Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Hoạt động tín dụng cho vay tiêu dùng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.77 KB, 69 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
20 năm sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nước ta đã có những
chuyển biến sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực văn hoá đời sống kinh tế xã hội.
Chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng bền vững tạo tiền đề cho các hoạt động
đầu tư, xây dựng, kinh doanh, buôn bán…phát triển, tạo thêm nhiều việc làm
góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, hàng hoá tiêu dùng trở nên phong phú,
đa dạng với nhiều chủng loại, mẫu mã khác nhau phù hợp với nhu cầu người
mua. Tuy nhiên với mức thu nhập hiện nay, phần lớn người tiêu dùng không
thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm cùng lúc, đặc biệt là các vật dụng
đắt tiền. Nắm bắt được thực tế đó, các Ngân hàng đã thực hiện cung cấp các
dịch vụ cho vay tiêu dùng dưới nhiều hình thức nhằm tạo điều kiện cho khách
hàng có thể thoả mản nhu cầu của mình trước khi có khả năng thanh tốn. Và
chỉ trong một thời gian ngắn khi các sản phẩm này ra đời, số lượng khách
hàng tìm tới Ngân hàng khơng ngừng tăng lên đã tạo nguồn thu nhập không
nhỏ cho hệ thống Ngân hàng. Mặc dù vậy, so với các hoạt động tín dụng khác
thì cho vay tiêu dùng vẫn chiếm một tỷ trọng vô cùng nhỏ bé cả về doanh số
cho vay lẫn dư nợ cho vay và chưa thực sự phát huy được vai trị vốn có của
nó. Với tư cách là trung gian quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế, các Ngân
hàng phải làm gì để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng, trở thành
kênh kết nối hiệu quả giữa nguồn vốn huy động được với nhu cầu bị giới hạn
bởi khả năng thanh tốn từ đó tạo ra lợi nhuận cho mình và cho sự phát triển
chung của toàn xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động cho vay tiêu dùng trong
đời sống xã hội nói chung và đối với tồn hệ thống Ngân hàng nói riêng, sau
một thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh


2



(HDBank) chi nhánh Hà Nội, kết hợp với những kiến thức trong quá trình học
tập, em đã chọn: “Hoạt động tín dụng cho vay tiêu dùng và một số giải
pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Phát
triển Nhà TP Hồ Chí Minh ” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp
của mình. Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận,
Danh mục tài liệu tham khảo gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh.
Chương III: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại
Ngân hàng Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh.


3

CHƯƠNG I.
LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU
DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1. Lý luận tổng quan về cho vay tiêu dùng
1.1.1. Vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tiêu dùng rất hữu ích nhằm tài trợ cho
nhu cầu chi tiêu , mua sắm, sửa chữa nhà cửa…của các cá nhân, hộ gia đình.
Các khoản vay này giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hố, dịch vụ
trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có cuộc sống với chất lượng cao
hơn như mua xe hơi, mua nhà, nghỉ ngơi, du lịch…Qua đó chúng ta có thể
đưa ra khái niệm chung nhất về cho vay tiêu dùng: “Cho vay tiêu dùng là
hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng thoả thuận để khách hàng là cá
nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng với
ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định”.

1.1.2. Đối tượng của hoạt động cho vay tiêu dùng
- Phân theo thu nhập
+ Những người thu nhập thấp: Nhu cầu tín dụng của nhóm người này
thường hạn chế do nguồn thu nhập không đủ để thoả mãn nhu cầu đa dạng của
họ. Tuy nhiên họ cũng có nhu cầu chi tiêu khơng khác mấy so với nhóm có
thu nhập cao hơn. Do đó nếu có phương pháp phù hợp thì cũng có thể hình
thành các khoản vay hợp lý tới nhóm đối tượng này.
+ Những cá nhân có thu nhập trung bình: Nhu cầu tín dụng có xu hướng
tăng trưởng ngày càng mạnh bởi khoản tích luỹ của nhóm này tuy ít song thu
nhập trong tương lai của họ ổn định có thể chi trả cho những nhu cầu hiện tại.
+ Những cá nhân có thu nhập cao: Những người này thường cần tới
những khoản vay với tư cách là các khoản phụ trợ linh hoạt, trợ giúp thêm các
khoản thanh toán đặc biệt khi tiền của họ đã đầu tư vào các khoản đầu tư dài


4

hạn. Mặc dù việc vay mượn nhằm mục đích tiêu dùng của họ chỉ thể hiện một
tỷ trọng nhỏ trong tổng số tài sản mà họ sở hữu nhưng lại là một món tiền lớn
so với các nhóm khách hàng khác nên các ngân hàng rất quan tâm tới nhóm
khách hàng này.
-

Phân theo tình trạng cơng tác hay lao động: Nhu cầu tiêu dùng của

các cá nhân còn phụ thuộc rất nhiều tính chất cơng việc, nghề nghiệp. Xét theo
khía cạnh này chúng ta có những nhóm khách hàng:
+ Cán bộ công nhân viên chức.
+ Những người làm công việc kinh doanh riêng.
+ Những người hành nghề chuyên nghiệp ( Bác sĩ, ca sĩ, tư vấn…..).

+ Những người lao động tự do.
Trên thực tế, những khách hàng thuộc ba nhóm khách hàng đầu tiên có
thu nhập cao và ổn định hơn so với nhóm khách hàng cuối nên nhu cầu vay
tiêu dùng cũng chủ yếu phát sinh từ 3 nhóm trên.
1.1.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
- Quy mô các khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn
Các khách hàng tìm đến ngân hàng với mục đích vay tiêu dùng thường có
nhu cầu vốn khơng lớn lám. Đó là vì khi xác định mua sắm bất cứ vật dụng gì
người tiêu dùng phải có một khoản tích luỹ từ trước( vì khơng khi nào ngân
hàng cho vay 100% nhu cầu vốn). Tuy nhiên số lượng các khoản vay tiêu
dùng là lớn do đối tượng của vay tiêu dùng là mọi tầng lớp dân cư trong xã
hội.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất “ cứng nhắc”
Khơng như các khoản vay kinh doanh hiện nay có lãi suất có thể thay đổi
theo điều kiện thị trường, các khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất cố định,
đặc biệt là các khoản vay tiêu dùng trả góp.
- Các khoản vay tiêu dùng thường có độ rủi ro cao


5

Vì đối tượng của các hoạt động cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia
đình nên bên cạnh các yếu tố khách quan từ bên ngoài như thiên tai, mất mùa,
thất nghiệp, chu kỳ kinh tế, cịn có các yếu tố chủ quan từ chính người tiêu
dùng. Đó chính là tâm lý tiêu dùng , người tiêu dùng muốn vay tiêu dùng
nhưng không muốn trả. Trong những trường hợp như vậy, cho dù có nắm giữ
tài sản đảm bảo ngân hàng vẫn đối mặt với rủi ro giảm thu nhập. Mặt khác do
các khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất cứng nhắc nên khi lãi suất huy
động tăng lên ngân hàng đối mặt với rủi ro lãi suất.
- Cho vay tiêu dùng có chi phí khá lớn

Đặc điểm các khoản vay tiêu dùng thường có quy mơ khoản vay nhỏ,
thời gian vay thường không dài nên việc thẩm định tài chính khách hàng tốn
nhiều thời gian và chi phí. Bên cạnh đó ngân hàng cịn phải chịu một số chi
phí như chi phí quản lý khoản vay, theo dõi tình hình sử dụng vốn vay của
khách hàng…
-

Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản tín dụng có khả năng

sinh lời cao nhất do ngân hàng thực hiện
Chính vì triển vọng về lợi nhận của hoạt động cho vay tiêu dùng mang
lại, mặc dù phải đối mặt với khá nhiều thách thức nhưng các ngân hàng trên
thế giới hiện nay đều hướng sự quan tâm của mình vào hoạt động tín dụng
này. Coi nó như một hoạt động chủ đạo trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng.
1.1.4. Phân loại cho vay tiêu dùng
Thông qua cách phân loại này, chúng ta có thể có được cái nhìn khá toàn
diện về hoạt động cho vay tiêu dùng từ nhiều khía cạnh khác nhau:
- Căn cứ vào mục đích vay, chúng ta có:
+ Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu
cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà cho khách hàng là các cá nhân, hộ
gia đình.


6

+ Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho
việc trang trải các chi phí như chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi
phí cho học hành, giải trí, du lịch…
- Căn cứ vào phương thức hoàn trả
+ Cho vay tiêu dùng trả góp: Đây là hình thức cho vay trong đó người đi

vay trả nợ (gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn
nhất định trong thời hạn cho vay, phương thức này thường áp dụng cho các
khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng kỳ của người đi vay không đủ để
thanh toán hết một lần số nợ vay.
+ Cho vay tiêu dùng phi trả góp: Đây là hình thức cho vay mà tiền vay
được khách hàng thanh toán chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản
vay tiêu dùng phi trả góp được cấp cho các nhu cầu vay nhỏ và thời hạn không
dài.
+ Cho vay tiêu dùng tuần hồn: Là khoản vay trong đó ngân hàng cho
phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc ngân hàng phát hành loại séc cho
phép thấu chi dựa trên số tiền trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này,
trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và
thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện
việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
- Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ:
+ Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng
mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá
hay dịch vụ cho người tiêu dùng.


7

Sơ đồ 1: Mơ hình các bước tiến hành cho vay tiêu dùng gián tiếp
(1)
Ngân
hàng

Công ty
bán lẻ


(4)
(5)
(2)

(6)

(3)

Người tiêu
dùng
(Nguồn: Thời báo ngân hàng số 15 tháng 4/2006)

Trong đó:
(1): Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp
đồng ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được
bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và các loại tài sản bán chịu.
(2): Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu
hàng hố. Thơng thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài
sản.
(3): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4): Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.
(5): Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6): Người tiêu dùng thanh tốn tiền trả góp cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có ưu điểm:
• Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng.
• Cho phép ngân hàng tiết kiệm được chi phí trong cho vay.
• Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt
động khác.



8

• Trong trường hợp có quan hệ với những cơng ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu
dùng gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Bên cạnh những ưu điểm trên, cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số
nhược điểm sau:
• Ngân hàng khơng tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán
chịu.
• Thiếu sự kiểm sốt của ngân hàng khi cơng ty bán lẻ thực hiện việc bán
chịu hàng hố.
• Kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
+ Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là các khoản cho vay tiêu dùng trong
đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu
nợ từ những người này. Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường được thực hiện
theo sơ đồ sau :
Sơ đồ 2: Mơ hình các bước tiến hành cho vay tiêu dùng trực tiếp

(3)
Ngân hàng

Công ty
bán lẻ
(2)

(1)

(5)

(4)


Người tiêu
dùng
(Nguồn: Thời báo ngân hàng số 15 tháng 4/2006)

Trong đó:
(1): Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay.


9

(2): Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty
bán lẻ.
(3): Ngân hàng thanh tốn số tiền mua tài sản cịn thiếu cho cơng ty bán
lẻ.
(4): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(5): Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
So với cho vay tiêu dùng gián tiếp, cho vay tiêu dùng trực tiếp có những ưu
điểm sau:
• Trong cho vay tiêu dùng trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được sở
trường của nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chun
mơn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định
tín dụng trực tiếp của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường
hợp chúng được quyết định bởi những công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng
của cơng ty bán lẻ. Ngồi ra, trong hoạt động của mình, nhân viên tín dụng
ngân hàng có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản vay có chất lượng
tốt trong khi nhân viên của những công ty bán lẻ thường chú trọng đến việc
bán được hàng. Bên cạnh đó, tại các điểm bán hàng, các quyết định tín dụng
thường được đưa ra vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản tín dụng được
cấp ra một cách khơng chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do
quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với những

khách hàng tốt.
• Cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn so với cho vay tiêu dùng gián
tiếp.
• Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng có thể làm thoả mãn
nhu cầu của họ hơn.
1.1.5. Sự khác nhau của cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh của
ngân hàng thương mại


10

Mặc dù cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh đều là hình thức cấp tín
dụng của ngân hàng song giũa chúng có những điểm khác biệt lớn:
Bảng 1: Phân biệt cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh
Đối tượng

Cho vay tiêu dùng
Các cá nhân và hộ gia đình

Cho vay kinh doanh
Gồm các cá nhân, hộ gia đình và
các hãng kinh doanh

Mục đích sử dụng Nhằm mục đích phục vụ đời sống Nhằm tài trợ cho việc xây dụng
vốn vay

như mua sắm hàng hóa, dịch vụ, nhà xưởng, mua sắm trang thiết
xây dụng và tu sửa nhà cửa…

bị máy móc, nguyên vật liệu

phục vụ sản xuất kinh doanh

Đặc điểm

- Các khoản cho vay tiêu dùng - Các khoản vay kinh doanh có
thường có lãi suất “cứng nhắc”

lãi suất thay đổi theo điều kiện
thị trường

- Các khoản vay tiêu dùng có độ - Các khoản vay kinh doanh có
rủi ro cao

độ rủi ro thấp hơn

- Quy mô mỗi khoản vay tiêu dùng - Quy mô mỗi khoản vay lớn hơn
nhỏ nhưng số lượng các khoản vay nhưng số lượng các khoản vay
tiêu dùng lớn

nhỏ hơn

- Các khoản vay tiêu dùng mang - Các khoản vay kinh doanh có
lại lợi nhận cao cho ngân hàng

độ rủi ro thấp hơn nhưng mang
lại thu nhập thấp hơn cho ngân
hàng.

- Chi phí các khoản vay tiêu dùng - Các khoản vay kinh doanh
thường lớn


thuongf có chi phí thấp hơn

Về quy trình cho vay cả hai hình thức tín dụng trên đều phải trải qua các
quy trình sau:


11

- Bước 1: Tìm hiểu sơ bộ về khách hàng
- Bước 2: Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn
- Bước 3: Phân tích tín dụng
- Bước 4: Giải quyết tín dụng
- Bước 5: Giải ngân
- Bước 6: Thu nợ
Song nội dung, quy trình, thủ tục của từng bước giữa hai hình thức cho
vay có nhiều điểm khác biệt, tùy thuộc vào quy định của từng ngân hàng.
1.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng của ngân hàng
thương mại
1.1.6.1. Các nhân tố vĩ mô.
Giống như các thể chế kinh tế khác, các ngân hàng thương mại cũng hoạt
động và chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh như môi trường kinh tế
xã hội, môi trường quản lý, các mơi trường về văn hóa và các chính sách kinh
tế của nhà nước.
Môi trường kinh tế xã hội mà đặc trưng là trình độ phát triển kinh tế, thu
nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, mức sống của dân cư cùng với
chế độ xã hội có ảnh hưởng khá mạnh đến tới mức tiêu dùng của dân cư. Môi
trường này mà ổn định là một trong những điều kiện thúc đẩy người dân tiêu
dùng, hạn chế tiết kiệm do đó dẫn đến mở rộng hoạt động cho vay của ngân
hàng. Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống văn bản pháp luật của nhà nước

cũng là một nhân tố vĩ mơ khác có tác động sâu rộng đến hoạt động cho vay
tiêu dùng của các ngân hàng thương mại. Mơi trường pháp lý có ảnh hưởng
đến trật tự, tính ổn định và tạo điều kiện cho hoạt động cho vay tiêu dùng diễn
ra thông suốt, đảm bảo sự phát triển bền vững, hạn chế những rắc rối tổn hại
đến lợi ích của các bên tham gia quan hệ vay mượn. Nếu hệ thống pháp luật
có quy định đầy đủ cụ thể các vấn đề về cho vay tiêu dùng sẽ thúc đẩy người


12

tiêu dùng tìm đến ngân hàng đồng thời cũng khuyến khích tính tích cực của
các ngân hàng tham gia lĩnh vực này. Ngược lại, nếu tất cả các quy định đều
mang tính chung chung khơng rõ ràng sẽ khiến cả ngân hàng và khách hàng
gặp nhiêu khó khăn trong việc đi đến một thỏa thuận chung.
Mơi trường văn hóa như thói quen, tâm lý, trình độ học vấn, bản sắc dân
tộc (thể hiện qua những nét tính cách của người dân như thích tằn tiện hay ưa
hưởng thụ) hoặc các yếu tố về nơi ở, nơi làm việc…cũng ảnh hưởng lớn đến
thói quen chi dùng của người tiêu dùng.
Hoạt động cho vay tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng của hệ thống các chính
sách và chương trình kinh tế của nhà nước, nếu nhà nước tăng đầu tư hoặc đưa
ra các biện pháp thơng thống để khuyến khích đầu tư trong nước và tăng đầu
tư nước ngoài như giảm các thủ tục rườm rà, giảm thuế cho các công ty mới
thành lập, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Đây rõ ràng là tiền đề
thuận lợi để phát triển cho vay tiêu dùng. Mặt khác các chính sách như giảm
thuế thu nhập, áp dụng lãi suất ưu đãi đối với cho vay hộ nông dân, hộ nghèo,
các hộ dân tộc ở miền núi, các chương trình xóa đói giảm nghèo nhằm thực
hiện công bằng xã hội. Tất cả các biện pháp này sẽ có ảnh hưởng đến cầu tiêu
dùng của dân cư trước mắt và lâu dài
Tuy nhiên, muốn thực hiện tốt tất cả những chủ trương chính sách và
những chương trình hành động trên cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa

các cấp, các nghành, các cơ quan, doanh nghiệp với nhau và giữa các tổ chức
đó với các ngân hàng thương mại.


13

1.1.6.2. Các nhân tố vi mô.
Những nhân tố vi mô ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng nằm
trong phạm vi ngân hàng bao gồm các nhân tố khách quan từ phía khách hàng
và nhân tố chủ quan từ bản thân ngân hàng.
* Những nhân tố khách quan:
Trong nhóm các nhân tố khách quan này, trước hết phải kể đến đạo đức
khách hàng, được đánh giá dựa trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Vì rằng
nếu thực sự khách hàng có thu nhập cao, ổn định để trả nợ, thậm chí đưa ra
được điều kiện đảm bảo tốt thì chưa chắc họ đã có thiện trí khi trả nợ. Bởi lẽ,
khi đi vay, có thể người vay vẫn có ý định trả nợ đầy đủ, nhưng trong sử dụng
tiền vay, có thể do tư cách, do lịng tham hoặc muốn làm giàu nhanh chóng họ
sử dụng vốn vay sai mục đích vì khơng phải lúc nào ngân hàng cũng có đầy
đủ thơng tin về người đi vay. Mặt khác, với những lĩnh vực có rủi ro cao thì
khả năng mang lại lợi nhuận cũng cao do đó người đi vay sẽ tìm mọi cách để
có được khoản vay đó. Nên trước khi cho vay, các cán bộ tín dụng phải đánh
gíá độ tín nhiệm của khách hàng trên cơ sở tính thật thà của người vay, ý
muốn kiên quyết của khách hàng trong việc thực hiện tất cả các giao ước
trong hoạt động tín dụng, điều này được thể hiện một phần trong hồ sơ của
người xin vay.
Năng lực pháp lý là những quy định cụ thể về mặt pháp lý mà người vay
cần phải có, đây là cơ sở hình thành nghiệp vụ trả nợ của khách hàng trong
quan hệ tín dụng, thơng qua thẩm định về năng lực pháp lý. Ngân hàng có thể
biết được hiện khách hàng có liên quan đến vụ án nào hay khơng, tài sản đảm
bảo có liên quan đến các vụ kiện hoặc các tranh chấp hay có quan hệ với các

tổ chức tín dụng khác khơng.
Khả năng tài chính của khách hàng cũng là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng, nếu khách hàng có thu nhập cao và ổn


14

định thì việc trả nợ ngân hàng thường ít ảnh hưởng đến các chi tiêu khác trong
gia đình, đặc biệt là các nhu cầu thiết yếu và với những người này họ sẵn sàng
thanh toán tiền cho ngân hàng để tránh những rắc rối về mặt pháp lý có thể
gây ảnh hưởng đến nghề nghiệp công việc của họ. Ngược lại, với những cá
nhân hoặc hộ gia đình có thu nhập khơng ổn định hoặc thu nhập ở mức trung
bình thì việc thu hồi nợ của ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn do họ khơng
biết trước thời điểm sẽ nhận được thu nhập là khi nào, và bao giờ mới tích luỹ
đủ để trả nợ ngân hàng. Ngày nay, phần lớn các món vay tiêu dùng quy định
nguồn trả là thu nhập thường xuyên của khách hàng trong tương lai, ngoại trừ
các khoản cho vay ngắn hạn.
Tài sản đảm bảo là cơ sở pháp lý có thêm nguồn thu nợ thứ hai cho ngân
hàng ngoài nguồn thu nợ thứ nhất, mang tính dự phịng rủi ro. Mặc dù nắm
giữ tài sản đảm bảo song nếu khách hàng không trả nợ thì ngân hàng phải đối
mặt với rủi ro thu nhập vì muốn phát mại tài sản phải có thời gian và phải mất
chi phí khác liên quan, đó là chưa kể đến có thể tại thời điểm đó giá trị tài sản
trên thị trường khơng được duy trì như khi định giá để cho vay. Vì vậy, tài sản
đảm bảo khơng giữ vai trị quyết định trong việc khách hàng vay hay khơng
mà nó chỉ là một tiêu chuẩn để xét duyệt khi cho vay.
* Những yêu tố chủ quan:
Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của
ngân hàng thương mại nằm trong các quy định và các định hướng phát triển
của ngân hàng. Nếu ngân hàng khơng có một định hướng tồn thể về phát
triển cho vay tiêu dùng thì cũng có nghĩa là khơng có một hoạt động nào dành

cho sự phát triển của hoạt động này.
Nội dung làm việc và chế độ thưởng phạt nghiêm minh cũng ảnh hưởng
nhất định đến hoạt động cho vay tiêu dùng, nội quy làm việc quy định nghiêm
ngặt sẽ nâng cao trách nhiệm của các cán bộ trong công việc cũng như thái độ


15

của họ đối với khách hàng. Việc thưởng phạt nghiêm minh sẽ khuyến khích
các cán bộ ngân hàng học hỏi, phấn đấu để nâng cao khả năng trình độ của
mình, những yếu tố trên không những tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng khi
đến ngân hàng mà còn thu hút được sự quan tâm của số lượng lớn các khách
hàng đối với những sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Nếu như đạo đức người vay được xếp vào vai trị hàng đầu các nhân tố
khách quan thì đạo đức cán bộ tín dụng cũng ở vị trí tương đương trong nhóm
các nhân tố chủ quan. Nhiều cán bộ tín dụng vì tư lợi cá nhân mà làm tổn hại
cho cả ngân hàng và khách hàng. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, các
khách hàng sẵn sàng tìm đến ngân hàng khác nếu họ thấy rằng không đáng tin
cậy vào cán bộ trực tiếp quản lý khoản vay của họ, nếu bên cạnh trình độ
nghiệp vụ cao và trình độ hiểu biết rộng, các cán bộ ngân hàng phải ln trau
dồi đạo đức, đặt lợi ích khách hàng và ngân hàng lên hàng đầu, sẵn sàng từ
chối các khoản vay nếu thấy có vấn đề và càng khơng vì nhu cầu cấp thiết của
người vay mà ép họ tư lợi cho bản thân.
Kỹ thuật và thủ tục thẩm định hiệu quả và không rườm rà, phức tạp là
một trong những phương thức quan trọng để thu hút khách hàng. Tuy nhiên sự
tồn tại các kỹ thuật và thủ tục này là khơng chỉ nhằm mục đích đó mà nhằm
đưa ra các đánh giá đúng đắn về khách hàng, về các khoản vay, từ đó có các
quyết định cho vay đúng đắn. Một hệ thống kỹ thuật thẩm định hợp lý, khoa
học, thống nhất là yếu tố quyết định chất lượng thẩm định và do đó quyết định
chất lượng khoản vay.

Bên cạnh các yếu tố trên, yếu tố vốn cũng giữ vai trò quan trọng, ảnh
hưởng đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tín dụng
nói riêng. Cũng như các doanh nghiệp kinh doanh khác, muốn tiến hành kinh
doanh ngân hàng cũng phải có vốn. Vốn tự có của ngân hàng càng lớn thì
ngân hàng càng có khả năng mở rộng phạm vi cho vay và tăng cường cung


16

cấp các sản phẩm dịch vụ… Mặt khác, khi có vốn lớn, các ngân hàng cũng có
điều kiện đầu tư vào các cơ sở hạ tầng, máy móc cơng nghệ, nâng cao khả
năng cạnh tranh và uy tín của ngân hàng đồng thời đảm bảo được an toàn, hạn
chế được rủi ro trong hoạt động.
1.2. Tổng quan thực trạng cho vay tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay.
1.2.1. Khái quát nhu cầu vay tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay
Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có nhiều đổi thay: tốc độ tăng trưởng
kinh tế ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên
đáng kể, hàng hoá phong phú, đa dạng, vị thế đất nước được cải thiện rõ rệt
trong khu vực và trên thế giới. Có được điều đó, bên cạnh sự nỗ lực của tất cả
các thành viên trong xã hội cịn có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà
nước thể hiện trong việc hoạch định đường lối, chính sách theo hướng thơng
thống hơn, phù hợp với tình hình chung trên thế giới.
Năm 2006, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ổn định ở mức gần
8,2%, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn viện trợ phát triển chính
thức đạt mức kỷ lục (10,2 tỷ USD), xuất khẩu tăng trưởng cao với tổng kim
ngạch đạt 39,6 tỷ USD, thị trường chứng khoán bùng nổ với chỉ số VN –
Index đã lên tới trên 1000 điểm. Sự kiện Việt Nam chính thức là thành viên
của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) từ tháng 1 – 2007 và Tổng thống
Mỹ ký Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR) tạo
cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập bình đẳng với nền kinh tế thế giới.

Kinh tế phát triển đã thúc đẩy nhiều hoạt động, một trong số đó là hoạt
động tiêu dùng của người dân. Nếu như trước đây, mong ước của họ chỉ là “ăn
no mặc ấm” thì đến nay điều họ quan tâm là “ăn ngon mặc đẹp” và làm sao
đảm bảo cuộc sống tốt hơn cho bản thân và những người xung quanh. Mặc dù,
thu nhập hiện nay trong dân đã tăng nhưng chưa đồng đều, một bộ phận nhỏ là
có thu nhập cao cịn lại là có thu nhập thấp và trung bình, số thu nhập này


17

thường không đáp ứng đủ nhu cầu chi tiêu và họ phải đi vay. Nắm bắt được
thực tế đó, các tổ chức tín dụng đã thực hiện cung cấp các khoản cho vay tiêu
dùng dưới nhiều hình thức và quy mô, đáp ứng nhu cầu khác nhau của người
dân. Các Ngân hàng thương mại quốc doanh, trước đây, không quan tâm chú
trọng nhiều đến lĩnh vực cho vay tiêu dùng nên thường cung cấp những khoản
cho vay có quy mơ nhỏ nhưng hiện nay đã bắt đầu nhìn ra tiềm năng to lớn
của thị trường này và có những chiến lược cạnh tranh hợp lý. Các Ngân hàng
thương mại cổ phần và ngân hàng nước ngoài thực hiện cho vay tiêu dùng khá
sớm (Ngân hàng thương mại Cổ phần Á Châu, Ngân hàng nhà Hà Nội,
Sacombank…) với các sản phẩm như cho vay mua nhà, cho vay tiêu dùng đối
với các cán bộ công nhân viên chức, cho vay các tiểu thương … nhưng do quy
mô vốn nhỏ nên khả năng cạnh tranh chưa cao. Trong khi các ngân hàng đẩy
mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng thì các cơng ty cho thuê tài chính, ngân
hàng tiết kiệm bưu điện … lại chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực này. Đây là
một thuận lợi cho các ngân hàng hiện nay. Nhưng trong tương lai, khi đội hội
đủ điều kiện, các tổ chức tín dụng trên sẽ trở thành những đối thủ cạnh tranh
mạnh với các ngân hàng về sản phẩm, dịch vụ cũng như công nghệ hiện đại và
quy mơ vốn.
1.2.2. Những thuận lợi và khó khăn của hoạt động cho vay tiêu dùng tại
Việt Nam hiện nay.

* Những thuận lợi
- Sự phục hồi và phát triển kinh tế của nước ta trong nhưng năm qua
Trong thời gian qua nền kinh tế của Việt Nam có mức tăng trưởng nhanh,
mạnh và đứng thứ hai trong khu vực chỉ sau Trung Quốc. Kinh tế tăng trưởng,
chính trị ổn định là môi trường thuận lợi thúc đẩy các hoạt động đầu tư, xây
dụng, kinh doanh… phát triển. Tốc độ tăng trưởng trong GDP trong nhưng
năm vừa qua:


18

Bảng 2 : Tốc độ tăng trưởng GDP
Năm
Tốc độ tăng

2001
6.9

2002
7.1

2003
7.3

2004
7.8

2005
8.4


GDP (%)
(Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2006)

Và trong nghị quyết của kỳ họp thứ 8 quốc hội khóa XI, GDP năm 2006
sẽ tăng trưởng 8% so với năm 2005, qua đó có thể nhận thấy quyết tâm của
Đảng và Nhà nước ta biến Việt Nam là một môi trường đầu tư thuận lợi thu
hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước thúc đẩy nên kinh tế phát triển hơn
nưa, tạo ra nhiều công ăn việc làm. Với sự tăng trưởng manh mẽ trong những
năm vừa qua đã cho chúng ta thấy một vị thế mới của Việt Nam trên trường
quốc tế. Những đấu hiệu đó đã chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi và
sãn sàng bước vào hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho các hoạt động của ngân
hàng nói chung và hoạt động cho vay tín dụng nói riêng ngày càng phát triển.
- Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế đất nước vượt qua khó khăn thử
thách, tiếp tục q trình cơng nghiệp hố - hiện đại hố và tạo mơi trường
thuận lợi cho hoạt động sản xuất- kinh doanh, hoạt động tài chính- tiền tệ,
lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trưng, chính sách mới, phù
hợp với nhu cầu và nguyện vọng của người dân, trong số đó có quyết định
tăng số ngày nghỉ lên 2 ngày/tuần và quyết định tăng lương với mức tối thiểu
là 450.000 đồng/1lao động/1 tháng đã thúc đẩy hoạt động tiêu dùng của người
dân tăng mạnh
Hoạt động tiền tệ- tín dụng cũng đạt được những kết quả mới sau khi
chuyển từ ấn định lãi suất sang áp dụng lãi suất thỏa thuận, làm cho tăng
trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng huy động- điều chưa từng xảy ra trong


19

các năm trước đó. Tâm lý nắm giữ USD giảm hẳn do tỷ giá VND/USD ổn
định, tốc độ tăng giá đồng USD năm 2005 là 1.2%, bằng một nửa tốc độ tăng

giá hàng tiêu dùng và bằng một nửa so với năm 2003.
Bảng 3: Tổng phương tiện thanh toán, huy động vốn và dư nợ tín
dụng so với GDP trong thời kỳ 1989-2004

(Nguồn: Thông cáo của ngân hàng nhà nước Viêt Nam3/2007)

* Những khó khăn
- Tỷ lệ thất nghiệp tại các đơ thị cịn khá lớn và diễn biến phức tạp


20

Bảng 4: Tỷ lệ thất nghiệp tại các thành phố lớn
Năm
Chỉ tiêu
Tp Hà Nội
Tp Đà Nẵng
Tp Hồ Chí Minh

2000

2001

2002

2003

7.95
5.95
6.48


7.39
5.54
6.04

7.08
5.30
6.73

6.84
5.16
6.58

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Từ bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta
còn khá cao, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Tp Hồ
Chí Minh. Hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tuy đã giảm nhưng vẫn ở mức cao
(khoảng 6.01% vào năm 2002). Đặc biệt, cơ cấu lao động của nước ta còn
nhiều điểm bất cập, xuất phát từ cơ chế đào tạo chưa hợp lý, bộ phận quản lý
thì thừa biên chế trong khi các ngành kỹ thuật vẫn thiếu kỹ sư. Mặc dù, Nhà
nước đã có những chủ trương, chính sách thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao
động cho hợp lý nhưng công việc tiến hành rất chậm, chẳng những làm ảnh
hưởng đến năng suất lao động của cả nước nói chung mà cịn làm cho thu
nhập của dân cư và sức mua có khả năng thanh tốn khơng được cải thiện
nhiều.
- Cơ cấu và thu nhập của dân cư còn nhiều điểm chưa hợp lý
Dân cư nước ta phân bố khơng đều và có sự chênh lệch về mức sống,
trình độ, tích luỹ và thói quen chi tiêu….Những người có thu nhập trung bình
và cao tập trung ở thành thị cũng có nghĩa là số này chiếm tỷ trọng nhỏ,

khoảng 25%, còn lại khoảng 75% dân số sống ở nơng thơn có thu nhập cũng
như mức sống thấp, khả năng tiêu dùng hàng hoá rất hạn chế. Thêm vào đó,
mức cầu tiêu dùng của người dân ở khu vực đô thị, tức bộ phận có thu nhập
trung bình và cao, đã giảm so với thu nhập của họ từ 77.48% năm 1996 xuống
còn khoảng 65,15% hiện nay. Bản chất của hoạt động cho vay nói chung và
cho vay tiêu dùng nói riêng là cho phép sử dụng trước thu nhập trong tưng lai.


21

Việc giảm tiêu thụ hàng hố cũng có nghĩa là nhu cầu vay để sử dụng hàng
hoá giảm, điều này sẽ có ảnh hưởng xấu đến hoạt động cho vay tiêu dùng của
các ngân hàng.
Ngoài các yếu tố trên, các yếu tố về văn hoá- xã hội, cạnh tranh ngân
hàng… cũng có ảnh hưởng rất mạnh đối với hoạt động tín dụng nói chung và
hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng của các ngân hàng.
1.2.3. Các đối thủ cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng
Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng đang ngày càng gay gắt, không chỉ
giữa các ngân hàng trong nước với nhau, mà còn giữa các ngân hàng trong
nước với ngân hàng nước ngoài, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính.
Tuy nhiên trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, các tổ chức tài chính chưa thực sự
là đối thủ cạnh tranh mạnh vì họ chưa quan tâm nhiều đến lĩnh vực này. Cịn
lại, hầu hết các ngân hàng đều tích cực phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng,
bởi lẽ, hơn ai hết, họ ý thức được những lợi ích to lớn mà cho vay tiêu dùng
mang lại: việc tập trung tương đối vào khu vực dân cư đã tạo điều kiện thuận
lợi cho các ngân hàng tạo dựng danh tiếng trong khu vực này đồng thời có thể
thu hút nguồn vốn ổn định và tưng đối rẻ do đó, thu về một tỷ suất lợi nhuận
cao hơn.
Hiện nay, đối thủ cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng có thể
được chia thành 3 nhóm chính:

+Nhóm 1: Bao gồm các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Đây là các
ngân hàng có ưu điểm nổi trội về vốn, thị trường, bề dày hoạt động và mạng
lưới đối tác. Các ngân hàng này có quy mơ hợp lý, cơ cấu tối ưu, giá thành
huy động vốn rẻ vì vậy họ cạnh tranh mạnh về giá song điểm yếu của họ là
chất lượng và tinh thần phục vụ, tác phong làm việc còn mang nặng tính quan
liêu. Tuy nhiên, gần đây họ đã bắt đầu đầu tư vào nâng cấp chất lượng dich vụ


22

và cạnh tranh ngày càng mạnh trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, tạo sức ép
ngày càng tăng lên các ngân hàng cổ phần.
+Nhóm 2: Gồm các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng liên doanh
vốn. Các ngân hàng này nhằm vào các khách hàng truyền thống là cộng đồng
người nước ngồi tại Việt Nam do họ có ưu thế về chất lượng dịch vụ, nổi bật
trong số này là HSBC, ANZ…. Bên cạnh đó, trên tiến trình hội nhập WTO
vào ngày 1-4-2007 vừa qua, thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký quyết định
cho phép các ngân hàng nước ngoài được phép lập ngân hàng chi nhánh tại
Việt Nam. Đây chính là những đối thủ cạnh tranh trước mắt của các ngân
hàng thương mại cổ phân nói chung.
+ Nhóm 3: Các ngân hàng cổ phần. Đây là nhóm khơng đồng nhất. Các
ngân hàng cổ phần thành công nhất là có định hướng khách hàng rõ ràng, tập
trung vào một thị phần nhất định. Hiện nay, các ngân hàng ACB và
SACOMBANK đang dẫn đầu về hoạt động cho vay mua nhà, cho vay cán bộ
công nhân viên và cho vay các tiểu thương.
1.3. Những văn bản pháp luật quy định hoạt động cho vay tiêu dùng
Tính đến thời điểm hiện nay, các văn bản pháp luật quy định các vấn đề
có liên quan đến hoạt động cho vay tiêu dùng như sau:
Thông tư 06/2000/TT-NHNN1 ngày 4/4/2000 trong chưng VI mục 1
quy định: “Tổ chức tín dụng được phép lựa chọn khách hàng vay để cho vay

khơng có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phưng án sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và đời sống đối với khách hàng vay”. Trong đó một trong các điều
kiện được vay vốn là “Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ khả thi phù hợp với quy định của pháp luật. Trường hợp vay để phục
vụ nhu cầu thiết yếu của đời sống thì khách hàng vay phải có phương án trả
nợ khả thi”.


23

Tiếp đến, trong quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001
của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về “Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng”, điều 8 có quy định: “Tổ chức tín dụng xem xét
quyết định cho khách hàng vay theo các thể loại ngắn hạn, trung hạn, và dài
hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đời sống và
các dự án đầu tư phát triển”. Đồng thời, điều 19 cũng quy định: “Tổ chức tín
dụng khơng được cho vay đối với thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ
chức tín dụng, cán bộ nhân viên trong chính tổ chức tín dụng đó thẩm định
quyết định cho vay. Tổ chức tín dụng cũng khơng được cho vay đối với bố,
mẹ, vợ, chồng, con của các thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng
giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc)”. Như vậy, với quy
định mới này, những đối tượng trên sẽ khơng được vay (kể cả cho mục đích
tiêu dùng) tại những tổ chức tín dụng mà bản thân họ là người làm nhiệm vụ,
người giữ chức vụ hoăc có thân nhân là người trực tiếp làm nhiệm vụ hoặc giữ
chức vụ.
Bên cạnh các văn bản pháp quy quy định về cho vay tiêu dùng đối với
khách hàng, Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam cũng ban hành các văn bản pháp
luật quy định việc cho vay tiêu dùng đối với các cán bộ cơng nhân viên nhằm

mục đích chính đáng như nâng cấp nhà ở, mua phương tiện đi lại…
Tuy nhiên, các văn bản đó chỉ đưa ra những quy định chung nhất, khi
áp dụng vào thực tế hoạt động của các ngân hàng thì cịn nhiều điểm thiếu,
chưa phù hợp. Do vậy, mỗi ngân hàng, tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và
đặc điểm của mỗi sản phẩm, dịch vụ cung cấp, đều đưa ra những quy định
riêng dựa trên cơ sở những quy định chung đó. Là một trong những Ngân
hàng thương mại cổ phần thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng ngay từ khi


24

nhu cầu của dân cư bắt đầu tăng, HDBank cũng đã ban hành một số quy định
cụ thể về hoạt động cho vay tiêu dùng thông qua thực tiễn hoạt động:
- Quyết định số 00163/QĐ-HĐQT ngày 08/02/2002 của hội đồng quản
trị Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Nhà TP HCM về “Quy chế cho
vay đối với khách hàng”, khoản 4 điều 6 quy định điều kiện vay vốn “Có khả
năng tài chính đủ đảm bảo thực hiện phương án kinh doanh, phương án phục
vụ đời sống và đủ trả nợ trong thời gian cam kết: Phải có vốn tự có tham gia
vào phương án kinh doanh, phương án phục vụ đời sống với tỷ lệ tối thiểu là
30% tổng chi phí thực hiện phương án kinh doanh, phương án phục vụ đời
sống đối với trường hợp cá nhân vay vốn”
- Quyết định số 00622/TCB-QĐ.TGĐ ngày 8/7/2002 của Tổng giám đốc
Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Nhà TP HCM về thể lệ “Cho vay
nhà mới”, Điều 1 quy định “Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Nhà TP
HCM cho các đối tượng là thể nhân và pháp nhân vay vốn bằng VND xây,
mua, sửa nhà, chuyển quyền thuê lại nhà của Nhà nước và chuyển quyền sử
dụng đất theo chưng trình “Cho vay nhà mới” nhằm thực hiện đa dạng hoá sản
phẩm, tạo điều kiện cho việc cải thiện tình trạng về nhà ở, nâng cao chất
lượng cuộc sống cho nhân dân và tạo điều kiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế trong quá trình sản xuất, kinh doanh”. Đồng thời, điều 3

cũng quy định “Trường hợp vay vốn xây, sửa nhà, mức vay tối thiểu là 30
triệu đồng, mức vay tối đa là 2 tỷ đồng, trường hợp mua nhà, chuyển quyền sử
dụng đất thì mức vay tối thiểu là 50 triệu đồng, mức vay tối đa là 7 tỷ đồng”.
- Quyết định 01377/QĐ-TGĐ của Tổng giám đốc Ngân hàng thương
mại cổ phần Phát triển Nhà TP HCM về việc “Cho cán bộ cơng nhân viên
mua nhà trả góp”, điều 2 quy định điều kiện hưởng ưu đãi như sau: “Cán bộ
công nhân viên đang làm việc tại HDBank tối thiểu là 2 năm, các đối tượng
chưa đủ 2 năm nhưng có thành tích cơng tác xuất sắc, cán bộ cấp trưởng


25

phịng, trưởng quỹ trở lên có thể được ban Tổng giám đốc xem xét và quyết
định”.


×