Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn thạc sĩ Luật học: Phòng vệ chính đáng trong Luật Hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.94 MB, 88 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

PHAM QUỐC HUNG

PHONG VE CHINH DANG

TRONG LUAT HINH SU VIET NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sựMã số: 50514

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sỹ Võ Khánh Vinh

Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứuNhà nước và Pháp luật

¬ i ~=Sa tenHÀ NỘI, NAM 20011 ĐT Lan ERT EE| 1110 Si

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Chế định phịng vệ chính đáng được Luật Hình sự quy định như là một cơsở để mọi người có thể tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, bảo vệ quyền,lợi ích của người khác cũng như các lợi ích của Nhà nước trước những hành vixâm hại. Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay vấn đềphịng vệ chính đáng đang đặt ra một số vướng mắc về mặt lý luận cũng như thựctiên áp dụng pháp luật cần phải nghiên cứu, xem xét.

Trong thực tiễn xét xử hiện nay, việc áp dụng chế định phịng vệ chínhđáng trong những trường hợp cụ thể cịn rất nhiều vướng mắc, có nhiều ý kiến

khác nhau trong việc xác định mức độ thế nào là cần thiết để quyết định là có hay

khơng có phịng vệ chính đáng. Hơn nữa, việc áp dụng chế định phịng vệ chínhđáng đối với các trường hợp người có hành vi phịng vệ là người đang thi hànhcơng vụ mà có hành vi vượt q thì trường hợp nào phải định tội là vượt q giớihạn phịng vệ chính đáng, trường hợp nào phải định tội là phạm tội trong khi thihành cơng vụ? Đó là những vấn đề mà thực tiễn xét xử đang đặt ra.

Mat khác, các văn bản hướng dẫn về phịng vệ chính đáng hiện nay cònchưa đầy đủ và chưa đồng bộ, chủ yếu các văn bản này đã ra đời từ rất lâu do đó

cần có sự nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định cũng như

những đòi hỏi hiện nay của nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm.

Từ thực tiễn trên, cùng với một hiện tượng xã hội hiện nay là rất nhiềungười có thái độ thờ ơ trước những hành vi vi phạm xâm hại tới lợi ích của người

khác cũng như các lợi ích chung thì việc nghiên cứu và phổ biến rộng rãi quy

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

nâng cao nhận thức pháp luật về phịng vệ chính đáng trong nhân dân để mọi

người hiểu được quyền cũng như nghĩa vụ của mình khi đứng trước một hành vivi phạm từ đó khuyến khích họ tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh phịngchống tội phạm. Day chính là lý do mà chúng tơi đã lựa chon đề tài " Phịng vệ

chính đáng trong Luật Hình sự Việt Nam " để nghiên cứu.

2 - Tình hình nghiên cứu đề tài.

Chế định phịng vệ chính đáng là một chế định rất quan trọng trong LuậtHình sự Việt Nam, do vậy cần có sự nghiên cứu phân tích về mặt lý luận cũngnhư tổng kết thực tiễn xét xử về vấn đề này. Tuy nhiên, có thể nói chưa có nhiềucơng trình nghiên cứu về chế định này.

Tại Việt Nam đã có một số cơng trình nghiên cứu về phịng vệ chính đáng

như: " Về vấn đề phịng vệ chính đáng” của tác giả Dang Văn Dỗn; " Vấn déhồn thiện các quy định về những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hànhvi" cua tác gia Lê Cảm; " Phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam" cuatác gia Giang Sơn hay " Phịng vệ chính đáng theo quy định của Bộ luật Hình sựnăm 1999" của tác giả Nguyễn Đức Mai. Tuy nhiên, các cơng trình đó nghiêncứu về phịng vệ chính đáng hoặc là theo các quy định cũ hoặc mới chỉ mới tậptrung phân tích về mặt lý luận mà chưa nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diệncả về lý luận lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật về phịng vệ chính đáng trong giai

đoạn hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

phạm vi bản luận văn này, chúng tôi chỉ nghiên cứu những vấn đề về lý luận vàthực tiễn liên quan tới khái niệm, ý nghĩa, cơ sở lý luận của chế định phòng vệchính đáng; thực tiễn áp dụng chế định này hiện nay. Những nội dung này theochúng tôi là cơ bản, quan trọng và là những vấn đề cấp bách cần nghiên cứu.

Mục đích của luận văn là trên cơ sở của việc nghiên cứu lý luận, của việcphân tích đánh giá các quy định của pháp luật hình sự, cũng như thực tiễn ápdụng pháp luật về phịng vệ chính đáng sẽ đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiệncác quy định về phịng vệ chính đáng cũng như nhằm nâng cao hiệu quả củacông tác áp dụng pháp luật về phịng vệ chính đáng trong thực tiễn.

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu khaí niệm, ý nghĩa, cơ sở lý luận của phịng vệ chính đáng

thơng qua các quy định của pháp luật hiện hành.

- Phân tích các quy định của pháp luật hình sự về phịng vệ chính đáng.- Đánh giá thực tiễn áp dụng chế định phòng vệ chính đáng, rút ra nhữngvướng mac mà thực tiễn áp dụng pháp luật đang đặt ra.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hồn thiện chế định phịng vệ chính đángcũng như nhằm nâng cao hiệu quả của cơng tác áp dụng pháp luật về phịng vệchính đáng trong thực tiễn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Mác- LêN¡n, các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy

vật lich sử. Bên cạnh đó tác giả cịn sử dụng các phương pháp cụ thể như phân

tích, tổng hợp, quy nạp, diễn giải, phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử...5 - Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn.

Luận văn là một cơng trình nghiên cứu một cách tập trung những vấn đề lýluận về phòng vệ chính đáng cũng như thực tiễn áp dụng chế định này trong hoạtđộng xét xử với mục đích đưa ra những phương hướng hoàn thiện chế định nàyvề mặt lập pháp đồng thời đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả củacông tác áp dụng pháp luật về phịng vệ chính đáng trong thực tiễn.

6 - Cơ cấu của luận văn.

Luận văn gồm có: mở đầu, ba chương, kết luận và danh mục tài liệu thamkhảo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

1.1. KHÁI NIEM VA Ý NGHĨA CUA PHÒNG VỆ CHÍNH DANG

1.1.1. Khái niệm

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luậtHình sự, điều đó có nghĩa là một hành vi của một người nào đó thoả mãn các dấuhiệu của một tội được Bộ luật Hình sự quy định thì hành vi đó bị coi là tội phạmvà bị trừng phạt. Ví dụ: hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác mộtcách trái pháp luật sẽ cấu thành tội giết người theo Điều 93 của Bộ luật Hình sựhay hành vi cố ý gây thương tích cho người khác sẽ cấu thành tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 104 Bộ luật Hình

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một hành vi tuy có các dấu hiệu củamột tội phạm, có nghĩa là xét về bề ngồi hành vi đó cũng có đầy đủ các dấu hiệucủa cấu thành tội phạm của một tội được quy định trong Bộ luật Hình sự nhưng

trong một số điều kiện cụ thể thì hành vi đó khơng bị coi là tội phạm mà thực tế

hành vi đó cần được khuyến khích, động viên vì nó phù hợp với địi hỏi của xãhội. Ví dụ: hành vi của một người để bảo vệ tính mạng cho một đứa trẻ đang bịmột người tâm thần tấn cơng, khơng cịn cách nào khác buộc phải gây thương

tích cho kẻ tấn cơng thì khơng thể cho là người này phạm tội cố ý gây thương

tích hay hành vi của một người vì để tránh cho đám cháy không lan hết cả khu

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Trong lý luận hình sự, trong pháp luật hình sự và trong thực tiễn xét xử,khi nghiên cứu về những trường hợp không phải là tội phạm người ta thường

dùng các thuật ngữ như " những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm của hành

vi", " những trường hợp không phải là tội phạm " hay " các yếu tố loại trừ tính tộiphạm". Về thuật ngữ, có thể có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng xét về bảnchất chúng ta thấy rằng chúng đều giống nhau ở chỗ là đều có tình tiết hoặc yếutố loại trừ tính tội phạm của hành vi. Luật hình sự Việt Nam quy định các yếu tốhoặc tình tiết đó bao gồm: phịng vệ chính đáng ( Điều 15 Bộ luật Hình sự ), tìnhthế cấp thiết ( Điều 16 Bộ luật Hình sự ) và trong thực tiễn xét xử chúng ta cịnthừa nhận các tình tiết như bắt giữ người phạm tội, thi hành mệnh lệnh, rủi ronghề nghiệp. Ngoài ra, pháp luật hình sự nước ta cịn quy định hai trường hợpkhơng phải chịu trách nhiệm hình sự là sự kiện bất ngờ ( Điều 11 Bộ luật Hìnhsự) và tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự ( Điều 13 Bộ luật Hình

Phịng vệ chính đáng là một trong những điều kiện làm cho tính chất tộiphạm của hành vi khơng cịn nữa mà trái lại nó được coi là có ích và được xã hộikhuyến khích. Để hiểu thế nào là phịng vệ chính đáng chúng ta sẽ nghiên cứuquy định về phịng vệ chính đáng trong pháp luật hình sự của một số nước trênthế giới và quy định của Luật Hình sự Việt nam về vấn đề này.

Chế định phịng vệ chính đáng được quy định trong luật hình sự của cácnước có sự khác nhau. Những nét đặc thù này phản ánh chế độ chính trị và xã

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

tranh phịng và chống tội phạm.

Trong Bộ luật Hình sự của Cộng hoà liên bang Nga, tại Điều 38 quy địnhhành vi phịng vệ cần thiết như sau:

" Khơng phải là tội phạm việc gây thiệt hại cho người đang có hành vi xâm

hại thân thể và các quyền của người phịng vệ hoặc của người khác, xâm phạm

các lợi ích của xã hội hay nhà nước, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích nói trên,nếu trong khi gây thiệt hại khơng vượt q giới hạn phịng vệ cần thiết.

Mọi người đều có quyền phịng vệ cần thiết khơng tuỳ thuộc vào việc họcó được đào tạo chun mơn hay khơng và họ giữ cương vị cơng tác gì. Quyềnphịng vệ cần thiết khơng tuỳ thuộc vào khả năng thốt ra khỏi hành vi xâm hạihoặc nhờ sự giúp đỡ của người khác hay của cơ quan chính quyền".

Như vậy, theo Bộ luật Hình sự của nước Cộng hồ liên bang Nga thì kháiniệm được dùng ở đây là quyền phịng vệ cần thiết. Pháp luật hình sự của Ngaquy định quyền này rất rộng cho người có hành vi phịng vệ để bảo vệ lợi íchchính đáng của mình, của người khác hay của xã hội. Tuy nhiên, trong những

trường hợp cụ thể, nếu hành vi phòng vệ rõ ràng vượt q giới hạn của phịng vệ

cần thiết thì người có hành vi phịng vệ vượt q này sẽ phải chịu trách nhiệmhình sự. Khoản 3 Điều 38 Bộ luật Hình sự Cộng hồ liên bang Nga quy định:”

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Vấn đề phịng vệ chính đáng trong luật hình sự nước Cộng hồ nhân dânTrung Hoa được quy định tại Điều 20 Bộ luật Hình sự. Theo quy định của Điều20 thi" Người thực hiện hành vi trong tình trạng phịng vệ chính đáng nhằm ngănchặn hành vi bất hợp pháp xâm hại các lợi ích của nhà nước, xã hội, các quyềnnhân thân, tài sản, các quyền khác của mình hoặc của người khác gây thiệt hạicho người có hành vi xâm hại bất hợp pháp, thì khơng phải chịu trách nhiệm hìnhsu". Tuy nhiên, để tránh việc lam dụng quyền phịng vệ chính đáng, khoản 2Điều 20 Bộ luật Hình sự Cộng hồ nhân dân Trung Hoa quy định: " Nếu hành viphịng vệ chính đáng rõ ràng vượt quá giới hạn cần thiết và gây thiệt hại lớn thìphải chịu trách nhiệm hình sự”. Vì hành vi phịng vệ chính đáng là hành vi rấtđáng khuyến khích và trên thực tế thì ranh giới giữa phịng vệ chính đáng và vượtq giới hạn phịng vệ chính đáng rất khó xác định rõ ràng nên luật hình sự của

Trung Quốc quy định trong trường hợp vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng

thì tuỳ theo tình tiết mà cân nhắc cho được hưởng hình phạt nhẹ hơn hoặc đượcmiễn hình phạt.

Để thể hiện sự quyết tâm đấu tranh đối với các tội về bạo lực như: giết

người, cướp của, gây thương tích, hiếp dâm, bắt cóc và các tội bạo lực, nhằmkhuyến khích mọi người dân tham gia tích cực vào việc phịng, chống các loại tộinày, Bộ luật Hình sự của nước Cộng hồ nhân dân Trung Hoa quy định: " Hanhvi phòng vệ đối phó với bọn tội phạm đang hành hung, giết người, cướp của, hiếpdâm, bắt cóc hoặc các tội bạo lực khác, gây thương tích hoặc làm chết ngườiphạm tội, thi khơng phải chịu trách nhiệm hình sự”. Đây là một đặc trưng của Bộ

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Khi nghiên cứu luật hình sự của Nhật Bản, chúng ta thấy rằng vấn đềphịng vệ chính đáng được quy định trong Bộ luật Hình sự của Nhật Bản được

quy định hết sức ngắn gọn. Tuy nhiên, nội dung của chế định này vẫn được thể

hiện rõ ràng và qua đó cũng thể hiện rõ chính sách hình sự của nhà nước NhậtBản đối với trường hợp phịng vệ chính đáng cũng như trong trường hợp vượt qgiới hạn phịng vệ chính đáng. Điều 36 Bộ luật Hình sự Nhật Bản quy định:

" Hành vi bất kha kháng được thực hiện nhằm mục đích bảo vệ quyền lợicủa bản thân hay của người khác để chống lại sự xâm hại bất chính trong tình thế

_ cấp thiết thì khơng bị xử phạt.

Hành vi vượt q mức độ phịng vệ, tuỳ theo tình tiết, có thể được giảmnhẹ hay miễn trừ hình phạt”.

- Trong Bộ luật Hình sự của Thuy Điển thì vấn đề phịng vệ chính đáng

được quy định dưới khái niệm hành vi tự vệ. Tại Điều 1, Chương 24 Bộ luật Hìnhsự Thuy Điển quy định:

" Người nào thực hiện một hành vi để tự vệ thì khơng bị xử phạt. Mộtngười hành động để tự vệ là người tìm cách:

- Ngăn chặn một số tấn công hiện thực hoặc ngay tức khắc của người phạmtội đối với con người hoặc tài sản;

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

- Có hành động cưỡng ép đối với một người dùng vũ luc hoặc de dọa dùngvũ lực hoặc có hành động khác cản trở việc thu hồi tài sản khi bị bắt quả tang:

- Ngăn chặn một người xâm nhập trái phép một căn phịng, ngơi nhà, tàu

- Đuổi khỏi căn phịng, ngơi nhà, tàu, thuyền, người đã xâm nhập trái phéphoặc trong trường hợp người đó khơng chịu rời khỏi một nhà ở khi đã có lệnhbuộc phải rời khỏi;

- Quy định trên áp dụng trong trường hợp hành động tự vệ rõ ràng là có thể

biện hộ được ( tương xứng ) khi xét tính chất của sự tấn cơng và tầm quan trọngcủa đối tượng bị tấn công”.

Một trong những nước mà chế định phịng vệ chính đáng được quy địnhkhá rõ ràng và cụ thể trong Bộ luật Hình sự là Cộng hoà Pháp. Điều 122.5 vàĐiều 122.6 Bộ luật Hình sự của Cộng hồ Pháp quy định như sau:

Điều 122.5: " Người đứng trước một sự tấn công khơng có căn cứ đối vớimình hoặc người khác, đã thực hiện cùng lúc ấy một hành vi cần thiết để bảo vệmình hoặc người khác, khơng phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ khi có sự khơngtương xứng giữa các biện pháp phịng vệ và tính nghiêm trọng của sự tấn công.

Người để ngăn chặn việc thực hiện một trọng tội hoặc khinh tội đối với tài

sản, đã có một hành vi phịng vệ, khơng phải là cố ý giết người, khi hành vi ấythật cần thiết để đạt mục đích phịng vệ và các biện pháp sử dụng tương xứng với

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

2. Để chống cự lại những kẻ trộm cắp hoặc cướp có dùng vũ lực”.

Như vậy, trong pháp luật hình sự của các nước đã phân tích ở trên, mặc dùcó quy định khác nhau nhưng tựu trung lại trong Bộ luật Hình sự của các nướcnày đều tồn tại một điều luật quy định hành vi để bảo vệ lợi ích của nhà nước ,xã hội, của mình hoặc của người khác mà chống trả lại người có hành vi xâmphạm đến các lợi ích đó thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự nếu mức độ củahành vi chống trả là tương xứng. Đây chính là ban chất của phịng vệ chính đáng.

Ở Việt Nam, chế định phịng vệ chính đáng được xây dựng trên cơ sở lý

luận và thực tiễn xét xử ở nước ta từ trước tới nay, có sự tham khảo luật hình sựcủa các nước trên thế giới. Theo đó, mặc dù có đầy đủ các yếu tố cấu thành nhưmột tội phạm, nhưng thực chất phòng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm bởi

vì nó đã hồn tồn mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi.

Điều 15 Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam đưa rađịnh nghĩa về khái niệm phịng vệ chính đáng như sau: " Phịng vệ chính đáng là

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi

ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cầnthiết người đang có hành vi xâm hại các lợi ích nói trên.

Phịng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm."

Vì sao pháp luật lại cho phép và hơn thế nữa, lại khuyến khích mọi ngườitự mình chống trả lại hành vi trái pháp luật của người tấn công mình hoặc tấncơng người khác bằng cách gây thiệt hại cho chính người đó ? Dé trả lời câu hỏi

này, chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa của chế định phịng vệ chính đáng.

1.1.2. Ý nghĩa của chế định phịng vệ chính đáng

Với việc cho phép người bị tấn cơng có quyền có hành vi chống trả lại vàgây thiệt hại cho người có hành vi tấn cơng, phải chăng pháp luật cho phép mọingười có quyền tự xử lý các mối quan hệ của mình mà khơng cần tới các cơ quan

nhà nước như cơ quan công an, kiểm sát, tồ án? Vấn dé khơng phải là như vậy.

Chúng ta biết rằng trong lịch sử loài người, trước khi xã hội phân chiathành giai cấp và xuất hiện bộ máy nhà nước, khi có các hành vi nguy hiểm nhưgiết người, gây thương tích, hiếp dâm, cướp của xảy ra, thì đó là việc giữa các cánhân, họ tự giải quyết với nhau; việc chống lại những hành vi nói trên là việcriêng của cá nhân người bị hại hoặc của gia đình họ mà xã hội khơng hề canthiệp. Cùng với sự xuất hiện của giai cấp, nhà nước ra đời, bằng bộ máy cưỡngchế của mình, nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng có lợi cho giai

cấp thống trị, việc trừng trị những hành vi nguy hiểm cho xã hội lúc này không

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

nhân người bị thiệt hại hoặc gia đình họ khơng có quyền tự xử lý, khơng cóquyền tự báo thù, trừng trị tội phạm, mặc dù tội phạm xảy ra đã gây thiệt hại chochính bản thân họ. Lúc này, người bị thiệt hại chỉ có thể yêu cầu các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền can thiệp để trừng trị kẻ phạm tội và buộc kẻ phạm tội phải

bồi thường thiệt hại đã gây ra cho người bị hại. Việc cá nhân tự ý trả thù, tự ý

trừng trị kẻ phạm tội mà không thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

sẽ bị pháp luật cấm vì nếu để tình trạng như vậy xảy ra thì trật tự xã hội sẽ khơngthể duy trì được.

Tuy nhiên, cũng có những trường hợp pháp luật cho phép các cá nhân tự

xử lý mà khơng cần có sự can thiệp của nhà nước do tính chất cấp thiết của nó để

bảo vệ các lợi ích xã hội mà sự bảo vệ của pháp luật cũng hướng tới. Phịng vệ

chính đáng là một trong những trường hợp như vậy. Để tránh một hậu quả bất lợixảy ra, pháp luật cho phép mỗi người, để bảo vệ lợi ích của xã hội, quyền, lợi ích

hợp pháp của mình hoặc của người khác, có hành vi chống trả một cách cần thiết

người có hành vi vi phạm tới các lợi ích nói trên, hành vi phịng vệ này là hợp

pháp và được pháp luật khuyến khích vì nó phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Trênthực tế, hành vi này hỗ trợ cho nhà nước trong việc duy trì trật tự xã hội. Việc ghinhận chế định phòng vệ chính đáng trong Bộ luật Hình sự có một ý nghĩa rấtquan trọng; việc quy định này nhằm khuyến khích mọi công dân tham gia đấu

tranh chống lại các hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn chặn hoặc hạn chế những

thiệt hai do những hành vi đó de doa gây ra.

Cần phải khẳng định rằng phịng vệ chính đáng là quyền mà pháp luật quy

định cho mỗi công dân nhưng không phải là nghĩa vụ buộc họ phải thực hiện,

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

điều đó có nghĩa là mọi người có thể khơng sử dụng quyền đó của mình. Tuyvậy, sống trong xã hội, mỗi người không thể thờ ơ, lãnh đạm trước các hành vi vi

phạm pháp luật mà cần phải có trách nhiệm tham gia đấu tranh chống mọi hànhvi vi phạm pháp luật, xâm hại đến tính mang của bản thân hay người khác, xâmhại đến lợi ích của nhà nước và xã hội. Những hành động đấu tranh dũng cảm đólà sự tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tiêu cực trên các lĩnh vực hoạtđộng kinh tế và đời sống xã hội. Đối với những người có chức vụ, những ngườicó trách nhiệm bảo vệ các lợi ích chung của xã hội thì việc bảo vệ lợi ích đó lại lànghĩa vụ pháp lý và nếu họ không hành động theo quy định của pháp luật thì có

thể bị xử lý kỷ luật, xử lý về mặt hành chính và nếu hậu quả xảy ra nghiêm trọngthì họ cịn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi thiếu tỉnh thần trách

nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 285 Bộ luật Hình sự.

Phịng vệ chính đáng là việc Nhà nước cho phép mọi công dân được quyềntự bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, của người khác hay lợi ích của xã hội

trước những hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, phịng vệ chính đáng khơng có

nghĩa là tự xử lý. ở đây, quyền xử lý các hành vi trái pháp luật thuộc về Nhànước. Chính vì vậy, phịng vệ chính đáng cũng có những giới hạn nhất định. Một

hành vi chỉ được coi là phịng vệ chính đáng khi có đủ các điều kiện để chứng

minh rằng sự phòng vệ là cần thiết, phù hợp với lợi ích của xã hội và phải tuântheo những quy định của pháp luật hình sự.

Để tránh những trường hợp lợi dụng việc phịng vệ chính đáng trên thực tếđể thực hiện hành vi phạm tội, pháp luật hình sự nước ta cũng như pháp luật hình

sự của một số nước trên thế giới quy định khá chặt chẽ các điều kiện của phòng

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

phịng vệ chính đáng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.

Với ý nghĩa hết sức quan trọng của phòng vệ chính đáng, việc quy địnhchế định này trong Bộ luật Hình sự là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trước khi đivào phân tích các điều kiện của phịng vệ chính đáng, chúng ta cần phải phân tích

rõ cơ sở lý luận của phịng vệ chính đáng hay nói một cách khác là cần tìm hiểu

rõ lý do tồn tại của chế định này.

1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ PHỊNG VỆ CHÍNH ĐÁNG

Xét về mặt hình thức, hành vi phịng vệ chính đáng cũng có đầy đủ các dấuhiệu của một cấu thành tội phạm, tuy nhiên, hành vi này lại được coi là hợp phápmặc dù hành vi đó là cố ý gây thương tích hoặc thậm chí là cố ý tước đoạt sinh

mạng của kẻ có hành vi trái pháp luật. Về vấn đề này cũng có nhiều quan điểm

giải thích khác nhau.

Có ý kiến cho rằng trong trường hợp phịng vệ chính đáng, hành vi phịng

vệ khơng bị coi là một tội phạm vì người phịng vệ chính đáng đã hành động

trong điều kiện bị cưỡng bức về tinh thần ( vì bị tấn cơng một cách trái phép vàbất ngờ, nên buộc phải hành động chống trả, trường hợp này người phòng vệhành động vì tình thế bức bách chứ khơng tự do quyết định và do đó khơng cịn

có trách nhiệm hình sự). Khi xem xét quan điểm này, chúng ta thấy rằng quan

điểm này chưa toàn diện, chưa khái quát được hết tất cả các trường hợp phịng vệ

chính đáng vì theo họ thì chỉ có thể chấp nhận có phịng vệ chính đáng khi có sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

tấn cơng trái phép vào chính cá nhân người phịng vệ. Vì chỉ có trong trường hợp

đó mới có thể nói đến cưỡng bức về tinh thần.

Để tìm hiểu nguyên nhân loại trừ trách nhiệm hình sự trong trường hợpphịng vệ chính đáng chúng ta sẽ xem xét lý luận về vấn đề tự do, trách nhiệm vàvấn đề lỗi trong luật hình sự.

Hoạt động của con người cũng như tất cả các hiện tượng của thực tại kháchquan đều được quy định bởi một hoặc nhiều hiện tượng khác. Điều đó có nghĩarằng hoạt động của con người cũng bị ràng buộc, bị quy định bởi những điều kiện

sinh hoạt vật chất, bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản

xuất. Tuy nhiên, hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, điều này lý giảitại sao trong cùng một điều kiện, hoàn cảnh như nhau nhưng vẫn có những xử sựkhác nhau, thậm chí là trái ngược nhau. Moi xử sự của con người đều chịu sự chiphối của quy luật khách quan nhưng con người nhờ hoạt động có ý thức có khảnăng nhận thức được quy luật và lợi dụng quy luật để thực hiện mục đích. Đó làsự tự do của con người

Tự do của con người là việc nhận thức được quy luật và hành động theo

quy luật.

Tất cả những xử sự của con người đều là kết quả của sự tác động qua lạigiữa điều kiện khách quan bên ngoài của cuộc sống xã hội và điều kiện chủ quan

bên trong của chủ thể. Các diéu kiện kinh tế, xã hội quy định xử sự của con

người nhưng phải thơng qua lăng kính chủ quan của lợi ích và nhu cầu, của kinhnghiệm và tri thức, của phẩm chất tâm lý và thái độ. Xử sự của con người không

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

của sự lựa chọn, quyết định và thực hiện một biện pháp xử sự trong số nhữngbiện pháp xử sự khách quan đã nhận thức được. Con người có tự do đối với xử sựcủa mình có nghĩa là có tự do lựa chọn, tự do quyết định và tự do thực hiện xử

sự. Mặc dầu vậy, việc lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự chỉ có thể là tự do

thực sự khi xử sự đã lựa chọn, đã quyết định , đã thực hiện phù hợp với quy luật.Trái lại, nếu con người đã lựa chọn, quyết định và thực hiện một xử sự khơng phùhợp với quy luật thì có nghĩa họ đã tự tước bỏ khả năng tự do của mình. Đối vớichủ nghĩa Mác -Lénin, khơng có thứ tự do tuyệt đối, chỉ có tự do trong sự nhận

thức và vận dụng đúng quy luật. Tự do khơng có nghĩa là tuỳ ý lựa chọn hoặc tuỳ

ý bác bỏ.

Xã hội khi đã đảm bảo cho mỗi cá nhân được tự do, thì đồng thời và cũngchính vì thế xã hội cũng đòi hỏi cá nhân trên cơ sở của tự do phải đáp ứng những

đòi hỏi của xã hội. Đó chính là trách nhiệm của cá nhân trong xã hội. Ở đây,

trách nhiệm này hoàn toàn phù hợp với tự do. Những đòi hỏi của xã hội, của nhà

nước đặt ra cho mỗi công dân là nhằm thực hiện sự tiến bộ, sự phát triển của xã

hội theo tất yếu khách quan, là phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động. Việcthực hiện những địi hỏi đó, do vậy, cũng chính là sự thực hiện tự do. Con ngườicó tự do để thực hiện trách nhiệm và ngược lại, việc thực hiện đầy đủ trách nhiệmcũng là sự thực hiện quyền tự do.

Mọi người trong xã hội đều có khả năng thực tế để tự do nhưng điều đó

khơng có nghĩa là tất cả mọi người trong xã hội đều đã sử dụng khả năng thực tế

của xã hội dành cho để tự do. Trong xã hội vẫn có những hành vi đi ngược lại

những địi hỏi của xã hội, của nhà nước và người ta gọi những xử sự này là nhữngỊ<small>5</small>

4110 |

<small>TT ate</small>

P"" làn:

<small>` ` xa... aU</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

xử sự mù quáng. Đó là những hành vi phạm tội, những hành vi vi phạm va nhữnghành vi trái đạo đức. Đối với những người đã có những hành vi như vậy, xã hội vànhà nước có quyền phản ứng, có quyền lên án và có quyền buộc họ phải gánhchịu trách nhiệm ( trách nhiệm vi đã không thực hiện day đủ những nghĩa vụ trêncơ sở quyền hạn đã có, trên cơ sở của tự do). Con người phải gánh chịu tráchnhiệm về những hành vi mù quáng xã hội của mình vì con người có khả năng lựachọn, khả năng đánh giá xử sự của mình và vì họ có đủ điều kiện để thoả mãnnhững đòi hỏi của xã hội, của nhà nước hay nói một cách khác là vì họ có tự do

thực sự.

Tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho một người khihọ có tự do. Con người tự tước bỏ tự do của mình, xử sự trái với địi hỏi của xãhội, của nhà nước có nghĩa là họ có lỗi. Trách nhiệm chỉ đặt ra khi có lỗi.

Lỗi là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các cấu thành tội phạm; lỗi đòi hỏi phảiđược xác định trong mọi trường hợp khi áp dụng luật hình sự. Về mặt hình thứccấu trúc tâm lý, lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý bên trong của kẻ phạm tội khithực hiện tội phạm. Xét về mặt nội dung thì một người bị coi là có lỗi khi thựchiện hành vi phạm tội nếu họ đã thực hiện hành vi đó trong khi có đủ điều kiện

lựa chọn thực hiện hành vị khác không gây thiệt hại cho xã hội.

Theo cách hiểu này, một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành

vi gây thiệt hại cho xã hội của mình trong trường hợp người đó đã lựa chọn hànhvi này khi có đủ điều kiện lựa chọn hành vi khác khơng gây thiệt hai cho xã hội.Đó là những trường hợp có lỗi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

người mặc dù có hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng sự lựa chọn hành vi gây

thiệt hại đó của chủ thể phù hợp với lợi ích của xã hội ( được xã hội chấp nhận)

thì người đó khơng phải chịu trách nhiệm hình sự vì trong trường hợp này chủ thểđã thực hiện đúng tự do của mình. Đây chính là lý do lý giải tại sao người cóhành vi phịng vệ chính đáng mặc dù gây thiệt hai cho kẻ tấn công nhưng khôngbị coi là thực hiện tội phạm và khơng phải chịu trách nhiệm hình sự vì họ khơngcó lỗi.

Nhu Héghen, nhà triết học Đức nổi tiếng đã nhận định: " Tấn công là phủnhận pháp luật, phòng vệ là sự phủ nhận sự phủ nhận ấy, tức là áp dụng pháp

luật". Ở đây, người phòng vệ mặc dù gây thiệt hại cho kẻ tấn công nhưng họ đã

sử dụng một quyền mà pháp luật cho phép. Trước hành động tấn công, xâm hại

hay đe doa xâm hại lợi ích của xã hội, người phịng vệ khơng nên và không thểchờ sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà cần phải phản ứng

kịp thời mới bảo vệ được trật tự xã hội, bảo vệ được tính mạng, sức khỏe hay tàisản của mình hoặc của người khác. Người phịng vệ đã hành động nhân danh xãhội, thực hiện một quyền mà pháp luật cho phép, đó chính là quyền phịng vệ.Chính vì vậy, hành vi chống trả của người phòng vệ mặc dù có thé gây thươngtích hoặc thậm chí dù làm chết kẻ tấn cơng nhưng hành vi đó đã góp phần lập lạitrật tự xã hội bị hành vi tấn công làm xáo trộn. Do hành động phù hợp với lợi íchcủa xã hội nên hành động đó là hợp pháp, hơn nữa là đáng khuyến khích, vì vậy

khơng thể coi là tội phạm và cũng khơng thể nói là tha miễn tội phạm vì người

phịng vệ đã hành động mà khơng có lỗi, họ hành động để bảo vệ lợi ích xã hội,bảo vệ lợi ích của mình hay của người khác. Hành vi phòng vệ chống trả lại mộtcách dũng cảm hành vi tấn công trái pháp luật chứng tỏ người phòng vệ thiết tha

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Đạo đức xã hội chủ nghĩa phê phán thái độ thờ ơ,

lãnh đạm trước cảnh lợi ích xã hội bị xâm phạm, đồng thời cổ vũ, khuyến khích

những hành động dũng cảm bảo vệ lợi ích đó, ngăn ngừa sự xâm hại của kẻ cóhành vi trái pháp luật. Khuyến khích hành vi phịng vệ sẽ có tác dụng tích cựctrong việc phòng ngừa tội phạm và làm giảm hành vi hung han của kẻ xâm hai.

Đồng thời, đông đảo quần chúng khi hiểu rõ thế nào là phịng vệ chính đáng,

thấy rằng việc chống trả một cách hợp lý, tương xứng với hành vi xâm hại dù cógây thiệt hại cho sức khoẻ, tính mạng của những tên lưu manh, cơn đồ thì hành viđó vẫn được dư luận ủng hộ và pháp luật cho phép, từ đó họ sẽ tích cực hơn trong

việc tham gia đấu tranh chống tội phạm.

Căn cứ vào khái niệm lỗi về mặt nội dung chúng ta cũng hồn tồn có thể

lý giải được vì sao trong trường hợp vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng,người có hành vi phịng vệ vượt q lại phải chịu trách nhiệm hình sự.

Trong trường hợp vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng, người phịng vệ

đã lựa chọn một cách chống trả rõ ràng là không tương xứng với hành vi tấn cơng

trong khi họ hồn tồn có thể lựa chọn và có điều kiện để thực hiện một cáchchống trả khác có thể gây ra một thiệt hại nhỏ hơn.

Ví dụ: một người bị một kẻ tâm thần tấn cơng bằng tay khơng, trong khi

người này hồn tồn có thể chạy tháo thân, và nếu anh ta chạy thì kẻ tâm thần sẽ

khơng tiếp tục tấn cơng được nữa; nhưng anh ta đã không chạy mà lại dùng gậy

để chống trả lại kẻ tâm thần và hậu quả là đã gây ra cái chết cho kẻ tâm thần.

Trong trường hợp này, người này sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giếtngười do vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Như vay, nhà nước va xã hội tao điều kiện cho moi công dân thực hiện cácquyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình. Nếu một người nào đó khơng thực hiệnhoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của mình thì nhà nước và xãhội có những biện pháp buộc họ phải làm trịn nghĩa vụ đó. Nói một cách khác,người đó phải chịu trách nhiệm về việc đã khơng thực hiện đúng các quy định màpháp luật địi hỏi.

Tóm lại, cơ sở lý luận để một người khơng phải chịu trách nhiệm hình sự

trong trường hợp phịng vệ chính đáng là vì trong trường hợp này họ đã thực hiện

một hành vi mà pháp luật cho phép và khuyến khích. Mặc dù hành vi phịng vệcó thể gây ra những thiệt hại cho kẻ tấn công nhưng ở đây, người phịng vệ chínhđáng hồn tồn khơng có lỗi. Chính vì vậy, hành vi phịng vệ chính đáng khơngbị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi phịng vệ chính đáng khơng phải

chịu trách nhiệm hình sự.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

CHƯƠNG 2

DIEU KIEN CUA PHONG VE CHINH DANG

Để dé phòng những trường hợp lợi dụng việc phòng vệ chính đáng dé

phạm tội, đồng thời để khuyến khích cũng như hướng dẫn cơng dân thực hiện

quyền phịng vệ chính đáng và qua đó phát huy được tính tích cực của chế địnhphịng vệ chính đáng, Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 1999 của nước Cộng hồ xãhội chủ nghĩa Việt Nam khơng chỉ quy định phịng vệ chính đáng khơng phải là

tội phạm mà cịn quy định cụ thể cơ sở, nội dung và phạm vi của quyền phịng vệ

chính đáng như sau:

"Phịng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà

nước , của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người

khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các

lợi ích nói trên”.

Hành vi đã thoả mãn đầy đủ những dấu hiệu về cơ sở, nội dung và phạm vicủa quyền phịng vệ chính đáng là hành vi hồn tồn phù hợp với lợi ích xã hội,là hành vi thực sự nhằm ngăn chặn sự tấn công bất hợp pháp, hạn chế những thiệthại do sự tấn công này gây ra hoặc đe dọa gây ra. Đó là trường hợp phịng vệ

chính đáng thực sự.

Căn cứ vào nội dung quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 1999 và

Nghị quyết số 02/HDTP ngày 5/1/1986 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân

dân Tối cao, các điều kiện của phịng vệ chính đáng có thể được chia làm hai

loại, đó là:

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

- Những điều kiện thuộc về tính chất của sự xâm hại;- Những điều kiện thuộc về tinh chất của hành vi bảo vệ.

2.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUỘC VỀ TÍNH CHẤT CỦA SỰ XÂM

HẠI

Theo quy định của Điều 15 Bộ luật Hình sự, cơ sở làm phát sinh quyềnphịng vệ chính đáng là sự tấn công đang hiện hữu, xâm phạm đến lợi ích của

Nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền hoặc lợi ích chính đáng của cơng dân. Như

vậy, chỉ có thể nói đến phịng vệ chính đáng khi có hành vi của con người đanggây thiệt hại hoặc de doa gây thiệt hại cho xã hội. Những điều kiện thuộc về tinhchất của sự xâm hại cụ thể là:

2.1.1. Hành vì xâm hại phải là hành vi trái pháp luật và là hành vi nguy

hiểm cho xã hội ở một mức độ đáng kế.

Trong thực tế quyền phòng vệ chính đáng được đặt ra khi một người đứngtrước một hành vi trái pháp luật dang đe dọa lợi ích của xã hội, lợi ích chính dangcủa chính họ hay của người khác. Hành vi này có thể xâm phạm đến lợi ích của

Nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền hoặc lợi ích hợp pháp của người phịng vệ.Quyền hoặc lợi ích chính đáng bị xâm phạm có thể là quyền nhân thân, quyền sở

hữu, .v..v.. Những quyền hoặc lợi ích hợp pháp này chủ yếu bị xâm phạm thôngqua những hành động tấn công của con người ( đâm, chém, hiếp dâm,...); trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

thực tế, hầu như khơng gặp các trường hợp phịng vệ đối với loại tội phạm được

thực hiện dưới dạng không hành động.

Hành vi tấn công là một hành vi trái pháp luật, điều đó có nghĩa là hành vi

tấn cơng có thể là có đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm, chẳng hạn như hành

vi của một người bình thường cầm dao để đâm, chém một người khác. Tuy nhiên,

đó khơng phải là điều kiện bắt buộc để phát sinh quyền phịng vệ chính đáng. Bởi

lẽ, có những hành vi tuy không cấu thành tội phạm nhưng vẫn đòi hỏi phải được

ngăn chặn kịp thời để tránh thiệt hại cho xã hội như hành vi đâm, chém của trẻ

em, của người khơng có năng lực trách nhiệm hình sự do mắc bệnh tâm thần

hoặc mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội khác chưa đến mức là tội phạm. Hơnnữa, khi đứng trước một sự tấn công, một người cơng dân bình thường khó có thểln ln khẳng định được ngay đó là tội phạm hay khơng phải là tội phạm. Mặc

dù vậy, trong lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử của hầu hết các nước thìmọi người đều cho rằng khi hành vi xâm hại khơng mang tính chất tội phạm thìngười phịng vệ khơng được quyền sử dụng biện pháp mạnh mẽ nhất nếu chỉ cầnsử dụng một biện pháp nhẹ nhàng hơn cũng có thể đẩy lùi được sự xâm hại.Trong pháp luật hình sự nước ta cũng vậy, đối với những xâm hại khơng mangtính chất tội phạm ( thường gặp nhất trong thực tế là trường hợp người xâm hại làngười điên hoặc trẻ em), xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa,trong các trường hợp nếu biết hành vi tấn công là do người điên hoặc do trẻ em

thực hiện thì chỉ nên ngăn chặn, khắc phục sự nguy hiểm bằng cách như né tránh

hoặc yêu cầu người khác giúp đỡ... mà không cần thiết gây thiệt hại cho người

đó; chỉ khi khơng thể áp dụng được các biện pháp này thì mới sử dụng các biệnpháp cần thiết khác để tự vệ và cố gắng hạn chế thiệt hại ở mức độ tối thiểu cho

người người tấn công . Trong thực tiễn, ở nước ta đã có trường hợp một người đàn

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Việc xảy ra ở một khu phố đông người và một người đã bắn chết người điên này

vì xét thấy để bảo vệ cho những người xung quanh thì khơng cịn có cách nào

khác là phải ban chết anh ta. Hành vi bắn chết người bị điên này là hành vi phịngvệ chính đáng. Tuy nhiên, nếu cịn có cách tránh được sự xâm hại của người điên

này bằng một biện pháp khác nhẹ nhàng hơn ( như lừa nhốt anh ta lại nếu có thể,

hoặc người bị tấn cơng có thể bỏ chạy thốt được) thì phải dùng biện pháp nhẹ

nhàng, khơng được dùng biện pháp mạnh mẽ nhất. Đó chính là nguyên tắc nhânđạo xã hội chủ nghĩa, một trong những nguyên tắc lớn xuyên suốt lý luận pháp lýxã hội chủ nghĩa.

Cơ sở của phịng vệ chính đáng ở đây là hành vi nguy hiểm của con người.

Sự tự vệ chống lại các hành vi nguy hiểm do súc vật tấn cơng thì khơng được coilà phịng vệ chính đáng mà là tình tiết thuộc về tình thế cấp thiết. Tuy nhiên,trong thực tế có những trường hợp con người sử dụng súc vật làm công cụ tấncông, ví dụ: hành vi ht chó tấn cơng người khác. Trong trường hợp này, nếuhành vi phòng vệ gây thiệt hại cho súc vật ( con chó dùng làm cơng cụ tấn công)là thiệt hại về tài sản cho người xâm hại thì hành vi đó vẫn phải được coi là

phịng vệ chính đáng.

Hành vi xâm hại phải là hành vi trái pháp luật. Nếu không phải là hành vitrái pháp luật thì khơng ai có quyền được chống trả. Ví dụ: khi một chiến sỹ cơngan bắt tên trộm hoặc khi một người dân bắt giữ một người phạm pháp quả tangthì khơng ai được phép chống trả lại hành vi đó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Mặc dù vậy, trên thực tế có những trường hợp hành vi của nhà chức tráchlại là hành vi bất hợp pháp. Vậy, hành vi chống trả lại hành vi bất hợp pháp củanhà chức trách có được coi là phịng vệ chính đáng hay không? Về vấn đề này,các nước trên thế giới có các cách xử lý khác nhau. Có quan điểm cho rằng hànhvi của nhà chức trách dù là hành vi bất hợp pháp thì cũng khơng ai có quyềnchống cự lại. Hành vi chống cự lại mọi hành vi (dù là bất hợp pháp ) của nhà cầmquyền không bao giờ được coi là phịng vệ chính đáng. Như vậy hành vi của nhà

chức trách khi thi hành nhiệm vu được suy đốn là hợp pháp va khơng ai có

quyền chống cự lại.

Cũng có quan điểm cho rằng cần phân biệt rõ các trường hợp: nếu nhà

chức trách khi thực hiện cơng vụ của mình mà có lệnh viết thì dù lệnh đó là bấthợp pháp thì khơng ai có quyền chống lại nhà chức trách, mọi hành vi kháng cựlại trong trường hợp này đều bị coi là chống người thi hành công vụ. Ngược lại,nếu nhà chức trách khơng có lệnh viết và nếu hành vi là bất hợp pháp thì cơngdân có quyền khơng tn theo mệnh lệnh và kháng cự lại, trường hợp này được

coi là phịng vệ chính đáng.

Pháp luật Việt Nam chưa có si hướng dẫn cụ thể các trường hợp như thé

này, tuy nhiên trong thực tế nếu có trường hợp như vậy xảy ra thì có thể vận dụng

như sau:

Có thể coi là phịng vệ chính đáng hành vi chống trả lại hành vi bất hợp

pháp của nhà chức trách với hai điều kiện: về khách quan, rõ ràng hành vi củanhà chức trách là trái pháp luật ( đánh người, huỷ hoại tài sản một cách vô cớ...);về chủ quan, người phịng vệ thấy được tính trái pháp luật đó và tin chắc rằng

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

thân trước một hành vi nguy hiểm cho xã hội của nhà chức trách. Trong trường

hợp này, mặc dù là hành vi của người thi hành cơng vụ nhưng hành vi đó rõ rànglà trái pháp luật. Chính vì vậy, việc kháng cự là cần thiết và người có hành vi

kháng cự phải được coi là hành vi phịng vệ chính đáng. Song, để tránh mọi sự

lạm dụng dẫn tới việc cản trở người thi hành công vụ thực thi nhiệm vụ của mìnhthì địi hỏi trong trường hợp chống lại hành vi của người thi hành cơng vụ vì chorằng hành vi của người này là trái pháp luật thì tính trái pháp luật đó phải rõ ràng,ai cũng thấy được. Nếu chưa rõ ràng là trái pháp luật thì tất cả mọi người đềuphải tuân theo mệnh lệnh của người thi hành công vụ để đảm bảo trật tự xã hội

Trong thực tế cũng có trường hợp nhầm lẫn, đó là trường hợp người cóhành vi chống lại hành vi của người thi hành cơng vụ vì cho rằng hành vi củangười thi hành công vu là trái pháp luật nhưng thực tế hành vi thi hành công vụkhông phải là hành vị trái pháp luật. Trong trường hợp này hành vi chống lạihành vi hợp pháp của ngươi thi hành cơng vụ khơng thể được coi là phịng vệchính đáng mặc dù về mặt chủ quan thì người có hành vi chống lại nghĩ rằnghành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật, tuy nhiên sự nhận thức của

họ trong trường hợp này là sai lầm. Ở những trường hợp như thế này nếu suy nghĩ

của người chống cự là có cơ sở ( mặc dù là sai lầm), có nghĩa là có những dấu

hiệu mà bất cứ một người bình thường nào cũng có thể suy đốn hành vi củangười thi hành cơng vụ là trái pháp luật thì hành vi chống cự lại có thể được miễn

trách nhiệm hình sự vì đây là một trường hợp sai lầm về sự việc. Nếu việc chorang hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật nhưng hồn tồn khơngcó căn cứ của việc trái pháp luật mà là do người kháng cự nhận thức hồn tồn

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

chu quan thì trong trường hợp nay người có hành vi chong cự lại người thi hành

cơng vụ sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

Một trong những đặc điểm hết sức quan trọng của hành vi xâm hại để phân

biệt giữa trường hợp được coi là phịng vệ chính đáng hoặc vượt q giới hạn

<small>phịng vệ chính đáng với những trường hợp phạm tội thơng thường, đó chính là</small>

tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội của hành vi xâm hại. Như ở trên đã trình bày,hành vi xâm hại không buộc phải thoả mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạmthì mới phát sinh quyền phịng vệ chính đáng mà chỉ cần hành vi xâm hại có tínhnguy hiểm cho xã hội cần phải phịng ngừa. Nói như vậy cũng khơng có nghĩa

rang bất kỳ một hành vi vi phạm nào cũng có thể làm phát sinh quyền phịng vệ

chính đáng mà địi hỏi hành vi xâm hại phải có tính nguy hiểm đáng kể. Quyềnphịng vệ chính đáng chỉ phát sinh khi và chỉ khi có hành vi rõ ràng là nguy hiểmđáng kể cho xã hội xâm hại đến các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Trong thực tếđã có rất nhiều vụ án cố ý gây thương tích, giết người xảy ra từ những va chạmrất nhỏ trong cuộc sống đời thường và trong những va chạm đó một phần có lỗicủa người bị hại. Ví dụ như chỉ bị xơ đẩy hoặc bị tát mà kẻ phạm tội sẵn sàngdùng dao đâm chết người đã xơ đẩy hoặc tát mình, những trường hợp như vậykhơng thể coi là phịng vệ chính đáng hoặc giết người do vượt q phịng vệchính đáng được mà những trường hợp này phải bị coi là phạm tội giết người.Hoặc cũng có thể là hành vi của người chủ nha bắn chết tên trộm đang hái trộmmấy trái cây trong vườn nhà, đang lấy trộm một vật gì đó trong quầy hàng... đều

khơng được coi là phịng vệ chính đáng. Mot vụ án mới đây mà Tồ án nhân dân

thành phố Hà Nội vừa xét xử bi cáo N cùng đồng bon đã đánh chết phạm nhân Ttại trại giam Hà Nội là một ví dụ chứng minh điều này. Nội dung vụ án như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

giam Hà Nội. Sáng ngày 19/11/2000, khi tất cả phạm nhân trong buồng giam

đang ăn cơm thì phạm nhân T, do mắc bệnh, đã đi tiểu tiện ra quần ngay tại nơi

ăn cơm. Thấy vậy, N đã bảo T: " Tại sao mày lại tiểu tiện ở day". T trả lời: " Tao

buồn thì tao di" và T có day N một cái. Sự việc chỉ có vậy song N va ba phạm

nhân khác cùng buồng giam đã xông vào đánh T cho đến chết. Trong trường hợp

này, chúng ta không thể coi hành động của N và đồng bon là có tính chất phịng

vệ. Chính vì vậy, Tồ án nhân dân Thành phố Hà Nội đã xử sơ thẩm vụ án và kếttội N và đồng bọn phạm tội giết nguoi theo Điều 93, Bộ Luật Hình sự.

Như vậy, để phát sinh quyền phịng vệ chính đáng thì điều kiện đầu tiên là

hành vi xâm hại phải là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội.

2.1.2 Hanh vi xâm hại phải là dang gay thiệt hại hoặc de doa gáy thiệthại thực sự và ngay tức khắc.

Quyền phịng vệ chính đáng của cơng dân bắt đầu khi hành vi gây thiệt hạiđã bat đầu hoặc sẽ thực hiện ngay sau đó, trực tiếp de doa các lợi ích được phápluật bảo vệ và tồn tại cho đến khi hành vi xâm hại kết thúc. Điều kiện này cho

phép chúng ta xác định chính xác thời điểm bắt đầu và kết thúc tình trạng phịng

vệ và sử dụng quyền phịng vệ chính đáng của cơng dân. Sự xâm hại có hiện thờithì hành vi phịng vệ bang cách gây thiệt hai cho người xâm hai mới có ly do tồn

tại; người phòng vệ phải phản ứng nhạy bén để đối phó ngay cho kịp thời đểtránh nguy hiểm cho mình, cho người khác hay để bảo vệ các lợi ích của xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Thơng thường. hành vi phòng vệ được sử dụng dé chong tra lại một hànhvi xâm hai đang xảy ra và chưa chấm dứt. Ví dụ: A cùng dong bọn xơng vàođánh B. bọn chúng đang hành hung thì C là người đi đường thấy vậy đã xôngvào đánh lại A và đồng bọn cua A để cứu B. Tuy nhiên nêu chi coi thời điểm batdau tình trạng phịng vệ chính đáng khi hành vi xâm hai trên thực tế đã xảy ra thìquyền phịng vệ chính đáng chang cịn ý nghĩa vì sự phịng vệ khi đó sẽ khơngthực hiện được hoặc tuy có thực hiện được thì cũng khơng hiệu quả. Ví dụ: trongmột vụ án cướp của, người bị tấn cơng cần phải phịng vệ ngay khi tên cướp đangđịnh rút dao ra đâm mà không cần phải đợi đến khi kẻ tấn cơng có hành vị đâmmình vì nếu cứ đợi như vậy thì nhiều khi khơng thực hiện được hành vi phịng vệ.

Có thể hành vi xâm hại chưa xảy ra, nhưng có nguy cơ xảy ra ngay tức khắc thi

quyền phịng vệ chính đáng đã phát sinh. Trường hợp này khác với trường hợpmột hành vi xâm hại chưa xảy ra ma cũng khơng có nguy cơ xảy ra ngay tứckhắc, nếu có thì phải tới một thời gian nào đó mới xảy ra. Ví dụ: Anh N thườngthấy M là đối tượng nghiện hút thường hay lai vãng gần nhà mình có ý muốntrộm cắp tài sản. Một đêm, khi N đang ngủ thi M da phá được khoá cửa và lén

vào trong nhà N, N bất ngờ tỉnh day thấy M đang tiến tới phía tủ có dể tiền, tiện

có con dao ở đầu giường, N đã chém bị thương M. Trường hợp này, mặc dù Mchưa có hành vi trộm cắp tài sản của N nhưng đã có nguy cơ xảy ra ngay tức khắcviệc trộm cắp tài sản. Trong trường hợp vừa nêu, nếu N chỉ nghe thấy mọi ngườinói rằng M muốn trộm cap tài sản của mình và chỉ mới thấy M quanh quan ở

cạnh nha mà N đã có hành vi gây thương tích cho M thì chưa được coi là phịngvệ chính đáng vì sự xâm hại chưa phải là hiện thời.

Sự phòng vệ vẫn được coi là chính đáng ngay cả trong các trường hợp khihành vi xâm hại đã kết thúc nhưng trong hoàn cảnh cụ thể, do yếu tố tâm lý của

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

tiếp tục chống trả, nhất là trong những trường hợp họ bị tấn công bất ngờ. Tuyvậy, chỉ chấp nhận là phịng vệ chính đáng nếu sự phịng vệ đó đi liền ngay sau

sự tấn cơng và có thể khắc phục được thiệt hại do sự tấn công gây ra. Ngay sau

khi bị xâm hại và chiếm đoạt mất tài sản, nếu người bị hại hay người khác tiếptục kháng cự để giành lại tài sản đó và gây thiệt hại cho người cố tình chiếm giữthì hành vi kháng cự này vẫn được coi là phịng vệ chính đáng. Bởi vi, trong

trường hợp này, mac dù hành vi của người xâm hai đã hoàn thành và cấu thành

tội phạm ( chẳng hạn tội trộm, cướp...) đã thoả mãn, nhưng đối với người bị hại

thì lợi ích của họ vẫn tiếp tục bị xâm hại và nếu chống lại thì vẫn có thể khắcphục được thiệt hại do tấn cơng gây ra.

Khơng thể coi là phịng vệ chính đáng hành vi của người phòng vệ đã gây

thiệt hại cho người có hành vi xâm hại sau khi sự xâm hại đã được ngăn chặn

hoặc đã chấm dứt ( ví dụ: kẻ phạm tội đã giết chết người, đã lấy được vật mà ycần lấy...). Lúc này, người bị xâm hại cũng như mọi người khác không ai được

lấy lý do phịng vệ chính đáng để xâm hại đến người đã có hành vi trái pháp luật

nữa. Nếu có thì hành vi của người phòng vệ trong trường hợp này chỉ là sự trả thùvà phải chịu trách nhiệm hình sự về lỗi cố ý theo quy định của pháp luật. Bản ángiám đốc thẩm số 43/HS-GĐT ngày 30/12/1980 của Toà án nhân dân tối cao sẽdẫn chứng cho trường hợp này:

Chiều ngày 29/9/1979, Thạch Y cùng các anh Ð và T và một số người nữađi nhổ mạ thuê. Sau đó cùng rủ nhau đi ăn nhậu. Ăn xong ra về, mọi người đềusay rượu chếnh choáng. T rủ Y đấu võ, Y từ chối, nói nếu T có đấu thì đấu vớianh Ð. Nhưng T khơng đồng ý và nói muốn đấu với Y ngay tại chỗ. Anh Ð can

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

không được nên đã bỏ về trước. T cảm ghế nhổ mạ, nhào vào đánh Y, Y đỡ đượcvà giang ghế khỏi tay T. T tay không nhảy vào tiếp tục đánh Y, Y liền đùng chân

phế nhổ mạ vụt đúng vào đầu T, làm T ngã xuống. Y vụt liên tiếp mấy cái nữa,

thấy T nằm im, Y bỏ về nhà ngủ và không biết là sau đó T đã chết. Khi cơng anđến bat Y thì Y vẫn cịn ngủ và cịn say rượu.

Tòa án nhân dân tỉnh C đã xử phạt Thạch Y 7 năm tù về tội giết người dovượt quá giới hạn phòng vệ cần thiết. Bản án được kháng nghị và Tồ Hình sự

Tồ án nhân dân Tối cao nhận định:

" Vụ án xảy ra bắt nguồn từ chỗ nạn nhân chủ động tấn công bị cáo mộtcách trái phép, mặc dù bị cáo đã nhiều lần từ chối không muốn đấu võ với nạn

Khi bị nạn nhân dùng ghế nhổ mạ đánh, bị cáo đã gạt được ra nhưng nạn

nhân vẫn xông vào đánh, buộc bị cáo phải đánh trả, dùng chân ghế nhổ mạ đánh

trúng đầu nạn nhân, làm nạn nhân ngã, nhưng bị cáo lại dùng chân ghế nhổ mạđánh tiếp mấy cái nữa. Việc đánh tiếp như vậy là vượt quá mức cần thiết để

phòng vệ. Vì vậy, bị cáo Thạch Y đã phạm tội giết người vượt q giới hạnphịng vệ cần thiết".

Xét tính chất và mức độ thực hiện tội phạm của bị cáo, kết hợp xem xétnhân thân của bị cáo, Toà án nhân dân Tối cao đã hạ mức án cho Thạch Y xuống15 tháng tù.

Trong ví dụ này rõ ràng là bị cáo, sau khi đánh ngã nạn nhân, không cầnthiết phải đánh thêm nữa. Đánh thêm như vậy, rõ ràng là bị cáo đã vượt quá giới

hạn phòng vệ chính đáng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

có hay khơng có phịng vệ chính đáng trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải xem

xét đầy đủ, tồn diện tất cả các tình tiết của vụ án, các điều kiện, hoàn cảnh xảyra vụ việc... Sự phịng vệ khi chưa có hành vi xâm hại hoặc chưa có sự đe doa bịtấn cơng ngay tức khắc cũng như hành vi phòng vệ sau khi hành vi xâm hại đãchấm dứt đều không được coi là phịng vệ chính đáng, do vậy, đều phải chịutrách nhiệm hình sự. Sự phịng vệ khi chưa có hành vi tấn cơng và cũng chưa cósự de doa sẽ bị tấn công ngay tức khắc được gọi là phịng vệ q sớm, trongtrường hợp này chưa có cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ. Còn sự phòng vệsau khi hành vi tấn công đã thực sự chấm dứt được gọi là phòng vệ quá muộn,trong trường hợp này cơ sở làm phát sinh quyền phịng vệ khơng còn nữa. Việc

gây thiệt hại cho người xâm hại trong các trường hợp phòng vệ quá sớm cũng

như phòng vệ quá muộn đều không được coi là hợp pháp và người " phịng vệ”phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện theo quy định của phápluật.

Khi phân tích những điều kiện thuộc về tính chất của hành vi xâm hại,chúng ta nói rằng hành vi xâm hại phải đang gây thiệt hại hoặc đe doa gây thiệthại thực sự và ngay tức khắc, điều đó có nghĩa là hành vi xâm hại đang xảy rahoặc de doa xảy ra ngay tức khắc trên thực tế và người phòng vệ nhận thức đượcđiều này. Tuy nhiên, trên thực tế có những trường hợp mặc dù khơng có sự xâmhại cũng như đe doạ xâm hại ngay tức khắc xảy ra nhưng người " phòng vệ” vẫncho rằng có hành vi xâm hại và đã chống trả lại sự tấn cơng tưởng tượng đó. Đâyđược gọi là trường hợp phòng vệ tưởng tượng.

Ở đây, chúng ta thấy rằng phịng vệ tưởng tượng chỉ giống với phịng vệ

chính đáng ở một điểm duy nhất đó là mục đích và động cơ khi thực hiện hành vi

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

đều nhằm chống trả hành vi xâm hại, bảo vệ các lợi ích hợp pháp. Để xác định

trách nhiệm hình sự trong trường hợp phòng vệ tưởng tượng cần phải phân biệt rõcác trường hợp, tuỳ thuộc vào điều kiện, hồn cảnh và các tình tiết trong từngtrường hợp cụ thể để xác định người có hành vi phịng vệ tưởng tượng khơng phải

chịu trách nhiệm hình sự hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vơ ý. Cụ thể

Nếu căn cứ vào các tình tiết khách quan mà thấy rằng sự lầm tưởng khôngphải do lỗi của bản thân người phịng vệ mà là do hồn cảnh, điều kiện phức tạptạo ra làm cho người đó thấy có đủ căn cứ cho rằng mình bị tấn cơng và quyếtđịnh chống trả. Hay nói một cách khác, việc nhận định sai lầm của người " phòng

vệ " trong trường hợp này là có lý do chính đáng. Ở trường hợp này, người "

phịng vệ" khơng nhận thức được và khơng thể nhận thức được về sự lầm tưởng

của mình, kể cả khi thận trọng, không những người này hành động hồn tồn có

thiện ý mà bất cứ một người nào khác ở trong hoàn cảnh của họ cũng sẽ bị lầmtưởng.

Ví dụ: Anh A là người rất nhát, đi đâu buổi tối cũng rất sợ, vì vậy khi đi

tối, anh ta ln mang bên mình một cây gậy. Một hơm, anh đi qua một đoạnđường rất vắng, có một người bạn là B biết tính của A nên đã nấp ở ven đường rồithình lình xơng ra giả vờ định tấn cơng anh A, anh A tưởng là có người tấn cơngmình thật và đã chống trả lại và kết quả là anh A đã dùng gậy đánh chết anh B.

Trong trường hợp này, hành vi phòng vệ cua A mặc dù là phịng vệ tưởngtượng, vì thực chất khơng có sự tấn cơng nhưng vẫn được coi là phịng vệ chính

đáng vì trong điều kiện, hồn cảnh như vậy A khơng biết và khơng thể biết được

người đó là B và B chỉ định trêu đùa mình. Như vậy, trong trường hợp này, nếu

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

đáng thơng thường thì người có hành vi " phịng vệ” khơng phải chịu trách nhiệmhình sự. Tuy nhiên, về mặt dân sự, họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những thiệthại gây ra cho nạn nhân. Nếu hành vi " phòng vệ” trong trường hợp này vượt qua

giới hạn cho phép như trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

thơng thường thì người có hành vi phịng vệ sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự vềtội phạm tương ứng do vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng.

Nếu các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể xảy ra chưa đủ căn cứ để cho rằng có

sự tấn cơng, việc gây thiệt hai là do người " phòng vệ” thiếu suy nghĩ thận trọng,

vội vàng, thiếu khách quan trong nhận định nên đã lầm tưởng hành vi hợp pháp

của nạn nhân là sự tấn công nên đã chống trả, thì việc nhầm lẫn của người "phịng vệ" là do cau thả, trong những điều kiện, hoàn cảnh như thế nếu ngườikhác ở vào địa vị của anh ta sẽ khơng nhận định như vậy. Do đó, họ phải chịu

tài sản của xí nghiệp nên A đã nổ súng về phía họ và kết quả là làm một người bị

Trong trường hợp nói trên, chưa có căn cứ để A nghĩ rằng ba người kia

định vào để ăn cắp tài sản của xí nghiệp, chính vì vậy, hành vi phịng vệ tưởngtượng của A là khơng thể xem là phịng vệ chính đáng vì A đã có sai lầm khi

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

đánh giá hoàn cảnh mà nếu thận trọng và chú ý hơn thì A sẽ khơng mắc phải.Nếu chỉ đánh giá hành vi thì phải nói rằng trong trường hợp này, A đã có hành vi

cố ý gây thương tích. Tuy nhiên, để đánh giá tội danh cho thật chính xác, chúng

ta thấy rằng lỗi của A trong trường hợp này là lỗi vô ý cầu thả. A cố ý bắn bịthương nạn nhân nhưng A không nghĩ rằng mình phạm tội cố ý gây thương tích

cho người khác, A đã không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho

xã hội và cho rằng hành vi của mình là hợp pháp nhằm bảo vệ tài sản của xí

nghiệp, do vậy A phạm tội vơ ý gây thương tích.

Việc xác định như ở trên là sự vận dụng của các cơ quan bảo vệ pháp luật.Pháp luật hình sự của nước ta chưa quy định về chế định sai lầm thực tế, do đó,trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử thường gặp khó khăn, vướng mắc khi xử

thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra cho xã hội. Với ý nghĩa là một chế

định của luật hình sự nhằm khuyến khích, động viên mọi người tham gia vào việc

đấu tranh chống tội phạm và chống những hành vi nguy hiểm cho xã hội, để mọingười khi thấy có hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra ngay trước mắt thì tự

mình ngăn ngừa hành vi đó bằng cách gây thiệt hại cho người đang có hành vi

xâm hai để bảo vệ các lợi ích hợp pháp. Người có hành vi phịng vệ chính đáng

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

có hành vi xâm hại vì người phịng vệ chính đáng không nguy hiểm cho xã hộimà ngược lại, họ đã làm một việc có ích cho xã hội, được xã hội khuyến khích.Chính vì vậy, nếu hành vi xâm hại xảy ra là do có sự khiêu khích của ngườiphịng vệ hay nói cách khác, người phịng vệ đã có lỗi đối với việc phát sinh hành

vi xâm hai thì lúc này hành vi phịng vệ khơng cịn ý nghĩa vì mục đích của hànhvi phịng vệ là ngăn chan, hạn chế những thiệt hại gây ra cho các lợi ích được

pháp luật bảo vệ. Trong trường hợp này người " phịng vệ” khơng được coi làphịng vệ chính đáng vì chính người " phịng vệ” đã chủ động gây ra tội phạm,nếu khơng có hành vi khiêu khích của họ thì sẽ khơng có hành vi tấn cơng.

Ví dụ: Biết được mẹ của B ngoại tình với ơng C, A đã cố ý trêu gheo B về

việc này trước mặt rất đơng bạn bè. Vì q bực tức, B đã xông vào đánh A nhưng

do A to khỏe hơn nên B không đánh được A mà bị A đánh trọng thương.

Trường hợp này không thể coi hành vi đánh trọng thương B của A là hành

vi phịng vệ chính đáng mặc dù nếu xét về hành vi sử dụng vũ lực thì B là ngườitấn cơng trước và ở đây, nguồn gốc của việc B tấn công A là do A đã có hành vixúc phạm B trước mặt bạn bè, do vậy, hành vi của A phải bị coi là cố ý gây

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

xâm hại tới các lợi ích được pháp luật bảo vệ và hành vi xâm hại xảy ra khơng dosự khiêu khích của người của người phịng vệ, chỉ khi nào có đủ các điều kiệnnhư vậy thì quyền phịng vệ mới phát sinh.

Vậy, hành vi phòng vệ như thế nào là chính đáng? phải chăng khi có hànhvi xâm hại người phịng vệ có thể gây bất cứ thiệt hại nào cho người có hành vixâm hại? Luật hình sự Việt Nam bên cạnh việc quy định các điều kiện thuộc vềtính chất của hành vi xâm hại cịn quy định các điều kiện thuộc về tính chất củahành vi phịng vệ nhằm đảm bảo cho chế định phịng vệ chính đáng đạt đượcđúng mục đích của nó là nhằm khuyến khích mọi người tham gia đấu tranhchống tội phạm và chống những hành vi nguy hiểm cho xã hội.

2.2. NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUỘC VỀ TÍNH CHẤT CỦA HÀNH VI

PHỊNG VỆ

Khi có hành vi xâm hại đang hiện hữu xâm phạm tới lợi ích của nhà nước,lợi ích của tập thể, quyền hoặc lợi ích chính đáng của cơng dân sẽ phát sinhquyền phịng vệ chính đáng. Theo quy định của Điều 15 Bộ luật Hình sự năm

1999 thì các điều kiện thuộc về tính chất của hành vi bảo vệ, cụ thể là:

2.2.1. Hành vi đó nhằm bdo vệ lợi ích của nhà nước, của tap thé, lợi ích

chính đáng của bản thân mình hoặc người khác.

Đây là một điều kiện rất quan trọng, thể hiện mục đích của chế định phịng

vệ chính đáng. Phịng vệ chính đáng là nhằm ngăn chặn một cách tích cực sự tấncơng, hạn chế những thiệt hai do sự tấn cơng đó đe doa gây ra nhằm bảo vệ các

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

mục đích nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của tập thể hay quyền, lợi ích

hợp pháp cua ban thân hoặc của người khác trước sự gây thiệt hại hoặc đe doagây thiệt hại của hành vi xâm hại. Hành vi của một người gây thiệt hại cho ngườicó hành vi xâm hại nhưng khơng phải vì mục đích nhằm bảo vệ những lợi ích hợppháp mà vì những mục đích khác (trả thù) thi trong trường hợp này, hành vi gây

thiệt hai khơng được coi là phịng vệ chính đáng.

Ví dụ: Thấy A đang đánh B, C đã xông vào đánh A và kết quả là gây

thương tích cho A.

Trong ví dụ này, nếu C xơng vào đánh A nhằm giải thoát cho B và hành vicủa C là cần thiết, tương xứng nhằm đẩy lùi sự tấn cơng của A thì hành vi gây

thương tích của C được coi là phịng vệ chính đáng.

Tuy nhiên, cũng cùng một hành vi như trên, nếu C xông vào đánh A nhưngkhơng phải là nhằm giải thốt cho B mà lại nhằm trả thù A vì trước đó giữa A vàC có sự xích mích thì trong trường hợp này, hành vi gây thương tích của C khơngđược coi là phịng vệ chính đáng. Sở dĩ hành vi của C khơng được coi là phịng vệ

chính đáng bởi vì mục đích gây thương tích cho A khơng phải nhằm đẩy lùi sựtấn công của A để cứu B mà là nhằm trả thù cá nhân.

2.2.2. Hành vi phòng vệ phải gáy thiệt hại cho chính người có hành vi

xâm hại

</div>

×