Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Vai trò của phụ nữ đối với phát triển kinh tế tỉnh Thái nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 95 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN HẢI HẬU



VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA






LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học







Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN HẢI HẬU



VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60 22 03 08


Ngươ
̀
i hươ
́

ng dâ
̃
n khoa ho
̣
c: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC BÁCH




Hà Nội - 2014

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Đức Bách. Các số liệu, kết quả trong luận
văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan khoa học, và các tài liệu có nguồn
gốc rõ ràng.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Học viên

Nguyễn Hải Hậu



1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu 5
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 8

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
6. Đóng góp của luận văn 9
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 9
8. Kết cấu của luận văn 9
NỘI DUNG 10
Chương 1. PHỤ NỮ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỈNH
THÁI NGUYÊN THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 10
1.1. Quan niệm về phụ nữ và vai trò của phụ nữ 10
1.1.1. Xác định và giới hạn của quan niệm về “Phụ nữ” trong luận văn 10
1.1.2. Vai trò của phụ nữ 11
1.2. Phát triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên 26
1.2.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế26
1.2.2. Tình hình phát triển kinh tế tỉnh Thái Nguyên thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa 29
1.3. Phụ nữ tỉnh Thái Nguyên trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa 35
1.3.1. Khái quát chung về phụ nữ tỉnh Thái Nguyên 35
1.3.2. Những yếu tố tác động đến quá trình thể hiện vai trò của phụ nữ
trong phát triển kinh tế của tỉnh Thái Nguyên 37


2
Chương 2. VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 49
2.1. Thực trạng vai trò của phụ nữ đối với phát triển kinh tế tỉnh
Thái Nguyên 49
2.1.1. Vai trò cơ bản của phụ nữ đối với phát triển kinh tế tỉnh Thái

Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa 49
2.1.2. Những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ Thái
Nguyên đối với phát triển kinh tế 58
2.2. Những quan điểm cơ bản và nhóm giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai
trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế ở tỉnh Thái Nguyên thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa 62
2.2.1. Những quan điểm cơ bản 62
2.2.2. Những nhóm giải pháp chủ yếu 64
KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 88

3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ có vai trò quan trọng trong đông đảo những người lao động của
xã hội. Phụ nữ luôn thể hiện vai trò của mình trong các lĩnh vực đời sống xã
hội, họ không chỉ sản xuất ra của cải vật chất mà còn là lực lượng xã hội sáng
tạo nhiều sản phẩm tinh thần và góp phần rất lớn tái sản xuất ra con người để
duy trì và phát triển xã hội. Đối với phụ nữ, dường như vai trò, chức phận của
họ xưa nay vẫn vậy. Trong gia đình, phụ nữ như là “nội tướng” - sinh con,
nuôi dạy con, tổ chức cuộc sống, “giữ lửa” gia đình… Đối với xã hội, khi đất
nước bị xâm lăng, người phụ nữ tiễn chồng con ra trận, ở lại hậu phương sản
xuất nuôi quân. Và đến lượt mình, cũng lại xông pha, cũng là đội quân tóc dài
- “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai
miền Nam, Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh hùng của nước ta.
Bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
phụ nữ Việt Nam càng phải vượt qua biết bao thách thức to lớn để đáp ứng
yêu cầu của xã hội hiện đại. Phụ nữ tham gia hầu hết các lĩnh vực của đời
sống xã hội, nhiều người được giao đảm nhiệm các vị trí quan trọng của
Đảng, chính quyền, đoàn thể ở các cấp từ trung ương đến địa phương. Ngày

càng nhiều người trở thành nhà chính trị, nhà khoa học, nhà quản lý, nhà văn,
nghệ sỹ Nhiều lĩnh vực không thể thiếu sự có mặt của người phụ nữ như y
tế, giáo dục, dệt, may mặc, dịch vụ… Phụ nữ đã có những đóng góp quan
trọng vào thành tựu của đất nước trên từng chặng đường phát triển
Thái Nguyên là một trung tâm kinh tế - xã hội lớn của khu vực Đông
Bắc hay cả vùng trung du và miền núi phía Bắc, là cửa ngõ giao lưu kinh tế -
xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc giao
lưu đã được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông
hình rẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên là đầu nút. Thái Nguyên hiện đang
được nghiên cứu để trở thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội và

4
là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ 3 sau Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, với tỉ lệ hơn 50,7% trong dân số toàn tỉnh, phụ nữ Thái Nguyên đang
ngày càng khẳng định vị trí cũng như vai trò của mình trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống. Tuy nhiên, một mặt, cả trong những đặc trưng về tự nhiên
và xã hội lẫn trong vai trò trên các lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực kinh tế của
phụ nữcòn nhiều vấn đề, cả về tiềm năng cùng những hạn chế, khó khăn,
phức tạp… vẫn chưa được làm rõ một cách đầy đủ, kể cả về cơ sở khoa học
lẫn biểu hiện trên thực tiễn. Mặt khác, sự đóng góp của phụ nữ lại chưa được
ghi nhận một cách xứng đáng, chưa tương xứng với vị trí, vai trò của họ
trong nền kinh tế, trong các quan hệ xã hội và trong đời sống gia đình. Sau
gần 30 năm đổi mới, cùng với nhiều thành quả của tỉnh Thái Nguyên và cả
nước ta, phụ nữ Thái Nguyên cũng thể hiện ngày càng rõ và tốt hơn vai trò
của mình trên mọi lĩnh vực. Đó là nhờ có việc đổi mới nhận thức, chủ trương,
chính sách, giải pháp và hoạt động…của các cấp bộ Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân; đồng thời có những nỗ lực của bản thân phụ nữ Thái
Nguyên…Song, cùng với những thành quả đó, nhiều vấn đề tiếp tục được đặt
ra, đó là: Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hiện nay và những năm

tới… như thế nào? Những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn trong quá
trình nâng cao vai trò, năng lực và hiệu quả hoạt động của phụ nữ Thái
Nguyên, đặc biệt là tạo những điều kiện để họ góp phần tốt hơn cho phát triển
kinh tế, gắn liền với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
Tỉnh Thái Nguyên ra sao…?
Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên và từ mong muốn có đóng góp nhỏ
bé vào sự phát triển chung của Thái Nguyên, trong đó có phong trào phụ nữ
của tỉnh nhà, tôi xin lựa chọn đề tài: “Vai trò của phụ nữ đối với phát triển
kinh tế tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học của mình.

5
2. Tình hình nghiên cứu
Địa vị của người phụ nữ trong các chế độ xã hội cũ, nhất là trong chủ
nghĩa tư bản và con đường giải phóng phụ nữ được các nhà kinh điển chủ
Mác – Lênin tập trung nghiên cứu trong các tác phẩm: “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, “Gia đình thần thánh”v.v Tìm
hiểu về địa vị của người phụ nữ trong xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác và
Ăngghen đã rất khách quan khi cho rằng: sự phát triển của công nghiệp tư bản
chủ nghĩa tạo ra những điều kiện cho phụ nữ có thể tham gia vào các công việc
sản xuất xã hội, song chỉ đối với phụ nữ vô sản mà thôi. Mặc dù vậy, đó cũng là
một xu hướng tiến bộ, bởi vì đó chính là tác nhân quan trọng góp phần từng
bước làm thay đổi nhận thức của xã hội về vị trí và vai trò của phụ nữ.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước ta ngay từ những
ngày đầu cách mạng đã quan tâm đến vấn đề này, coi việc nâng cao vị trí, vai
trò của phụ nữ trong gia đình và trong xã hội là nhiệm vụ của sự nghiệp giải
phóng phụ nữ. Điều đó được thể hiện trong bài viết: “Ba cuộc cách mạng với
vấn đề giải phóng phụ nữ” (1996), “Bác Hồ với sự nghiệp giải phóng phụ
nữ”. Người viết “Phụ nữ chiếm một nửa tổng số dân, để xây dựng chủ nghĩa

xã hội phải thật sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ. Hiến
pháp và pháp luật của nước ta đã quy định rõ điều đó”.
Vấn đề phụ nữ và vai trò vị trí của họ được rất nhiều nhà khoa học
quan tâm và nghiên cứu. Có nhiều công trình và bài viết, các cuộc hội thảo
nghiên cứu về vai trò của phụ nữ đối với gia đình, với quê hương và đất nước
đã đạt được một số kết quả nhất định.
Có thể khái quát các kết quả nghiên cứu theo các vấn đề sau:
Một là, những công trình nghiên cứu về gia đình và vai trò của người
phụ nữ dưới góc độ kinh tế:
“Vai trò của phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu
Long” (2002) và “Phụ nữ Việt Nam trong chuyển đổi kinh tế”(2005)của Thái
Ngọc Dư;

6
“Kinh tế hộ gia đình trong bước chuyển sang cơ chế thị trường ở nông
thôn nước ta hiện nay” (2001), Luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị
của Nguyễn Văn Ngừng;
“Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò lao động nữ
dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế nông thôn huyện Võ Nhai tỉnh Thái
Nguyên” (2007), Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Thái Nguyên của Nguyễn
Vân Chi.
Các công trình này đã luận giải nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn quan
trọng, làm sáng tỏ ở mức độ nhất định chức năng kinh tế của gia đình, các
hoạt động kinh tế sản xuất, hoạt động xã hội của các thành viên trong gia
đình, đặc biệt là vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế.
Hai là, các công trình nghiên cứu gia đình và vai trò của phụ nữ dưới
góc độ chính trị - xã hội:
“Gia đình phụ nữ Việt Nam với dân số văn hóa và sự phát triển bền
vững” (2004) Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội của Lê Thi;
“Vai trò người phụ nữ trong giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay”,

Báo chí và Tuyên truyền, số 2 năm 2000, trang 34 – 36, của Nghiêm Sĩ Liêm;
“Gia đình và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” (2002), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Đỗ Thị Bình
(Chủ biên).
Ở những góc độ khác nhau những công trình này đã đề cập đến đặc
điểm của gia đình Việt Nam, phân tích thực trạng vai trò của phụ nữ trong gia
đình và xã hội ở nước ta, đồng thời, cũng nêu ra những phương hướng và giải
pháp thiết thực góp phần xây dựng gia đình Việt Nam, phát huy vai trò to lớn
của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.
Ba là, các công trình nghiên cứu gia đình và vai trò của người phụ nữ
dưới góc độ giới, với các đề tài:

7
“Phụ nữ giới và phát triển” (1996), Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội của
Lê Ngọc Hùng và Trần Thị Vân Anh;
“Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam” (1998), Nhà
xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, của Lê Thi;
“Nghiên cứu phụ nữ giới và gia đình” (2003), Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, của Nguyễn Linh Khiếu.
Những công trình trên bước đầu đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu
phụ nữ - gia đình theo phương pháp tiếp cận giới – một phương pháp nghiên
cứu mới nhưng rất hiệu quả bởi các công trình này nghiên cứu vai trò của phụ
nữ trong mối quan hệ với nam giới.
Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu về Thái Nguyên, về quá trình
phát triển kinh tế của tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước:
“Thái Nguyên - thế và lực mới trong thế kỷ XXI (2007), Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, của Chu Viết Luân (chủ biên);
“Phát huy vai trò của công nhân Thái Nguyên trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2009) của Hoàng Thị Ngân;

“Xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Thái nguyên đáp ứng mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2012) của Liên đoàn Lao động tỉnh Thái
Nguyên.
Những công trình trên đã bước đầu đưa bạn đọc làm quen với vùng đất
và con người Thái Nguyên, thấy được bức tranh toàn cảnh trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cũng như các huyện, thị, thành phố, các
doanh nghiệp điển hình, những gương mặt mới, những nhân tố mới trong sản
xuất kinh doanh và trong các lĩnh vực khác, từ đó hình dung rõ hơn về những
bước đi sắp tới của Thái Nguyên trong tương lai.
Khi triển khai đề tài vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế ở Thái
Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác giả chắc chắn cần

8
đến những nghiên cứu khoa học đã nêu như là những tài liệu tham khảo đáng
quý góp phần làm sáng tỏ các vấn đề đã đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận vặn
Làm rõ vai trò của phụ nữ Thái Nguyên đối với phát triển kinh tế của
tỉnh Thái Nguyên, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao vai trò của phụ nữ đối với phát triển kinh tế tỉnh Thái Nguyên trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Làm rõ một số “quan niệm công cụ của luận văn” về “Phụ nữ và vai trò
của phụ nữ trong sự phát triển xã hội”; về “Phát triển kinh tế trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Khảo sát và đánh giá thực trạng vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh
tế ở Thái Nguyên giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của người phụ nữ trong phát
triển kinh tế ở Thái Nguyên giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phụ nữ và vai trò của phụ nữ.
4.2. Cơ sở thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu và khảo sát vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã
hội ở Thái Nguyên trong những năm gần đây. Những chính sách thể hiện sự
quan tâm đến phụ nữ và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Thái Nguyên.
4.3. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Sử dụng phối hợp các phương pháp như duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, phương pháp logic – lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê, phương pháp diễn dịch và quy nạp… để phục vụ cho luận văn.

9
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về vai trò của phụ nữ đối với phát triển kinh tế
của tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu là nguồn nhân lực phụ nữ Thái Nguyên trong
phát triển kinh tế của tỉnh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Pham vi và khoảng thời gian nghiên cứu: luận văn nghiên cứu nguồn
lực phụ nữ tỉnh Thái Nguyên trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến năm
2014.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa một số nhận thức về phụ nữ
và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế đất nước, trong đo có phụ nữ
tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và mở
rộng hợp tác quốc tế.

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đề tài là công trình khoa học có ý nghĩa lý luận thiết thực, là một tài liệu
tham khảo bổ ích để Hội Phụ nữ tỉnh tham mưu cho Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh
xây dựng giải pháp thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
đã và đang được đề ra cho toàn tỉnh nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ trong phát
triển kinh tế, góp phần phát triển bền vững và hội nhập quốc tế sâu sắc hơn.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung luận văn gồm 2 chương 5 tiết.




10
NỘI DUNG
Chương 1
PHỤ NỮ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TỈNH THÁI NGUYÊN THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Quan niệm về phụ nữ và vai trò của phụ nữ
1.1.1. Xác định và giới hạn của quan niệm về “Phụ nữ” trong luận văn
Nữ giới là một khái niệm chung để chỉ một người, một nhóm người hay
toàn bộ những người trong xã hội mà một cách tự nhiên, mang những đặc
điểm giới tính được xã hội thừa nhận về khả năng mang thai và sinh nở khi cơ
thể họ hoàn thiện và chức năng giới tính hoạt động bình thường. Nữ giới,
phân biệt với nam giới, là một trong hai giới tính truyền thống, cơ bản và đặc
trưng của loài người. Nhìn theo khía cạnh sinh học, nữ giới chỉ những người
thuộc giống cái.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, có nhiều từ gần nghĩa với "nữ giới", đều chỉ
một nhóm đối tượng thuộc nữ giới nhưng mang tính phân loại cao hơn. Một

số từ tiêu biểu hay gặp là đàn bà, phụ nữ, con gái Cách hiểu những từ này
còn rất khác nhau, do đó, cần phải chuẩn hóa chúng để tránh những thành
kiến, những hiểu lầm hay những sai sót trong việc sử dụng. Phụ nữ chỉ một,
một nhóm hay tất cả nữ giới đã trưởng thành, hoặc được cho là đã trưởng
thành về mặt xã hội. Nó cho thấy một cái nhìn ít nhất là trung lập, hoặc thể
hiện thiện cảm, sự trân trọng nhất định từ phía người sử dụng. Nó đề cập đến,
hoặc hướng người ta đến những mặt tốt, hoặc ít nhất là không xấu, đến những
giá trị, những đóng góp, những ảnh hưởng tích cực từ những nữ giới này. (Có
những cái nhìn khắt khe đòi hỏi một phụ nữ phải trưởng thành trên nhiều
phương diện như tâm lý, sinh lý, vị trí trong gia đình, vị trí trong xã hội ).
Đàn bà có một định nghĩa tương tự, nhưng bản thân nó đã không thể
hiện sự trang trọng. Nó cho một cái nhìn bao hàm nhiều mặt, cả về khía cạnh
xã hội cũng như bản chất sinh học Thông thường, chỉ nên sử dụng từ "đàn

11
bà" khi cần một cái nhìn thật sự trung lập, hoặc muốn thể hiện một thái độ
thiếu thiện cảm, một chút kỳ thị đối với nữ giới đó, bởi nó khiến người ta liên
tưởng đến những mặt xấu, hoặc được cho là xấu, mang đặc trưng và thường
gặp ở nữ giới (ví dụ như lắm mồm, ích kỷ, nông cạn ). Nếu so sánh hai từ
"phụ nữ" và "đàn bà" thì "đàn bà" được cho là suồng sã hơn, thô thiển hơn,
tiêu cực hơn. Ví dụ, khi người Việt nói về một người đàn ông: Tay này "đàn
bà" lắm thì có nghĩa chê người đó tính khí “không đàn ông chút nào”, thậm
chí còn “quy” về sự yếu đuối, nhỏ nhen.
Con gái chỉ những nữ giới trẻ, thường ở độ tuổi vị thành niên và thanh
niên, những người đã có biểu hiện rõ ràng của giới tính nữ (nhỏ hơn nữa thì
được gọi là bé gái) nhưng chưa được cho là trưởng thành. Ngoài ra, còn một
số từ khác để chỉ đối tượng nữ giới, như "mụ", "thị" nhưng ít được sử dụng
hơn và thường là khi thể hiện thành kiến cá nhân, thậm chí kinh miệt đối với
một người phụ nữ nào đó
Thật khó để đưa ra những định nghĩa chính xác, và cũng không nên đưa

ra những định nghĩa chính xác một cách quá máy móc. Chúng ta sử dụng các
từ này thường dựa trên đánh giá của xã hội và đánh giá của bản thân về một
hay nhiều đối tượng nữ giới cụ thể. Trong mỗi trường hợp nhất định, nên cân
nhắc chọn cái nhìn nào thích hợp, từ phía xã hội hay từ phía bản thân, hay kết
hợp cả hai cái nhìn đó.
Như vậy, quan niệm về phụ nữ mà tác giả sử dụng trong luận văn này
là nữ giới đã trưởng thành và có khả năng lao động sản xuất.
1.1.2. Vai trò của phụ nữ
Thứ nhất, vai trò đối với gia đình và xã hội
Từ xưa đến nay, với vai trò người chị, người em gái, người vợ, người
mẹ, người bà… - người phụ nữ luôn có vị trí quan trọng trước hết là trong
mỗi gia đình và trong xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, vai trò của người
phụ nữ từ xa xưa trong lịch sử nhân loại đã từng được xác định cho dù việc

12
xác định đó có khác nhau theo mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể. Khoảng 5.000 năm
trước, theo truyền thuyết, Quốc Mẫu Âu Cơ đã kết duyên cùng vua Lạc –
dòng dõi rồng, sinh hạ được 100 người con.
Trong cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, phụ nữ
Việt Nam đã cống hiến rất nhiều và từ các cuộc đấu tranh giành độc lập đó, đã
sản sinh rất nhiều nữ anh hùng: Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Hoàng
Ngân, Mạc Thị Bưởi,… Trong đó, người phụ nữ Việt Nam được tôn vinh là
những anh hùng và những Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, được Bác Hồ tặng 8
chữ vàng “Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang”.
Trong xu thế hội nhập và phát triển, phụ nữ tiếp tục phát huy và khẳng
định vai trò to lớn của mình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Một khi nền
kinh tế càng phát triển thì phụ nữ càng có nhiều cơ hội tham gia vào quá trình
biến đổi cách mạng và sâu sắc, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào quá trình
biến đổi đó.
Gia đình là một tế bào của xã hội và tồn tại cùng với sự tồn tại của xã

hội.Người phụ nữ là người thiết tha nhất với hạnh phúc gia đình, đóng vai trò
rất quan trọng giữa gia đình và xã hội trong mọi thời đại.
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 vai trò
của phụ nữ được các quan điểm của Đảng ta và Hiến pháp, pháp luật Nhà
nước ta chính thức xác nhận, thực thi và bảo vệ … đúng với chân giá trị con
người của nó. Bác Hồ đã từng nói: Non sông gấm vóc Việt Nam đều do phụ
nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm rực rỡ.
Nghị quyết số 04/NQ-TW của Bộ Chính trị ra ngày 27-7-1993 đã
khẳng định: “Phụ nữ vừa là người công dân, người lao động, vừa là người mẹ
và người thầy đầu tiên của con người”; “Phụ nữ có vai trò quan trọng trong
xây dựng gia đình cần tạo điều kiện để phụ nữ kết hợp hài hòa giữa nghĩa vụ
công dân và chức năng người mẹ trong việc xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.

13
Ở việc thực hiện thiên chức làm vợ, làm mẹ, phụ nữ là người tạo dựng nên
nhân cách con người từ trong bụng mẹ, là “tay hòm chìa khoá", là trung tâm các
mối quan hệ tình cảm, là người tích cực nhất trong gia đình, giữ gìn, bảo vệ bản
sắc văn hoá dân tộc, phong tục tập quán tốt đẹp ở làng, thôn, khu phố.
Ngày nay, đất nước mở cửa hội nhập quốc tế, kinh tế phát triển, đặc
biệt kinh tế hộ gia đình càng có điều kiện phát triển, nhiều nữ doanh nhân làm
giàu chính đáng cho gia đình, cho đất nước. Phong trào làm từ thiện ngày
càng lan rộng ra nhiều tổ chức, cá nhân… Song ở nơi này, nơi khác còn phát
sinh ra những biểu hiện, những hành vi tiêu cực do ảnh hưởng của đồng tiền,
vàng, USD làm khuynh đảo mọi giá trị đạo đức như con bất hiếu với cha mẹ,
tình cảm vợ chồng anh em phai nhạt, tệ nạn cờ bạc, nghiện hút… Việc hạn
chế, đẩy lùi những tồn tại nêu trên càng đòi hỏi vai trò của người mẹ, người
vợ trong gia đình, nhà trường, xã hội rất lớn, đặc biệt người mẹ trực tiếp dẫn
con bước qua các cửa ải phi đạo đức và sự ngu dốt, tạo cho con có ý chí, nghị
lực vượt khó khăn trong cuộc đời.

Thiên chức và xã hội đã trao cho phụ nữ phần việc lớn hơn nam giới
trong gia đình, đó là việc sinh nở ra con cái để duy trì nòi giống, nội trợ lo
lắng từng bữa ăn, giấc ngủ trong nhà, “nhen lên và canh giữ bếp lửa gia đình”
tạo nên sự ấm áp, yên vui làm điểm tựa cho chồng, cho con, cho cháu… bằng
cái tâm và đức của mình. Vì vậy, Nhà nước ta, các cấp, các ngành luôn luôn
chăm lo cho tế bào xã hội - tổ ấm gia đình; động viên, vun đắp tạo điều kiện
cho mỗi gia đình kế thừa, phát huy bản sắc văn hóa.
Thứ hai, vai trò đối với phát triển kinh tế
Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, chế độ mẫu hệ đã tồn
tại trong một thời kỳ dài. Đặc trưng nổi bật của chế độ này là phụ nữ đóng vai
trò chủ đạo trong gia đình, dòng họ; đồng thời có vai trò to lớn trong sinh hoạt
kinh tế và trong đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển của lịch sử, ở các chế
độ xã hội khác nhau, vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế cũng có

14
những thay đổi và được thực hiện ở những mức độ khác nhau. Tuy vậy, thông
thường, ở tất cả các chế độ xã hội, phụ nữ vẫn đóng vai trò quan trọng trong
gia đình, đảm trách những công việc nội trợ, đồng thời tham gia vào các hoạt
động kinh tế như: chăn nuôi, trồng trọt, buôn bán, làm thuê để có thêm
nguồn thu nhập cho gia đình. Phụ nữ không những làm kinh tế mà còn là
người mẹ, người vợ có trách nhiệm giáo dục con cái, truyền đạt những giá trị
văn hóa cho thế hệ mai sau, hay nói cách khác họ đã có công lao to lớn trong
việc lưu giữ và truyền bá văn hóa cho dân tộc.
Tìm hiểu về vai trò của phụ nữ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
C.Mác và Ph. Ăngghen đã rất khách quan khi cho rằng: Sự phát triển của
công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những điều kiện khách quan để phụ nữ
có thể tham gia vào hoạt động kinh tế của xã hội, mặc dù chỉ đối với phụ nữ
vô sản mà thôi. Đây là một xu hướng tiến bộ vì nó góp phần làm thay đổi
nhận thức của xã hội về vai trò của phụ nữ, từ đó xã hội có cái nhìn khách
quan hơn khi đánh giá vị trí và vai trò của phụ nữ. Họ không chỉ đảm đương

chức năng nội trợ và sinh đẻ đơn thuần, mà còn có khả năng tham gia làm
kinh tế, tạo ra nguồn thu nhập cho gia đình. Nhờ đó phụ nữ ngày càng trở nên
chủ động hơn về kinh tế và không còn lệ thuộc hoàn toàn vào người đàn ông.
Khẳng định điều này, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Chúng tôi coi khuynh
hướng của nền công nghiệp hiện đại thu hút trẻ em và thiếu niên nam nữ tham
gia vào công việc sản xuất xã hội lớn lao là một khuynh hướng tiến bộ, lành
mạnh và chính đáng, mặc dù, trong chế độ tư bản nó đã mang những hình
thức quái gở‟‟ [36, tr.216].
Theo C.Mác và Ph. Ăngghen, việc sử dụng lao động nữ trong nền sản
xuất công nghiệp tư bản chủ nghĩa còn tạo ra cơ sở kinh tế mới cho sự phát
triển của gia đình ở hình thức cao hơn, đồng thời là yếu tố dẫn đến những
thay đổi trong quan hệ giữa nam và nữ khẳng định điều này được, C.Mác viết:
“…Trong khi đem lại cho phụ nữ, thiếu niên và trẻ em trai gái một vai trò

15
quyết định trong quá trình sản xuất xã hội có tổ chức ngoài phạm vi gia đình,
đại công nghiệp cũng vẫn tạo ra một cơ sở kinh tế mới cho hình thức cao hơn
của gia đình.”
Tuy vậy, trong chủ nghĩa tư bản, việc sử dụng lao động nữ trong nền
sản xuất xã hội lại dẫn đến sự mâu thuẫn và xung đột giữa việc thực hiện chức
năng gia đình và chức năng xã hội của người phụ nữ. Sự xung đột này không
thể giải quyết triệt để trong chủ nghĩa tư bản, trái lại, nó càng làm trầm trọng
thêm tình trạng “một cổ hai tròng’’ của người phụ nữ, bởi lẽ họ vừa bị nô
dịch trong gia đình, vừa bị áp bức ngoài xã hội, khi giới chủ tư bản tìm mọi
thủ đoạn tinh vi để bóc lột lao động nữ và trẻ em - là loại lao động rẻ mạt và
dễ “sai khiến‟‟. Thực chất, giới chủ tư sản sử dụng lao động nữ trong các
công xưởng hoàn toàn không phải vì mục đích giải phóng họ khỏi những
công việc nặng nhọc trong gia đình, mà trước hết vì chính lợi ích của nhà tư
bản, đó là nhằm bóc lột lao động ngày càng nhiều hơn và tinh vi hơn, do vậy,
những xí nghiệp lớn thích mua lao động của đàn bà và trẻ em vì đây là loại

lao động rẻ mạt.
Ở đây, giới chủ đã khai thác triệt để tính cách của phụ nữ để phục vụ
cho lợi ích của chúng, đó là phụ nữ là thường xuyên chăm lo vun vén cho gia
đình, sẵn sàng hy sinh vì chồng, vì con, mà chấp nhận làm việc ở những nơi
có nguồn thu nhập thấp miễn là có tiền để trang trải cho cuộc sống gia đình;
đó là, phụ nữ thường cam chịu, nhẫn nhục, ngoan ngoãn, có lòng vị tha, ít
chống đối, vạch trần tính chất dã man và bóc lột tinh vi của giới chủ tư bản,
C. Mác đã trích dẫn báo cáo của Uỷ ban nghiên cứu của tổ chức và điều lệ của
các Tổ chức công liên ở Anh, đánh giá như sau: Một chủ xưởng cho biết rằng,
ông ta chỉ toàn dùng phụ nữ để đứng máy dệt; ông thích sử dụng đàn bà có
chồng rồi, nhất là những người có gia đình mà họ phải nuôi; họ chăm chỉ hơn
và dễ bảo hơn là những phụ nữ chưa chồng và hơn nữa họ buộc phải làm việc
cật lực để kiếm được những tư liệu sinh hoạt cần thiết. Như vậy là những đức

16
tính đặc biệt của người phụ nữ lại quay trở lại làm hại họ, cũng như sự dịu
dàng nết na trong bản chất người phụ nữ đã trở thành công cụ biến họ thành nô
lệ và làm cho họ đau khổ [37, tr.578].
Mục đích của chủ nghĩa tư bản là vì lợi nhuận, do đó giới chủ không
ngừng cải tiến kỹ thuật, cải tiến công nghệ sản xuất, mặt khác không ngừng
bổ sung lao động phụ nữ vào tất cả các loại lao động, kể cả những loại lao
động nặng nhọc hao tổn nhiều sức lực và hoàn toàn không phù hợp với lao
động nữ. Đó là, những ngành nghề mang tính độc hại, nặng nhọc và phụ nữ
phải làm việc trong những điều kiện hết sức tồi tệ, do vậy, không ít lao động
nữ bị kiệt sức, suy sụp về thể xác và tinh thần, thậm chí “chết chỉ vì lao động
quá sức‟‟. C.Mác viết:
“Công nhân gồm đàn ông và đàn bà, người lớn và trẻ em thuộc cả hai
giới. Trong một số ngành thì ban đêm đàn bà và nữ thanh niên làm việc lẫn
lộn với đàn ông‟‟ [37, tr.377, 378].
Chủ nghĩa tư bản phát triển đã tạo ra các tiền đề kinh tế - xã hội cho

cuộc đấu tranh giải phóng các giai cấp bị áp bức bóc lột, giải phóng phụ nữ.
Nhưng bản thân chủ nghĩa tư bản khi xác lập vị trí của nó trên vũ đài lịch sử
lại không giải phóng được con người nói chung, phụ nữ nói riêng khỏi sự áp
bức trong gia đình và xã hội, thậm chí nó còn làm tăng cường sự áp bức bóc
lột và làm tha hóa phụ nữ. Thời gian làm việc quá nhiều, làm cho phụ nữ
không có điều kiện chăm sóc gia đình, chăm sóc con cái mà chủ yếu giao phó
cho người xa lạ trông nom, đứa trẻ vì thế, do mẹ chúng phải làm việc quần
quật 12 tiếng/ngày. Ăngghen mô tả: Những đứa trẻ lớn lên trong những điều
kiện như thế sau này đối với gia đình sẽ không có chút gì quyến luyến, đôi khi
ở trong gia đình mà chính bản thân họ xây dựng, chúng cũng không thấy
hương vị gia đình, vì chúng đã quá quen với cuộc sống lao động, điều đó tất
nhiên sẽ làm cho gia đình công nhân càng bị phá hoại nghiêm trọng [36,
tr.509].

17
Cho dù phải làm việc đầu tắt mặt tối cả ngày, song phụ nữ chỉ kiếm
được những đồng lương ít ỏi để có thể trang trải chút ít về điều kiện sống hiện
tại. C.Mác viết: “Tôi biết nhiều phụ nữ, là những người góa bụa có con nhỏ,
làm việc vất vả mà mỗi tuần cũng kiếm được 8-9 silinh, mà mỗi người khi đã
biết được giá cả những vật phẩm cần thiết nhất cho đời sống ở Anh th
́
ì phải
thừa nhận rằng, món tiền ít ỏi ấy không thể nào nuôi sống gia đình được‟‟ [38,
tr. 502]. Vì vậy, nhà ở của họ rất tồi tàn, không có dụng cụ nhà bếp, không có
đồ dùng để giặt giũ, may vá, thiếu mọi thứ có thể làm cho đời sống văn minh
vui thú, làm cho gia đình hấp dẫn. C.Mác cho rằng: chỉ có cái chế độ nhục
nhã này mới khuyến khích người ta làm như thế, trẻ con sống như cây cỏ
dại, phụ nữ lao động giống như một nô lệ và phải chịu bao thứ tai họa.
Như vậy, trong chủ nghĩa tư bản, người phụ nữ phải tham gia vào quá
trình lao động xã hội như nam giới, thậm chí họ rơi vào tình cảnh bị bóc lột

tồi tệ hơn nam giới, lao động của phụ nữ bị tha hóa “kép‟‟trong gia đình và
ngoài xã hội. Điều đó đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến gia đình và nhân
cách của phụ nữ.
Tiếp bước C.Mác và Ăngghen, V.I. Lênin đã phát triển học thuyết Mác
trong giai đoạn lịch sử mới - Giai đoạn chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh
tranh sang chủ nghĩa đế quốc và giai đoạn chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở
thành hiện thực. Lênin tố cáo rằng, dưới chế độ chủ nghĩa tư bản, phụ nữ tức
là một nửa nhân loại bị hai tầng áp bức. Ngay cả ở những nước cộng hòa tư
sản dân chủ nhất vào đầu thế kỹ XX, phụ nữ vẫn trong tình cảnh “một cổ hai
tròng’’ - vẫn bị mất bình đẳng, bị bóc lột và nô lệ cùng một lúc trong xã hội
và trong chính gia đình họ, vì pháp luật không cho họ có quyền bình đẳng với
nam giới, họ bị giam hãm trong chế độ gia đình, bị nghẹt thở dưới gánh nặng
những công việc bếp núc nhỏ nhặt nhất, lam lũ nhất, khổ cực nhất và làm cho
mụ người nhất. Ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, địa vị của người phụ nữ cũng
không có gì thay đổi, thậm chí còn tồi tệ hơn. Đối lập với cực bên kia là một

18
ít gia đình tư sản giàu có, lấy việc tăng lên của lợi nhuận làm mục tiêu thì sự
nghèo khổ bao trùm lên mọi tầng lớp gia đình trong xã hội. Trong những gia
đình khốn khổ này, phụ nữ đã sống khốn khổ nhất, họ sẵn sàng nhận số tiền rẻ
mạt để kiếm thêm cho bản thân hoặc gia đình một mẩu bánh mì. Cùng quẫn,
nhiều chị em rơi vào con đường nhục nhã, họ phải bán thân nuôi miệng.
Như vậy, phụ nữ là nạn nhân của sự bần hàn đói rách và bị đọa đày
trong kiếp “gia nô‟‟ đúng như Lênin đã chỉ ra: Hàng triệu phụ nữ trong gia
đình như vậy đang sống (hoặc nói cho đúng hơn đang bị đọa đày) trong kiếp
“gia nô‟‟, ra sức lo ăn, lo mặc cho cả gia đình bằng từng xu nhỏ mà họ phải
trả bằng sự cố gắng phí thu 72 ngàn hàng ngày và bằng “sự tiết kiệm‟‟ tất cả
mọi thứ - chỉ trừ có tiết kiệm lao động của bản thân [31, tr.463].
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đã minh chứng rất rõ ràng
nguyên nhân của tình cảnh cùng khổ của giai cấp công nhân nói chung và của

phụ nữ nói riêng không phải là sự hà hiếp vặt vãnh, không phải là những thủ
đoạn bóc lột và thủ đoạn làm tiền ti tiện nào đó, mà chính là do chế độ tư bản
chủ nghĩa. Chế độ này khi xác lập vị trí của nó trên vũ đài chính trị thì nó
không thể giải phóng con người nói chung, giải phóng người phụ nữ nói riêng
khỏi sự áp bức gia đình và xã hội mà thậm chí còn làm tha hóa người phụ nữ.
Sự cùng khổ của lao động nữ dưới chủ nghĩa tư bản và sự bất bình đẳng
về giới đối với phụ nữ là vô cùng khủng khiếp. Vì chủ nghĩa tư bảnvới nền
tảng của nó là chế độ tư hữu đã không thể nào giải phóng phụ nữ, không tạo
điều kiện để phụ nữ phát huy vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội,
mà còn tăng thêm sự áp bức bóc lột và sự tha hóa đối với họ. Điều đó cho
thấy cần có một cuộc cách mạng xã hội nhằm giải phóng người lao động bị
bóc lột - giải phóng phụ nữ, đó chính là cuộc cách mạng chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, chủ nghĩa Mác- Lênin, một mặt đã đánh giá cao vai trò của
phụ nữ trong phát triển kinh tế, mặt khác cũng chỉ rõ trong chủ nghĩa tư bản,
do bị chế định bởi chế độ chiếm hữu tư nhân, tư bản chủ nghĩa, nên vai trò

19
của phụ nữ trong phát triển kinh tế chưa được phát huy và tạo điều kiện để
hướng tới phát triển kinh tế gia đình, phát triển kinh tế xã hội và giải phóng
chính bản thân phụ nữ.
Trong lịch sử xã hội Việt Nam cổ truyền, vị trí, vai trò của phụ nữ, xét
về mặt kinh tếgắn liền với quá trình sản xuất cũng cũng có những biểu hiện rõ
ràng, qua các thời đại khác nhau. Việt Nam bước vào thời kỳ nông nghiệp rất
sớm, cách đây hàng vạn năm, nghề trồng lúa - tiếp theo thời kỳ trồng bầu bí,
cây củ và cây ăn quả- cũng ra đời sớm, từ 5, 6 ngàn năm nay. Di tích các nữ
thần nông nghiệp “Bà Dâu‟‟, “Bà Đậu‟‟, nghi lễ cúng “Mẹ lúa‟‟. Điều này đã
phản ánh công lao phát minh và vai trò quan trọng của phụ nữ Việt Nam trong
thời nông cổ. Đặc điểm của nghề trồng lúa nước đòi hỏi lao động cần cù, tỉ
mỉ, tinh tế “cày sâu cuốc bẫm nó đã qui định sự ra đời sớm của kinh tế tiểu
nông. Trong khuôn khổ của nền văn minh nông nghiệp cổ truyền - với nghề

trồng lúa nước là chủ yếu - những điều kiện kinh tế đòi hỏi phải có sự hợp tác
chặt chẽ giữa người đàn ông và người đàn bà trong các khâu chính của nền sản
xuất. Hình ảnh thường thấy của nông thôn Việt Nam thời cổ truyền là:
Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Phụ nữ Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và
là một sức lao động quan trọng trong nền sản xuất ấy. Vì vậy, đúng như nhận
định của nhiều học giả trước đây, phụ nữ Việt Nam có một quyền lực và một
sự tự do rộng rãi hơn so với nhiều phụ nữ dân tộc Á đông (Trung Quốc, Ấn
Độ ). Họ nói: trong gia đình Việt Nam cổ truyền, người đàn ông “trị vì‟‟
nhưng người đàn bà “cai quản’’. Điều này cho thấy trong xã hội chưa có sự
phân công rõ rệt giữa phụ nữ và nam giới trong công việc gia đình và xã hội,
nhưng đã có sự phân định cho đàn bà và đàn ông những công việc khá rõ nét.
Lúc này, phụ nữ giữ vai trò là người “cai quản’’, tức là người phụ nữ phải
gánh vác công việc gia đình: vừa làm kinh tế, vừa phải chăm sóc các thành

20
viên trong gia đình. Những công việc tuy đơn giản nhưng lại hết sức nặng nề
đặt lên đôi vai của người phụ nữ. Nhưng với sự đảm đang, khéo léo, tinh tế,
thông minh, cần cù và sáng tạo phụ nữ đã vượt qua mọi khó khăn để vươn lên
khẳng định vai trò của mình trong phát triển kinh tế - xã hội.
Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, nhân dân bị áp bức bóc lột nặng
nề thì phụ nữ càng bị áp bức bốc lột nặng nề hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ ra nguyên nhân kinh tế - xã hội đẩy người phụ nữ vào cảnh cơ cực. Theo
Người “Ách áp bức dân tộc và giai cấp của bọn thực dân pháp và phong kiến
tay sai là nguyên nhân cơ bản gây nên những nỗi đau khổ cơ cực của người
phụ nữ‟‟ [23, tr.15]. Bị tước đoạt quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, phụ nữ chỉ
có cách bán sức lao động cho bọn chủ nhà máy, chủ đồn điền. Sức lao động rẻ
mạt của phụ nữ và trẻ em đã mang lại những món lợi nhuận kết xù cho bọn tư
bản độc quyền Pháp. Hồ Chí Minh đã tính rằng “Bọn chủ hàng năm thu lợi

nhuận trung bình từ 35% đến 50%; cùng thời gian đó có 5.548 tai nạn lao
động, trong đó 2.200 phụ nữ và thiếu nhi đã chết để làm giàu cho bọn thực
dân‟‟ [26, tr.12].
Trong khi đó chủ nghĩa tư bản rêu rao chiêu bài tự do, bình đẳng, bác
ái, đó chỉ là hình thức mị dân của chủ nghĩa tư bản để trang điểm cho cái huy
chương mục nát của nó chứ thực ra là dân một nước thuộc địa thì chẳng bao
giờ được hưởng điều đó cả. Vì vậy, khi đến thăm tượng nữ thần tự do ở Hoa
Kỳ, Hồ Chủ tịch đã nhận xét: Trong khi người ta tượng trưng cho tự do và
công lý bằng một người đàn bà bằng xương bằng thịt. Chủ nghĩa thực dân
không từ một hành động bạo ngược nào đối với phụ nữ. Những người phụ nữ
bản xứ bị coi như xúc vật, bị đánh đập, bị hành hạ bị bóc lột rất dã man.Mặc
dù công việc làm như nhau nhưng tiền lương của họ bao giờ cũng thấp hơn
nam giới. Sinh đẻ là chức năng vốn có của phụ nữ nhưng trong thời gian sinh
đẻ, họ lại không được nghỉ, thậm chí có nguy cơ mất việc làm. Phụ nữ còn
phải nộp sưu cao, thuế nặng, phải mua rượu và thuốc phiện, nếu không có tiền

21
mua thì phải đi tù. Biết bao hình ảnh như chị Dậu, anh Pha trong tác phẩm
“Tắt đèn‟‟ và “Bước đường cùng‟‟ khi nghe tiếng trống thúc thuế sợ hãi đến
kinh hoàng, phải chạy vạy đủ cách để khỏi bị khảo tra, bị gông cùm.
Tư tưởng "Trọng nam khinh nữ‟‟ được chủ nghĩa thực dân biện bạch là
hợp lý, là không thay đổi được. Những phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ, đạo
đức phong kiến “Tam tòng tứ đức‟‟ được khuyến khích duy trì để trói buộc
đày đọa, chà đạp lên tình cảm của phụ nữ. Vì vậy, người phụ nữ không những
bị hành hạ, thiếu thốn về vật chất mà còn cả tinh thần, tình duyên dang dở,
chịu cảnh lẻ mọn làm thiếp, bị gia đình chồng ngược đãi, đánh đập. Giai cấp
thống trị còn ra sức đặt thêm nhiều luật lệ duy trì những tập quán hủ bại để
ngăn cấm chị em tham gia hoạt động chính trị, xã hội. Chúng cấm chị em
không cho tham gia bộ máy chính quyền các cấp, hạn chế việc học tập, đào
tạo nghề cho phụ nữ, kìm hãm sự phát triển trí tuệ, tài năng của họ. Chúng

muốn biến phụ nữ thành lớp người u mê đần độn để dễ dàng sai bảo và tự do
bóc lột sức lao động của họ. Hồ chủ tịch viết: “Bọn tư bản cá mập không
những làm cho nhân dân Việt Nam ngu độn bằng rượu ty và thuốc phiện,
chúng còn thi hành chính sách ngu dân triệt để hòng đánh lừa dư luận bên
Pháp và để được yên ổn bóc lột người bản xứ. Lớp người phải chịu hậu quả
nặng nề nhất chính là phụ nữ‟‟ [25, tr.16].
Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận thấy khả năng to lớn của phụ nữ
Việt Nam, sự tham gia của phụ nữ là nhân tố quyết định thắng lợi trong sự
nghiệp đấu tranh của cả dân tộc. Người viết: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất, hai bà
Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu dân. Cho đến ngày nay mỗi khi nước
nhà gặp nguy nan thì phụ nữ ta điều hăng hái đứng lên góp phần xứng đáng
của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc‟‟ [26,tr.148]. Vấn đề này được
Người khẳng định trong tác phẩm Đường Cách mệnh (1927), “Việt Nam cách
mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công” [30, tr.289]. Khi đất
nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nếu

22
không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội mới một nửa mà thôi‟‟
[24, tr.523]. Người luôn xem phụ nữ là một lực lượng cơ bản của cách
mạng. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “phụ nữ là lực lượng quan trọng trong lịch
sử và trong sản xuất‟‟ [28, tr.432].
Khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, địa vị của người phụ
nữ Việt Nam đã bắt đầu thay đổi, họ được tham gia bầu cử, ứng cử vào cơ
quan nhà nước, quyền bình đẳng nam nữ được ghi trong Hiến pháp dân chủ đầu
tiên (1946) của nước ta: phụ nữ bình đẳng với nam giới trên mọi phương diện
(Điều 9). Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ:
“Đàn bà cũng được tự do
Bất phân nam nữ cũng cho bình quyền‟‟ [23, tr.206].
Bác Hồ nói phụ nữ Việt Nam ta có truyền thống đấu tranh anh dũng và

lao động cần cù [27, tr.7]. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp
và đế quốc Mỹ của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng do ý thức được trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình, phụ nữ Việt Nam đã tích cực tham gia sản xuất
cũng như tham gia trên khắp các mặt trận ở tiền tuyến phục vụ chiến đấu và
trực tiếp chiến đấu giành độc lập cho dân tộc. Trong kháng chiến chống Mỹ,
phụ nữ Việt Nam đã hăng hái tham gia phong trào “ba đảm đang‟‟ vừa giết
giặc nơi tiền tuyến, vừa bảo vệ hậu phương, tích cực thi đua sản xuất bảo đảm
cho dân ta ăn no để đánh thắng quân xâm lược. Phong trào phụ nữ “Ba đảm
đang‟‟ ở miền Bắc được phát huy cao độ. Người phụ nữ vừa là cô du kích
đánh trả máy bay Mỹ, vừa là người lao động chính trên ruộng đồng, cũng lại
là người vợ, người mẹ đảm đang trong gia đình để chồng con ra chiến trường
chiến đấu. Bài hát nói lên điều đó: “Từ ngày anh đi việc đồng em giỏi dang,
ruộng cấy chang dây, cây lúa thẳng hàng, đào đắp nương nước dẫn quanh
làng, tiếng hát ba đảm đang‟‟. Nhiều bà mẹ với tinh thần yêu nước cao cả đã
động viên chồng con đi đánh giặc không sợ gian khổ, nguy hiểm. Nhiều phụ

×