Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia giải quyết phá sản doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.96 MB, 93 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁPTRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHAN THỊ THANH THUY

GIẢI QUYẾT PHA SAN DOANH NGHIỆPCHUYEN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ

R ^ ered ae ray

HA NOI - 1996 "

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

MỤC LỤC

<small>Trang</small>

Lời nói đầu L

Chương I: Sự tồn tại tất yếu khách quan của Luật pha

sản doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nước ta 7

I.1. Phá sản và pháp luật về phá san L

1.2 Sự cần thiết của việc ban hành Luật phá sản doanh nghiệp ở

Việt nam IS

1.3. Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sẵn là một thủ tục tư pháp

đặc biệt. 21Chương II: Dia vị pháp lý của các chủ thể tham gia giải

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Wood both an lat san Ví ý chức thi

<sub>l ih LÒ i) tas ;zill Va VICC LÒ chức thy hanh quyết định</sub>

tuyên bo phá san doanh nghiệp 66

[I4 Valo trung tain của Tham phán trong việc giai quyết phá

san 6 Việt nam 72

(Chương HH: Gop phan hoàn thiện Pháp luật về pha san 76

II. Can tiếp tục nghiền cứu dé bố xung sửa đối va cụ thể hoá

pháp luật vé phá san bao gom Luật phá san doanh nghiệp, các

van bản dưới Luat va các ván ban có liền quan 77

I.2 Đao tạo boi dưỡng va nang cao trình do nghiệp vụ cho

‘Tham phán va chuyén mon hoá Tố quan lý tai san : 83

11.3 Tuyến truyền rộng rãi vé Luật phá san đặc biệt doi với các

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

LỜI NÓI ĐẦU

PPV LID

Phá san là hiện tượng tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế thitrường. Khi sự cạnh tranh giữa các chủ thể diễn ra ngày càng gay gắt thì phásản cũng ngày càng phổ biến và phức tạp hơn. Xét về một khía cạnh nào đóthì phá sản là hiện tượng bình thường, thậm chí cịn cần thiết cho việc thúcđẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.

Trên thế giới, đặc biệt ở các nước phát triển, tỉ lệ doanh nghiệp bị phá sảnrất cao. Chẳng hạn tại Pháp số các công ty phải tuyên bố phá sản là 58.614

<small>năm 1994, năm 1995 là 59.509 và dự kiến năm 1996 là 64.000. Tại Anh các</small>

con số đó là 43.625, 41.303 và 43.500. Tại Mỹ Nhật, Thuy điển... tỉ lệ phásản có thấp hơn nhưng cũng phải tới hàng nghìn cơng ty mỗi tháng và có xu

hướng ngày càng tăng (*) |

Ở nước ta kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của

Đảng, Đẳng và nhà nước ta, đã kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập

trung quan liêu bao cấp, để chuyển sang một nền kinh tế thị trường với cơ

cấu kinh tế nhiều thành phần, có sự điều tiết của nhà nước. Dưới tác động củacác quy luật kinh tế khách quan, trên thương trường đã xuất hiện một trongnhững hiện tượng kinh tế mới mà chúng ta chưa từng gặp trong nền kinh tếcũ, đó là sự phá sản của các doanh nghiệp

Thừa nhận phá sản là hậu quả tất yếu của thị trường và cần phải được điềuchỉnh bằng pháp luật, ngày 30/12/1993 tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khố IX đãthơng qua Luật phá sản doanh nghiệp Việt nam.

(*) Theo xố liệu báo Thương Mai số ra ngày 7/9/1996

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

‘Tinh cấp thiết của đề tài

Có thể nói từ khi ra đời và được đưa vào thực hiện tới nay Luật phá sảndoanh nghiệp đã đóng góp một phần khơng nhỏ vào việc hoàn thiện hệ thốngpháp luật vẻ kinh tế và cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân ở nước ta. Nhưng cómột điều đáng ngạc nhiên là ở nước ta mặc dầu đã có Luật phá sản và số

<small>lượng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không phải là ít; tính đến</small>

31/12/1995 cả nước ta có tới 33.358 doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh,đến giữa năm 1996 con số này đã lên tới 34.616 doanh nghiệp chiếm 97.000tỷ đồng vốn (*); song con số doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản kể từ

1/7/1994 đến nay lại ít đến mức có thể đếm được trên đầu ngón tay (!)

Chắc chắn khơng phải vì trình độ quản lý của các doanh nghiệp Việt nam

giỏi hơn các doanh nghiệp nước ngoài. Hàng ngày các phương tiện thông tinđại chúng của chúng ta vẫn thường xuyên đưa tin về các doanh nghiệp làm ănthua lỗ làm thất thoát tài sản của nhà nước hoặc chiếm dụng vốn của nhândân, nhưng lại rất hiếm thông tin về các doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản

Rõ ràng đã có hiện tượng các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ lẩn trốn phápluật và Luật phá sản vẫn chưa thực sự phát huy tác dụng tích cực của nó trongđời sống kinh tế - xã hội nước ta.

Qua nghiên cứu đánh giá, cũng như thăm dò dư luận xã hội, thấy nổi lên

một trong những lý do cơ bản nhất của vấn đề này là: phá sản và việc giảiquyết phá sản là những khái niệm còn mới mẻ và xa lạ đối với giới doanhnhân nước ta, điều này gây nên một tâm lý ngại ngùng và ức chế không muốntiếp cận. Và ngay cả việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của cơ quanNhà nước có thấm quyền cũng cịn nhiều hạn chế trên phương diện lý luận

cũng như kinh nghiệm thực tiễn. Bởi vậy Luật phá sản vẫn chưa thể hiện được

một cách tối đa, vai trị của nó trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các

(*) Theo xố liệu báo Việt nam - Đầu tu nước ngoài các số 162 (5/1996) và168 (7/1996)

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

‘Tinh hình nghiên cứu đề tài

Luật phá sản doanh nghiệp đã được các Luật gia quan tâm đến, song chủyếu được đề cập dưới dạng các bài viết trao đối lý luận-thực tiễn một số vấnđề pháp lý về phá sản doanh nghiệp ở Việt nam như: Bàn thêm về các kháiniệm, các thuật ngữ pháp lý của Luật phá sản, so sánh việc giải quyết phá sảnở Việt nam với các nước .v.v... Cho đến nay chưa có một cơng trình khoa họcnào tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống về chức năng, nhiệm vụ,quyền hạn của các chủ thể tham gia giải quyết phá sản theo quy định củapháp luật Việt nam.

_ Chính vì lý do đó tác giả đã chọn dé tài "Dia vị pháp lý của các chủ thểtham gia giải quyết phá sản doanh nghiệp" làm Luận án tốt nghiệp Cao hoc

Đối tượng nghiên cứu của luận án

Trong luận án tác giả tập trụng nghiên cứu về vị trí vai trị của các chủ thể

tham gia giải quyết phá sản bao gồm Toà án, Tổ quản lý tài sản, Hội nghịchủ nợ và Tổ thanh toán tài sản; chức năng nhiệm vụ của mỗi chủ thể trongtừng giai đoạn giải quyết phá sản thông qua các quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể

pháp luật trao cho từng chủ thể và mối quan hệ giữa những chủ thể này với

nhau trong quá trình giái quyết phá san, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

-4-nghị nhằm sứa đối bố xung để hoàn thiện pháp luật về phá sản và đảm bảotính thực thi của nó trong đời sống xã hội.

<small>Phuong pháp nghiên cứu</small>

Để thực hiện Luận án này tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứukhoa học như tư duy biện chứng, phân tích, tổng hợp, so sánh... Ngồi việcnghiên cứu các quy định của pháp luật Việt nam, tác giả còn thu thập sử dụngcác tư liệu về pháp luật phá sản và cách xử lý phá sản của một số nước tiênthế giới và bài viết của một số tác giả trong nước để tiện cho việc tìm hiểu sosánh cách xử lý phá sản ở Việt nam và theo thông lệ quốc tế.

Điểm mới và ý nghĩa của luận án

"Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia giải quyết phá sản doanh nghiệp",là một mảng còn bỏ ngỏ trong khoa học pháp lý chuyên ngành Luật Kinh tế,hiện nay chua được cơng trình nghiên cứu nào đề cập đến.

Như đã trình bày ở trên đối tượng nghiên cứu của đề tài, cũng chính là

những nội dung cơ bản của Luật phá sản doanh nghiệp nước ta, chính vì vậy _

việc nghiên cứu đề tài này có một ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận khoahọc cũng như thực tiễn. Nghiên cứu xác định địa vị pháp lý của các chủ thểtham gia giải quyết phá sản sẽ giúp cho các nhà làm luật phát hiện tính hợplý và những điểm cịn hạn chế trong các quy định của pháp luật hiệđ hành, từđó có những sửa đổi bổ xung thích hợp nhằm hồn thiện pháp luật về phasản, nâng cao chất lượng giải quyết phá sản; đặc biệt là giúp cho các chủ thểkinh doanhở nước ta có quan niệm đúng dan về hiện tượng phá sản và biếtcách chủ động bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi doanh nghiệp lâm

<small>vào tinh trạng phá san. Có như vậy mới thực sự dam bảo thực hiện được các</small>

mục tiêu của Luật phá sản Việt nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Co cau cua luận án

Với nội dung như trên luận án được chia làm ba chương

Chương 1: Sự (ồn tai tất yếu khách quan của Luật phá sản doanh nghiệp

(rong nên kinh tê thị trường nước ta.

Trong chương này tác giả giới thiệu những nét cơ bản về phá sản và pháp

luật về phá sản, dồng thời khẳng định sự cần thiết khách quan của việc ban

hành Luật phá sản doanh nghiệp ở nước ta và nêu lên những dấứ hiệu đặctrưng của thú tục piai quyết phá san.

Chương 2: Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia giải quyết phá sảndoanh nghiệp ở Việt nam .

Đây là nội dung trọng tâm của luật án. Tác giả tập trung vào giải quyếtcác vấn đề cơ bản đó là:

- Những người có quyền dé đơn yêu cầu tuyên bố phá sản và khẳng địnhToà án, Tổ quản lý tài sản, Hội nghị chủ nợ và Tổ thanh toán tài sản là nhữngchủ thể tham gia giải quyết phá sản.

- Bản chất pháp lý của các chủ thể theo thông lệ quốc tế và theo pháp luật

<small>Việt nam</small>

- Chức năng nhiệm vụ của các chủ thể giải quyết phá sản và những vấn đề

thực tiễn phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản.

- Vấn đề cuối cùng, tác giả khẳng định vai trò trung tâm của Toà án trong

mối quan hệ với các chủ thể tham gia giải quyết phá sản và các cơ quan hữu

quan. |

Chương 3: Gop phan hoàn thiện pháp luật về phá sản

Trong chương này tác giả nêu lên những đề xuất và kiến nghị đúc rút ra từquá trình nghiên cứu đề tài nhằm góp phần hồn thiện Luật phá sản và đảmbảo tính thực thị của nó.

<small>Cuối cùng là phân Kết Luận</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Day là một dé tai rất rộng và phức tap, thời gian thực hiện không dài, hơnnữa bản thân tác giả là người làm công tác thực tế, lần đầu tiên làm quenvới công tác nghiên cứu nên chắc chắn bản Luận án này khơng tránh khỏinhững hạn chế và thiếu sót nhất định. Kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp củacác thầy cô trong Hội đồng và của các bạn đồng nghiệp.

Hà Nội, tháng 10 nam 1996

NGƯỜI THỰC HIỆNPhan Thị Thanh Thuy

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>=D „</small>

CHƯƠNG I

SỰ TỒN TẠI TẤT YẾU KHÁCH QUAN CUA LUAT PHA SAN

DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NƯỚC TA.

1.1. Phá san và pháp luật về pha sản[.1.1. Khái niệm phá sản:

Phá sản là hiện tượng tồn tại một cách tất yếu trên thị trường khi có sựcạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh doanh. Doanh nghiệp nào muốn tồn

tại và phát triển được phải đủ sức cạnh tranh với những cơ sở khác. Đòi hỏi

này làm xuất hiện nhiều doanh nghiệp có bản lĩnh vượt lên nắm bắt các cơhội chiếm lĩnh thị trường. Song bên cạnh đó là một bộ phận không nhỏ nhữngdoanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ nợ nan chồng chất mất khả năng thanhtoán nợ đến hạn; về thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản.

Như vậy phá sản là hiện tượng khó tránh khỏi trong nền kinh tế thị trườngvà nó cũng khơng tồn tại trong cơ chế kế hoạch hố tập trung, bởi vì trongđiều kiện có bao cấp vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không bao giờ

<small>được dat ra. Trước đây chúng ta thường phat động các phong trào "Thi đua xã</small>

hội chủ nghĩa" Song đây cũng chỉ là các biện pháp khuyến khích đơn thuầnkhơng bat buộc về hậu quả vật chất.

Trên thế giới, phá sản xuất hiện rất sớm. ở Châu Âu khi nói đến phá sản

người ta thường dùng từ "Bankruptcy" (tiếng Anh) hoặc "Banquoroute" (tiếngPháp) Hai từ này có nguồn gốc từ chữ "Banca Rotta" của Lamã. Thời đó các

thương gia trong thành phố thường họp nhau lại để xem xét công việc kinh

doanh và người nào mất khả năng thanh tốn cơng nợ thì cũng“mất lnquyền tham gia đại hội thương gia và chiếc ghế của họ bi đem ra khỏi hội

Hầu như tất cả các nước có nền kinh tế thị trường trên thế giới đều cóquan niệm rõ ràng về tình trạng kinh doanh thua lỗ dẫn đến lâm vào tình

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

-8-trạng pha sản, khí kha năng tài chính của doanh nghiệp khơng đủ để thanh

tốn các món nợ; boi lẽ thị trường ai cũng biết, không phải là một cơ chế

kinh tế lý tưởng đối với mọi doanh nhân. Ở đó ln diễn ra cuộc vạnh tranh

khóc liệt giữa những người muốn tìm chỗ đứng cho mình. Do đó sẽ có ngườiphái chấp nhận phá sản như mội rủi ro trong kinh doanh.

Là một hiện tượng phức tạp, phá sản liên quan đến nhiều mặt của đời sốngxã hội. Van đề đầu tiên dé thấy nhưng khó giải quyết ở mọi nước là tình trạngthất nghiệp của người làm cơng ăn lương, gây ra khơng ít hậu quả khôn lường

<small>cho xã hội.</small>

<small>Phá sản là hiện tượng kinh tế xấu của từng doanh nghiệp và có tính lây lan</small>

như một căn bệnh truyền nhiễm. Mỗi khi có một doanh nghiệp bị phá sản thìnhững doanh nghiệp bạn hàng cũng bị ảnh hưởng xấu theo kiểu dây chuyền,kẻ không mua được hàng, người không bán được sản phẩm, do đó ít nhiềuảnh hưởng xấu tới tiến trình sản xuất xã hội; thậm chí các thực thể có liên

<small>quan này cũng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh tốn nợ nần và và sau</small>

đó bị phá sản.

Ngồi ra phá sẵn còn liên quan đến các lĩnh vực kinh tế - tài chính -phápluật, như việc Nhà nước phải đứng ra giải quyết tranh chấp công nợ giữa chủnợ và con nợ nếu họ không tự thoả thuận được với nhau, giải quyết các tàisản có liên quan đến lĩnh vực cầm cố, thế chấp .v.v... Thậm chí trong lịch sử

phá sản, một số nuớc châu Âu đã sẵn sàng đưa các con nợ đến nghỉ ngơi ở

<small>nhà đá.</small>

Là hiện tượng phức tạp liên quan đến nhiều mặt của đời sống kinh tế -xãhội, phá sản cũng đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau.

Trước năm [970 Luật phá sản thiên về xu hướng bảo vệ chủ nợ, nên Tồán chỉ cần xét thấy có đủ bằng chứng chúng tỏ doanh nghiệp mất kha

năng thanh toán là tuyên bố phá sản ngay. Nhiều nước còn phá sản là tội hình

sự, nên con nợ bị quy lỗi rất nặng. ở một số nước còn cho phép bỏ tù con nợ

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

‘Anh). Do đó hang loạt vu phá san đã liên tiếp xảy ra va gây nhiều hậu qua

<small>cấu cho xã hội.</small>

Sau năm 1970, nhận thức được hậu quả nặng nề về kinh tế - xã hội do phásan hàng loạt đem lại, chính phủ hau hết các nước đã thay đổi quan điểm(tước đây của mình va chỉ coi phá sản là hậu qua do tác động của các quyluật kinh tế đối với thị trường.

Tuy được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, nhưng nhìn chung Luậtphá san của nhiều nước trên thế giới đều coi phá sản là tình trạng chủ doanhnghiệp khơng có khả năng nộp thuế và thanh tốn cơng nợ đến hạn; chẳng

hạn: Luật phá sản Úc quy định doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản

khi rơi vào "tinh trạng tài chính bi dat" khiến cho nó khơng có khả năngthanh toán các khoản nợ đến hạn. Theo Luật phá sản của Trung quốc ban

hành năm 1986 thì trong vịng 6 tháng kể từ ngày có đơn u cầu phá sản mà

doanh nghiệp mắc nợ không trả được nợ thì bị xếp vào loại phá sản.

Theo Luật khơng có khả năng thanh tốn (Insolvency act) và Luật đìnhchi hoạt động giám đốc công ty (Company director disqualification)của Anhban hành năm 1986 thì các doanh nghiệp (Cơng ty) có giá trị tài sản thấp hơnsò nợ phải trả (hiện tại và tương lai) đều bị xếp vào loại khơng có kha năngthanh toán. Nhưng điều này ở Anh vẫn chưa có nghĩa là doanh nghiệp bị xếpvào loại phá sản, mà ở nước này cũng như ở Mỹ, Pháp còn giành một thờigian "dém" cho doanh nghiệp có thể khơi phục lại hoạt động. Sau khoảngthời gian này nếu tình hình tài chính khơng được cải thiện, doanh nghiệp vẫnbó tay trước nợ nần, thì mới bị Tồ án tun bố phá sản.

Thừa nhận phá sản là một hậu quả tất yếu của nền kinh tế thị trường, Phápluật Việt nam đã phan ánh kip thời hiện tượng phá sản doanh nghiệptrong điều {7 Luật doanh nghiệp tư nhân và điều 24 Luật công ty ban hành

<small>cùng ngày 21/12/1990.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Theo điều 24 Luật công ty: "Công ty gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong

hoạt động kinh doanh đến mức tại một thời điểm tổng số trị giá các tài sản

cịn lại của cơng ty khơng đủ thanh toán tổng số các khoản nợ đến hạn, làdoanh nghiệp dang lâm vào tình trạng phá san". Tương tự như vậy "doanhnghiệp tư nhân gap khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đếnmức tại một thời điểm tổng trị giá các tài san còn lại của doanh nghiệp khơngđủ để thanh tốn tổng số các khoản nợ đến hạn là doanh nghiệp đang lâm vàotình trạng phá sản” (điều 17 Luật doanh nghiệp tư nhân).

Tuy nhiên quy định như vậy thì dấu hiệu cơ bản nhất để xác định cơng ty(doanh nghiệp) lâm vào tình trang phá san là: tại một thời điểm tí] giá của

tổng số tài sản nợ đến hạn lớn hơn giá tri của tổng số tài sản có. Quan niệm

này chưa thực sự chính xác về mặt pháp lý. Nó chỉ phù hợp với công việcnghiên cứu của các nhà kinh tế vì đủ để làm cơ sở cho họ đi tìm các giải phápkhơi phục lại doanh nghiệp, cứu doanh nghiệp thốt khỏi tình trạng đó. Đốivới các nhà pháp lý quan điểm như vậy còn quá đơn giản, chưa đủ căn cứ đểhọ có thể tiến hành giải quyết việc phá sản doanh nghiệp. Bởi vì một doanh

nghiệp cho dù tại một thời điểm nào đó giá trị của tổng số tài sản nợ đến hạn

lớn hơn giá trị cúa tổng số tài sản còn lại của doanh nghiệp, nhưng chưa hẳnđã đưa doanh nghiệp đó đến tình trạng mất khả năng thanh tốn nếu như cácchủ nợ hỗn nợ hoặc xố nợ cho doanh nghiệp hoặc có người đứng ra muanợ, hay bảo lãnh cho doanh nghiệp .

Khác phục những thiếu sót của các quy định trên, Luật phá sản doanhnghiệp ngày 30/12/1993, Luật sửa đổi một số điều của Luật công ty và Luậtsửa đổi một số điều của Luật doanh nghiệp tư nhân, dã xác định lại một cáchkhá chính xác khái niệm " doanh nghiệp lâm vào tinh trạng phá sản” như sau:

<small>“doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc</small>

thua lỗ trong hoạt động kinh doanh,sau khi áp dụng các biện pháp tài chính

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<small>- </small>

I1-cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến han" (điều 2 Luật phá sản

<small>doanh nghiệp).</small>

Như vậy cốt lõi của vấn đề phá sản đều là: mất khả năng thanh toán nợ

đến hạn. ở nước ta để xác định" mất khả năng thanh toán nợ đến hạn" phải

căn cứ vào điều 3 Nghị định 189/CP (23/12/94) hướng dẫn thi hành Luật phásản, đó là:

- Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản nếukinh doanh bị thua lỗ trong 2 năm liên tiếp đến mức khơng thanh tốn đượccác khoản nợ đến hạn, không trả được đủ lương cho người lao động trong 3tháng liên tiếp .

- Khi xuất hiện dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản, doanh nghiệp phải ápdụng các biện pháp tài chính cần thiết để khắc phục tình trạng mất khả năngthanh tốn nợ đến hạn:

a) Có phương án tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý chặt

ché các khoản chi, tim thị trường tiêu thụ sản phẩm.b) Có biện pháp xử lý hàng hố vật tư tồn đọngc) thu hồi các khoản nợ và tài sản bị chiếm dụng

d) Thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, mua nợ, bảo lãnh, giảm nợ,

Tuy nhiên ở đây cũng cần bàn thêm về khái niệm "mất khả năng thanhtoán”. Tuy Luật phá sản doanh nghiệp nước ta cũng như các văn bản dưới

luật khác không đề cập trực tiếp, nhưng theo chúng tôi mất khả nang thanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

-12-tốn khơng có nghĩa là doanh nghiệp khơng cịn tài sản gì, mà có thé nó cịnrất nhiều tài sản, nhưng tài sản đó khơng bán được, không gán nợ được nêndoanh nghiệp mất khả năng thanh tốn.

Mất khả năng thanh tốn khơng chỉ là hiện tượng doanh nghiệp khơng

thanh tốn được nợ, mà nó cịn thể hiện doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng

(ai chính tuyệt vọng khơng có lối thốt. Có chăng cũng chỉ là những biệnpháp có chất tam bg, vay chỗ nọ trả chỗ kia theo kiểu "Giật gấu va vai". Dođó khi xem xét doanh nghiệp có bị mất khả năng thanh tốn nợ hay khơng

cần phải xem xét kỹ bản chất của vấn đề chứ không chỉ dựa vào hình thức.

Trên thực tế, có thể có những doanh nghiệp khơng trả được một vài món nợ ởthời điểm nào đó, nhưng đó chỉ là hiện tượng có tính chất nhất thời, sau đómọi hoạt động của doanh nghiệp vẫn diễn ra bình thường. Ngược lại, có

những doanh nghiệp bề ngồi có vẻ sịng phẳng thực chất là sự trá hình nhằm

<small>che đậy tình trạng vơ phương cứu chữa bên trong. ‘</small>

Điều quan trọng nhất là chỉ doanh nghiệp mất kha năng thanh toán cáckhoán nợ trong kinh doanh mới có thể bị tuyên bố phá sản doanh nghiệp.Vấn đề này cần phải được nhấn mạnh bởi vì trong khi các doanh nghiệp khácnhư công ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty cổ phần, doanh nghiệp tập thể vv..có sự phân định rạch rồi về tài sản kinh doanh và tài sản dân su thì chủ doanh

<small>nghiệp tư nhân lại hoạt động với 2 tự cách: vừa đại diện cho doanh nghiệp,</small>

vừa là cơng dân, do đó khơng thể tun bố một doanh nghiệp tư nhân bị phá

sản nếu họ không trả tiền được tiền nhà, tiền điện nước sinh hoạt vv... `.

Như đã phân tích ở trên, theo Luật phá sản của doanh nghiệp của ta thì

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi đã đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất: Doanh nghiệp đó mất khả năng thanh toán các khoản nợ đếnhạn trong kinh doanh và đây phải là hậu quả của việc làm ăn thua lỗ, kémhiệu quả - Một dạng rủi ro trong kinh doanh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<small>i 43.</small>

G đây cần phải phân biệt “mất kha năng thanh toán nợ đến hạn “với việc

“cố tình khơng thanh tốn tiền đúng thời hạn" giữa các bên trong quá trìnhthực hiện hợp đồng kinh tế - một dạng vi phạm nghĩa vụ hợp đồng kinh tế,dẫn đến tranh chấp, sự kiện này làm phát sinh vụ án kinh tế. Nó được giảiquyết theo pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ban hành ngày

Thứ hai: Mất khả năng thanh tốn khơng phải là nhất thời mà phải là trầm

<small>trọng, vô phương cứu chữa.</small>

Đây cũng chính là các đặc điểm làm nổi bật lên bản chất của phá sản.Bản thân hai thuật ngữ “lâm vào tình trạng phá sản” và “phá sản” có sựkhác nhau rõ rệt. Một doanh nghiệp chỉ bị coi là phá sản khi đã có quyết địnhcủa Tồ án tun bố phá sản doanh nghiệp. Khi đó người đại diện của doanhnghiệp đã mất tư cách pháp lý trên thương trường.

1.1.2. Pháp luật về phá sản:

Phá sản là hiện tượng khách quan phản ánh hậu quả của cuộc cạnh tranh

sinh tồn trong nền kinh tế thị trường. Pháp luật về phá sản là yếu tố thuộc

thượng tầng kiến trúc phản ánh thái độ của nhà nước và cách thức xử lý đốivới hiện tượng khách quan đó.

Pháp luật về phá sản là tổng thể các quy phạm pháp luật được nhà nước

ban hành có liên quan đến việc giải quyết một vụ yêu cầu tuyên bố phá sản.

Nó là một bộ phận quan trọng cấu thành nên nhóm các chế định pháp luật vềgiải quyết hậu quả của pháp luật kinh tế thị trường. Trong hệ thống pháp luậtvề phá sản thì Luật phá sản giữ vai trị chủ đạo.

Ở nhiều nước vấn đề xử lý phá sản thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiềuloại văn bản khác nhau. Thí dụ ở Anh bên cạnh Luật phá sản 1986 còn có

Luật đình chỉ hoạt động giám đốc cơng ty, Luật mất khả năng thanh toán; ởThụy Điển thứ tự ưu tiên phân chia tài sản lại được quy định quy định ở một

<small>đạo luật riêng.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>- </small>

14-Ở Việt nam phá sản là một vấn đề còn rất mới mẻ, do vậy hệ thống pháp

luật về phá sản còn nhiều hạn chế. Sau khi Luật phá sản doanh nghiệp đượcQuốc hội thơng qua ngày 30/12/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định189/CP (23/12/94) hướng dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp. Dé hướngdẫn cách thức và hoạt động của các chủ thể trong quá trình tham gia giảiquyết pha sản cịn có Quyết định 426/QD (01/7/94) củaTồ án nhân dân tốicao về Qui chế hoạt động của tập thể thẩm phán; Quyết định số 528/QD của

Bộ trưởng Bộ Tư pháp về Quy chế làm việc của Tổ quản lý và Tổ thanh toántài sản. Nghị định 117 CP(07/9/94) về án phí Tồ án. Thậm chí q trình làm

việc chúng ta còn sử dụng cả các văn bản hướng dẫn nội bộ của Toà án tốicao cho các Tồ án địa phương như Cơng văn 457/KHXX về việc áp dụngmột sô qui định của Luật phá sản doanh nghiệp.

Ngồi ra cịn có một số văn bản pháp luật được ban hành trước đây; vấndé phá sản đã được đề cập đến nhưng cịn rất mờ nhạt, thí dụ như Luật doanh

<small>nghiệp tư nhân, Luật công ty ban hành ngày 21/12/1990. Tuy nhiên các đạo</small>

luật này mới chỉ đề cập đến vài khía cạnh như lý do phá sản, cơ quan có thẩm

quyền giải quyết phá sản (điều 17 Luật doanh nghiệp tư nhân và điều 24 Luậtcông ty). Hiện tại các qui định này khơng cịn phù hợp nữa nên sau khi Luậtphá sản đã được ban hành thì một trong những địi hỏi đặt ra là những quy

định này phải được sửa đổi để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp

luật về phá sản ở Việt nam.

Như vậy tuân theo thông lệ chung quốc tế pháp luật về phá sản của Việtnam là một hệ thống những quy phạm pháp luật chứa đựng những nội dungchủ yếu như: Khái niệm phá sản, lý do điều kiện phá sản, các cơ quan có

thẩm quyền giải quyết phá sản, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia

giải quyết yêu cầu phá sản, trình tự giải quyết phá sản và những quy phạmhướng dẫn xử lý các vấn đề có liên quan đến phá sản.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Thực chất đó chỉ là những định kiến sai lầm do cảm nhận. Chính cơ chếkinh tế bao cấp kéo dài một cách bất hợp lý mấy chục năm đã khiến cho

chúng ta khơng dám mạnh dan nhìn thẳng vào một sự thật đó là: nên kinh tế

nước ta sẽ ngày càng xuống dốc nếu không mạnh dạn loại bỏ những doanhnghiệp quá yếu kém, lấy chỗ cho các đơn vị khác vươn lên. Ngày nay trongcông cuộc đổi mới ở nước ta, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận

động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đã và đang được Nhà

nước khuyến khích tạo điều kiện phát triển bằng các chính sách khuyến khíchphát triển sản xuất kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh. Trên thương trường đã

có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tếđang hoạt động và được Nhà nước bảo hộ gồm doanh nghiệp Nhà nước,doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tập thể, công ty trách nhiệm hữu han,

công ty cổ phần vv..

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp đều bình đẳngtrước pháp luật và cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật. Bởi vậy

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<small>- l6 </small>

-các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đã thực sự phải chịu đựngnhững thử thách nặng nề để có thể tự đững vững trên thương trường. Nhiều

doanh nghiệp đã hoạt động có hiệu quả và đã có nhiều đóng góp cho sự ổn

định và phát triển của kinh tế - xã hội; tăng thu Ngân sách Nhà nước, tạocông ăn việc làm cho người lao động. Song bên cạnh đó là một bộ phậnkhơng nhỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đến mức phải phá sản. Do đóphá sẵn trong nền kinh tế thị trường là một xu hướng, một hệ quả tất yếu củaquá trình cạnh tranh tự đào thai; qua đó loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém,

khẳng định được sự tồn tại và phát triển những cơ sở làm ăn có hiệu quả.

Ở nước ta theo số liệu điều tra gần đây con số doanh nghiệp làm ăn thua

lỗ đã lên đến mức báo động. Thực ra không phải hiện tượng này giờ mới xuất

hiện mà trong cơ chế quản lý cũ, nó khơng có dịp bộc lộ hoặc được giải

quyết khơng triệt để bằng cách này hay cách khác.

Những năm trước đây trong khu vực kinh tế quốc doanh, các doanhnghiệp Nhà nước được hình thành một cách ồ ạt, nhưng lại làm ăn kém hiệuquả. Nêu như nam 1990 số doanh nghiệp Nhà nước đã đăng ký kinh doanh là12084, thì tính đến 31/12/1995 con số nay chỉ cịn 6.326 doanh nghiệp (*)tức là giảm gần 50%. Theo đánh giá, trong số doanh nghiệp Nhà nước cịn lạinày có tới 20% làm ăn thua lỗ và được xử lý theo các quy định về giải thểdoanh nghiệp Nhà nước theo Quyết định 315 HDBT (1/9/1990) va*Nghi dinh388/HDBT (20/11/1991). Điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhànước được xoá nợ, khoanh nợ vì vậy đã xảy ra những hiện tượng tiêu cực, tìmmọi cách để được xố nợ, lẩn tránh trách nhiệm gây tốn hại đến lợi ích củaNnhà nước và các chủ nợ khác, các cơng nhân xí nghiệp và cả những ngườicó liên quan.

Trong khu vực kinh tế ngồi quốc doanh cũng do chưa có Luật phá sảnnên nhiều doanh nghiệp thực sự làm ăn thua lỗ đã lâm vào tình cảnh “chết(*) Theo xố liệu báo Việt nam - Đầu tu nước ngoài số ra ngày 25/6 - 117/96

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

khơng được chơn”, có thể bị xử theo luật hình sự hoặc dân sự. Thậm chí có

trường hợp các bên còn tự xử theo "luật rừng” làm ảnh hưởng tới trật tự tri an,phá vỡ mối liên kết trong hoạt động kinh té .

Mặt khác cũng có khơng ít những doanh nghiệp lừa đảo chiếm dụng vốncủa nhân dân gây nên nhiều hậu quả xấu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tìnhhình chính trị an ninh xã hội và chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước,

điển hình là “vụ lừa đảo thế kỷ” của Xí nghiệp tư doanh sản xuất mỹ phẩm

cao cấp Thanh Hương. Lấy danh nghĩa sản xuất kinh doanh,chủ doanhnghiệp đã huy động được 150 tỷ (năm 1990) trong nhân dân, nhưng thực chất

lại đem sử dụng bừa bãi cho mục đích tiêu dùng cá nhân. Khi ra lên toà về

tội "lừa đảo chiếm đoạn tài sản của công dân” số nợ của doanh nghiệp nàyvẫn cịn đến 116 ty đồng. Trước tồ Nguyễn Văn Mười Hai vẫn không chịunhận tội mà nại rằng y khơng may bị phá sản. Thậm chí gần đây khi đang "andưỡng" tại khám Chí Hồ, Nguyễn Văn Mười Hai vẫn cho rằng y bị bỏ tùoan, rằng nếu lúc đó có Luật phá sản y đã khơng bị ngồi tù(?). Rõ ràng ở đây

y đã cố tình khơng hiểu phá sản do làm ăn thua lỗ hồn toàn khác với việc

dùng chiêu bài huy động vốn kinh doanh để lừa đảo chiếm đoạn tài sản củangười khác.

Như vậy nếu có Luật phá sản chắc chắn các doanh nghiệp trong và ngồi

quốc doanh vì được cảnh tỉnh sẽ hoạt động có hiệu quả hơn, hạn chế được

những hậu quả xấu cho nền kinh tế xã hội.

Chấp nhận phá sản là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường,phải xác định được thế nào là một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản,

đồng thời phải xử lý một cách triệt để nhất hậu quả của nó để bảo vệ lợi ích

cho các bên chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ và ổn định được trật tự xã hội.Xuất phát từ yêu cầu bức xúc đó, Luật phá sản doanh nghiệp Việt nam đã

được bắt đầu xây dựng từ năm 1991. Qua nhiều lần sửa đổi bổ sung và ghi

nhận những tư tưởng tiến bộ của Luật phá sản của các nước trên thế giới,

THU VIEN _

TPHONG Fu\ ACG LUAT HA NOI

PHONG £*^C LA 65 + aa

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<small>- 18 </small>

-ngày 30/12/1993 tại kỳ hop thứ tư Quốc hội khoá IX, Luật phá sản doanh

nghiệp đã được thơng qua. Có thể nói Luật phá sản doanh nghiệp nước ta đã

tao ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc giải quyết những tồn dong nói trên vàgóp phần định hướng cho các nhà doanh nghiệp, giúp họ thực sự làm quen

với tư duy kinh tế mới trong nền kinh tế thị trường. |

Tuy nhiên cho tới nay Luật phá sản nước ta mới chỉ điều chỉnh những đốitượng phá sản là doanh nghiệp gồm 8 loại:

+ Doanh nghiệp nhà nước+ Doanh nghiệp tư nhân

+ Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã hội+ Cơng ty trách nhiệm hữu hạn

Đây là những chủ thể chủ yếu đang hoạt động trên thương trường cần

được chú ý, tạo điều kiện cho phát triển trong giai đoạn hiện nay.

1.2.2. Vai trò của luật phá san trong nền kinh tế thị trường

Là một đạo luật đặc biệt để giải quyết hậu quả của rủi ro trong kinh

doanh, Luật phá sản có một vai trị hết sức to lớn trong việc bảo vệ lợi ích của

xã hội, của Nhà nước,của bản thân doanh nghiệp bị mắc nợ và những chủ thể

khác có liên quan, đó là:* Về kinh tế:

Luật phá sản có vai trị như một cơng cụ góp phần cơ cấu lại nền kinh tế.Trong quá trình giải quyết u cầu tun bố phá sản, thơng qua hình thức hoà

giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<small>- </small>

109-nghiệp, co che phá sản thực sự tạo cơ hội cho con nợ phục hồi sản xuất kinhdoanh thoát khỏi nguy cơ phá sản. Qua đó cơ chê phá sản đã góp phần hìnhthành và day trì mơi liên kết bền vững trong nội bộ nền kinh tế giữa các

<small>doanh nghiệp tam an thực sự có hiệu qua, đủ sức đứng vững trong điều kiện</small>

cạnh tranh gay gat, nhúng cũng đồng thời loại trù những doanh nghiệp làm

ăn thua 16 kéo dai, không để cho “căn bệnh truyền nhiễm” nguy hiểm nàytiếp tục lây lan, ảnh hướng tới hoạt động kinh tế chung. Rõ ràng Luật phá sảnra đời không chí dé giải quyết một sự đã rồi.

# Về xa hội

<small>Phá sản một doanh nghiệp nào đó bao giờ cũng kéo theo những hậu quả</small>

nhất định cho xã hội. Chính Nhà nước sẽ là người phải giải quyết hàng loạtcác vấn đề nan giải như thanh tốn cơng nợ, nạn thất nghiệp... Với tư cách làngười nắm quyền lực điều tiết kinh tế xã hội, duy trì sự phối hợp giữa các bộphận trong nền kinh tế quốc dân, bảo vệ trật tự xã hội, nhà nước sẽ dùng mọicông cụ trong đó có Luật phá sản để khắc phục tình trạng lộn xộn có thể phátsinh bằng việc giải quyết một cách thoả đáng mối quan hệ giữa chủ nợ - connợ, giữa các chủ nợ với nhau và với những người có lợi ích liên quan hạn chếđến mức tối đa những mâu thuẫn có thể nẩy sinh. Nhờ đó đảm bảo được trậttự kỷ cương xã hội tránh những mâu thuẫn đáng tiếc có thể xẩy ra như đâmthuê chém mướn để tranh chấp tài sản.

Luật phá sản cịn đóng vai trị quan trọng trong việc hạn chế và loại trừcác hiện tượng ví phạm đến nhân thân và tài sản của con nợ. Điều này đãđược ghi nhận trong lời nói đầu của Luật phá sản doanh nghiệp Việt nam"Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ vànhững người có liên quan khác xác định trách nhiệm của doanh nghiệp mắcnợ khi giải quyết phá sản, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động kinhdoanh có hiệu qua để dam bảo ki cương xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

* Về mat pháp lý:

Luật phá sản doanh nghiệp ra đời đã góp phần hồn thiện hệ thống phápluật kinh tế, thiết lập hành lang pháp lý chung; tạo ra một mặt bằng pháp lýthong nhất cho việc giải quyết hậu quả của phá sản; đồng thời Luật phá sancũng là một công cụ quan trọng và hữu hiệu để các doanh nghiệp và các chủ

thể có liên quan bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.

Luật phá sản bảo vệ lợi ích của các chủ nợ - đây là mục tiêu hàng đầu.

Trước đây, ở châu Âu người ta đã áp dụng các biện pháp rất nghiêm ngặt như

tịch thu tài sản, kể cả bỏ tù các con nợ. Song cùng với nhận thức mới về phásản, cách giải quyết nặng về trừng phạt đó đã thay đổi. Luật phá sản doanhnghiệp Việt nam cho phép các chủ nợ tham gia vào hầu hết các giai đoạn củaquá trình giải quyết một vụ việc phá san từ gửi đơn yêu cầu tuyên bố phá sảnđến thi hành án. Các chủ nợ có vai trị quan trọng trong việc quyết định mộtdoanh nghiệp có bị phá sản hay khơng khi quyết định có thơng qua haykhơng phương án hồ giải.

Quan trọng hơn cả là việc Luật phá sản đảm bảo cho các chủ nợ đều đượcchỉ trả theo tỷ lệ nhất định phần tài sản của họ, đảm bảo công bằng, dung hồlợi ích cá nhân với lợi ích xã hội.

Luật phá sản bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp mắc nợ. Như đã trình bày,trong nền kinh tế thị trường có cạnh tranh, phá sản là một hệ quả tất yếu. Cầncoi đó là rủi ro trong kinh doanh nằm ngồi mong muốn của doash nghiệp.Phá sản có thể do nhiều nguyên nhân như yếu kém về năng lực, để mất cơhội làm án hoặc do những biến động khác của thương trường... nên không

<small>con kha nang cạnh tranh vì vậy nên tìm cách cứu vớt họ khi cịn cơ hội.</small>

Luật phá sản đã có những quy định chặt chẽ về thủ tục đệ đơn yêu cầutuyên bố phá sản doanh nghiệp cốt để bảo vệ uy tín của con nợ tránh tình

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

trạng đệ đơn bừa bãi, vì có thể đây là một thủ đoạn cạnh tranh khơng lành

mạnh, làm giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.

Luật còn tạo cho con nợ cơ hội phục hồi sản xuất kinh doanh bằng cáchcho phép chủ nợ cùng con nợ xây dựng phương án hoà giải và giải pháp tổchúc lại hoạt động sản xuất kinh doanh. Mục đích giảm bớt gánh nặng chocác con nợ, Luật phá sản còn ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ cho con

nợ bởi lẽ một khi họ khơng thanh tốn nổi các khoản nợ đến hạn làm so có

thể trả lãi cho các khoản nợ chưa đến hạn. Trên tinh thần nhân đạo “con nướccòn tát” Luật phá sản còn qui định thời gian giải quyết yêu cầu tun bố phásản, doanh nghiệp khơng bị đóng cửa mà vẫn được phép tiến hành hoạt độngkinh doanh dưới sự giám sát của Thdm phán và Tổ quản lý tài sản. Tườnghợp khơng cịn kha năng phục hồi, Luật cũng tạo điều kiện cho con nợ đượcchia sẻ rủi ro với các chủ nợ, giảm bớt gánh nặng, tránh cho doanh nghiệpmắc nợ khỏi bị quy vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Luật phá sản cịn chú trọng đến việc bảo vệ lợi ích cho người lao động.

Xuất phát từ bản chất ưu việt của Nhà nước ta, một trong những những mụctiêu quan trọng xuyên suốt từ Đại hội Đảng VI tới nay là: sắp xếp công ănviệc làm ổn định cho người lao động, bảo dam quyền có việc làm và cic lợi

ích chính đáng cho người lao động, Luật phá sản đã coi người làm công ăn

lương là một chủ nợ đặc biệt trong thứ tự ưu tiên thanh tốn. Trong q trìnhgiải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản người lao động cũng có quyền cử đại

diện tham gia để bảo vệ quyền lợi cho mình.

I.3. Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt.Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thực chất là q trình Tồ ấn xem xét

và ra quyết định chấm dit tư cách pháp ly của doanh nghiệp mắc nợ trênthương trường và đứng ra phân chia tài sản của doanh nghiệp mắc nợ cho các

chủ nợ và những người có quyền lợi liên quan khác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Giải quyết phá sản là một thủ tục tu pháp đặc biệt boi lẽ từ trước đến naytheo thông lệ quốc tế tất cả các vụ kiện đòi phân chia tài sản một cách bấtđắc chí đều do Tồ án đứng ra giải quyết. Toà án là cơ quan tư pháp nhândanh Nhà nước, so với các tổ chức tài phán khác quyết định của Toa in cóhiệu lực thi hành và phải được bao đảm bằng cưỡng chế nhà nước.

Mặt khác khơng như những vụ kiện địi tai sản trong dân sự, kinh tê, phásản là một vấn đề kinh tế - xã hội rất phức tạp. Nó bao gồm những hậu quảbất lợi như: nạn thất nghiệp của công nhân, mâu thuẫn giữa chủ nợ vớ connợ, chưa kế đến những biến động khơng có lợi theo kiểu lan truyền trong nềnkinh tế có thể dẫn phá sản hàng loạt và thậm chí có thể gây ra khủng hoảng.v.v... Tất cả những vấn đề này nếu không được giải quyết một cách triệt đểvà hợp lý sẽ đem lại những hậu quả khơn lường cho xã hội. Do đó tuyên bốphá sản phải là trách nhiệm của Nhà nước và do Toà án đứng ra thực hiện.trước đây ở nước ta tuyên bố phá sản và-giải quyết tranh chấp kinh @-doTrọng tài kinh tế Nhà nước đứng ra thực hiện. Trước đây ở nước ta tuyên bốphá sản và giải quyết tranh chấp kinh tế do Trọng tài kinh tế Nhà nước đứngra thực hiện. Đến nay trước yêu cầu của tình hình mới Trọng tài kinh tế đã

giải thể, chấm dứt sự tồn tại có tính lịch sử của mình. Cơng việc này kể từ

ngày 1/7/1994 được Tồ án kinh tế của các Toà án nhân dân cấp tỉnh (thành

phố) đảm nhận.

Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là thủ tục đặc biệt còn thể hiện 6 chỗnếu như tố tụng kinh tế và tố tụng dân sự chỉ nhằm mục đích xét xử thì qtrình giải quyết yêu cầu phá sản còn phải thực hiện cả hai chức năng đó làgiám sát và xét xử đối với doanh nghiệp mắc nợ. Và đặc biệt trong quá trìnhgiải quyết phá sản, Tồ án cịn có những tác động mang màu sắc quản lý đếndoanh nghiệp mắc nợ (các chức năng này sẽ được phân tích rõ hơn trongchương tới) các lý do trên cho thấy thủ tục địi nợ (thanh tốn) trong q trình

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

+ Việc đồi nợ không diễn ra trực tiếp giữa các bên chủ nợ và con nợ mà

bao giờ cùng phải thơng qua một cơ quan đại diện là Tồ kinh tê hoặc cơquan Thi hành án.

+ Việc thanh toán chỉ được tiến hành sau khi đã có quyết định của Tồ án,khác với việc địi nợ trong dân sự. Trong dân sự việc thanh toán giữa chủ nợvà con nợ được tiên hành bất cứ lúc nào theo thoả thuận của hai hên, thậmchí cả khi vụ việc đã có quyết định đưa ra xét xử.

Đặc biệt hơn cả Quyết định tuyên bố phá sản không phải là bản án đối vớidoanh nghiệp mắc nợ bởi lẽ đã là án phải được xác định trên cơ sở lỗi, songtrong Luật phá sản chủ doanh nghiệp được coi là không có lỗi, vả lại bản thân

các chủ nợ khi bo vốn vào kinh doanh cũng đã chấp nhận rủi ro tức là chấp

nhận có thể có thiệt hại về tài sản xẩy ra. Ở đây hoạt động của Toà án khơng

nhằm vào mục đích xác định trách nhiệm pháp lý hay chế tài của các bên màchỉ làm thủ tục để thực hiện những nghĩa vụ đã được các bên thừa nhận. Khác

với Tố tụng dân sự và Tố tụng kinh tế, sau khi ra quyết định tuyên bố phá

sản, Tồ án vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với bộ phận thi hành quyết định

tuyên bố phá sản là Tổ thanh toán tài sản để hỗ trợ cho chủ thể này hồn

thành nhiệm vụ. Vì vậy, theo tính thân đó, giai đoạn phân chia tài sản phá

sản, được thực hiện bởi Tổ thanh tốn tài sản, có bản chất pháp lý không

giống hoạt động thi hành án đối với các bản án kinh tế, dân sự, hình sự...

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<small> 24 </small>

-* Phân biệt phá sản và giải thể

Phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt đặc trưng quan trọng này, giúp ta

phân biệt dễ dàng phá sản và giải thể, góp phần giải quyết triệt để hơn những

hậu quả xấu do doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đem lại.

Xét về hiện tượng thì phá sản và giải thể nói chung đều dẫn đến việc chấmdứt sự tồn tại của doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại cho các chủ nợ,giải quyết quyền lợi cho người làm công; Nhưng xét về bản chất chúng có sựkhác nhau cơ bản, đó là:

- Nguyên nhân của phá sản là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đếnhạn do thua lỗ trong kinh doanh, giải thể có các lý do rộng hơn nhiều. Ví dụ

như cơ sở sản xuất kinh doanh có thể chấm dứt hoạt động khi mục tiêu đề rakhông đạt được, hoặc đã đạt được thậm chí có thể do bị thu hồi giấy phép

hoạt động vì lý do vị phạm pháp luật nghiêm trọng.

- Thủ tục tiến hành giải thể là thủ tục mang tính chất hành chính gắn liềnvới hình thức tổ chức doanh nghiệp, do doanh nghiệp tự tiến hành. Các quyđịnh về giải thể được ghi nhận trong các văn bản pháp luật về thành lập, tổchức và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp. Cịn thủ tục phá sản là thủ_ tục tư pháp, do Toà án tiến hành theo các qui định riêng của pháp luật phá

Việc giải thể cơ sở sản xuất kinh doanh có thể tiến hành do ý chí tự

nguyện của chủ doanh nghiệp sau khi đã được cơ quan có thẩm quyền cấpgiấy phép thành lập chấp thuận (đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh)hoặc do cơ quan quản lý Nhà nước đã ra quyết định thành lập doanh nghiệp

cho phép (đối với doanh nghiệp Nhà nước). |

Trái lại việc tuyên bố phá sản chỉ thuộc thẩm quyền của Toà án.

- Về nguyên tắc, cả giải thể và phá sản đều giải quyết triệt để và chấm dứtmọi quan hệ pháp lý mà doanh nghiệp đã thiết lập và cam kết thực hiện, songcách thức thực hiện lại khác nhau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

-25-Giải thể doanh nghiệp phải đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và thanhlý hết các hợp đồng mà doanh nghiệp đã ký kết (điều 23 Luật công ty và điềul6 Luật doanh nghiệp tư nhân), cịn phá sản khơng bát buộc phải như vậy,doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ trên cơ sở trị giá tài sảnthực có tức là doanh nghiệp mắc nợ được nhà nước cho phép phân chia rủi rovới những người minh mang nợ trên cơ sở tài san còn lại của doanh nghiệp(tài sản phá sản).

- Về hậu quả pháp lý giải thể bao giờ cũng dẫn đến việc chấm dứt hoạt

động và xoá tên cơ sở kinh doanh, trong khi đó phá sản khơng phải bao giờ

cũng dẫn đến kết cục như vậy. Chẳng hạn khi có người mua lại tồn bộ

doanh nghiệp bị phá sản, họ vẫn có thể giữ ngun tên, thậm chí cả nhãn mác

thương phẩm để tiếp tục duy trì sản xuất kinh doanh. Trường hợp này chỉ có

chủ doanh nghiệp bị phá san mà thôi.

- Thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hoặc người điều hành doanh

<small>nghiệp trong hai trường hợp này cũng hoàn toàn khác nhau. s</small>

Pháp luật nhiều nước qui định cấm chủ sở hữu hay người quản lý, điềuhành sản xuất kinh doanh bị phá sản không được hành nghề trong một thờigian nhất định. Điều 50 Luật phá sản doanh nghiệp qui định: "Giám đốc, Chủtịch và các thành viên trong Hội đồng quản trị doanh nghiệp bị tuyên bố phásản không được đảm đương chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nào trong thờihạn từ một đến 3 năm kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản".

Tuy nhiên luật cũng qui định một số trường hợp đặc biệt không bị hạn chếquyền điều hành sản xuất kinh doanh đó là:

- Doanhnghiệp bị phá sản vì các lý do bất khả kháng do Chính phủ quy

- Giám đốc, Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị không trực tiếpchịu trách nhiệm về lý do doanh nghiệp bị phá sản.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

thể vấn đề hạn chế quyền tự do kinh doanh không đặt ra.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

CHƯƠNG II

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA

GIẢI QUYẾT PHA SAN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia giải quyết phá sản là một vấn đềrất phức tạp phải được xem xét nghiên cứu dưới nhiều góc độ như đặc trưngpháp lý, chúc năng nhiệm vụ, và mối quan hệ giữa các chủ thể với nhau...Như vậy nghiên cứu địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia giải quyết phásản có nghĩa là phải nghiên cứu vị trí vai trò, chức năng nhiệm vụ, quyền hạnmà pháp luật về phá sản trao cho từng chủ thể thông qua các quyền và nghĩavụ cụ thể.

Như đã nói ở phần trước, giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là một thủtục tu pháp đặc biệt. Xét về nguyên tắc, tất cả những người tham gia tố tụngphá sản, kể từ khi Toà án thụ lý đơn và ra quyết định mở thủ tục phá sản chođến khi ra quyết định tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp đều là chủ thể

tham gia giải quyết phá sản với với những tư cách tố tụng khác nñau, bao

gồm: người đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản (có thể là chủ nợ, bản thân connợ hoặc người lao động); Toà án, Hội nghị chủ nợ, Tổ quản lý tài sản và Tổthanh tốn (ài sản, nhưng do tính chất đặc biệt của tố tụng phá sản các chủthể khác chỉ đóng một vai trò nhất định từng giai đoạn giải quyết phá sản,còn vai trò chủ yếu tập trung ở bốn chủ thể đặc biệt là Toà án, Tổ quản lý tàisản, Hội nghị chủ nợ và Tổ thanh toán tài sản.

HI.1. Nguoi có quyền đệ đơn yêu cau tuyên bố phá sản doanh nghiệp.Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp chỉ có thể đượcbắt đầu khi Toà kinh tế nhận được đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanhnghiệp. Để giải quyết có hiệu quả và kịp thời các bước của tố tụng phá sản,pháp luật về phá sản đã qui định rõ tất cả những ai có quyền và lợi ích liên

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

-28-quan đến doanh nghiệp mắc nợ đều có quyền đệ đơn yêu cầu tuyên bố phásản doanh nghiệp đó là chủ nợ bản thân doanh nghiệp mắc nợ, người laođộng mà đại diện,là cơng đồn. Quyền này được biểu hiện ở từng chủ thé như

* Cho no:

Một lẽ tất nhiên phù hợp với thông lệ quốc tế, chủ nợ bao giờ cũng là chủthể đầu tiên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc tuyên bố phá sản mộtdoanh nghiệp.

G đa số các nước trên thế giới chủ nợ được chia ra làm hai loại: Loại chủ

nợ có bảo đảm và chủ nợ khơng bảo đảm. Từ đó pháp luật qui định quyềnđược đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản cũng khác nhau. Thí dụ ở Trung quốcvà Hung ga ry qui định cả hai loại chủ nợ này đều có quyền đệ đơn u cầuTồ án giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nhưng pháp luật củaMalaysia lại qui định chỉ có chủ nợ khơng có bảo đảm hoặc tuy có bảo đảmnhưng phải có điều kiện nhất định là phần có giá trị nợ lớn hơn phần có bảođảm hoặc đã từ bỏ quyền bảo đảm mới có quyền đệ đơn.

Tiếp thu kinh nghiệm xây dựng Luật phá sản ở các nước, Luật phá sảnViệt nam chia chủ nợ thành 3 loại.

+ Chủ nợ có bảo đảm: Là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm toàn bộ bằngtài sản của con nợ thông qua các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng nhưthế chấp, cầm cố...

+ Chủ nợ có bảo đảm một phần: Là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảmbằng tài sản của con nợ nhưng trị giá tài sản đó ít hơn trị giá khoản nợ. Thídụ doanh nghiệp X vay của Ngân hàng công thương số tiền 2,5 tỷ đồngnhưng lại thế chấp bằng trụ sở và nhà xưởng trị giá 2 tỷ đồng.

+ Chủ nợ không có bảo đảm: Là chủ nợ có khoản nợ khơng được bảo đảmbằng tài sản của con nợ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

-20-Việc phân loại này thoạt nhìn có vẻ cầu kỳ và rắc rối nhưng thực chất lạicó nhiều ưu điểm; Bởi lẽ vấn đề này còn mới nên qui định chi tiết trong Luậtsẽ tránh được việc đưa thêm giải thích và các điều kiện vào các văn bản dưới

Với lập luận rằng chủ nợ có bảo đảm ln là người nắm đằng chi bởi họln có trong tay tài sản cầm cố hoặc chế chấp, không phụ thuộc vào việcdoanh nghiệp có bị phá sản hay khơng, nên Luật phá sản của ta không quiđịnh cho chủ nợ có bảo đảm quyền đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản.

Các chủ nợ khơng có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần là những đốitượng đều được Luật phá sản trên thế giới bảo đảm quyền lợi, điều 7 Luật phásản Việt nam đã qui định : "Sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày gửi giấy đòi nợđến hạn mà vẫn khơng được doanh nghiệp thanh tốn món nợ, chủ nợ khơngcó bảo đảm và có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn đến Tồ án nơi đặt sởchính của doanh nghiệp yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh

* Người lao động

Về thực chất đối với doanh nghiệp mắc nợ thì người lao động là một chủ

nợ đặc biệt khơng có bảo đảm. Hàng hoá duy nhất đem ra trao đổi là sức laođộng và tiền lương là nguồn sống chính của bản thân và gia đình họ. Do đókhi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì là họ một trong những ngườibị thiệt hại nhiều nhất và thực sự lâm vào cảnh “Tứ cố vơ thân”: Khơng có

lương, nguy cơ thất nghiệp de doa. Chính vi thế pháp luật cho phép người lao

động có quyền tự bảo vệ mình, khi lợi ích của họ bị xâm hại.

Trong trường hợp doanh nghiệp không trả đủ lương cho người lao độngtrong 3 tháng liên tiếp thì đại diện cơng đồn hoặc đại diện người lao độngnơi chưa có tổ chức cơng đồn có quyền nộp đơn đến Tồ án nơi doanhnghiệp có trụ sở chính yêu cầu giải quyết phá sản doanh nghiệp. Từ khi nộp

đơn, đại diện cơng đồn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<small>người lao động.</small>

Đại diện cơng đồn có quyền làm đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản

doanh nghiệp là Chủ tịch Ban chấp hành cơng đồn hoặc người được chủ tịch

ban chấp hành cơng đồn uy quyền bằng văn bản.

Cũng để tránh việc đệ đơn một cách tuỳ tiện cản trở hoạt động bình

thường của doanh nghiệp và khuyến khích một cách gián tiếp việc thành lậpcơng đoàn bảo vệ quyền lợi cho người lao động, điều 9 Nghị định 189/CP củaChính phủ hướng dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp cũng qui định rõ

điều kiện để cơng đồn được nộp đơn lên Tồ án u cầu tuyên bố phá sản

doanh nghiệp là:

* Thứ nhất: doanh nghiệp không trả đủ lương cho người lao động theo

thoả ước lao động và hợp đồng lao động trong 3 tháng liên tiếp. |

* “Thứ hai: phải có nghị quyết của cơng đồn u cầu giải quyết tunbổ phá sản doanh nghiệp.

Qui định này có cơ sở lý luận triết học của nó, đó là trong cơ chế thị

trường chủ doanh nghiệp của người lao động bao giờ cũng là một cặp biện

chứng về lợi ích, do đó tất cơ mâu thuẫn dẫn đến phải đấu tranh với nhau để

giải quyết vấn đề quyền lợi. Lé tất nhiên so với giới chủ doanh nghiệp, người

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

-31-lao động có ít lợi thế hon han, cho nên dé bảo vệ quyền lợi. cho chính minh

các yêu cầu của người lao động phải có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế để xemxét; vì vậy nghị quyết của cơng đồn là một văn bản biểu thị ý chí của đa sốngười lao động trong doanh nghiệp đồng thời cũng là một căn cứ pháp lýquan trọng dé toa xem xét giải quyết yêu cầu phá san.

Qui định này cũng đồng thời tránh tình trạng chủ doanh nghiệp lợi dụngqui định còn sơ hở của điều 8 Luật phá sản doanh nghiệp, trả lương nhỏ giọt

cho người lao động để vơ hiệu hố việc giải quyết u cầu tun bố phá sản.Tuy nhiên để mở lối thoát cho doanh nghiệp, khuyến khích tự hồ giải và

hỗ tro lẫn nhau, luật cũng qui định nếu người lao động và chủ doanh nghiệpthoả thuận trả được một phần lương trong thời gian nhất định để tổ chức lạihoạt động sản xuất kinh doanh thì khơng rơi vào qui định trên của pháp luật.

* Doanh nghiệp mắc no (Con nợ)

Việc xác định chủ nợ hay con nợ đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanhnghiệp cho ta thấy phá sản bắt buộc hay tự nguyện.

Ngồi chủ nợ và đại diện cơng đồn (hoặc người lao động) Luật phá sảnViệt nam cịn qui định:

“Trong trường hợp đã thực hiện hết các biện pháp khắc phục khó khăn vềtài chính để thanh tốn các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà doanhnghiệp vẫn khơng thốt khỏi tình trạng mất khả năng thanh tốn các khoảnnợ đến hạn thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệpphải nộp đơn đến Tồ án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp, yêu cầu giảiquyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp" (điều 9 Luật phá sản doanhnghiệp). -

Hơn ai hết, doanh nghiệp mắc nợ là người phải biết rõ tình trạng tài chính

của mình, do đó pháp luật về phá sản của các nước đều cho phép doanh

nghiệp tự đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Thực tế cho thấy dù là doanhnghiệp thuộc thành phần kinh tế nào chăng nữa thì người quản lý bao giờ

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

cũng gắn bó và tim cách cứu van doanh nghiệp của minh cho đến khi “vô

phương cứu chữa” và chủ doanh nghiệp thường đệ đơn khi đã quá muộn,

nhưng nếu chủ doanh nghiệp tỉnh táo sớm phát hiện ra thực trạng sẽ có thể

cứu vãn được hoặc giảm bớt phần nào hậu quả xấu cho doanh nghiệp củamình.

Việc đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản vừa là quyền tự chủ đối với hoạtđộng của doanh nghiệp vừa là nghĩa vụ đối với lợi ích của xã hội.

Xác định đối tượng có quyền nộp đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sảncó ý nghĩa rất quan trọng. Nó là bước đầu tiên dẫn tới quyết định mở thủ tụcgiải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và các quyết định pháp lý khác. Xác địnhđúng đối tượng thì viéc giải quyết mới được định hướng hợp lý, chink: xác. Đã

có rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề những chủ thể nào có

quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trước

khi Luật phá sản ra đời, trong quá trình dự thảo luật có ý kiến đã đề nghị nên

đưa cả các cơ quan Thanh tra nhà nước, Thanh tra tài chính Ngân hàng, Viện

kiểm sát, Tồ án vào diện những người có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản

doanh nghiệp, vì quá trình thực hiện nhiệm vụ các cơ quan này có thể phat

hiện thấy các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản.

Tuy nhiên, qua thảo luận, quan điểm trên đã bộc lộ mức độ can thiệp quá

sâu của Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

-Một điều tối ky trong cơ chế kinh tế thị trường.

Mặt khác phá sản là một quan hệ tài sản đặc biệt giữa chủ nợ - con nợ khigặp rủi ro trong kinh doanh, Nhà nước không nên can thiệp vào khi các bên

đương sự chưa yêu cầu hoặc bản thân Nhà nước không nằm trong mối quanhé kinh tế đó. Do đó vấn dé đặt ra là: Khi các cơ quan có thẩm quyền của nhànước phát hiện thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản họ phải làm gì

để bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các bên chủ nợ - con nợ và người có quyền lợi

liên quan mà vẫn bảo vệ được quyền tự chủ của các bên. Luật phá sản doanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

-33-nghiệp đã phan nào giải quyết được vấn dé này trong qui định tại điều 10:"trong khi giải quyết các vụ án có liên quan đến doanh nghiệp, nếu phát hiệndoanh nghiệt; lâm vào tình trạng phá sản thì Tồ án thơng báo cho các chủ

nợ, doanh nghiệp đó biết để nộp đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản

doanh nghiệp”. Có lẽ cũng nên có những điều luật tương tự như vậy về cáchgiải quyết đối với hiện tượng phá sản trong Luật tổ chức và hoạt động của cáccơ quan có thấm quyền khác, khi ho phát hiện thấy doanh nghiệp có dấu hiệulâm vào tình trạng phá sản

Qua nghiên cứu xem xét một cách toàn diện hoàn cảnh thực tiễn của nướcta cũng như tham khảo pháp luật về phá sản của các nước trên thế giới; cuốicùng Luật phá sản của Việt nam đã qui định các đối tượng có quyền và nghĩavụ nộp đơn yêu câu tuyên bổ phá sản là: Chủ nợ khơng có bao dam và chủ nợcó bảo đảm một phản; người lao động mà cụ thể là đại diện cơng đồn hoặcđại diện người lao động nơi chưa có cơng đồn; chủ doanh nghiệp hoặc đạidiện hợp pháp của doanh nghiệp mắc nợ.

H.2. Đặc trưng pháp lý của các chủ thể tham gia giải quyết phá sản

doanh nghiệp theo thông lệ Quốc tế và theo Luật phá sản danh nghiệp

của Việt Nam. .

Nếu như việc nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp có ý nghĩaquan trọng trong việc làm căn cứ pháp lý để Toà ra qui định mở thủ tục giảiquyết yêu cầu tuyên bố phá sản (*) đối với doanh nghiệp mắc nợ, thì tồn bộ

diễn biến tiếp theo, cũng như sự tham gia quá trình ke tụng của những người

nộp đơn đều phụ thuộc vào vai trò của bốn chủ thể, đó là: Tồ án, Hội nghị

chủ nợ, Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản.

Vậy thực chat họ là ai và có vị trí như thế nào trong pháp luật về phá sản 6

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<small>- 34 </small>

-tượng phá sản nên Toà án phải là người trung gian nhân danh Nhà nước đứngra piúp chủ nợ, con nợ và những người có liên quan đạt được những thoảthuận nhất định trong việc phân chia tài sản của doanh nghiệp mắc nợ. Trong

trường hợp có thể được, Tồ án cũng là người đứng ra tạo cơ hội cho doanh

nghiệp tự cứu van mình. Tuy nhiên Luật phé sản của mỗi nước xử lý vấn đề

này có khác nhau. Chẳng hạn ở Úc vai trị của tồ phá sản rất khiêm tốn. Họ

khơng tham gia vào việc cơ cấu lại doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa

chú nợ với con nợ.

Quyền hạn nhiệm vụ chủ yếu của toà phá sản Úc là:

- Thụ lý và giải quyết đơn yêu cầu tuyên bố phá sản.

- Chỉ định quản tài viên và hướng dẫn họ trong việc giải quyết các vấn đềcó tính chất pháp lý.

- Giải quyết các tranh chấp giữa nhân viên quản lý tài sản và các chủ nợtrong quá trình điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . -

Tất cả những vấn đề khác liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp tồ khơng can thiệp vào.

Ở Việt nam vai trị của Tồ án có tính chất quyết định và xun suốt trong

tồn bộ q trình tố tụng phá sản: Từ thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản,xem xét căn cứ ra quyết định mở thủ tục phá sản, cho đến trực tiếp giải

quyết yêu cầu tuyên bố phá sản với sự giúp đỡ phối hợp của Tổ quản lý tài

sản và Hội nghị chủ nợ.

Vai trị quyết định của Tồ án là nét đặc thù của Luật phá sản Việt nam.Khi ý thức pháp luật của nhân dân chưa cao, kinh tế - xã hội cịn kém phát

triển, có lẽ khơng có cách nào để dung hồ lợi ích của chủ nợ, con nợ và xã

hội hơn là xác định vai trị của Tồ án trong việc giải quyết phá sản ở nước ta.

b) Tổ quản lý tài sản.

Nhằm tránh việc tẩu tán tài sản của các chủ doanh nghiệp hay của ngườiđại diện doanh nghiệp gây bất lợi cho các chủ nợ, đồng thời cũng là để bảo

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<small>« 35.</small>

vệ cho các doanh nghiệp khỏi sức ép của các chủ nợ; Luật phá san của hauhết các quốc gia déu có điều khoản qui định về người quan lý tài san. Tuytheo pháp luật của từng nước mà thành phần, qui chế của người quản lý tài

sản được qui định khác nhau, họ có thể do một người, một nhóm người hoặc

một pháp nhân đứng ra lãnh trách nhiệm. O Đức ,Pháp Tồ án là người có

quyền cử ra tố quản lý tài sản, ở Anh, Mỹ chủ nợ lại là người có quyền cử tổ

quản lý tài sản, doanh nghiệp mắc nợ có quyền giới thiệu người vào tổ quản

lý tài sản, nhưng phải được Toà án chấp nhận. Ở Úc chỉ có một nhân viên

quản lý tài san do toa phá san chi định sau khi đã có thoả thuận giữa ngườinày và các chủ nợ. Nhân viên quản lý tài sản nhận thù lao từ tài sản của

doanh nghiệp phá sản. Nếu thấy cần thiết ông ta có thể thuê người giúp việc

nhưng phải tự trả lương cho họ.

Theo Luật phá sản của Việt nam, Thẩm phán và Tổ quản lý tài sản được

Chánh Toà kinh tế chỉ định cùng lúc khi quyết định mở thủ tục giải quyết phá

sản, các thành viên của tổ phải là những người thơng thạo về tài chính kế

tốn, có hiểu biết về pháp luật và kinh tế.

Thực chất Tổ quản lý tài sản theo Luật phá sản của Việt nam là một tập

thể giúp việc cho Thẩm phán trong việc kiểm tra giám sát tình hình tài chính,hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ trong suốt giai

đoạn mở thủ tục phá sản của quá trình giải quyết phá sản.

c. Hội nghi chủ nợ:

Theo thông lệ quốc tế thì Hội nghị chủ nợ là trung tâm trong việc giảiquyết phá sản doanh nghiệp. Hội nghị chủ nợ có vai trị quyết định trong mọivấn dé cơ bản liên quan đến phá sản. Các chủ nợ là người có quyền cử đạiđiện của mình tham gia tổ quản lý tài sản đồng thời là người quyết định

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<small> 36 </small>

-thông qua hay không phương án hoà giải giữa chủ nợ - con nợ. Toà án chỉ là

<small>người nhân danh Nhà nước đứng ra làm trung gian.</small>

Ở nước ta, Hội nghị chủ nợ là một tổ chức duy nhất của các chủ nợ tham

gia vào việc giải quyết một cách tập thể, công bằng lợi ích của họ. Vai tròtrung tâm trong vụ phá sản thuộc về Toà án. Hội nghị chủ nợ trong Luật phásản của Việt nam chỉ có quyền xem xét, thơng qua các biện pháp cứu vãndoanh nghiệp mắc nợ hoặc thảo luận và kiến nghị về phương án phân chia tàisản trong trường hợp khơng thể có phương án hồ giải hoặc phương án hồgiải khơng được thơng qua. Hội nghị chủ nợ khơng phải là chủ thể có tồnquyền quyết định đối với việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp hay khônghoặc phân chia tài sản của doanh nghiệp mắc nợ như thế nào.

d- Tổ thanh tốn tài sản

Khơng giống như thủ tục giải quyết các vụ án dân sự hay kinh tế, giải

quyết các yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là một thủ tục tư pháp đặc

biệt. Nó khơng kết thúc ngay sau khi Tồ án ra quyết định tuyên bố phá sảndoanh nghiệp mà còn bao hàm cả giai đoạn cuối cùng - giai đoạn thi hànhquyết định tuyên bố phá sản; bởi lẽ quyết định tuyên bố phá sản dù có đúngdan nhưng việc thi hành không được triệt để, tất sẽ dẫn đến nảy sinh những

mâu thuẫn, những tranh chấp khơng đáng có do đó sẽ khơng đạt được mục

tiêu của Luật phá sản là thanh tốn bình đẳng cho các chủ nợ trên cơ sở pháp

Để thực hiện được yêu cầu này, cần có một tổ chức có khả năng quản lý,

thu hồi tài sản của doanh nghiệp và đứng ra phân chia số tài sản đó cho các

chủ nợ theo trình tự Luật định, cũng như giải quyết các tình huống phát sinhtrong giai đoạn này. Với nhận thức như trên, Luật pháp ở nhiều quốc gia đềuquy định một bộ phận đảm nhiệm việc thanh toán tài sản phá san.

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<small>-3 </small>

„-Ở từng quốc gia, quy định này có khác nhau. Chẳng hạn tại Anh, Úc, Tổ

quản lý tài sản cịn kiêm ln chức năng thanh tốn tài sản, còn ở Thuy Điểnlại quy định phải thành lập một bộ phận thanh lý. Thậm chí ở một số nướccòn tách việc xử lý phá sản làm hai phần: phân giải quyết yêu cầu phá sản doToà án tiến hành, nhưng phần thi hành quyết định tuyên bố phá sản lại domột bộ phận chuyên trách thực hiện.

O Việt nam, để phù hợp với các yêu cầu đổi mới hệ thống Tư pháp là: tập

trung thi hành các quyết định của Toà án vào một mối (Luật sửa đối bổ xungmột số điều của Luật tổ chức toà án nhân dân), nâng cao hiệu quả hoạt độngcủa các cơ quan Tư pháp và Hành pháp; Việc thi hành quyết định tun bơphá sản được giao cho Phịng thi hành án thuộc Sở Tư pháp tỉnh (thành phố)thực hiện thông qua một cơ quan chuyên môn là Tổ thanh tốn tài sản, dochính Trưởng phịng thi hành án thành lập nên.

Như vậy theo Luật phá sản doanh nghiệp nước ta, Tổ thanh toán tài sản làmột chủ thể quan trọng tham gia giải quyết phá sản doanh nghiệp, do Phòng

thi hành án cấp tỉnh thành lập nên để thực hiện chức năng thanh toán tài sản

của doanh nghiệp và giải quyết các vấn đề phát sinh trong giai đoạn thi hànhquyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.

IL.3. Chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tham gia giải quyết phá sản.

Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là một q trình lâu dài và phức tạp,

có thể chia ra làm ba giai đoạn chủ yếu là: giai đoạn thụ lý đơn yêu cầu phá

sản trước khi mớ thủ tục phá sản, giai đoạn mở thủ tục giải quyết yêu cầutuyên bô phá sản và cuối cùng là giai đoạn tuyên bố phá sản và thi hành

quyết định tuyên bô phá sản doanh nghiệp.

Ở mỗi giai đoạn, các chủ thể có những chức năng nhiệm vụ nhất định

được thể hiện qua các quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể mà pháp luật trao chotừng chủ thể như sau:

</div>

×