
canh tác.
- Đất chưa sử dụng hiện cịn 15% diện tích tự nhiên, phần lớn trong số
này có khả năng sử dụng cho lâm nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên





10
Trong tổng quỹ đất 354.655,25 ha [64, tr.15], đất sử dụng cho nông
nghiệp là 265.386,65 ha,[64, tr.15](chiếm 74,83 % ). Trong đó:
- Đất sản xuất nơng nghiệp: 93.681,62 ha (chiếm 26,41%)
- Đất lâm nghiệp có rừng: 165.106,51 ha (chiếm 46,56%)
- Đất nuôi trồng thuỷ sản: 3.606,77 ha (1,02%)
- Đất nông nghiệp khác: 2.991,75 ha (0,84%)
- Đất phi nông nghiệp: 39.781,01 ha (11,22%)
- Đất chưa sử dụng: 49.487,59 ha (13,95%) [64, tr.15]
Tỉnh Thái Ngun có nhiều sơng, suối quanh năm có nước, như sông
Cầu, sông Công .., rất thuận lợi cho việc canh tác trên các đồng ruộng phân
tán và đảm bảo cho đời sống sinh hoạt cho nhân dân trong tỉnh.
Sơng Cầu là dịng chảy chính của sơng Thái Bình, bắt nguồn từ huyện
Chợ Đồn (Bắc Kạn) ở độ cao trên 1.200m. Sông Cầu chảy qua thị xã Bắc
Kạn, thành phố Thái Nguyên, thị xã Bắc Ninh, thị trấn Phả Lại rồi chảy ra cửa
biển Thái Bình thuộc tỉnh Thái Bình.
Sơng Cầu có lưu lượng nước lớn trung bình nhiều năm là 135m3/s. Chế
độ nước sông Cầu phù hợp với chế độ mưa, mùa lũ chiếm 75% lượng nước,
mùa khô chỉ chiếm dưới 25% lượng nước cả năm.
Dưới thời thuộc Pháp, sông Cầu là tuyến giao thông chủ yếu và quan
trọng để địch vận chuyển lực lượng, vũ khí, lương thực và phương tiện chiến
tranh từ phía Nam lên phía Bắc tỉnh. Từ thị xã Thái Nguyên theo sông Cầu có
thể tới Đáp Cầu (Bắc Ninh), đi tiếp xà lan tới Phủ Lạng Thương, Phả Lại, Hải
Phòng; hoặc từ Đáp Cầu có thể đi ơ tơ, tàu hoả về Hà Nội.
Sông Công bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá, thuộc huyện Định Hố, chảy
qua huyện Đại Từ, xuống dọc phía tây thành phố Thái Nguyên, tạo thành ranh
giới tự nhiên giữa thành phố Thái Nguyên với huyện Phổ Yên và thị xã Sông
Công. Lưu lượng nước của sông Công trong mùa mưa lũ lên tới 1.880m3/s;

mùa khơ, chỉ có 0,32m3/s.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




11
Tỉnh Thái Nguyên là điểm tiếp giáp, là cầu nối giữa đồng bằng châu
thổ sông Hồng với các tỉnh vùng núi phía Bắc (Tuyên Quang, Bắc Kạn,Cao
Bằng, Lạng Sơn).
Thái Nguyên có nhiều dãy núi cao chạy theo hướng bắc-nam và thấp
dần xuống phía nam. Cấu trúc vùng núi phía Bắc chủ yếu là đa phong hóa
mạnh, tạo thành nhiều hang động và thung lũng nhỏ.
Phía tây nam có dãy Tam Đảo với đỉnh cao nhất 1.590 m, các vách núi
dựng đứng và kéo dài theo hướng tây bắc - đông nam. Ngồi dãy núi trên cịn
có dãy Ngân Sơn bắt đầu từ Bắc Kạn chạy theo hướng đông bắc - tây nam đến
Võ Nhai và dãy núi Bắc Sơn cũng chạy theo hướng tây bắc-đông nam. Cả ba
dãy núi Tam Đảo, Ngân Sơn, Bắc Sơn đều là những dãy núi cao che chắn gió
mùa đơng bắc.
Địa hình tỉnh Thái Ngun không phức tạp lắm so với các tỉnh trung
du, miền núi khác. Đây là một thuận lợi của Thái Nguyên cho canh tác nông,
lâm nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Khí hậu Thái Ngun vào mùa đông được chia thành 3 vùng rõ rệt:
Vùng lạnh nhiều nằm ở phía bắc huyện Võ Nhai.
Vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và phía Nam
huyện Võ Nhai.
Vùng ấm gồm các huyện: Đại Từ, Thành phố Thái Ngun, Đồng Hỷ,
Phú Bình, Phổ n và Thị xã Sơng Cơng.
Nhiệt độ chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: trên 34°C) với
tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2°C) là trên 18,8°C. Tổng số giờ nắng trong năm

dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ và phân phối tương đối đều cho các tháng
trong năm.
Khí hậu Thái Nguyên chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hằng năm
khoảng 2.000 đến 2.500 mm; cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




12
Nhìn chung khí hậu tỉnh Thái Ngun thuận lợi cho phát triển ngành
nông, lâm nghiệp.
1.1.2- Điều kiện xã hội:
Tỉnh Thái Nguyên gồm nhiều thành phần dân tộc định cư lâu đời, có bề
dày truyền thống u nước, đồn kết, thuỷ chung.
Tỉnh Thái Ngun gồm có 8 đơn vị hành chính trực thuộc (thành phố
Thái Nguyên, thị xã Sông Công và các huyện: Phú Bình, Phổ n, Đại Từ,
Định Hố, Phú Lương và Võ Nhai), với 180 xã, trong đó có 125 xã vùng cao
và miền núi, còn lại là các xã đồng bằng và trung du.
Dân số tỉnh Thái Nguyên ở thời điểm mới tách tỉnh năm 1997 là
1.034.112 người, sang đến năm 2007 dân số là 1.137.671 người, trong đó có
76,08 % là nơng dân. Thái Ngun là tỉnh đã diễn ra hiện tượng gia tăng dân
số cơ học dẫn tới biến động dân số rõ hơn các tỉnh khác. Thái Nguyên trước
đây đất rộng người thưa, có nhiều tài nguyên, nên từ xa xưa đã thu hút nhiều
người dân ở các nơi đến làm ăn sinh sống.
Trong quá trình lịch sử, Thái Ngun từng là Thủ đơ kháng chiến
chống thực dân Pháp, nên đón nhận nhiều đồng bào và cán bộ, chiến sĩ lên
tham gia kháng chiến. Hoà bình lập lại, từ đầu thập kỉ 60 thế kỉ XX đến nay,
với sự phát triển Khu công nghiệp gang thép, nhiều khu mỏ, xí nghiệp khác

và cả hệ thống trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp … nên đã
đẩy nhanh tốc độ gia tăng dân số.
Sự gia tăng dân số này làm cho Thái Nguyên tăng nhanh về lực lượng
lao động, làm tăng cường trình độ văn hoá, khoa học kĩ thuật để phát triển
kinh tế - xã hội.
Kết cấu độ tuổi dân số tỉnh Thái Nguyên là tỉnh có dân số trẻ, điều đó
làm cho tỉnh có nguồn lao động bổ sung dồi dào. Theo kết qủa điều tra dân số
ngày 1/4/1999, độ tuổi của dân số tỉnh Thái Nguyên gồm:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




13
- Dân số có độ tuổi 0 – 14:

38.5%

- Dân số có độ tuổi 15 – 59:

54,6%

- Dân số có độ tuổi trên 60:

6,9% [64, tr.23]

Tuy nhiên, dân số Thái Ngun phần lớn là lao động ở nơng thơn, do
đó sự chuyển đổi cơ cấu lao động của tỉnh đòi hỏi phải đẩy mạnh việc đào tạo
nghề cho nguồn lao động bổ sung từ nông thôn để chuyển sang làm công
nghiệp dịch vụ.

Thái Nguyên là nơi hội tụ của nhiều thành phần dân tộc nên đã trở thành
nơi hội tụ nền văn hoá phong phú, đa dạng của nhiều dân tộc. Trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên gồm 8 thành phần dân tộc có số dân từ 1.000 người trở lên
(Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Mơng, Sán Chay, Hoa và Dao).
Dân cư phân bố không đều, vùng cao và vùng núi dân cư rất thưa thớt,
trong khi đó ở thành thị và đồng bằng dân cư lại dày đặc. Năm 2007, mật độ
trung bình tồn tỉnh là 321 người/km2, nơi có mật độ dân số thấp nhất là
huyện Võ Nhai 76 người/km ², cao nhất là thành phố Thái Nguyên với mật độ
1.378 người/km ² [64, tr.24].
1.2 - Sự hình thành và phát triển của Hội Nông dân Thái Nguyên qua các
thời kì.
Trong sự phát triển của xã hội nước ta, lực lượng lao động đông đảo
nhất là giai cấp nông dân. Tầm quan trọng của lực lượng đông đảo này đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rất nhiều lần. Trong thư gửi cho nông
gia Việt Nam đề ngày 11 tháng 4 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết :
…..“ Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh
nông làm gốc. Trong cơng cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trơng mong
vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nơng dân ta giàu thì
nước ta giàu. Nơng nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh ”, [74,tr.43].
Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của Đảng ta đã khẳng định :
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




14
“ …Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền , vô sản giai cấp và nông dân là
hai lực lượng chính” “Dân cày là hạng người chiếm đại đa số ở Đông Dương
(hơn 90%), họ là một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền”,
“ Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền , vơ sản giai cấp

có đứng đầu và cùng với quần chúng dân cày mà tranh đấu để bênh vực
quyền lợi hằng ngày cho dân cày và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt
để thì mới có thể giành quyền lãnh đạo dân cày được ”, [ 68, tr.19]
Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng
sản Việt Nam (Tháng 10 năm 1930) thông qua nghị quyết về việc thành lập
Tổng Nông hội Đông Dương và Điều lệ Tổng Nông hội Đông Dương gồm 8
điều trong đó nêu rõ mục đích nhằm “thống nhất hết thảy Tổng Nông hội
Đông Dương để tranh đấu bênh vực quyền lợi hàng ngày của nông dân và để
thực hiện cách mạng thổ địa ” [68, tr.19].
Nghị quyết đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử giai cấp
nông dân Việt Nam. Mặc dù về danh nghĩa, Hội Nông dân Việt Nam vẫn
chưa được thành lập, nhưng các tổ chức nông hội ở các cấp vẫn tiếp tục hoạt
động dưới hình thức Nơng hội đỏ.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai (tháng 3/1931) cũng nhấn
mạnh: Cần phải đẩy mạnh việc tổ chức Nông hội làng, tuyên truyền sâu rộng
chủ trương của Đảng; trong điều kiện địch khủng bố trắng, nông dân cùng các
tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh, giương cao khẩu hiệu: Chống sưu thuế,
địa tô, thất nghiệp, chống khủng bố trắng, chống cải lương lừa dối, chống
chiến tranh …
Hội nghị Trung ương tháng 7/1936 xác định kẻ thù chính của nhân dân
Đông Dương lúc này không phải là thực dân Pháp nói chung, mà là bọn phản
động thuộc địa và tay sai. Hội nghị quyết định tạm thời chưa nêu khẩu hiệu
đánh đổ thực dân Pháp và giai cấp địa chủ, giành độc lập cho dân tộc và ruộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




15
đất cho dân cày, mà nêu mục tiêu trực tiếp trước mắt là đấu tranh chống chế

độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh đế quốc, địi dân sinh,
dân chủ và hồ bình. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản
đế Đông Dương; thay đổi các hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh
của quần chúng, từ tổ chức bí mật, bất hợp pháp là chủ yếu chuyển sang tổ
chức đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp.
Tháng 3 năm 1937, Trung ương Đảng họp và đề ra đường lối chính trị
và phương pháp tổ chức mới, tên các tổ chức đều được thay đổi cho phù hợp
với tình hình mới, quyết định lấy tên Nông hội thay cho Nông hội đỏ. Nơng
dân có tổ chức chính là Nơng hội, có thể tổ chức nhiều hội: hội tương tế, hợp
tác xã, v.v… Chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng đã giúp cho nông hội
khắp nơi trong cả nước phát huy vai trị của mình trong việc tập hợp, lãnh đạo
nơng dân hợp lực với công nhân và nhân dân lao động đấu tranh địi quyền
dân sinh, dân chủ.
Hình thức tổ chức của Nông hội rất đa dạng : hội cấy, hội gặt, hội hiếu
hỉ, hội góp họ, phường đi săn ….. đã thu hút đông đảo nông dân đấu tranh
giành quyền lợi của giai cấp mình.
Trong khoảng thời gian từ năm 1937, tổ chức Hội Nông dân phản đế
bắt đầu xuất hiện ở tỉnh Thái Nguyên. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và
của những đảng viên cộng sản ở Võ Nhai, Đại Từ, Định Hoá và do ảnh hưởng
của phong trào nông dân ở các tỉnh bạn dội vào từ năm 1937,1938,1939,
những cuộc đấu tranh của nhân dân tỉnh rất phong phú, linh hoạt như địi
kiểm sốt và quyết định thu chi trong xã, bầu cử lí trưởng (Phổ Yên, Phú
Bình), chống bắt phu làm đường vào ngày mùa, phải trả phụ cấp cho dân phu
đúng quy định, không được đánh đập dân phu (Võ Nhai).
Nhiều cuộc đấu tranh của nông dân đã làm cho kẻ địch bị động, lúng
túng, phải chấp nhận giải quyết một số yêu sách cho nơng dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên





16
Đặc biệt, sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (họp từ ngày 10 đến ngày
19/5/1941), Mặt trận Việt Minh ra đời và cơng bố chương trình cứu nước,
trong đó có điểm nói rõ: Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập;
Làm cho nhân dân Việt Nam được sung sướng, tự do.
Điều này đã đáp ứng lòng mong ước nhiều đời của hàng triệu nhân dân
Việt Nam mà trong đó hơn 90% là nơng dân.Vì thế, Mặt trận Việt Minh vừa
mới ra đời đã thu hút hàng ngàn nông dân tỉnh ta tham gia vào Hội Nông dân
Cứu quốc.
Từ cuối năm 1941 đến cuối năm 1943, Hội Nông dân Cứu quốc được
thành lập ở hầu hết các xã, huyện trong tỉnh. Đến năm 1944 đã có nhiều xã,
tất cả nông dân trong xã đều gia nhập Hội Nông dân Cứu quốc.
Phong trào cách mạng càng phát triển mạnh thì kẻ thù càng phản ứng
điên cuồng. Mở đầu là cuộc khủng bố quy mô lớn vào huyện Võ Nhai từ
tháng 7 năm 1941 đến tháng 2 năm 1942. Chúng đã dồn hơn 3.000 dân vào
trại tập trung kiểu phát xít, giết hại nhiều người, tàn phá nhà cửa, ruộng vườn
của nhân dân trong huyện.
Tuy nhiên, được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân mà nịng cốt là Hội
Nơng dân Cứu quốc, lực lượng cách mạng ở Võ Nhai được bảo vệ. Căn cứ
địa Bắc Sơn - Võ Nhai từng bước được củng cố, phát triển.
Vào những năm 40, phong trào cách mạng ở tỉnh Thái Nguyên phát
triển ngày càng mạnh mẽ và vững chắc, tỉnh Thái Nguyên có địa hình thuận
lợi cho việc phát triển cách mạng nên ngoài căn cứ địa Bắc Sơn- Võ Nhai,
năm 1943 Trung ương lại chọn những xã giáp ranh giữa 3 huyện Hiệp Hồ
(Bắc Giang), Phổ n và Phú Bình (Thái Ngun) làm An toàn khu 2 (gọi tắt
là ATK2). Nhiều gia đình hội viên Hội Nơng dân Cứu quốc ở đây đã trở
thành nơi tin cậy để Trung ương và Xứ uỷ Bắc Kì tổ chức những hội nghị
quan trọng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên





17
Từ giữa năm 1944, địch tăng cường khủng bố phong trào cách mạng ở
Thái Nguyên, chúng liên tiếp mở các đợt khủng bố lớn. Hàng chục cán bộ của
Trung ương, của Xứ uỷ và địa phương bị bắt, bị sát hại; trong đó có một số
hội viên Hội Nơng dân Cứu quốc ở các huyện Phú Bình, Phổ Yên. Hàng ngàn
người bị dồn vào các trại tập trung ở Chợ Chu (Định Hố), La Hiên, Đình Cả,
Tràng Xá (Võ Nhai).
Các đợt khủng bố của địch đã gây cho ta rất nhiều khó khăn và tổn thất.
Tuy vậy, với tinh thần vượt gian nan nguy hiểm để bảo vệ Đảng, giữ vững
phong trào, Hội Nông dân Cứu quốc cùng với các đồn thể Cứu quốc khác
vận động nhân dân tìm mọi cách che giấu, nuôi dưỡng cán bộ.
Các hội viên Nông dân Cứu quốc hăng hái tham gia vào các đội tự vệ
chiến đấu, đẩy mạnh hoạt động diệt ác, hộ lương, làm cho bọn tay sai không dám
dẫn đường chỉ điểm cho quân Pháp lùng sục, truy lùng cán bộ cách mạng.
Một số nơi (Định Hoá, Võ Nhai) Cứu quốc quân phối hợp với nhân dân
và các lực lượng tự vệ chặn đánh quân địch khi chúng hành quân qua.
Từ ngày thành lập Khu giải phóng (4/6/1945), Hội Nơng dân Cứu quốc
cùng với các đoàn thể thanh niên, phụ nữ đã tích cực vận động mọi tầng lớp
nhân dân Thái Nguyên bước đầu thực hiện quyền dân chủ. Nông dân hăng hái
đẩy mạnh sản xuất, học văn hoá.
Theo chỉ thị của Trung ương Đảng, của Tổng bộ Việt Minh và Uỷ ban
lâm thời Khu giải phóng, tại Thái Nguyên (từ trung tuần tháng 8 năm 1945)
khí thế cách mạng sơi sục. Các hội viên Hội Nông dân Cứu quốc là những
người đi tiên phong đem hết tâm sức mình ủng hộ Qn giải phóng.
Hội Nơng dân cứu quốc xã Dân Chủ và Đồng Bẩm thuộc huyện Đồng
Hỷ đã vận động hàng trăm nông dân tá điền thuộc đồn điền Nguyễn Thị Năm,

sớm ngày 19/8/1945 với đội ngũ chặt chẽ có lực lượng tự vệ bảo vệ đã vượt
trạm gác của Nhật ở cầu Gia Bảy kéo vào thị xã tuần hành thị uy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




18
Ngày 20/8/1945, tá điền ở Gia Sàng, Đồng Quang cùng tự vệ nổi dậy
đánh chiếm đồn điền Gia Sàng và Képle, sau đó kéo vào thị xã tấn cơng qn
Nhật ở nhiều vị trí.
Chiều 20/8/1945, tại sân vận động thị xã Thái Nguyên, hàng ngàn nông
dân thị xã và huyện Đồng Hỷ dự lễ mít tinh nghe tuyên bố thành lập chính
quyền cách mạng tại tỉnh nhà với khí thế cách mạng khẩn trương.
Thắng lợi Cách mạng tháng Tám ở tỉnh Thái Nguyên là thành quả của
cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hi sinh và oanh liệt của mọi tầng lớp
nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi tồn quốc
kháng chiến. Việt Bắc lúc này trở thành căn cứ địa kháng chiến của cả nước.
Thái Nguyên là trung tâm của căn cứ địa Việt Bắc. Ngoài trách nhiệm bảo vệ
an toàn các cơ quan đầu não kháng chiến, nhân dân các dân tộc Thái Nguyên chủ yếu là nông dân cịn tham gia đóng góp sức người, sức của cung cấp cho
tiền tuyến.
Trong những năm đầu toàn quốc kháng chiến, Đảng bộ Thái Nguyên
quan tâm xây dựng và củng cố các đồn thể quần chúng, trong đó có Hội
Nơng dân Cứu quốc.
Tuy nhiên, vào thời gian này, tổ chức Đảng và các cấp Hội Nơng dân
tỉnh Thái Ngun cịn đang có nhiều vướng mắc về phương pháp vận động và
xây dựng nội dung hoạt động của nông dân. Cán bộ của Hội thiếu trầm trọng
đã làm cho phong trào của Hội Nông dân trong tỉnh giảm sút. Đặc biệt sau
Thu Đông năm 1947, tổ chức Hội từ tỉnh xuống đến các xã hầu như khơng

cịn hoạt động.
Trước tình hình đó, đầu năm 1948, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Thái
Nguyên đã họp và thảo luận những vấn đề quan trọng, trong đó có vấn đề
củng cố tổ chức Hội Nơng dân Cứu quốc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




19

Ngày 2/3/1948, Ban Chấp hành lâm thời Hội Nông dân Cứu quốc tỉnh
được thành lập. Sang đến năm 1951, thực hiện nghị quyết của Liên khu uỷ
Việt Bắc, tất cả Hội viên Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc là nông dân
đều phải tham gia Hội Nông dân Cứu quốc.
Từ năm 1952 trở đi, hoạt động của Hội Nông dân Cứu quốc Thái
Nguyên đi dần vào nền nếp. Tỉnh Hội đã phát động thi đua xây dựng Hội
vững mạnh theo 6 nội dung:
- Một là, sinh hoạt đều.
- Hai là, các hội viên và tổ trưởng thực hiện tốt chỉ thị, nghị quyết
của cấp trên.
- Ba là, các hội viên thực hiện giúp đỡ nhau.
- Bốn là, các hội viên gương mẫu tăng gia sản xuất.
- Năm là, thực hiện cải thiện dân sinh, vệ sinh nhà cửa.
- Sáu là, gương mẫu giảm bớt chi tiêu trong đám ma, đám cưới.
Cũng trong năm 1952, Hội Nông dân Cứu quốc tỉnh đã đưa ra sáng
kiến tổ chức Tuần lễ liên minh Công - Nông - Binh. Đây là cuộc vận động
chính trị trong cơng nhân, nơng dân và qn đội tại tỉnh Thái Nguyên xây
dựng và củng cố tình quân - dân, thúc đẩy công cuộc kháng chiến.
Sang tháng 7/1954, hồ bình được lập lại, nơng dân Thái Ngun cùng

đồng bào miền Bắc bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế quốc dân, đẩy
mạnh sản xuất.
Vào đầu những năm 60 của thế kỉ XX, khi phong trào hợp tác hố nơng
nghiệp phát triển sâu rộng trên tồn miền Bắc, hợp tác xã nông nghiệp được
xem như 1 tổ chức chính trị, xã hội. Hợp tác xã khơng chỉ chỉ huy, phụ trách
sản xuất mà còn phụ trách cả mọi hoạt động sinh hoạt khác của xã viên hợp tác
xã. Điều này đã dẫn tới bệnh quan liêu của một số cán bộ lãnh đạo hợp tác xã;
xem nhẹ quyền lợi của nơng dân. Ngay sau đó Nơng hội, một tổ chức chính trị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




20
xã hội của giai cấp nông dân đã bị giải thể. Thay vào đó là Ban Cơng tác nơng
thơn, rồi Ban Quản lí hợp tác xã nơng nghiệp, Ban Nơng nghiệp….Các Ban
này dù là một Ban của Đảng cũng không thể làm cơng việc như một đồn thể
của nơng dân. Chính từ đó trong nhiều năm liền giai cấp nơng dân ở miền Bắc
nước ta khơng có hội đồn của mình.
Nhằm khắc phục tình trạng trên, đến năm 1974, Đảng chủ trương
thành lập Hội Liên hiệp Nông dân tập thể, nhưng tổ chức này mới có ở cấp xã
và hợp tác xã.
Ngày 27/9/1979, Ban Bí thư ra chỉ thị số 78 về việc tổ chức Hội Liên
hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Chỉ thị khẳng định Hội Liên hiệp Nông dân
tập thể Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân lao động trong
cả nước, Hội có nhiệm vụ tập hợp, đồn kết nơng dân để giáo dục, vận động
nông dân thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, hồn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nông nghiệp ở miền Nam, đưa nông thôn nước ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Hội Liên hiệp Nông dân tập thể là thành viên của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, có nhiệm vụ cùng Cơng đồn xây dựng khối liên minh công nông vững chắc làm cơ sở cho Mặt trận Tổ quốc.
Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam được thành lập có ý nghĩa
chính trị to lớn. Sau nhiều năm khơng có tổ chức Hội (ở miền Bắc), nay giai
cấp nơng dân cả nước có tổ chức thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.
Tiếp đó, ngày 29/9/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số
116- CT/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với tổ
chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.
Thực hiện Chỉ thị 116 của Ban Bí thư Trung ương, ngày 6/4/1982, Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Thái ra Quyết định số 19-QĐ/BT về tổ chức Hội
Liên hiệp Nông dân tập thể tỉnh Bắc Thái. Sau gần 3 năm tích cực hoạt động,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




21
đến năm 1984, Hội Liên hiệp Nông dân tập thể tỉnh Bắc Thái đã có 207 Hội
cơ sở, với 41 vạn hội viên sinh hoạt trong 1600 tổ.
Ngày 9/5/1984, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân
tập thể tỉnh Bắc Thái đã họp, đánh giá kết quả hoạt động của Hội và phong
trào nông dân từ năm 1979. Từ sau Đại hội lần I, hoạt động của Hội Nông dân
tập thể tỉnh được đẩy mạnh; cơ sở của Hội được mở rộng hơn trước. Tính đến
Đại hội lần thứ II (9/1987), cơ sở của Hội đã có ở 244 xã, gồm 3.239 tổ hội.
Năm 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 “Về đổi mới cơ chế quản lí
trong nơng nghiệp”, đồng thời Ban Bí thư Trung ương ra quyết định đổi tên
Hội Liên hiệp Nông dân tập thể thành Hội Nông dân Việt Nam.
Ngày 22/8/1992, Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Bắc Thái họp lần
thứ III, đánh giá việc thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh
Bắc Thái lần thứ II. Trên cơ sở đánh giá một cách nghiêm túc những kết quả
đã đạt và những mặt hạn chế, yếu kém trong nhiệm kì 1987 - 1992, Đại hội đã

bàn thơng qua Chương trình hành động của Hội trong nhiệm kì 1992 - 1997.
Ngày 6/11/1996, tại kì họp thứ 10, Quốc hội khoá IX đã quyết định
tách tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Từ ngày
1/1/1997, cùng với tỉnh Thái Nguyên, Hội Nông dân tỉnh Thái Nguyên chính
thức được lập lại và đi vào hoạt động.
Tóm lại: Với gần 90% dân số trong tỉnh, lại có truyền thống đồn kết,
u nước và cách mạng, nơng dân Thái Nguyên sớm thành lập được tổ chức
riêng của mình. Ra đời từ trong phong trào vận động dân chủ 1936-1939, trải
qua các chặng đường đấu tranh cách mạng, Hội Nông dân tỉnh Thái Nguyên
đã từng bước phát triển. Mặc dù có thời gian khơng cịn tồn tại, nhưng từ sau
khi có chỉ thị 78 (ngày 27/9/1979) của Ban Bí thư Trung ương, tổ chức Hội
Nơng dân tỉnh được củng cố trở lại.
Hoạt động của Hội Nông dân trong thời gian này đã tạo điều kiện thuận
lợi cho Hội Nơng dân tỉnh Thái Ngun khi bước vào thời kì CNH - HĐH.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




×