Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.88 MB, 90 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>MỤC LỤC </b>
<b>LỜI MỞ ĐẦU ... 7 </b>
<b>CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG VÀ BÊN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH ... 12 </b>
<b>1.1. Khái quát hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính ... 12 </b>
<i>1.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay tiêu dùng ... 12</i>
<i>1.1.2. Đặc điểm hoạt động cho vay tiêu dùng ... 14</i>
<b>1.2. Khái quát bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính ... 19 </b>
<i>1.2.1. Khái niệm bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính ... 19</i>
<i>1.2.2. Đặc điểm bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại của cơng ty tài chính ... 20</i>
<i>1.2.3. Điều kiện vay vốn của bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính ... 23</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><i>2.2.3. Quy định pháp luật về quyền yêu cầu cơng ty tài chính thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận ... 322.2.4. Quy định pháp luật về đảm bảo bí mật thơng tin bên vay ... 332.2.5. Quy định pháp luật về bảo vệ bên vay khi giao kết hợp đồng cho vay tiêu dùng bằng hợp đồng mẫu ... 342.2.6. Quy định pháp luật về bảo vệ bên vay khi cơng ty tài chính có hành vi xâm phạm đối với bên vay ... 372.2.7. Quy định pháp luật về bảo vệ bên vay trong việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của chủ thể thứ ba ... 39</i>
<b>2.3. Sự cần thiết của việc hoàn thiện khung pháp lý bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng ... 41 </b>
<i>2.3.1. Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính ... 412.3.2. Ý nghĩa pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính ... 42</i>
<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ... 44 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ BÊN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN ... 45 3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật đảm bảo sự thỏa thuận của bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng và kiến nghị hoàn thiện ... 45 </b>
<i>3.1.1. Thực trạng áp dụng pháp luật đảm bảo sự thỏa thuận của bên vay khi giao kết hợp đồng bảo hiểm khoản vay và kiến nghị hoàn thiện ... 453.1.2. Thực trạng áp dụng pháp luật đảm bảo sự thỏa thuận của bên vay trong việc thỏa thuận lãi suất cho vay tiêu dùng và kiến nghị hoàn thiện ... 49</i>
<b>3.2. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật bảo vệ bên vay khi giao kết hợp đồng cho vay tiêu dùng bằng hợp đồng mẫu và kiến nghị hoàn thiện ... 52 </b>
<i>3.2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật bảo vệ bên vay khi giao kết hợp đồng cho vay tiêu dùng bằng hợp đồng mẫu ... 52</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><i>3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ bên vay khi giao kết hợp đồng </i>
<i>cho vay tiêu dùng bằng hợp đồng mẫu ... 55</i>
<b>3.3. Thực trạng áp dụng pháp luật bảo vệ bên vay trong việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của chủ thể thứ ba và kiến nghị hoàn thiện ... 56 </b>
<i>3.3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật bảo vệ bên vay trong việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của chủ thể thứ ba là bên cung ứng hàng hố, dịch vụ ... 56</i>
<i>3.3.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật bảo vệ bên vay trong việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của chủ thể thứ ba là bên cung ứng hàng hoá, dịch vụ ... 60</i>
<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ... 61 </b>
<b>KẾT LUẬN CHUNG ... 63 </b>
<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 64 </b>
<b>PHỤ LỤC ... 70 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT </b>
Thông tư 43/2016/TT-NHNN Thông tư số 43/2016/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 18/2019/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 04/11/2019 sửa đổi Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy định cho vay tiêu dùng của công ty tài chính.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài </b>
Từ khi hình thành cho đến nay, cho vay vẫn ln là hoạt động kinh doanh chủ yếu và đưa lại nguồn thu nhập lớn nhất cho các TCTD. Với vai trò là một trung gian tài chính, kênh dẫn vốn quan trọng cho tồn bộ nền kinh tế, để có thể đứng vững trên thị trường tài chính – tiền tệ thì các TCTD cần khơng ngừng tự hồn thiện phù hợp với quy luật phát triển chung. Việt Nam đang trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, nhu cầu mở rộng hoạt động cho vay là tất yếu. Kinh tế phát triển, đời sống người dân đang dần được nâng cao, hàng hóa ngày càng hiện đại, phong phú với nhiều mẫu mã và chủng loại khác nhau đã đáp ứng nhu cầu của người dân một cách đáng kể. Tuy nhiên, không phải lúc nào người dân cũng có thể chi trả cho những nhu cầu đó, đặc biệt là những người có mức thu nhập bình qn chỉ đủ vun vén, chăm lo cho cuộc sống gia đình. Nắm bắt được thực tế, các TCTD đã phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng - một loại dịch vụ vừa đáp ứng được nhu cầu của người dân vừa phù hợp với lợi ích của các TCTD.
Loại sản phẩm vay tiêu dùng đã được phổ biến từ rất lâu ở các nước phát triển trên thế giới, phạm vi của nó rộng nhất và khơng chỉ giới hạn trong việc mua hàng hóa lâu bền sử dụng, các khoản chi phí chữa bệnh, du học mà cịn là những khoản vay có giá trị hơn như mua nhà, mua xe ô tô. Ở Việt Nam, vay tiêu dùng cũng dần phổ biến và có cơ hội phát triển hơn khi có sự xuất hiện của những văn bản pháp luật điều chỉnh riêng cho hoạt động này, cụ thể là Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy định cho vay tiêu dùng của CTTC. Từ khi có một hành lang pháp lý cụ thể, CTTC dần khẳng định sự thành cơng của mình trong loại hình cho vay tiêu dùng, đi đúng hướng mà NHNN đặt ra cho sứ mệnh của CTTC.
Lĩnh vực ngân hàng là một lĩnh vực phức tạp đối với khách hàng là những cơng dân bình thường, do đó, hành vi của các CTTC cần phải mẫu mực trong tương tác với khách hàng, đặc biệt là khi trình bày và giải thích về sản phẩm cho vay tiêu dùng. Đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ của CTTC, lợi nhuận vẫn là lợi ích quan trọng nhất đối với chủ thể kinh doanh, mục đích sinh lời và sự chi phối của các nhóm lợi ích rất dễ gây phương hại đến quyền lợi bên vay. Vì vậy, cần thiết phải tính đến và kiểm soát hoạt động CVTD của CTTC để cân bằng giữa sự phát triển hiệu quả, lành mạnh của CTTC
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">và tơn trọng lợi ích của bên vay một cách bền vững, hướng tới bảo vệ những quyền lợi chính đáng của bên vay, đảm bảo sự phát triển ổn định của hoạt động cho vay tiêu dùng.
Trong chế định dân sự, các nhà làm luật luôn xây dựng cơ chế bảo đảm sự cân bằng trong giao dịch giữa bên vay và bên cho vay, trên cơ sở đó, việc phát triển vấn đề này trong giao kết hợp đồng tín dụng về lĩnh vực tiêu dùng cũng cần được chú trọng. Bảo vệ quyền bên vay trong hợp đồng tín dụng là vấn đề cần phải quan tâm, đặc biệt trong quan hệ cho vay tiêu dùng tại CTTC, khách hàng - người tiêu dùng là bên yếu thế bởi họ cần đến sự hỗ trợ kịp thời về vốn từ các TCTD, dẫn đến các TCTD với vai trò là bên cho vay đặt ra những điều kiện, các trách nhiệm hay việc cung cấp các thơng tin khơng minh bạch, chính xác gây bất lợi cho người tiêu dùng. Hiện trạng này địi hỏi phải có cách tiếp cận mới, có cái nhìn đa chiều, đồng thời hồn thiện pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động vay tiêu dùng của cơng ty tài chính.
<i>Vì vậy, nhóm tác giả chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ bên vay trong </i>
<i>hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính” để thực hiện đề tài nghiên cứu khoa </i>
học của mình, nhằm phân tích, đánh giá chi tiết các quy định pháp luật quan hệ cho vay tiêu dùng, nhận diện các bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay, góp phần hồn thiện pháp luật bảo vệ bên vay trong quan hệ cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính, đảm bảo mơi trường tín dụng lành mạnh, kích thích sự phát triển của thị trường tín dụng tiêu dùng tại Việt Nam.
<b>2. Tình hình nghiên cứu </b>
Hiện nay, nhu cầu chi tiêu cho việc tiêu dùng là rất lớn. Điều này dẫn đến hoạt động cấp tín dụng tiêu dùng của các cơng ty tài chính diễn ra ngày càng sôi nổi. Song, với việc bên vay là cá nhân - là bên yếu thế trong hoạt động này, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên vay càng trở nên thiết yếu. Do đó đã có nhiều bài nghiên cứu liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi cho bên vay được thực hiện.
<i><b>2.1 Trong trường: </b></i>
<i>Trần Thị Hiền Lương (2014), Pháp luật bảo vệ quyền lợi của bên vay trong quan </i>
<i>hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành </i>
phố Hồ Chí Minh. Bài viết cung cấp những nội dung về cho vay tiêu dùng, đề cập các quyền và nghĩa vụ của bên vay phải thực hiện, đề xuất những giải pháp mang tính cụ thể
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">cao, có tính ứng dụng. Tuy nhiên bài viết ra đời cách đây 7 năm nên đã có sự thay đổi nhiều về các văn bản pháp luật,
<i>Trần văn Tuấn (2020), Bảo vệ quyền lợi quyền lợi bên vay trong hoạt động cho </i>
<i>vay tiêu dùng của tổ chức tín dụng, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật </i>
Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn phân tích đầy đủ các vấn đề về hoạt động cho vay tiêu dùng hiện nay tại các tổ chức tín dụng, đã đưa ra các dẫn chứng, minh họa thực tiễn về hoạt động cho vay tiêu dùng hiện nay tại thị trường Việt Nam.
<i>Lê Duy Bảo Chinh (2022), Hợp đồng cho vay tiêu dùng tại công ty tài chính, </i>
Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đã phân tích về khái niệm của hợp đồng cho vay tiêu dùng cũng như đề cập một số quyền và nghĩa vụ của bên vay và bên cho vay. Đồng thời cũng đã đề ra một số thực trạng, bất cập của hoạt động cho vay tiêu dùng hiện nay.
<i><b>2.2 Ngoài trường: </b></i>
Trần Thị Diệu Hà, “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cá nhân khi ký kết hợp
<i>đồng tín dụng cá nhân”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số 43/2020. Bài viết đề cập các </i>
vấn đề cần thiết phải xem xét đối với bên vay trong hợp đồng vay như là về lãi, về loại hợp đồng mẫu và xử lý vi phạm hợp đồng. Đồng thời bài viết cũng đã đề xuất một số giải pháp để giải quyết, xử lý các vấn đề trên.
Nguyễn Duy Phương, Nguyễn Thị Minh Hương, “Tín dụng tiêu dùng hướng tới
<i>mức lãi suất hợp lý tại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số 3+4/2015. Bài viết đề cập về </i>
tình trạng lãi suất của hoạt động cho vay tiêu dùng giữa công ty tài chính với người vay. Đồng thời đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm hỗ trợ công ty tài chính để giảm lãi suất đối với bên vay.
Nguyễn Thị Phương Thảo, “Cho vay tiêu dùng tại Việt Nam: Thị trường tiềm
<i>năng và đầy cạnh tranh”, Tạp chí Công thương, số 10/2020. Bài viết chỉ ra các số liệu về sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt Nam, chuyển đổi từ “Tiết kiệm </i>
<i>trước, tiêu dùng sau” thành “Chi tiêu trước, trả tiền sau”. Các số liệu còn chỉ ra sự cạnh </i>
tranh rất mạnh giữa các ngân hàng thương mại và công ty tài chính trong lĩnh vực này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b>3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu </b>
<i><b>Phương pháp nghiên cứu: </b></i>
Phương pháp phân tích: thơng qua các quy định pháp luật hiện hành về tín dụng tiêu dùng và hoạt động cho vay nói chung, nhóm tác giả đánh giá, phân chia những vấn đề lớn thành những vấn đề nhỏ nhằm tiếp cận sâu hơn những vấn đề cốt lõi của đề tài.
Phương pháp so sánh: tìm hiểu thực tiễn hiện nay về quy định pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động CVTD của các CTTC và những bất cập, từ đó so sánh pháp luật nước ngồi về các vấn đề thực tiễn cịn nhiều bất cập và học hỏi để hoàn thiện hơn pháp luật nước nhà.
Phương pháp tổng hợp: dựa trên những phân tích, so sánh mà nhóm tác giả thống nhất từng vấn đề, đưa ra cái tổng quan, gói gọn nhất nhằm nhận thức rõ nét hơn về những vấn đề bộ phận.
Ngoài ba phương pháp nêu trên được sử dụng một cách xuyên suốt, đề tài còn sử dụng nhiều phương pháp khác như: diễn dịch, quy nạp, thu thập thông tin, đối chiếu…
<i><b>Phạm vi nghiên cứu: </b></i>
Giới hạn nghiên cứu về thời gian: đề tài này đánh giá thực trạng hiện tại và những quy định pháp luật liên quan đến bên vay tại các CTTC có hiệu lực tính đến ngày kết thúc đề tài.
Giới hạn nghiên cứu về không gian: nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên trên cơ sở có tham khảo một số quy định pháp luật nước ngồi liên
<b>quan đến bên vay qua đó có sự so sánh, đối chiếu và rút ra những bài học kinh nghiệm </b>
cho pháp luật Việt Nam về vấn đề bảo vệ bên vay trong hoạt động CVTD của CTTC.
<b>4. Mục tiêu của đề tài </b>
<i>Đề tài “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng </i>
<i>của công ty tài chính” thực hiện nhằm đạt được những mục đích: </i>
<i>Thứ nhất, đề tài làm rõ những vấn đề lý luận chung, các quy định của pháp luật </i>
về bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại CTTC. Nghiên cứu này sẽ làm rõ các khái niệm, đặc điểm và bản chất của hoạt động cho vay tiêu dùng và bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của CTTC.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i>Thứ hai, trên cơ sở các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành bảo vệ bên vay </i>
trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng của CTTC nói riêng, đề tài làm rõ khái niệm pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của CTTC. Đồng thời, hệ thống những vấn đề pháp lý, các quyền được bảo đảm thực hiện của bên vay, những nghĩa vụ của CTTC đối với bên vay trong quá trình giao kết hợp đồng cho vay tiêu dùng của CTTC. Từ đó, làm cơ sở để hồn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi chính đáng của bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại CTTC.
<i>Thứ ba, đề tài nêu lên thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về bảo vệ bên vay </i>
trong hoạt động cho vay tiêu dùng của CTTC, dựa trên cơ sở đánh giá, phân tích những bất cập phát sinh trên thực tiễn, nhóm tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật bảo vệ bên vay, cân bằng lợi ích của các bên trong quan hệ vay tiêu dùng tại các CTTC, hướng tới phát triển tín dụng tiêu dùng một cách tồn diện.
<b>5. Kết cấu đề tài </b>
Đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động cho vay tiêu dùng và bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính.
Chương 2: Pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính và kiến nghị hoàn thiện.
<b>6. Giá trị ứng dụng của đề tài </b>
<i>Đề tài “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng </i>
<i>của cơng ty tài chính” dự kiến khi hồn thành, cơng trình nghiên cứu góp phần cải thiện </i>
khung pháp lý, đáp ứng nhu cầu thiết thực cho sự phát triển trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng tại Việt Nam, những mặt tích cực của đề tài sẽ góp phần đẩy lùi các tiêu cực trong giao dịch tín dụng, giúp người dân tiếp cận rõ hơn về hoạt động vay tiêu dùng để tự bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Cơng trình có thể là nguồn tài liệu tham khảo đối với việc học tập và nghiên cứu của những cá nhân quan tâm về luật, kinh tế.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG VÀ BÊN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA CƠNG TY TÀI CHÍNH </b>
<b>1.1. Khái quát hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính </b>
<i>1.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay tiêu dùng </i>
Theo Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành, cho vay là một trong những hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng<small>1</small>. Thuật ngữ “cho vay” ở đây dùng để chỉ quan hệ cấp tín dụng bằng tiền giữa tổ chức tín dụng (với tư cách là bên cho vay) với một bên là các tổ chức, cá nhân (với tư cách là bên đi vay) nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn cho các chủ thể này để đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng<small>2</small>. Định nghĩa này đã thể hiện đầy đủ bản chất của hoạt động cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân
<i>hàng nên nhóm tác giả sẽ sử dụng xuyên suốt bài nghiên cứu. </i>
Hiện nay, chủ nghĩa tiêu dùng đang chiếm lĩnh trên toàn thế giới, đặc biệt là trong thời đại công nghệ cực kỳ phát triển trong giai đoạn cách mạng cơng nghiệp 4.0 đang diễn ra trên tồn thế giới. Các sàn giao dịch điện tử cực kỳ phát triển, tự do hóa thương mại tồn thế giới thúc đẩy thời gian mua hàng và nhận hàng ngày một nhanh hơn. Ngày càng nhiều người mua sắm hàng hóa để phục vụ các nhu cầu của bản thân. Nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của các cá nhân, các tổ chức tín dụng đã tạo ra dịch vụ CVTD để phục vụ nhu cầu mua sắm của các khách hàng. Đối với thị trường CVTD tại Việt Nam, theo thống kê từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến cuối năm 2012, tổng dư nợ CVTD khoảng 230.000 tỷ đồng, chiếm 8% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế; đến cuối năm 2018, dư nợ tín dụng tiêu dùng đạt khoảng 1,4 triệu tỷ đồng (gấp 6 lần năm 2012). Trong tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng tính đến cuối năm 2018, dư nợ của các CTTC tiêu dùng chiếm khoảng 8% (tương đương 110.000 tỷ đồng), cịn lại là tín dụng tiêu dùng từ các NHTM (chiếm 88%) và các tổ chức tài chính khác (khoảng 4%)<small>3</small>. Như vậy, CVTD ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Điều này
<small> </small>
<small>1 Khoản 14 Điều 4 Luật Các TCTD. </small>
<small>2</small><i><small> Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2015), “Giáo trình Luật Ngân hàng”, Nxb Hồng Đức-Hội luật gia Việt </small></i>
<small>Nam, tr 308. </small>
<small>3 Nguyễn Thị Phương Thảo, “Cho vay tiêu dùng tại Việt Nam: Thị trường tiềm năng và đầy cạnh tranh”, truy cập ngày 16/03/2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">địi hỏi cần có sự điều chỉnh đối với hoạt động này đến từ Nhà nước để quản lý chặt chẽ cũng như đảm bảo an toàn cho ngành ngân hàng nước ta.
Khái niệm CVTD trước đây chưa từng được định nghĩa một cách cụ thể trong bất cứ một văn bản pháp luật nào. Cho đến ngày 15/03/2017, Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy định cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính do NHNN Việt Nam ban hành (Thơng tư 43/2016/TT-NHNN) có hiệu lực đã đưa ra định nghĩa cụ thể hơn về khái niệm “cho vay tiêu dùng”.
Thông tư 43/2016/TT-NHNN, CVTD được định một cách cụ thể tại khoản 1 Điều
<i>3 như sau: “Cho vay tiêu dùng là việc cơng ty tài chính cho vay bằng đồng Việt Nam đối </i>
<i>với khách hàng là cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu vốn mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng của khách hàng, gia đình của khách hàng đó với tổng dư nợ cho vay tiêu dùng đối với một khách hàng tại cơng ty tài chính đó khơng vượt q 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). Mức tổng dư nợ quy định tại khoản này không áp dụng đối với cho vay tiêu dùng để mua ơtơ và sử dụng ơtơ đó làm tài sản bảo đảm cho chính khoản vay đó theo quy định của pháp luật”. </i>
Thông tư 43/2016/TT-NHNN đã đề cập hai yếu tố nhận biết CVTD: bên vay là cá nhân, mục đích vay là mục đích tiêu dùng cá nhân. Mục đích tiêu dùng cá nhân có vai trị quan trọng giúp phân biệt giữa CVTD và các khoản vay khác. Theo Từ điển Tiếng Việt, “tiêu dùng” là việc sử dụng của cải vật chất để thoả mãn các nhu cầu của đời sống sinh hoạt hằng ngày<small>4</small>. Xuất phát từ tính chất thỏa mãn các nhu cầu đời sống sinh hoạt hằng ngày nên khoản vay tiêu dùng mang tính chất tiêu sản. Vì vậy, khoản tiền bên vay mua các hàng hóa, dịch vụ thì giá trị của các hàng hóa, dịch vụ này sẽ khấu hao theo thời gian chứ không tạo ra lợi nhuận như khoản vay phục vụ mục đích đầu tư kinh doanh. Theo đó, bên vay phải sử dụng khoản vay cho mục đích tiêu dùng mà theo
<i>Thông tư 43/2016/TT-NHNN chỉ giới hạn trong “mua phương tiện đi lại, đồ dùng, trang </i>
<i>thiết bị gia đình; chi phí học tập, khám, chữa bệnh, du lịch, văn hóa, thể dục, thể thao; chi phí sửa chữa nhà ở”. Khoản vay có mục đích nằm ngồi quy định trên sẽ khơng </i>
được coi là CVTD. Đồng thời, mục đích tiêu dùng thì chỉ có thể là cá nhân mới có mục đích tiêu dùng, các tổ chức, pháp nhân khơng thể có mục đích tiêu dùng. Điều này cũng dẫn đến việc bên vay trong CVTD chỉ có thể là cá nhân.
<small> </small>
<small>4 truy cập ngày 02/5/2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><i>Từ đây, nhóm tác giả định nghĩa khái niệm cho vay tiêu dùng như sau: “Cho vay </i>
<i>tiêu dùng là một hình thức cấp tín dụng của cơng ty tài chính, theo đó các cơng ty tài chính cung cấp một khoản vay cho cá nhân với mục đích tiêu dùng, phục vụ nhu cầu đời sống của cá nhân, gia đình và bên vay có nghĩa vụ hồn trả cả vốn và lãi cho cơng ty </i>
<i><b>tài chính trong thời hạn cam kết.” </b></i>
<i>1.1.2. Đặc điểm hoạt động cho vay tiêu dùng </i>
Hoạt động cho vay tiêu dùng cũng xuất phát từ bản chất của quan hệ cho vay thông thường trong lĩnh vực ngân hàng, tức là bên cho vay là một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ sẽ cho bên vay vay theo các điều kiện đã thỏa thuận trước như thời gian cho vay, thời gian hoàn trả, lãi suất,... và bên vay sẽ sử dụng vốn vay đúng mục đích, đúng thỏa thuận, hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn. Tuy nhiên, với đặc trưng của hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính, hoạt động này có nhiều
<b>điểm khác biệt so với các quan hệ cho vay khác. </b>
<i><b>Thứ nhất, chủ thể trong quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC là cá nhân và CTTC được cấp phép </b></i>
Với tư cách là bên cho vay trong quan hệ CVTD, hoạt động của các CTTC phải được NHNN cấp phép và tuân thủ nghiêm ngặt quy định của Luật Các TCTD và các quy định khác có liên quan trong lĩnh vực ngân hàng. Việc cho vay tiêu dùng của CTTC được quy định riêng tại Nghị định số 39/2014/NĐ-CP. Theo đó, Cơng ty tài chính là chủ thể bên cho vay trong quan hệ cho vay tiêu dùng chỉ bao gồm Cơng ty tài chính tổng hợp và Cơng ty tài chính tín dụng tiêu dùng.
Để trở thành bên cho vay trong quan hệ cho vay tiêu dùng thì CTTC phải đáp ứng đủ các điều kiện pháp luật quy định như: Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp; Đã đăng ký Điều lệ tại Ngân hàng Nhà nước; Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, có đủ vốn điều lệ, vốn được cấp, có kho tiền đủ điều kiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, có trụ sở đủ điều kiện bảo đảm an toàn tài sản và phù hợp với yêu cầu hoạt động ngân hàng; Có cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, điều hành, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro, hệ thống kiểm sốt nội bộ phù hợp với loại hình hoạt động theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Với tư cách là bên vay trong quan hệ CVTD của CTTC, bên vay chỉ là cá nhân.
<i>Theo khoản 1 Điều 3 Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy định: “Cho vay tiêu dùng là </i>
<i>việc cơng ty tài chính cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng là cá nhân”. Về </i>
đặc điểm chủ thể của bên vay trong quan hệ này, sẽ được trình bày chi tiết ở mục 1.2.
<i><b>Thứ hai, hình thức thể hiện hợp đồng cho vay tiêu dùng phải được lập thành văn bản </b></i>
Hình thức hợp đồng là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung hợp đồng, gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện để thể hiện và cơng bố ý chí của các bên, ghi nhận nội dung hợp đồng và là biểu hiện cho sự tồn tại của hợp đồng<small>5</small>. Đối với các giao dịch dân sự thơng thường, các bên có quyền tự do lựa chọn hình thức để xác lập<small>6</small>. Tuy nhiên, tất cả các hợp đồng tín dụng đều phải được lập thành văn bản, bao gồm cả hoạt động cho vay tiêu dùng<small>7</small>. Hình thức hợp đồng cho vay phải lập thành văn bản được ghi nhận khá cụ thể không chỉ riêng trong luật Việt Nam, mà còn thấy cả trong thực tiễn giao kết hợp đồng vay ở các nước trên thế giới<small>8</small>. Sở dĩ có sự hạn chế này là do tính chất đặc thù của ngành ngân hàng. Mặc dù xuất phát điểm là sự tín nhiệm của tổ chức tín dụng đối với bên vay, nhưng không thiếu những trường hợp bên vay “xù” hoặc “trốn” nợ. So với các hình thức xác lập bằng miệng hoặc bằng hành động trong nhiều trường hợp sẽ rất khó để chứng minh tồn tại hợp đồng vay thì ngược lại, việc xác lập hợp đồng vay bằng văn bản sẽ luôn là một chứng cứ hữu hiệu trong mọi trường hợp. Đồng thời, trong hợp đồng còn quy định quyền và nghĩa vụ của các bên một cách rất phức tạp. Do đó chỉ có cách xác lập hợp đồng bằng văn bản mới có thể thực hiện được việc này. Hiện nay, theo điểm a khoản 5 Điều 14 Nghị định 88/2019/ND-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, tổ chức tín dụng sẽ bị xử phạt từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi cấp tín dụng mà khơng có hợp đồng hoặc thỏa thuận bằng văn bản.
Đối với hoạt động CVTD của CTTC thì khách hàng là những cá nhân có nhu cầu cấp thiết về tài chính và cần tiếp cận khoản vay nhanh chóng và thuận tiện. Mặc dù hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên nhưng bên vay trong hoạt động CVTD lại không quá
<small> </small>
<small>5</small><i><small> Lê Minh Hùng (2015), Hình thức của hợp đồng, Nxb Hồng Đức, tr. 16. </small></i>
<small>6 Khoản 1 Điều 119 BLDS 2015. </small>
<small>7 Khoản 1 Điều 23 Thông tư 39/2016/TT-NHNN. </small>
<small>8 Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Tlđd (2), tr 10. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">am hiểu về pháp luật ngân hàng nên các hợp đồng cho vay tiêu dùng sẽ được CTTC soạn sẵn, là hợp đồng mẫu. Các CTTC có các nghiệp vụ chuyên môn về việc soạn thảo hợp đồng, họ có thể tránh các sai sót về áp dụng pháp luật cũng như bảo vệ quyền lợi các bên khi giao kết. Đồng thời nếu khơng có các hợp đồng mẫu mà CTTC đã soạn từ trước thì khi thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng, các bên mới đến giai đoạn bắt đầu đàm phán, soạn thảo hợp đồng thì sẽ rất tốn thời gian. Mà điều này lại khơng phù hợp với tính chất của cho vay tiêu dùng là các khoản vay cần thời gian giải ngân nhanh, bên vay sẽ có tiền ngay lập tức.
<i><b>Thứ ba, mục đích của khoản vay phải là mục đích tiêu dùng </b></i>
Trong quan hệ dân sự, bên cho vay khơng địi hỏi phải biết bên vay sử dụng vốn đó vào mục đích nào bởi lẽ giữa các bên tồn tại thỏa thuận bình đẳng và hoạt động đi vay nhỏ lẻ giữa họ cũng khó gây ảnh hưởng đến nền kinh tế. Nhưng với lĩnh vực ngân hàng lại khác, cụ thể theo quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật Các TCTD thì TCTD là bên cho vay phải xác định mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng mới quyết định cho vay nhằm xác định nhu cầu vay vốn đó được sử dụng vào mục đích hợp pháp, đảm bảo dịng tiền lưu thơng đúng đắn, cũng như đảm bảo an tồn cho hệ thống ngân hàng. Có thể hiểu, mục đích tiêu dùng là bên vay dùng số tiền vay được sử dụng vào mục đích phục vụ, nâng cao đời sống của người đó hoặc gia đình người đó, việc sử dụng khoản vay là khơng nhằm mục đích kinh doanh, sản xuất nhằm kiếm lợi nhuận từ khoản vay. Do đó phụ thuộc vào nhu cầu, tính cách của từng đối tượng khách hàng và chu kỳ kinh tế của bên vay<small>9</small>.
Đối với CTTC, mục đích tiêu dùng đã được NHNN quy định trong Thông tư 43/2016/TT-NHNN, cụ thể là dùng để: mua phương tiện đi lại, đồ dùng, trang thiết bị gia đình; chi trả phí học tập, khám, chữa bệnh, du lịch, văn hóa, thể dục, thể thao, phí sửa chữa nhà ở<small>10</small>. Cho thấy phạm vi về mục đích tiêu dùng ở CTTC rõ ràng, giúp CTTC xác định dễ dàng mục đích khoản vay.
<small> </small>
<small>9 Khuất Duy Tuấn (2005), “Đẩy mạnh cho vay tiêu dùng- Xu hướng tất yếu của hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường”, truy cập ngày 18/07/2023. </small>
<small>10 Xem khoản 2 Điều 3 Thông tư 43/2016/TT-NHNN. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><i><b>Thứ tư, hạn mức khoản vay tiêu dùng của CTTC </b></i>
<i>Căn cứ theo Điều 1 Quyết định số 43/QĐ-NH14: “Hạn mức tín dụng là một cơng </i>
<i>cụ để thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, nhằm hạn chế mức dư nợ tín dụng tối đa đến với nền kinh tế của tổ chức tín dụng”, theo đó đây là một trong những </i>
cơng cụ để NHNN thực hiện chính sách tiền tệ nhằm giảm thiểu tối đa những rủi ro đối với nền kinh tế, cũng như hạn chế mức dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng nên việc quy định hạn mức vay cũng rất quan trọng trong lĩnh vực CVTD. Thông thường, TCTD cho vay dựa trên nhiều yếu tố để quyết định cho khách hàng vay như: thu nhập của bên đi vay, lịch sử vay nợ, các khoản nợ đã phát sinh, độ tuổi khách hàng… dựa vào đó mà đánh giá khả năng chi trả mới quyết định khách hàng được vay hay không và hạn mức cho vay tương đương, như “mỗi công dân sinh sống tại Châu Âu và một số quốc gia phát triển của châu Mỹ sẽ phải có một hệ số điểm đánh giá tín dụng cá nhân cho riêng mình để dựa vào đó, các tổ chức tài chính ngân hàng đưa ra quyết định có phát hành thẻ tín dụng cho khách hàng (người dùng) hay không và nếu có thì hạn mức sẽ là bao nhiêu”<small>11</small>. Như vậy, với mỗi nhóm khách hàng là khác nhau việc đặt ra hạn mức chung rất khó khăn.
Thơng tư 43/2016/TT-NHNN quy định CTTC được cho khách hàng vay tiêu dùng không vượt quá mức 100 triệu đồng và không áp dụng đối với cho vay tiêu dùng để mua ôtô và sử dụng ôtô đó làm tài sản bảo đảm cho chính khoản vay đó theo quy định của pháp luật<small>12</small>. Tùy vào mức sống, bối cảnh xã hội mà định mức này có thể thay đổi nhưng khơng vượt quá mức được quy định, việc quy định một hạn mức cụ thể có thể đảm bảo việc khách hàng vay khơng q mức và khơng có khả năng trả nợ, cũng như góp phần hạn chế rủi ro cho các TCTD và bảo vệ được quyền lợi của bên đi vay.
<i><b>Thứ năm, phương thức giải ngân cho vay tiêu dùng của CTTC </b></i>
Việc giải ngân vốn cho khoản vay tiêu dùng của CTTC trên nguyên tắc cần phải tuân thủ quy định của Ngân hàng Nhà nước về phương thức giải ngân vốn cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng tại Thông tư 21/2017/TT-NHNN.
<small> </small>
<small>11 Thấy gì từ phát hành thẻ tín dụng và cấp hạn mức tín dụng tại một số nước trên thế giới?, truy cập ngày 24/2/2023. </small>
<small>12 Xem khoản 1 Điều 3 Thông tư 43/2016/TT-NHNN. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Căn cứ khoản 1 Điều 6 Thông tư 21/2017/TT-NHNN, khách hàng thanh toán, chi trả cho bên thụ hưởng (khơng bao gồm pháp nhân) có tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán với số tiền vay ghi trong thỏa thuận cho vay có giá trị khơng vượt q 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) thì TCTD có thể quyết định phương thức giải ngân vốn vay bằng tiền mặt hoặc thông qua sử dụng dịch vụ thanh tốn khơng dùng tiền mặt. Như vậy, đối với quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC, hạn mức của khoản vay cũng không vượt quá mức 100 triệu đồng cho nên việc giải ngân có thể tiến hành qua 2 phương thức: giải ngân vốn vay bằng tiền mặt và giải ngân vốn vay thơng qua sử dụng dịch vụ thanh tốn khơng dùng tiền mặt (tức là chuyển số tiền giải ngân vào tài khoản thanh toán). Xét về chủ thể nhận được số tiền cuối cùng của khoản vay tiêu dùng, CTTC có thể giải ngân trực tiếp cho khách hàng hoặc giải ngân thông qua bên thụ hưởng (bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ).
Trong quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC, pháp luật đặt ra những quy định chặt chẽ đối với phương thức giải ngân trực tiếp cho bên vay, bao gồm cả giải ngân cho vay tiêu dùng trực tiếp cho bên vay bằng tiền mặt và thông qua việc sử dụng các dịch vụ thanh tốn khơng dùng tiền mặt theo thỏa thuận tại hợp đồng cho vay tiêu dùng<small>13</small>. Khoản 11 Điều 1 Thông tư 18/2019/TT-NHNN bổ sung Điều 8a của Thông tư số 43/2016/TT-NHNN, quy định chi tiết về điều kiện giải ngân trực tiếp cho bên vay của CTTC. Ngoài tuân thủ quy định của Ngân hàng Nhà nước về phương thức giải ngân vốn cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với bên vay, CTTC chỉ được giải ngân trực tiếp đối với bên vay khơng có nợ xấu theo báo cáo quan hệ tín dụng tra cứu tại Trung tâm thơng tin tín dụng quốc gia Việt Nam tại thời điểm gần nhất so với thời điểm ký kết hợp đồng cho vay tiêu dùng; Tổng dư nợ cho vay tiêu dùng giải ngân trực tiếp cho bên vay tại một cơng ty tài chính so với tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng của cơng ty tài chính đó tại thời điểm cuối ngày làm việc liền kề trước ngày ký kết hợp đồng cho vay tiêu dùng giải ngân trực tiếp cho bên vay phải tuân thủ tỷ lệ tối đa đa 70% từ năm 2021. Tỷ lệ tối đa này sẽ giảm 10 điểm phần trăm trong mỗi năm tiếp theo và giảm về tối đa 30% cho tới năm 2024.
Những quy định mới này được pháp luật đặt ra cho CTTC trong việc giải ngân trực tiếp khoản vay tiêu dùng cho bên vay khơng nhằm hạn chế tín dụng tiêu dùng mà <small> </small>
<small>13 Xem Điều 3 Thông tư 43/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung theo khoản 2 Điều 1 Thông tư NHNN. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">18/2019/TT-nhằm kiểm soát rủi ro của hoạt động cho vay tiêu dùng, bảo đảm hoạt động cho vay tiêu dùng ổn định. Các yêu cầu của NHNN đối với việc giải ngân bằng chuyển khoản hoặc tiền mặt cho bên bán nhằm đảm bảo bên vay sử dụng tiền vay đúng mục đích. Bởi có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ tương quan thuận giữa sử dụng vốn đúng mục đích với khả năng hồn trả món vay, nghĩa là vốn sử dụng đúng mục đích vay thì khả năng hồn trả món vay cao hơn<small>14</small>. Siết chặt giải ngân trực tiếp cho bên vay sẽ hướng các CTTC giải ngân theo phương thức gián tiếp. Nếu giải ngân vốn vay gián tiếp thông qua bên thụ hưởng thì việc sử dụng vốn đã được kiểm sốt ngay từ đầu. Bên vay khơng thể lợi dụng việc vay vốn để đảo nợ từ nơi này sang nơi khác, hoặc sử dụng khoản vay tiêu dùng nhằm vào mục đích sản xuất, kinh doanh. Quy định này cũng góp phần giảm bớt thủ tục hành chính trong xử lý hồ sơ vay vốn của CTTC. Việc quản lý sử dụng vốn vay của bên vay thường được tiến hành ở ba giai đoạn: trước, trong và sau khi giải ngân. Nếu giải ngân trực tiếp cho bên vay thì sau khi giải ngân, CTTC phải thực hiện kiểm tra việc sử dụng vốn vay của bên vay để đánh giá tính chính xác về các mục đích vay vốn. Sử dụng phương thức giải ngân gián tiếp sẽ bớt đi một phần việc đó là cơng tác quản lý vốn đã được thực hiện trước khi giải ngân, giảm thiểu khả năng sử dụng vốn sai với mục đích đã đăng ký của bên vay theo hợp đồng vay tiêu dùng, rút ngắn quá trình thẩm định,
<i>kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn. </i>
<b>1.2. Khái quát bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính </b>
<i>1.2.1. Khái niệm bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính </i>
Trong lĩnh vực ngân hàng, cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi<small>15</small>. Trong quan hệ CVTD của CTTC, bên vay là một chủ thể trong hợp đồng
<i>cho vay tiêu dùng. Theo khoản 1 Điều 3 Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy định: “Cho </i>
<i>vay tiêu dùng là việc cơng ty tài chính cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng là cá nhân”. Như vậy, bên vay trong quan hệ CVTD của CTTC là cá nhân, yêu cầu một </i>
khoản vay tiêu dùng bằng đồng Việt Nam từ CTTC. Khi khoản vay được chấp thuận,
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">bên vay đồng ý tuân thủ các điều khoản và điều kiện đã được thỏa thuận trong hợp đồng cho vay tiêu dùng, đồng thời, quyền và nghĩa vụ của bên vay cũng được hình thành trên cơ sở xác lập hợp đồng này.
Bên vay là cá nhân trong quan hệ cho vay tại các TCTD nói chung cũng như quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC nói riêng, xét về bản chất, họ phải là cá nhân đủ điều kiện, tham gia giao dịch và vay tiền từ bên cho vay để chi dùng trước khi tích lũy đủ tiền, giải quyết nhu cầu một cách nhanh chóng. Điều kiện này bao gồm cả những điều kiện do pháp luật quy định và những điều kiện cụ thể mà CTTC đặt ra cho bên vay. Một trong những điều kiện quan trọng và thiết yếu nhất của quan hệ CVTD là việc sử dụng vốn của bên vay phải đúng mục đích tiêu dùng do pháp luật quy định và phải hoàn trả cả gốc và lãi cho bên cho vay.
Trước đây, bên vay trong hoạt động CVTD cịn có thể là hộ gia đình, tuy nhiên với sự thay đổi trong quy định của BLDS 2015 thì hộ gia đình khơng cịn là chủ thể của hoạt động này. Theo Điều 1 BLDS 2015 xác định rõ chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm cá nhân và pháp nhân, do đó một hộ gia đình khơng có tư cách pháp nhân muốn tham gia xác lập giao dịch sẽ được thực hiện trên cơ sở các thành viên của hộ gia đình khơng có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
<i>Tóm lại, bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính là </i>
<i>khách hàng cá nhân có đủ điều kiện, vay tiền từ cơng ty tài chính để sử dụng với mục đích tiêu dùng do pháp luật quy định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. </i>
<i>1.2.2. Đặc điểm bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại của cơng ty tài chính </i>
<i><b>Thứ nhất, năng lực tài chính của bên vay trong quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC </b></i>
Năng lực tài chính của bên vay là một yếu tố quan trọng của CTTC để đưa ra quyết định chấp nhận giải ngân khoản vay tiêu dùng hay không. Khi đăng ký vay tiền, CTTC sẽ tiến hành thẩm định khả năng thanh toán của bên vay. Điều này bao gồm kiểm tra thu nhập, lịch sử tín dụng, và các khoản nợ hiện có của bên vay. Năng lực tài chính của bên vay càng mạnh mẽ, tức là họ có khả năng thanh tốn nợ và lãi suất đúng hạn,
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">khả năng cao được chấp thuận vay tiền và được nhận lãi suất tốt hơn. Ngồi ra, năng lực tài chính cũng ảnh hưởng đến hạn mức vay mà bên vay có thể vay. Nếu năng lực tài chính của bên vay khơng đáp ứng u cầu của CTTC, họ có thể bị từ chối vay tiền hoặc phải đối mặt với các điều kiện vay khắt khe và lãi suất cao hơn.
Thu nhập của bên vay tác động đặc biệt trong quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC. Cơ sở tính thu nhập là tiền lương của bên vay. Điều này có ý nghĩa vì tiền lương thể hiện khả năng của bên vay có thể trả nợ và các khoản trả góp trong q trình vay tiền. Đặc điểm của bên vay trong hoạt động vay tiêu dùng của CTTC thường có mức thu nhập trung bình thấp, tình hình thu nhập khơng ổn định hoặc có điểm tín dụng thấp khơng đủ điều kiện vay tại ngân hàng. Họ thường là công nhân, nhân viên, sinh viên mới tốt nghiệp... Việc tập trung vào phân khúc khách hàng ở độ tuổi từ 18-30, thu nhập hàng tháng từ 5-10 triệu đồng (trong khi các ngân hàng thương mại tập trung vào những khách hàng từ 31-40 tuổi và có thu nhập cao hơn) giúp các cơng ty tài chính đã có sự thâm nhập nhanh trên thị trường tài chính Việt Nam.<small>16</small>.
Cách tiếp cận như vậy là hợp lý, bởi lẽ những người có thu nhập trung bình thấp như cơng nhân, nhân viên hoặc thu nhập không ổn định chẳng hạn như người làm công việc tự do, người làm công việc thời vụ hoặc có thu nhập khơng đều đặn thường khó khăn khi vay tiền từ các ngân hàng thương mại trong khi các CTTC có thể có những chính sách linh hoạt hơn trong việc xem xét các trường hợp này. Còn đối với sinh viên mới ra trường thường chưa có lịch sử tín dụng hay thu nhập ổn định, các CTTC có thể cung cấp các sản phẩm vay tiêu dùng như vay tiêu dùng cá nhân hoặc vay mua sắm cho nhóm đối tượng này để giúp họ đáp ứng nhu cầu tài chính khi bước vào giai đoạn đầu đời công việc.
Các đối tượng là doanh nhân hay trong độ tuổi từ 31-40 có thu nhập cao hơn thường ít có xu hướng tiếp cận khoản vay tiêu dùng tại các CTTC. Lý do chính là họ thường có nhiều tùy chọn hơn khi tiếp cận các nguồn vay tài chính, và có thể tìm thấy các tùy chọn vay vốn ưu đãi hơn ở các ngân hàng. Họ có lịch sử tín dụng tốt và tài sản đảm bảo cho nên có thể tiếp cận các khoản vay với lãi suất thấp và điều kiện vay linh hoạt. Đây cũng là đối tượng thường có nhu cầu vay tiền để đầu tư vào kinh doanh hoặc <small> </small>
<small>16 Tài chính tiêu dùng sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP, </small>
<small> truy cập ngày 28/7/2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">mở rộng hoạt động, do đó cần các sản phẩm vay có mục đích cụ thể và điều kiện linh hoạt để phù hợp với nhu cầu kinh doanh của mình và NHTM là ưu tiên trong quyết định của họ. Điều này làm cho việc tiếp cận các CTTC của nhóm đối tượng này trở nên không cần thiết.
<i><b>Thứ hai, bên vay cũng đồng thời là người tiêu dùng theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 </b></i>
Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có đối tượng điều chỉnh chủ yếu là quan hệ giữa người tiêu dùng và tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Đây là quan hệ mang tính chất tư giữa một bên là người tiêu dùng (với mục đích tiêu dùng, sinh hoạt) và một bên là tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (với mục đích sinh
<i>lợi). Theo khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010: “Người </i>
<i>tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Như vậy xét về bản chất quan hệ cho vay tiêu dùng của </i>
CTTC, CTTC là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, cho vay có lãi suất (mục đích lợi nhuận), và bên vay là cá nhân sử dụng sản phẩm khoản vay tiêu dùng của CTTC với mục đích tiêu dùng, sinh hoạt. Do đó, bên vay trong quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC được xem là người tiêu dùng theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Trên cơ sở đó, bên vay được xác lập các quyền được bảo vệ của người tiêu dùng.
Khác với các quan hệ pháp luật dân sự thông thường, quan hệ pháp luật tiêu dùng là có sự bất cân xứng giữa hai bên chủ thể (người tiêu dùng và nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ). Trong đó, người tiêu dùng ln ở vị thế yếu hơn. Đặc điểm này được kiểm chứng bởi lý luận và thực tiễn trong các mối quan hệ tiêu dùng từ trước tới nay về: thơng tin; tài chính; năng lực đàm phán; năng lực chịu rủi ro và khả năng tiếp cận pháp luật<small>17</small>. Trong quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC, bên vay cũng có một số các đặc điểm nổi bật, chẳng hạn:
<i>(i) sự bất cân xứng về thông tin: bên vay trong quan hệ CVTD của CTTC không </i>
phải khi nào cũng là đối tượng có kiến thức và am hiểu trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Trong khi đó, bên cung cấp khoản vay là CTTC lại hiểu rất rõ về sản phẩm của
<small> </small>
<small>17 Nguyễn Thanh Lý (2019), “Bàn về khái niệm người tiêu dùng và cơ sở phát sinh quyền được bảo vệ của người </small>
<i><small>tiêu dùng”, Tạp chí Nghề luật, số 6/2019, tr21. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">mình, đồng thời cũng rất biết nắm bắt tâm lý của bên vay vì nhu cầu cần vốn một cách cấp bách của họ, CTTC có thể đưa ra những thơng tin dù bất lợi cho bên vay nhưng rất có khả năng bên vay vẫn chấp nhận những yêu cầu đó trong giao dịch để CTTC giải ngân khoản vay.
<i>(ii) sự bất cân xứng về năng lực đàm phán: Trong quan hệ CVTD của CTTC, </i>
hợp đồng thường được CTTC sử dụng là hợp đồng mẫu và được soạn sẵn bởi CTTC, do đó bên vay chỉ có thể thỏa hiệp mà khơng thể nào đàm phán, điều chỉnh các điều khoản trong hợp đồng.
<i>1.2.3. Điều kiện vay vốn của bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính </i>
<i><b>Thứ nhất, bên vay phải đáp ứng các điều kiện về năng lực chủ thể </b></i>
Trong lĩnh vực ngân hàng nói chung, khách hàng là cá nhân tham gia vào quan hệ cho vay tại TCTD không bị pháp luật giới hạn về quốc tịch mà người đó mang. Do đó, đối với quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC, cá nhân tham gia quan hệ này là cơng dân Việt Nam hoặc cũng có thể là người có quốc tịch nước ngồi<small>18</small>. Dù là cơng dân nước nào, họ đều phải đáp ứng các điều kiện về năng lực chủ thể và đây cũng là tiêu chí đầu tiên mà CTTC xem xét cá nhân đó có được tham gia ký kết hợp đồng cho vay tiêu dùng tại cơng ty của mình hay khơng.
Đối với khách hàng vay là cá nhân nước ngoài của CTTC tại Việt Nam, họ xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của họ được xác định theo pháp luật Việt Nam<small>19</small>. Do đó, khi xác định năng lực chủ thể của cá nhân nước ngoài để đáp ứng điều kiện khoản vay tiêu dùng của CTTC thì họ được xác định tương tự như cá nhân Việt Nam.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự<small>20</small>. Căn cứ vào khả năng của cá nhân về nhận thức và điều khiển được hành vi và hậu quả của hành vi, pháp luật phân biệt mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Trong đó, độ tuổi của cá nhân được xem là tiêu chí chung nhất để phân biệt mức độ năng lực hành vi của cá nhân. Trên cơ sở đó, pháp
<small> </small>
<small>18 Xem điểm b khoản 3 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN. 19 Xem Điều 674 BLDS 2015. </small>
<small>20 Xem Điều 19 BLDS 2015. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">luật quy định bên vay tham gia vào quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC có thể được chia thành 2 nhóm:
(i) Nhóm người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. BLDS 2015 xác định người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là những người từ đủ 18 tuổi trở lên và họ khơng có quyết định của Tồ án về việc bị mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Nhóm người này có đầy đủ tư cách chủ thể, tồn quyền tham gia vào quan hệ cho vay tiêu dùng với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do mình thực hiện.
(ii) Nhóm cá nhân từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Pháp luật đã quy định cho nhóm chủ thể này có tài sản riêng và có thể tự mình tham gia giao dịch dân sự mà pháp luật không cấm. BLDS cũng quy định: Cá nhân từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý<small>21</small>. Tuy nhiên, đối với quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC, giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản không thuộc phạm vi được cho vay của CTTC, còn đối với giao dịch liên quan đến động sản phải đăng ký chẳng hạn như khoản vay để mua xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50cm3 thì những cá nhân nhóm này khơng được tự mình xác lập mà phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
<i><b>Thứ hai, mục đích sử dụng vốn vay là mục đích tiêu dùng hợp pháp </b></i>
Trong hoạt động cho vay tiêu dùng của CTTC, mục đích tiêu dùng là điều kiện bắt buộc đối với mọi cá nhân tham gia vào quan hệ này. Đây là điều kiện phải được ghi rõ trong hợp đồng cho vay tiêu dùng của CTTC<small>22</small>. Bên vay sử dụng vốn vay với mục đích phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân mà không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Khoản vay tiêu dùng là nguồn tài chính để bên vay dùng trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như: mua phương tiện đi lại, đồ dùng, trang thiết bị gia đình; chi phí
<small> </small>
<small>21 Xem Điều 21 BLDS 2015. </small>
<small>22 Xem điểm c khoản 1 Điều 10 Thông tư 43/2016/TT-NHNN. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">học tập, chữa bệnh, du lịch, văn hóa, thể dục, thể thao; chi phí sửa chữa nhà ở<small>23</small> trước khi có đủ khả năng về tài chính.
Mục đích tiêu dùng phải hợp pháp, tức là việc sử dụng vốn vay vào các nhu cầu tiêu dùng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Chẳng hạn, sử dụng khoản vay để mua sắm hàng hố và sử dụng dịch vụ khơng khơng thuộc danh mục hàng hố, dịch vụ bị cấm theo pháp luật; Mua sắm các sản phẩm chính hãng, không phải là hàng giả, hàng nhái hoặc hàng không rõ nguồn gốc, ...
<i><b>Thứ ba, bên vay phải có khả năng tài chính để trả nợ </b></i>
Hoạt động cho vay tiêu dùng của CTTC là hoạt động chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn, bởi đối tượng cho vay là cá nhân, họ có tình hình tài chính dễ thay đổi tùy theo tình trạng sức khỏe và công việc của họ. Trong hoạt động cho vay tiêu dùng, đây là loại cho vay mà mục đích là để sử dụng vào tiêu dùng. Khác với cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng thường không tạo ra giá trị gia tăng trong một khía cạnh kinh tế rộng lớn. Vì vậy, trong hoạt động này, CTTC cần có nguồn thu nợ độc lập như tiền lương, hoặc nguồn thu khác của bên vay. Do đó, để CTTC xem xét khoản vay có được phê duyệt hay không, bên vay cần phải cung cấp thơng tin về khả năng tài chính mình có để đảm bảo việc trả nợ cho khoản vay, chẳng hạn: cung cấp các tài liệu liên quan đến thu nhập như hồ sơ thuế cá nhân, biên lai lương, chứng từ thu nhập từ các nguồn khác nhau như kinh doanh, đầu tư,... Đặc điểm nghề nghiệp của bên vay có thể coi là một yếu tố ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của bên vay. Đối với những cá nhân có nghề nghiệp ổn định, vị trí xã hội, có kinh nghiệm lâu năm hoặc ở những lĩnh vực địi hỏi trình độ cao hay có tay nghề vững vàng thì khả năng trả nợ là cao hơn.
<small> </small>
<small>23 Xem khoản 2 Điều 3 Thông tư 43/2016/TT-NHNN. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 </b>
Thơng qua việc phân tích bản chất, đặc trưng của hoạt động CVTD, nhóm tác giả đã làm rõ khái niệm cho vay tiêu dùng của CTTC là một hình thức cấp tín dụng của CTTC, các CTTC cung cấp một khoản vay cho cá nhân với mục đích tiêu dùng, phục vụ nhu cầu đời sống của cá nhân, gia đình và người vay có nghĩa vụ hồn trả cả vốn và lãi cho cơng ty tài chính trong thời hạn cam kết. Khoản vay được xác lập dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, chỉ dành cho cá nhân với mục đích tiêu dùng.
Đồng thời tại Chương 1, nhóm tác giả đã trình bày các vấn đề lý luận về bên vay trong hoạt động CVTD của CTTC. Bên vay là cá nhân, đồng thời cũng là người tiêu dùng theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Để được tham gia quan hệ CVTD, bên vay phải đáp ứng các điều kiện cơ bản về năng lực chủ thể, bên vay phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích tiêu dùng cũng như phải có khả năng trả nợ cho CTTC. Trên cơ sở các đặc điểm của bên vay trong hoạt động CVTD của CTTC, Chương 2 của bài nghiên cứu sẽ trình bày các quyền của bên vay trong hoạt động CVTD, từ đó làm rõ các quy định pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động CVTD của CTTC hiện nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><b>CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT BẢO VỆ BÊN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA CƠNG TY TÀI CHÍNH </b>
<b>2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính </b>
Quan hệ CVTD giữa bên vay và CTTC sẽ được xác lập dựa trên hợp đồng song vụ. Theo đó, quyền của bên vay sẽ được thực hiện bởi bên có nghĩa vụ là CTTC và ngược lại. Pháp luật cho phép bên vay và CTTC thỏa thuận về quyền, nghĩa vụ của nhau trong hợp đồng CVTD. Đối với bên vay, các quyền phát sinh từ hợp đồng là: Quyền được giải ngân đúng thỏa thuận – được thực hiện bằng nghĩa vụ giải ngân của CTTC; Quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại trong hợp đồng do CTTC gây ra;…. Tuy nhiên, một số quyền của bên vay được luật hóa cụ thể, bắt buộc CTTC phải có nghĩa vụ thực hiện dù khơng có thỏa thuận trong hợp đồng. Đây là các quyền phát sinh theo quy định pháp luật: Quyền được CTTC cung cấp thông tin hợp đồng – CTTC có nghĩa vụ cung cấp thơng tin cho bên vay từ giao đoạn chuẩn bị giao kết hợp đồng đến khi chấm dứt hợp đồng CVTD; Quyền đảm bảo bí mật thơng tin bên vay – nghĩa vụ giữ bí mật thơng tin bên vay của CTTC;… Trong hoạt động CVTD, bên vay là bên bất cân xứng thơng tin hơn so với các CTTC, dẫn đến có khả năng các CTTC lợi dụng yếu tố này để tối ưu hóa quyền lợi của mình, ảnh hưởng đến quyền lợi của bên vay. Trên cơ sở đó, bảo vệ bên vay trong hoạt động CVTD của CTTC là bảo vệ các quyền hợp pháp của bên vay được toàn vẹn, hạn chế sự xâm phạm của CTTC.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm việc thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội theo những định hướng nhất định<small>24</small>.Trong hoạt động CVTD thì CTTC là bên có lợi thế hơn. Việc ký kết hợp đồng chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của CTTC, vì quyết định cho vay là quyền tự chủ của CTTC. Có thể lợi dụng điểm này mà CTTC có thể áp đặt những nghĩa vụ vơ lý gây ảnh hưởng tới quyền của bên vay. Vì vậy, để giúp bên vay có thể tự bảo vệ mình cũng như đảm bảo hài hịa lợi ích của các bên, pháp luật đã tạo ra các quy định điều chỉnh hoạt động CVTD của CTTC để đảm bảo an toàn cho hoạt động CVTD, cân bằng lợi ích của bên vay và CTTC.
<small> </small>
<small>24 Tập bài giảng lý luận về pháp luật, ĐH Luật TPHCM (2019), Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr 16. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><i>Như vậy, pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng </i>
<i>ty tài chính là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để cân bằng lợi </i>
<i><b>ích của bên vay và cơng ty tài chính nhằm đảm bảo các bên trong quan hệ cho vay tiêu </b></i>
<i>dùng sẽ cân bằng về lợi ích cũng như bảo đảm cho hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển an toàn, các bên sẽ thực hiện đúng, đầy đủ quyền nghĩa vụ của mình. </i>
<b>2.2. Quy định pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính </b>
<i>2.2.1. Quy định pháp luật về đảm bảo bên vay được quyền cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác, trung thực </i>
Đầu tiên, khi khách hàng đến vay vốn sẽ được CTTC cung cấp một lượng thơng tin và dựa trên những thơng tin đó mà khách hàng đưa ra sự so sánh giữa các CTTC nhằm tối ưu hóa lợi ích bản thân, từ đó có thể quyết định giao dịch với CTTC đó hay không. Điều này cho thấy vấn đề cung cấp thông tin rất quan trọng và thông tin được đưa đến khách hàng phải đảm bảo ba yếu tố là chính xác, đầy đủ, trung thực. Để đảm bảo các yếu tố đó cần sự quy định chặt chẽ đến từ phía Cơ quan nhà nước.
<i>Thơng tư 43/2016/TT-NHNN đã quy định cụ thể tại khoản 4 Điều 10: “Công ty </i>
<i>tài chính phải cung cấp cho khách hàng dự thảo hợp đồng cho vay tiêu dùng, giải thích chính xác, đầy đủ, trung thực các nội dung cơ bản tại hợp đồng cho vay tiêu dùng” do </i>
đó thơng tin được cung cấp cho khách hàng là dự thảo hợp đồng cho vay tiêu dùng - là một bản soạn trước chưa thống nhất, trước khi tiến hành giao dịch thì CTTC sẽ chủ động cung cấp cho khách hàng những thông tin trong dự thảo hợp đồng để hai bên cùng thỏa thuận và CTTC cũng có trách nhiệm giải thích chính xác, đầy đủ, trung thực các nội dung cơ bản tại hợp đồng cho vay tiêu dùng. Trong trường hợp CTTC giao kết hợp đồng mẫu với khách hàng hay CTTC có điều kiện giao dịch chung thì CTTC phải đảm bảo những thơng tin này được niêm yết công khai và cung cấp đầy đủ thông tin về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung cho khách hàng biết trước khi ký kết hợp đồng cho vay tiêu dùng và có xác nhận của khách hàng về việc đã được công ty tài chính cung cấp đầy đủ thơng tin<small>25</small>. Đối với hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung thì việc xác nhận khách hàng đã được cung cấp đầy đủ thông tin mang ý nghĩa quan trọng trong việc
<small> </small>
<small>25 Xem khoản 5 Điều 10 Thông tư 43/2016/TT-NHNN. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">giao kết hợp đồng. Do đó, nếu thiếu đi sự xác nhận này từ phía khách hàng, hợp đồng CVTD này hồn tồn có thể vơ hiệu do vi phạm điều cấm của luật.
Theo quy định pháp luật hiện hành, đã có những quy định cụ thể ràng buộc trách nhiệm của bên cho vay trong vấn đề cung cấp thông tin đến bên vay. Căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 14 Nghị định 88/2019/NĐ-CP với hành vi không niêm yết công khai thông tin, không cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu cho khách hàng theo quy định của pháp luật thì CTTC sẽ bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 30 triệu đồng. Như vậy, trong quá trình giao kết hợp đồng CVTD, CTTC có nghĩa vụ phải cung cấp thơng tin một cách chính xác, đầy đủ và trung thực cho bên vay để đảm bảo bên vay hiểu toàn diện về hợp đồng CVTD.
<i>2.2.2. Quy định pháp luật về đảm bảo sự thỏa thuận của bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng </i>
Căn cứ theo Điều 385 BLDS thì hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Tương tự, trong quan hệ CVTD thì hợp đồng phải có sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các bên và đảm bảo hợp đồng được lập thành văn bản<small>26</small>, tuy nhiên, không phải vấn đề nào các bên cũng đương nhiên được thỏa thuận mà sự thỏa thuận đó phải phù hợp theo quy định pháp luật. Việc quy định những vấn đề được thỏa thuận nhằm tránh việc các bên thỏa thuận những điều khoản bất lợi cho bên còn lại trong giao dịch, từ đó đảm bảo hoạt động CVTD diễn ra hiệu quả và bảo đảm được lợi ích bên vay tốt hơn.
Trong hoạt động CVTD, các quyền và nghĩa vụ của các bên cần được thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng<small>27</small>. Quyền này đặt ra là cơ sở giúp bên vay có thể thỏa thuận tốt hơn những quy định có lợi cho mình. Căn cứ theo khoản 2 Điều 5 Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy định hoạt động CVTD được thực hiện theo thỏa thuận giữa CTTC và bên vay, phù hợp với quy định tại Thông tư này và các quy định của pháp luật có liên quan.
<small> </small>
<small>26 Xem khoản 1 Điều 10 Thông tư 42/2016/TT-NHNN. 27 Xem khoản 2 Điều 3 BLDS 2015. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Những nội dung pháp luật quy định phải có trong hợp đồng đã được quy định tại khoản 1 Điều 10 Thông tư 43/2016/TT-NHNN, bên vay và CTTC được quyền thỏa thuận các vấn đề tại điều khoản này và một số vấn đề khác mà không trái pháp luật, không vi phạm điều cấm của luật như:
+ Lãi suất cho vay tiêu dùng: Lãi suất là giá phải trả cho việc sử dụng vốn<small>28</small>, là vấn đề bên vay rất quan tâm khi thực hiện giao dịch. Hiện nay theo quy định pháp luật CTTC phải niêm yết khung lãi suất cao nhất và thấp nhất trên toàn hệ thống trong từng thời kỳ đối với từng loại sản phẩm tiêu dùng và khung lãi suất này được NHNN thông qua. Dù khung lãi suất đã được niêm yết nhưng pháp luật cũng quy định thêm CTTC và bên vay được thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của bên vay, việc thỏa thuận này bao gồm các nội dung về: lãi suất cho vay và phương pháp tính lãi đối với khoản vay, mức lãi suất quy đổi theo tỷ lệ %/năm (một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày) tính theo số dư nợ cho vay thực tế và thời gian duy trì số dư nợ cho vay thực tế đó<small>29</small>.
+ Phương thức cho vay: Có hai phương thức là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Theo quy định pháp luật, cho vay từng lần thì với mỗi lần vay khách hàng cần làm hồ sơ thủ tục liên quan và được giải ngân tồn bộ. Cịn cho vay theo hạn mức thì hai bên sẽ cùng thống nhất mức dư nợ cho vay tối đa trong một khoảng thời gian nhất định và giải ngân theo từng lần. Theo đó, tùy từng hoàn cảnh, mong muốn mà các bên được quyền thỏa thuận chọn phương thức vay phù hợp với điều kiện hiện có để đảm bảo sự thuận lợi trong giao dịch.
+ Cơ cấu lại thời gian trả nợ và miễn, giảm lãi suất: Các bên được quyền thỏa thuận thời hạn trả nợ trong hợp đồng tại thời điểm ký kết và phải thực hiện việc hoàn trả theo đúng nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, trong q trình thực hiện hợp đồng các bên khơng tránh khỏi những thay đổi về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khiến cho việc bên vay khơng thể trả nợ đúng theo thỏa thuận. Từ đó, pháp luật quy định cho bên vay về quyền thỏa thuận cơ cấu lại khoản vay. Song quyền này không phải lúc nào cũng được đảm bảo bên vay được quyền thỏa thuận bởi CTTC trên cơ sở đề nghị của bên vay, khả năng tài chính của CTTC và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng mà <small> </small>
<small>28 HTCTTKQG – LÃI SUẤT, truy cập ngày 6/8/2023. </small>
<small>29 Xem Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">CTTC xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay đó phù hợp với nguồn trả nợ của khách hàng, thời hạn vay không đổi hay xem xét cho gia hạn nợ với thời hạn phù hợp với nguồn trả nợ của khách hàng<small>30</small>.
+ Hình thức và thời gian nhắc nợ: Trên thực tế, đã xảy ra nhiều tình trạng phía CTTC đã làm phiền đến bên vay bằng cách thức gọi điện nhắc nợ nhiều lần trong ngày với bất cứ thời gian nào. Thêm vào đó, những cá nhân liên quan với bên vay cũng bị CTTC làm phiền để thúc giục bên vay trả nợ. Việc nhắc nợ này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống bên vay, do đó, pháp luật đã có sự điều chỉnh về hình thức và thời gian nhắc nợ cho phù hợp. Hai bên được phép thỏa thuận nhưng phải tuân thủ các điều kiện về thời gian và phương thức: không dùng biện pháp đe dọa với bên vay và chỉ được nhắc nợ trong khoảng thời gian từ 7 (bảy) giờ đến 21 (hai mươi mốt) giờ; khơng nhắc nợ, địi nợ, gửi thơng tin về việc thu hồi nợ của khách hàng đối với tổ chức, cá nhân khơng có nghĩa vụ trả nợ cho CTTC, trừ trường hợp có yêu cầu từ cơ quan có thẩm quyền<small>31</small>.
+ Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm bù đắp cho bên bị xâm phạm những tổn thất đã xảy ra và phải đáp ứng ba điều kiện: có hành vi khơng thực hiện, thực hiện không đúng, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng; có thiệt hại trên thực tế; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Còn với phạt vi phạm các bên bắt buộc phải có sự thỏa thuận thì chế tài mới được phát sinh, đây là biện pháp nhằm trừng phạt, răn đe bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Trong lĩnh vực CVTD, mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng được quy định như sau: CTTC và khách hàng có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp CTTC và khách hàng có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm<small>32</small>.
+ Bảo hiểm khoản vay: là loại bảo hiểm khi bên vay khơng có khả năng thanh tốn thì bảo hiểm này sẽ chi trả khoản nợ thay cho bên vay. Đây không phải là bảo hiểm bắt <small> </small>
<small>30 Xem khoản 3 Điều 5, khoản 1 Điều 10 Thông tư 43/2016/TT-NHNN. 31 Xem điểm đ khoản 2 Điều 7 Thông tư 43/2016/TT-NHNN. </small>
<small>32 Xem khoản 2 Điều 25 Thông tư 39/2016/TT-NHNN. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">buộc và khách hàng được quyền thỏa thuận việc mua bảo hiểm cho khoản vay với CTTC, việc mua bảo hiểm là sự lựa chọn của bên vay và tuân theo pháp luật về bảo hiểm.
+ Các thỏa thuận khác: Bên cạnh các nội dung được luật hóa, các bên cịn có thể thỏa thuận các nội dung khác phù hợp với quy định pháp luật. Điều này được thể hiện
<i>qua quy định tại khoản 2 Điều 10 Thông tư 43/2016/TT-NHNN “các bên có thể thỏa </i>
<i>thuận các nội dung khác phù hợp với quy định tại Thông tư này và quy định của pháp luật có liên quan.”. </i>
<i>2.2.3. Quy định pháp luật về quyền u cầu cơng ty tài chính thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận </i>
Theo quy định của pháp luật, giải ngân vốn cho vay là việc TCTD bàn giao cho khách hàng một khoản tiền thơng qua việc sử dụng dịch vụ thanh tốn khơng dùng tiền mặt, bằng tiền mặt để thanh tốn, chi trả cho bên thụ hưởng theo mục đích vay vốn ghi trong thỏa thuận cho vay<small>33</small>. Đối với hoạt động cho vay, nghĩa vụ chuyển tiền cho bên vay của CTTC cần phải thực hiện trước. Đó là cơ sở để phát sinh nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc cùng lãi của bên vay cho CTTC. Sau khi các TCTD nhận thấy các điều kiện tiên quyết để một khoản vay đạt được mức độ an toàn, họ thực hiện nghĩa vụ bàn giao vốn và từ đó, hình thành nên quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng<small>34</small>. Đồng thời, vấn đề giải ngân cho bên vay là một nội dung bắt buộc phải có trong hợp đồng CVTD giữa CTTC và bên vay<small>35</small>.
Các bên tham gia phải tuân thủ đúng các nghĩa vụ trong hợp đồng. Do đó, khi hợp đồng CVTD đã phát sinh hiệu lực thì CTTC phải có nghĩa vụ giải ngân đúng thời hạn đã thỏa thuận cho bên vay. TCTD phải chấp hành các thỏa thuận về giải ngân, theo đó, họ khơng được tự ý ngừng việc cung cấp khoản vay khi bên đi vay không phát sinh bất kỳ sai phạm nào<small>36</small>. Đối với bên vay, việc giải ngân mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Xuất phát từ mục đích vay, bên vay cần tiền tương đối cấp bách để chi trả cho các nhu cầu hằng ngày. Việc giải ngân đúng thời hạn sẽ giúp bên vay chi trả cho bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ đúng thời hạn. Khi mà CTTC chậm giải ngân, có thể dẫn đến thiệt hại cho bên vay, phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CTTC. Trên cơ sở Điều 360 <small> </small>
<small>33 Khoản 2, Điều 3, Thông tư 21/2017/TT-NHNN </small>
<small>34</small><i><small> Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, tr.163 </small></i>
<small>35 Xem điểm g khoản 1 Điều 10 Thông tư 39/2016/TT-NHNN. </small>
<small>36</small><i><small> Lê Duy Bảo Chinh (2022), Hợp đồng cho vay tiêu dùng tại cơng ty tài chính, Luận văn Thạc sĩ luật, Trường </small></i>
<small>Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.21 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">BLDS 2015, bên vay hồn tồn có quyền u cầu CTTC bồi thường do vi phạm nghĩa vụ giải ngân dẫn đến thiệt hại cho bên vay. Đồng thời vẫn có quyền yêu cầu CTTC tiếp tục thực hiện nghĩa vụ giải ngân khi các điều kiện để được CTTC giải đã được thỏa mãn.
<i>2.2.4. Quy định pháp luật về đảm bảo bí mật thơng tin bên vay </i>
Trong bối cảnh hiện nay, thông tin được truyền đi một cách dễ dàng và nhanh chóng, do vậy bảo mật thơng tin cần sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật nhằm chống lại một số chủ thể sử dụng thông tin đó với mục đích trái pháp luật, mà thơng tin cá nhân bị phát tán sẽ dẫn đến nhiều rủi ro. Mức độ nhẹ chỉ là bị gọi điện làm phiền, mà nặng hơn là những tổn thất về tinh thần và tài chính như sử dụng thơng tin nhằm bôi nhọ cá nhân, lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong lĩnh vực CVTD thì càng phải thận trọng hơn, bởi lẽ đây là khoản vay phục vụ nhu cầu thiết yếu của họ, thơng tin bị lộ có thể dẫn đến nguy cơ mất toàn bộ số tiền trong tài khoản nếu không được bảo mật đúng cách, do đó bảo mật thơng tin của bên vay rất quan trọng.
Về đảm bảo bí mật thơng tin cá nhân, đời sống riêng tư là một quyền mặc nhiên của mỗi cá nhân mà không chỉ riêng cá nhân trong hoạt động CVTD<small>37</small>. Theo khoản 2
<i>Điều 387 BLDS có quy định: “Trường hợp một bên nhận được thơng tin bí mật của bên </i>
<i>kia trong q trình giao kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thơng tin và khơng được sử dụng thơng tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác.” Điều này cho thấy vấn đề bảo mật thông tin là yêu cầu không thể thiếu trong </i>
bất cứ giao dịch nào. Đối với Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy định cụ thể về hoạt động CVTD của CTTC chưa nêu cụ thể về quyền được bảo mật thông tin của bên vay, còn tại khoản 1 Điều 13 Nghị định 117/2018/NĐ-CP đã được quy định khá rõ nét, theo nghị định này thì bên vay có quyền u cầu CTTC cung cấp thơng tin của chính bên vay theo thỏa thuận giữa các bên và quyền khiếu nại, khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật trong trường hợp CTTC cung cấp, sử dụng thông tin bên vay không đúng quy định của pháp luật. Ngồi ra, bảo mật thơng tin cũng được được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 14 Luật các TCTD về nghĩa vụ của bên cho vay, cụ thể CTTC phải đảm bảo bí mật thơng tin bên vay về tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng của CTTC. Thêm vào đó, các thơng tin này CTTC chỉ được cung cấp cho chủ thể khác trong trường hợp pháp luật có quy định hoặc có sự thỏa <small> </small>
<small>37 Xem khoản 1 Điều 38 BLDS 2015. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">thuận với bên vay. Như vậy, vấn đề bảo mật thông tin rất quan trọng và được pháp luật bảo đảm thực hiện, ngoài được quy định là quyền đương nhiên của một cá nhân mà trong từng lĩnh vực, cụ thể trong hoạt động cho vay nói chung hay CVTD nói riêng pháp luật càng quy định rõ nét về trách nhiệm của bên cho vay trong vấn đề bảo mật thông tin bên vay.
Theo khoản 1 Điều 11 Nghị định 117/2018/NĐ-CP quy định có hai trường hợp
<i>CTTC được phép cung cấp thông tin bên vay: Thứ nhất, việc các chủ thể yêu cầu CTTC </i>
cung cấp thông tin bên vay đã được quy định cụ thể tại bộ luật, luật, nghị quyết của
<i>Quốc hội; Thứ hai, đã được sự đồng ý của bên vay bằng văn bản hoặc hình thức khác. </i>
Thêm vào đó, việc các tổ chức, cá nhân được CTTC cung cấp thông tin bên vay phải sử dụng thơng tin đó đúng mục đích và không được cung cấp cho bên thứ ba mà không có sự chấp thuận của bên vay, trừ trường hợp cung cấp theo quy định của pháp luật<small>38</small>.
Với từng hành vi, hậu quả của hành vi đó ảnh hưởng đến bên vay mà bên xâm phạm - CTTC hoặc chủ thể khác được cung cấp thơng tin có thể bị phạt tiền hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Một số hành vi bị phạt tiền có thể kể đến như: Tiết lộ, cung cấp thông tin bên vay, thơng tin về số dư ví điện tử và các giao dịch thanh toán của bên vay tại tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh tốn khơng đúng quy định của pháp luật; Lấy cắp, thông đồng để lấy cắp thơng tin ví điện tử; Lấy cắp, thông đồng để lấy cắp thông tin tài khoản thanh tốn; Cung cấp, trao đổi thơng tin tín dụng, cung cấp sản phẩm thơng tin tín dụng khi chưa được sự đồng ý tại thỏa thuận với bên vay, không đúng quy định của pháp luật<small>39</small>. Trong đó, với hành vi lấy cắp, thông đồng để lấy cắp thông tin tài khoản thanh tốn có thể bị truy cứu đến trách nhiệm hình sự, đây là hành vi chịu chế tài nặng nhất trong lĩnh vực bảo mật thông tin bên vay, bởi lẽ những thông tin liên quan đến tài khoản thanh toán khi bị tiết lộ dễ dẫn đến việc bị mất toàn bộ số tiền trong tài khoản, khả năng gây thiệt hại lớn đến bên vay.
<i>2.2.5. Quy định pháp luật về bảo vệ bên vay khi giao kết hợp đồng cho vay tiêu dùng bằng hợp đồng mẫu </i>
Khi điều kiện kinh tế phát triển, các CTTC với vai trò là bên cung ứng dịch vụ có khối lượng khách hàng lớn và đa dạng các loại hình sản phẩm thì việc có thể đi đàm
<small> </small>
<small>38 Xem Điều 4 Nghị định 117/2018/NĐ-CP. </small>
<small>39 Xem Điều 21, Điều 27 Nghị định 117/2018/NĐ-CP. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">phán ký kết hợp đồng đối với từng khách hàng của mình cho từng khoản vay là điều rất khó khăn. Chính vì thế, sự ra đời và áp dụng hợp đồng mẫu trong hoạt động cho vay tiêu dùng thể hiện tính năng ưu việt trong việc tiết kiệm thời gian, chi phí, đảm bảo tính nhất quán, cung cấp một khn khổ chung cho một nhóm khách hàng trong giao kết hợp đồng vay của CTTC.
Với đặc điểm nổi bật của hợp đồng mẫu là tính đơn phương của việc hình thành
<i>điều khoản hợp đồng. Theo khoản 1 Điều 405 BLDS 2015 quy định:“Hợp đồng theo </i>
<i>mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận tồn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra”. Trong khi bản </i>
chất của một hợp đồng truyền thống phải thể hiện sự tự do ý chí, tự do thỏa thuận và là ý chí giữa các bên thì trong hợp đồng theo mẫu, các điều khoản trong hợp đồng không phải là kết quả của quá trình thương lượng mà xuất phát từ ý chí một chiều của bên đề nghị giao kết hợp đồng. Trong quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC, hợp đồng vay sẽ do CTTC soạn thảo trước và sử dụng trong q trình giao dịch, chính vì vậy yếu tố thỏa thuận là một sự “xa xỉ”, bên vay sẽ khơng có điều kiện để đàm phán các điều khoản trong đó mà chỉ có thể chấp nhận toàn bộ hợp đồng hoặc từ chối xác lập giao dịch.
Để bảo vệ quyền và lợi ích của bên vay là chủ thể không được xây dựng hợp đồng mẫu, pháp luật đã đưa ra một số các quy định buộc bên soạn thảo là CTTC phải đảm bảo thực hiện như: tính minh bạch của hợp đồng bao gồm: Ngôn ngữ sử dụng bằng tiếng Việt, nội dung phải rõ ràng, dễ hiểu; cỡ chữ ít nhất là 12; Nền giấy và màu mực thể hiện nội dung hợp đồng theo mẫu phải tương phản nhau<small>40</small>. Trong trường hợp CTTC vi phạm, có thể chịu mức phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng và buộc sửa đổi theo đúng quy định<small>41</small>.
Việc giải thích các điều khoản trong hợp đồng mẫu cũng được pháp luật hướng tới bảo vệ bên vay vì họ là những người bất cân xứng thông tin hơn so với CTTC, được luật cụ thể tại khoản 2 Điều 405 BLDS 2015 và hiểu rằng: khi có điều khoản quy định nội dung khơng rõ ràng thì sẽ được ưu tiên giải thích có lợi cho bên khơng được soạn
<small> </small>
<small>40 Xem khoản 1 và khoản 2 Điều 7 Nghị định 99/2011/NĐ-CP. 41 Xem Điều 50 Nghị định 98/2020/NĐ-CP. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">thảo (bên vay), điều này tạo sự cân bằng quyền lợi giữa bên soạn hợp đồng mẫu và bên phải chấp nhận bản hợp đồng mẫu.
<i>Theo khoản 3 Điều 405 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp hợp đồng theo mẫu </i>
<i>có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này khơng có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Đây là điều khoản xác định rằng một bên không phải </i>
chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình trong tương lai<small>42</small>. Tức là, nếu tồn tại trong quan hệ cho vay tiêu dùng một điều khoản của hợp đồng mẫu do CTTC soạn quy định loại trừ trách nhiệm của mình khi vi phạm hợp đồng hoặc tăng trách nhiệm khơng chính đáng cho bên vay thì điều khoản này sẽ khơng có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trong trường hợp hợp đồng mẫu có điều khoản này, CTTC có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng và có thể bị phạt tiền gấp hai lần mức tiền phạt vừa nêu trong trường hợp hành vi vi phạm được thực hiện trên địa bàn từ 02 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm<small>43</small>.
Để đảm bảo bên vay có thể đọc và hiểu hết hợp đồng, CTTC phải niêm yết công khai hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung về cho vay tiêu dùng tại trụ sở, điểm giới thiệu dịch vụ và đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơng ty tài chính; Cung cấp đầy đủ thông tin về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung cho khách hàng biết trước khi ký kết hợp đồng cho vay tiêu dùng và có xác nhận của khách hàng về việc đã được công ty tài chính cung cấp đầy đủ thơng tin<small>44</small>. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 17
<i>Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 cũng có quy định: “Khi giao kết hợp </i>
<i>đồng theo mẫu, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải dành thời gian hợp lý để người tiêu dùng nghiên cứu hợp đồng”. </i>
Trước đây, hợp đồng mẫu trong khoản vay cho cá nhân nhằm mục đích tiêu dùng nằm trong danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cần phải tiến hành đăng ký hợp đồng mẫu trước khi áp dụng<small>45</small>, để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có thể tiến hành kiểm tra, rà soát, can thiệp, sửa đổi và hủy bỏ những <small> </small>
<small>42 Nguyễn Lan Anh, Một số vấn đề pháp lý về điều khoản miễn trách nhiệm, s%E, truy cập ngày 31/5/2023. </small>
<small> Xem Điều 52 Nghị định 98/2020/NĐ-CP. 44 Xem Điều 5 Thông tư 43/2016/TT-NHNN. 45Xem Điều 2 Quyết định 35/2015/QĐ-TTg. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">điều khoản gây bất lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên quy định này đã bị bãi bỏ bởi Quyết định 38/2018/QĐ-TTg ngày 05/09/2018 sửa đổi Quyết định 35/2015/QĐ-TTg.
<i>2.2.6. Quy định pháp luật về bảo vệ bên vay khi cơng ty tài chính có hành vi xâm phạm đối với bên vay </i>
<i>i) Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi bên vay </i>
Bên vay trong hoạt động CVTD cũng là người tiêu dùng. Do đó, cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương có trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng là Bộ Công thương<small>46</small>. Giúp đỡ cho Bộ là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng. Trong khi đó tại địa phương, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cùng với Sở Công thương. Tại cấp huyện là Ủy ban Nhân dân huyện có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Bên cạnh các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng nói chung ở trên, Ngân hàng Nhà nước đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong việc bảo vệ bên vay trong hoạt động CVTD thông qua việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng, kiểm tra, thanh tra, giám sát, xử lý các CTTC vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo quy định pháp luật. Tại Điều 10b Thông tư 43/2016/TT-NHNN sđ, bs bởi Thông tư 18/2019/TT-NHNN quy định trách nhiệm của 2 cơ quan chuyên trách có trách nhiệm quản lý hoạt động CVTD của CTTC là cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng cùng với chi nhánh Ngân hàng Nhà nước ở tỉnh, thành phố. Các cơ quan này sẽ tiến hành kiểm tra, giám sát các CTTC để đảm bảo an toàn cho hoạt động CVTD, bảo vệ bên vay trong mối hoạt động này.
Song để tránh chồng chéo về thẩm quyền xử phạt CTTC, Nghị định CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng có hiệu lực ngày 31 tháng 12 năm 2019, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 143/2021/NĐ-CP đã có quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt của các cơ quan này nhằm đảm bảo quyền lợi của bên vay trong hoạt động CVTD.
<i>88/2019/NĐ-ii) Các phương thức bên vay tự bảo vệ mình trước hành vi xâm phạm của CTTC </i>
Đối với bên vay, hành vi xâm phạm có thể là việc CTTC giải ngân không đúng hạn, sử dụng biện pháp đôn đốc, thu hồi nợ vượt quá phạm vi được cho phép hoặc có <small> </small>
<small>46 Khoản 1 Điều 34 Nghị định 99/2011/NĐ-CP. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">hành vi tiết lộ thông tin bên vay cho một bên thứ ba… Khi xảy ra hành vi xâm phạm, bên vay có thể tự bảo vệ mình bằng các biện pháp tự mình khiếu nại đến CTTC, cơ quan có thẩm quyền hoặc bằng Tịa án để tự bảo vệ quyền lợi của chính mình.
- <i>Biện pháp khiếu nại CTTC: Đối với các CTTC có hoạt động CVTD, pháp luật </i>
yêu cầu các cơng ty này bắt buộc phải có một bộ phận chuyên trách để giải quyết vấn đề khiếu nại khi bên vay khiếu nại đến CTTC<small>47</small>. Nghĩa vụ tiếp nhận và giải quyết vấn đề được khiếu nại là bắt buộc đối với CTTC<small>48</small>. Do đó bên vay trước tiên có thể tự mình khiếu nại đến CTTC khi quyền lợi của mình bị xâm phạm. Các CTTC có thể bị xử phạt lên 15.000.000 đồng khi có hành vi tiếp nhận và xử lý khiếu nại của bên vay không đúng quy định của pháp luật về CVTD của CTTC<small>49</small>. Khiếu nại đến CTTC là một biện pháp nhanh chóng, đơn giản để bên vay tự mình giải quyết hành vi xâm phạm của CTTC. Tuy nhiên nó lại khơng mang tính thi hành bắt buộc. Do đó sau khi đã khiếu nại đến CTTC mà bên vay vẫn bị xâm phạm thì cần có một giải pháp mạnh mẽ hơn để chấm dứt hành
<i>vi xâm phạm của CTTC. </i>
- <i>Biện pháp tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền: cơ quan Thanh tra, giám sát ngân </i>
hàng cùng với chi nhánh Ngân hàng Nhà nước ở tỉnh, thành phố sẽ là nơi tiếp nhận tố cáo của bên vay khi bên vay bị CTTC xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp<small>50</small>. Khi này, các cơ quan trên sẽ kiểm tra hoạt động CVTD của CTTC từ đó ra quyết định xử phạt. Mặc dù biện pháp tố cáo này mang tính thi hành bắt buộc đối với CTTC tuy nhiên hình thức xử phạt là phạt tiền và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả có thể chưa đủ để giải
<i>quyết triệt để hậu quả từ hành vi xâm phạm của CTTC. </i>
- <i>Biện pháp khởi kiện tại Tòa án: bên vay có quyền khởi kiện ra Tịa án khi quyền </i>
và lợi ích hợp pháp của mình bị CTTC xâm phạm. Lúc này, hành vi xâm phạm trở thành tranh chấp, phát sinh trong hoạt động CVTD. Tranh chấp này phát sinh giữa bên cho vay là CTTC và bên vay vay vốn vì mục đích tiêu dùng. Do đó đây là một tranh chấp về giao dịch dân sự thuộc khoản 3 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 nên sẽ được giải quyết theo thủ tục giải quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án. Khi bên vay cảm thấy phán quyết của Tòa án là chưa phù hợp, bên vay có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp cao hơn để
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">đảm bảo được xét xử một cách chính xác nhất. Mặc dù phán quyết của Tịa án mang tính thi hành bắt buộc nhưng quá trình giải quyết tranh chấp lại tốn khơng ít thời gian do phải
<i>(i) Bảo vệ quyền lợi bên vay trong trường hợp CTTC liên kết với bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ </i>
Hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế hiện nay, một trong những sản phẩm khoản vay tiêu dùng phổ biến đó là khoản vay tiêu dùng của CTTC cung cấp cho bên vay là cá nhân để mua sắm các loại hàng hóa như ôtô, xe máy, nội thất, đồ điện tử, điện lạnh hoặc cung cấp cho bên vay sử dụng các dịch vụ như chi phí học tập, khám bệnh, du học, …. Để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng có thể tiếp cận các hàng hóa và dịch vụ này, các CTTC đã cùng liên kết với bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Thay vì khách hàng phải tới CTTC để giao dịch, được giải ngân xong thì mới cầm số tiền đó tiến hành mua hàng hóa, CTTC có thể liên kết với bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ và thanh tốn trước cho sản phẩm mà bên vay có nhu cầu cho bên cung ứng này. Sau đó, khách hàng sẽ trở thành bên vay trong quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC và thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản vay và lãi suất cho CTTC.
Trong trường hợp này, khách hàng vừa là bên vay trong quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC vừa là người tiêu dùng đối với bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, cả CTTC và bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ đều phải đảm bảo thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật quy định để bảo đảm quyền và lợi ích của khách hàng cùng là bên vay không bị xâm phạm. Đối với bên cho vay, CTTC phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật cả trong lĩnh vực ngân hàng và Luật Bảo vệ người tiêu dùng như đã phân tích ở trên.
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">Cịn đối với bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ, đây khơng phải là chủ thể chính trong quan hệ cho vay tiêu dùng do đó khơng thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng, mà tùy theo lĩnh vực kinh doanh mà bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ phải đảm bảo tuân thủ pháp luật cho từng lĩnh vực đó. Nhưng tiên quyết, bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ phải tuân theo Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010 để bảo đảm các quyền của khách hàng là bên vay không bị xâm phạm.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa CTTC và bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở ký kết hợp đồng hợp tác, chia sẻ lợi ích lẫn nhau cũng sẽ có những thỏa thuận về việc bên cung ứng hàng hóa dịch vụ sẽ cung cấp các sản phẩm đến cho khách hàng như thế nào, bên CTTC sẽ giải ngân khoản vay cho các đối tượng sản phẩm nào, thời hạn ra sao,... Do đó, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng này cần phải tính đến sự tơn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của bên vay.
<i>(ii) Bảo vệ quyền lợi bên vay trong trường hợp CTTC bán nợ cho bên thứ ba </i>
Nhằm đảm bảo tính an tồn về tài chính cho các CTTC, hiện nay pháp luật cho phép các CTTC được phép bán nợ cho bên thứ ba. Theo đó, khoản 10 Điều 10a Thông
<i>tư 43/2016/TT-NHNN quy định: “Trường hợp công ty tài chính bán nợ cho bên thứ ba </i>
<i>được phép mua nợ theo quy định của pháp luật, trong hợp đồng mua bán nợ phải có cam kết của bên thứ ba về việc thực hiện các quy định đã thỏa thuận với khách hàng tại hợp đồng cho vay tiêu dùng (trong đó bao gồm cả các biện pháp đơn đốc, thu hồi nợ) phù hợp với quy định tại Thơng tư này và quy định của pháp luật có liên quan.” Đây là </i>
một quy định được bổ sung bởi Thông tư 18/2019/TT-NHNN nhằm ràng buộc nghĩa vụ của CTTC khi đã bán các khoản nợ của người vay cho một bên thứ ba.
Pháp luật hiện hành quy định bên được mua nợ của CTTC về cơ bản phải là một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mua bán nợ có đủ điều kiện kinh doanh phù hợp<small>51</small>. Theo đó, khi bên thứ ba mua các khoản nợ mà CTTC đã bán, trở thành người thế quyền trong hợp đồng CVTD mà CTTC đã xác lập với khách hàng<small>52</small>. Bên thứ ba này phải đảm bảo tuân thủ đúng hợp đồng mà CTTC đã xác lập cũng như pháp luật liên quan đến hoạt động CVTD. Khi này, CTTC đã khơng cịn là một bên trong hợp đồng CVTD ban đầu, tuy nhiên CTTC vẫn phải cần giám sát, kiểm tra bên thứ ba có thực hiện đúng nghĩa vụ <small> </small>
<small>51 Xem Điều 5,7 Nghị định 69/2016/NĐ-CP. </small>
<small>52 Xem khoản 1 Điều 14 Thông tư số 09/2015/TT-NHNN sđ, bs bởi Thông tư số 18/2022/TT-NHNN. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">đối với người vay trong hợp đồng CVTD để đảm bảo quyền lợi của bên vay. Pháp luật hiện nay chỉ dừng lại ở việc yêu cầu trong hợp đồng mua bán nợ giữa CTTC và bên thứ ba phải tồn tại cam kết rằng bên thứ ba sẽ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ như cách CTTC thực hiện với bên vay mà không đề ra thêm bất kỳ biện pháp nào để quản lý các CTTC có thực hiện quyền kiểm tra này. Điều này dẫn đến khả năng quyền của bên vay có khả năng bị xâm phạm khi mà bên mua nợ từ CTTC không phải là CTTC nên khơng chịu sự quản lý gắt gao từ phía Nhà nước trong hoạt động CVTD như các CTTC.
<b>2.3. Sự cần thiết của việc hoàn thiện khung pháp lý bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng </b>
<i><b>2.3.1. Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính </b></i>
Hoạt động cho vay tiêu dùng bước vào thị trường Việt Nam từ năm 1995 nhưng chỉ thực sự được chú ý và phát triển từ giai đoạn 2012 - 2019. Thị trường tài chính tiêu dùng Việt Nam đang đứng trước "cơ hội phát triển vàng" nhờ những điều kiện lý tưởng như: Nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển, quy mô dân số đạt ngưỡng gần 95 triệu dân với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động chiếm 52%; nhóm lao động có xu hướng chi tiêu vượt mức lương, đồng thời chuyển đổi hành vi từ tiết kiệm sang mua sắm và chuyển từ việc sử dụng tiền mặt sang tín dụng tiêu dùng. Dân số đơng, xu hướng đơ thị hóa ngày càng phát triển, thu nhập ngày càng cải thiện và ngành Tài chính chuyển dần trọng tâm sang phân khúc cá nhân và hộ gia đình chính là động lực lớn đối với thị trường CVTD tại Việt Nam<small>53</small>. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, hiện có 16 cơng ty tài chính được cấp phép hoạt động tại Việt Nam, với 17 chi nhánh, 41 văn phịng đại diện và 74 nghìn điểm giới thiệu dịch vụ, phục vụ khoảng 30 triệu khách hàng trên tồn quốc. Tính đến ngày 30/09/2022, dư nợ cho vay tiêu dùng của các công ty tài chính tiêu dùng đạt khoảng 145 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 20% so với cuối năm 2021, chiếm gần 6% dư nợ cho vay tiêu dùng của hệ thống và chiếm 1,3% dư nợ toàn nền kinh tế<small>54</small>. Các CTTC đã giúp đẩy mạnh q trình triển khai tài chính toàn diện tại Việt Nam.
Sự xuất hiện hoạt động cho vay tiêu dùng của CTTC đã giúp người tiêu dùng có cơ hội được tiếp cận và sử dụng các tiện ích cần thiết trước khi tiết kiệm đủ số tiền để <small> </small>
<small>53 Hà Trang, Hướng tới thị trường cho vay tiêu dùng an toàn, lành mạnh và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng tài chính, truy cập ngày 29/5/2023. </small>
<small>54 Dư nợ cho vay tiêu dùng tăng hơn 20% so với cuối năm 2021, vay-tieu-dung-tang-hon-20-so-voi-cuoi-nam-2021-post315582.html, truy cập ngày 19/7/2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">được nó. Thay vì, họ phải đi làm và tích lũy số tiền trong một khoảng thời gian dài để có thể chi trả cho việc sắm một chiếc xe, một chiếc điện thoại, một khóa học,...thì giờ đây, vay tiêu dùng xuất hiện giúp người tiêu dùng giải được bài tốn khó về kinh tế nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu cần sử dụng các sản phẩm, dịch vụ cấp thiết cho cuộc sống của mình. Đồng thời, hoạt động vay tiêu dùng cũng tạo điều kiện để người tiêu dùng vừa có đời sống sung túc và vừa có động lực để làm việc, tích lũy số tiền để trả nợ. Sự tiện ích của các khoản vay tiêu dùng đối với người tiêu dùng là rất lớn, dẫn tới nhu cầu vay các khoản vay tiêu dùng cao. Điều này dẫn đến sự gia tăng các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ vay tiêu dùng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giúp họ có thể chi tiêu và tiêu dùng một cách linh hoạt và thuận tiện hơn. Tuy nhiên, sự gia tăng này cũng đồng nghĩa với sự cạnh tranh giữa các CTTC để thu hút khách hàng. Điều này có thể dẫn đến các chiến dịch quảng cáo và khuyến mãi để thu hút khách hàng, cũng có thể dẫn đến tình trạng khách hàng mắc bẫy của các khoản vay với lãi suất cao hoặc không rõ ràng. Trong tình huống này, cần thiết có một hành lang pháp lý để kiểm soát chặt chẽ những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, quảng cáo sai sự thật để bảo đảm nguồn tiếp cận thông tin đến người tiêu dùng là minh bạch, chính xác.
<i>2.3.2. Ý nghĩa pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính </i>
Bản chất quan hệ hợp đồng giữa CTTC và bên vay là quan hệ lợi ích giữa các bên. Mỗi bên tham gia vào hợp đồng đều có một mục đích cụ thể và hy vọng rằng họ sẽ được đáp ứng mục đích đó thơng qua các điều khoản của hợp đồng. Vì vậy, nguyên tắc bình đẳng quyền và lợi ích của các bên trong hợp đồng là một nguyên tắc quan trọng. Trong quan hệ cho vay tiêu dùng của CTTC, các hợp đồng cho vay tiêu dùng được CTTC - với tư cách là bên cho vay, có thế mạnh soạn sẵn và đưa ra để khách hàng ký kết mà không được thỏa thuận trực tiếp giữa các bên. Chính vì vậy, các hợp đồng này thường có nhiều điều khoản và điều kiện được định sẵn mà khách hàng có thể khơng có quyền thương lượng hoặc thay đổi. Điều này ít nhiều đã phá vỡ đi nguyên tắc bình đẳng quyền và lợi ích của bên vay trong hợp đồng tín dụng tiêu dùng. Do vậy, theo nhóm tác giả, pháp luật cần xem xét đến sự thỏa thuận giữa CTTC và người vay tiêu dùng có đúng pháp luật hay có bất lợi cho bên vay hay không cả trong khi ban hành luật và trong quá trình giải quyết tranh chấp, đảm bảo tính minh bạch và tuân thủ đúng nguyên tắc bình
<i>đẳng của một bản hợp đồng. </i>
</div>