Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Đưa Vào Kinh Doanh Khi Ly Hôn.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.1 KB, 51 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>PHẦN MỞ ĐẦU ... 5 CHƯƠNG 1. ... 9 KHÁI QUÁT VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ĐƯA VÀO KINH DOANH KHI LY HÔN ... 9 1.1. Khái quát về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn9 </b>

<i>1.1.1 Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn ... 9 1.1.2. Đặc điểm của chia tài sản của vợ chồng khi đưa vào kinh doanh khi ly hôn ... 14 1.1.3. Ý nghĩa của quy định về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn ... 17 </i>

<b>1.2. Quy định của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn ... 20 </b>

<i>1.2.1. Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn theo pháp luật hơn nhân và gia đình ... 20 1.2.2. Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn theo pháp luật về kinh doanh ... 24 </i>

<b>CHƯƠNG 2 ... 29 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ĐƯA VÀO KINH DOANH KHI LY HÔN VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN ... 29 2.1. Trường hợp có chuyển dịch quyền sở hữu từ tài sản của vợ chồng sang tài sản công ty, doanh nghiệp ... 29 </b>

<i>2.1.1. Chia tài sản chung của vợ chồng là cổ phần trong công ty cổ phần ... 29 2.1.2. Chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp vợ chồng góp vốn vào cơng ty trách nhiệm hữu hạn ... 35 </i>

<b>2.2. Trường hợp khơng có sự chuyển dịch quyền sở hữu tài sản của vợ chồng sang tài sản công ty, doanh nghiệp ... 42 </b>

<i>2.2.1. Chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp vợ chồng kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh ... 42 2.2.2. Chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp vợ chồng đưa tài sản chung vào thành lập doanh nghiệp tư nhân ... 45 </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>KẾT LUẬN ... 49 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 50 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT </b>

Công ty trách nhiệm hữu hạn Công ty TNHH

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>

Gia đình ln đóng một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, nó được coi như “tế bào” của xã hội. Một trong những chức năng cơ bản của gia đình là chức năng kinh tế, nội dung của nó là quá trình các thành viên tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra của cải và vật chất cho gia đình, cũng như sự tồn tại và phát triển của gia đình. Để xây dựng và phát triển gia đình, giữa vợ và chồng cần có các khối tài sản nhằm đảm bảo đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Song hành với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tài sản của vợ chồng ngày nay còn được dùng vào nhiều mục đích, trong đó có việc đưa tài sản chung vào kinh doanh với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, phát triển khối tài sản chung của vợ chồng.

Tuy nhiên, không phải cặp vợ chồng nào cũng có một cuộc hơn nhân lâu dài và hạnh phúc viên mãn. Những mâu thuẫn trong hôn nhân ln là lý do chính dẫn đến ly hơn. Có thể nói, ly hơn là mặt trái của kết hơn, việc giải quyết ly hơn và hậu quả của nó luôn mang đến những hệ luỵ nhất định cho các thành viên trong gia đình nói riêng và cho xã hội nói chung. Hiện nay, trong q trình chung sống các cặp vợ chồng luôn tham gia vào các giao dịch dân sự, thương mại khác nhau để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống gia đình. Đặc biệt, nhu cầu kinh doanh của các cá nhân trong nền kinh tế thị trường là rất cao. Đáp ứng nhu cầu xã hội và trù liệu cơ chế pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh số vụ việc ly hơn được Tịa án thụ lý và giải quyết ngày một gia tăng, nhà làm luật đã bổ sung cơ chế chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình (sau đây viết tắt là Luật HNGĐ) năm 2014.

Là cơ chế pháp lý mới mẻ nên việc áp dụng quy định này vào giải quyết các tranh chấp nảy sinh khiến cho cơ quan xét xử gặp khơng ít khó khăn, trở ngại. Vì vậy, việc

<i><b>nghiên cứu đề tài “Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn” </b></i>

là điều hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

<b>2. Tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài </b>

Trong thời gian qua đã một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn. Có thể tạm phân loại các cơng trình nghiên cứu này thành ba nhóm lớn như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i>Nhóm các luận văn: Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu trong nhóm này có: - Ngô Khánh Tùng (2020), Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP. HCM; - Phạm Xuân Lộc (2020), Chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. </i>

Nhìn một cách tổng quan, các cơng trình này hoặc có phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau trong vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn. Đây là những tài liệu có giá trị tham khảo nhất định có việc nghiên cứu đề tài này, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường tiếp tục có nhiều biến động qua các năm.

<i>Nhóm các giáo trình, sách chun khảo: Trong nhóm này có thể kể đến một số </i>

cơng trình tiêu biểu như:

<i>- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Giáo trình Luật HNGĐ (tái bản lần thứ nhất, có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Hồng Đức. Trong cuốn sách này, chế </i>

định chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh chỉ được phân tích một cách chung chung, có tính chất tổng qt, chứ khơng phân tích chuyên sâu và cụ thể.

<i>- Nguyễn Ngọc Điện, Đoàn Thị Phương Diệp (2020), Pháp luật về quan hệ tài sản giữa vợ chồng, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là cuốn sách phân </i>

tích chi tiết các vấn đề pháp lý xoay quanh chế độ tài sản của vợ chồng. Cuốn sách cũng có nhắc đến cơ chế pháp lý về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn nhưng chỉ mang tính chất khái qt, chủ yếu tác giả tập trung phần lớn dung lượng để bàn về nguyên tắc phân tích tài sản chung thơng thường của vợ chồng.

<i>Nhóm các bài viết tạp chí: Có thể kể đến một số bài viết tiêu biểu như: </i>

- Lê Vĩnh Châu, Ngô Khánh Tùng (2021), “Chia tài sản chung của vợ chồng đưa

<i>vào kinh doanh khi ly hơn”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 03. </i>

- Lê Vĩnh Châu, Ngô Khánh Tùng (2021), “Bàn về chia tài sản chung của vợ chồng

<i>trong doanh nghiệp qua một vụ án ly hơn”, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 07. </i>

- Nguyễn Vinh Hưng (2022), “Xác định tài sản chung của vợ chồng đối với doanh

<i>nghiệp tư nhân - một số vướng mắc và kiến nghị”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 24. </i>

Các bài này phân tích chi tiết một vấn đề cụ thể xoay quanh việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn, nhưng do tính chất của một bài viết nghiên

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

cứu, tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh hoặc một trường hợp cụ thể liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn. Do đó, cơng trình này cần tiếp tục được triển khai nghiên cứu theo hướng toàn diện và bao qt hơn.

Ba nhóm cơng trình nghiên cứu kể trên, phần lớn các tác giả đã phân tích, đánh giá việc áp dụng pháp luật, nhận diện những bất cập, hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn. Trên cơ sở đó, các tác giả đã nêu ra quan điểm cá nhân của mình tương thích với các hình thức pháp lý mà vợ chồng lựa chọn đưa tài sản chung vào kinh doanh. Đây là những cơng trình mà tác giả có thể tham khảo, phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài khoa học này.

<b>3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu </b>

Cơng trình nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích tìm ra các vướng mắc trong quy định của pháp luật thực định về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn và trên cơ sở đó đưa ra các kiến giải phù hợp với tình hình thực tế. Với mục đích này, cơng trình nghiên cứu phải thực hiện các nhiệm vụ sau:

<i>Thứ nhất, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về chia tài </i>

sản chung vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn;

<i>Thứ hai, phân tích, nhận diện những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành khi </i>

vận dụng những quy định trên trong thực tiễn phân chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn;

<i>Thứ ba, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về chia </i>

tài sản chung vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn.

<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

<i><b>Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về vấn đề chia tài sản chung của vợ </b></i>

chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn trên phương diện lý luận, thực tiễn và các quy định

<i><b>của pháp luật Việt Nam hiện hành liên quan đến vấn đề này. </b></i>

<i><b>Phạm vi nghiên cứu: Nhóm tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung </b></i>

của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn trong quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam với nhau. Do vậy, các vấn đề xoay quanh việc chia tài sản chung đưa vào kinh doanh trong trường hợp ly hơn có yếu tố nước ngồi khơng được trình bày trong cơng trình này. Mặt khác, dưới khía cạnh cơ chế pháp lý, nhóm tác giả chú trọng nghiên cứu pháp Luật HNGĐ trong sự so sánh, tham chiếu đến pháp luật về kinh doanh, cụ thể là

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

quy định của Luật Doanh nghiệp (sau đây viết tắt là Luật DN). Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng so sánh, đối chiếu với pháp luật một số nước trên thế giới nhằm tăng tính thuyết phục của các kiến giải.

<b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>

Đề tài này được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu kết hợp một số phương pháp, cụ thể như sau:

Phương pháp phân tích: Cơng trình đã hệ thống hóa và phân tích khái niệm, những điểm đặc trưng về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn được sử dụng trong chương 1 của đề tài.

Phương pháp so sánh: Trong q trình nghiên cứu, nhóm tác giả dựa trên các bài nghiên cứu trước đó, quy định của pháp luật Việt Nam và quy định của pháp luật nước ngồi. Từ đó, so sánh các quy định với nhau rồi đưa ra kết luận về quy định chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn. Phương pháp này được sử dụng trong chương 2 của đề tài.

Phương pháp tổng hợp: Cơng trình tổng kết lại các nội dung đã nghiên cứu, phương pháp tổng hợp được thể hiện rõ trong kết luận từng chương và kết luận của đề tài.

<b>6. Kết cấu của cơng trình </b>

Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của cơng trình nghiên cứu khoa học này được chia thành 02 chương, cụ thể:

Chương 1. Khái quát và quy định của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn.

Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn và kiến nghị hoàn thiện.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>CHƯƠNG 1. </b>

<b>KHÁI QUÁT VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ĐƯA VÀO KINH DOANH KHI LY HÔN </b>

<b>1.1. Khái quát về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn </b>

<i><b>1.1.1 Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn </b></i>

Tài sản theo ý nghĩa thông thường là “của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”<sup>1</sup>. Theo thuật ngữ pháp lý thì “tài sản là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm vật có thực, vật đang tồn tại và sẽ có hoa lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo như mẫu đã thỏa thuận giữa các bên, tiền và giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản”<sup>2</sup>. Pháp luật hiện hành

<i>cũng có định nghĩa về tài sản, theo đó, “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”</i><small>3</small>.

Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc chế độ tài sản theo luật định<small>4</small>. Nếu lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận nhưng thỏa thuận đó bị tun bố vơ hiệu hoặc phát sinh những vấn đề chưa được thỏa thuận, thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng chế độ tài sản theo luật định. Tài sản của vợ chồng có thể bao gồm tài sản chung và tài sản riêng. Khoản 1 Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014

<i>theo hướng liệt kê các loại tài sản chung của vợ chồng “tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”. Tài sản này chỉ có thể tồn tại giữa những người có quan hệ vợ chồng </i>

- tức là có đăng ký kết hơn và được pháp luật thừa nhận. Nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ, đối với trường hợp là “hôn nhân thực tế”, nam, nữ sống chung trước ngày 3/1/1987 mà không đăng ký kết hôn nhưng thỏa các điều kiện công nhận hai người là

<small> </small>

<small>1</small><i><small> Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 884. </small></i>

<small>2</small><i><small> Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, tr. 685.</small></i>

<small>3 Điều 105 BLDS năm 2015. </small>

<small>4 Khoản 1 Điều 28 Luật HNGĐ năm 2014. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

vợ chồng thì thời kỳ hơn nhân tính từ ngày sống chung. Tài sản chung của vợ chồng phát sinh từ thời điểm các bên bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng<sup>5</sup>.

Các căn cứ để xác định tài sản chung theo quy định của Luật HNGĐ năm 2014 dựa vào: thời điểm phát sinh, nguồn gốc hình thành, ý chí của vợ chồng và suy đoán pháp lý.

<i>Đầu tiên, “tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân từ thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và các thu nhập hợp pháp khác có được trong thời kỳ hơn nhân”. Đây được xem là phần tài </i>

sản chủ yếu trong khối tài sản chung của vợ chồng. Cách thức tạo ra phần tài sản này đến từ việc vợ, chồng trực tiếp lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh có được. Vợ, chồng đầu tư, kinh doanh thì phần hoa lợi, lợi tức dù phát sinh từ tài sản riêng nhưng trong quan hệ hôn nhân sẽ được xem là tài sản chung của vợ chồng. Các khoản thu nhập hợp pháp khác có được của vợ, chồng trong thời kỳ hơn nhân gồm: khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp; tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự (sau đây viết tắt là BLDS) đối với vật vơ chủ, vật bị chơn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước; thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật<small>6</small>. Nhưng đối với khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có cơng với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng thì dù phát sinh trong thời kỳ hôn nhân vẫn xem là tài sản riêng khác của vợ, chồng theo quy định của pháp luật.

<i>Thứ hai, dựa vào nguồn gốc tài sản “tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung”. Nếu người tặng cho xác định phần quyền sở hữu của mỗi bên </i>

trong khối tài sản tặng cho thì tài sản này không được xem là tài sản chung của vợ, chồng. Nếu người tặng cho khơng xác định phần quyền sở hữu, có ý chí muốn tặng cho cả vợ, chồng thì xem là tài sản chung của vợ, chồng. Tương tự vậy, nếu thừa kế theo di chúc thì phần di sản để lại được xác định là tài sản chung nếu người để lại di chúc không

<small> </small>

<small>5 Khoản 1, 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ban hành ngày 03/01/2001 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hơn nhân và gia đình. </small>

<small>6 Điều 9 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HNGĐ. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

chỉ định phần di sản cụ thể mà vợ, chồng được hưởng. Nếu người để lại di chúc chỉ định người được hưởng thì là tài sản riêng của vợ, chồng. Nhưng nếu là thừa kế theo pháp luật thì phần tài sản này khơng xem là tài sản chung vì trong các hàng thừa kế khơng có con dâu, con rể.

<i>Thứ ba, dựa vào ý chí của vợ, chồng,“tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”. Phần tài sản này thường có từ việc khơng có sự rõ ràng trong cách xác định tài </i>

sản chung hay riêng; hoặc đến từ việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung dựa trên thỏa thuận của vợ chồng. Khoản 2 Điều 46 Luật HNGĐ năm 2014 có quy định:

<i>“Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó”. </i>

<i>Cuối cùng là dựa vào nguyên tắc suy đoán pháp lý, theo đó,“trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được xem là tài sản chung”. Nếu có tranh chấp xảy ra </i>

mà khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được xem là tài sản chung.

Quyền của vợ chồng với việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản chung do vợ chồng tự thỏa thuận. Với việc định đoạt tài sản chung trong các trường hợp tài sản là “bất động sản; động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình” thì phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ, chồng<small>7</small>.

Căn cứ vào thời điểm phát sinh tài sản thì tài sản chung của vợ chồng là những tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hơn nhân - khoảng thời gian tính từ ngày đăng ký kết hôn cho đến ngày chấm dứt hôn nhân. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất<small>8</small>. BLDS Việt Nam xác định hình thức sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia<sup>9</sup>. Trong quan hệ hơn nhân gia đình, pháp luật cho phép vợ chồng được phân chia tài sản chung của hai người. Đối với phần tài sản sở hữu

<i>chung hợp nhất thì “các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối </i>

<small> 7 Điều 35 Luật HNGĐ năm 2014. </small>

<small>8 Khoản 2 Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014. </small>

<small>9 Điều 213 BLDS năm 2015. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i>với tài sản thuộc sở hữu chung”</i><small>10</small><i>. Như vậy, vợ, chồng là các chủ sở hữu chung hợp </i>

nhất có quyền khai thác, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung ngang nhau. Không chỉ ràng buộc về quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản giữa vợ, chồng cũng ràng buộc bởi các nghĩa vụ pháp lý nhất định. Hôn nhân càng dài, điều kiện phát triển của khối tài sản chung càng lớn. Có thể thấy rằng nếu vợ, chồng càng có nhiều tài sản chung hợp nhất thì quyền và nghĩa vụ chung càng nhiều. Từ quy định trên cho thấy pháp luật bắt buộc mỗi bên đều phải có sự đóng góp, quan tâm đến khối tài sản chung để bảo đảm nghĩa vụ của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Khái niệm kinh doanh thông thường được hiểu là “việc sản xuất, buôn bán, dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi”<sup>11</sup>. Từ điển Luật học có định nghĩa “kinh doanh là các hoạt động đầu tư, sản xuất, mua bán, cung ứng dịch vụ do các bên chủ thể kinh doanh tiến hành một cách độc lập, thường xuyên trên thị trường nhằm mục đích lợi nhuận”<small>12</small>. Theo

<i>định nghĩa của pháp luật chuyên ngành, kinh doanh là “việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả cơng đoạn của q trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận”</i><small>13</small>.

Các tài sản được đưa vào kinh doanh thường có giá trị lớn, như nhà cửa, tiền, quyền sử dụng đất,... Bên cạnh mục đích kinh doanh để sinh lợi từ tài sản hiện có, tìm kiếm lợi nhuận đóng góp vào khối tài sản chung, việc kinh doanh cũng có thể có những rủi ro nhất định. Do đó, khơng bên nào được tự ý đưa tài sản chung của vợ chồng vào hoạt động kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân, việc sử dụng tài sản chung đưa vào kinh doanh cần phải đáp ứng các yêu cầu của Luật HNGĐ năm 2014 và BLDS năm 2015. Luật HNGĐ có quy định trong thời kỳ hơn nhân, vợ chồng có quyền dùng phần tài sản chung để đưa vào kinh doanh. Nếu có thỏa thuận về việc vợ hoặc chồng đưa tài sản chung vào kinh doanh thì cần lập thành văn bản, bên đưa tài sản chung vào kinh doanh có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó<small>14</small>.

Thực tế hiện nay, việc đưa tài sản chung vào kinh doanh diễn ra khá phổ biến. Đó là trường hợp vợ chồng dùng tài sản chung để kinh doanh dưới tính chất nhỏ lẻ như kinh

<small> 10 Khoản 2 Điều 210 BLDS năm 2015. </small>

<small>11</small><i><small> Hoàng Phê (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 529. </small></i>

<small>12</small><i><small> Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, tr. 450. </small></i>

<small>13 Luật DN năm 2020 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2021). </small>

<small>14 Điều 36 Luật HNGĐ năm 2014. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

doanh tiệm tạp hóa, sạp chợ, bán hàng ăn,... Hoặc lớn hơn thì dùng tài sản đưa vào kinh doanh thơng qua các loại hình doanh nghiệp bằng các hình thức góp vốn, mua cổ phần. Tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản hữu hình và tài sản vơ hình, như: tiền mặt, chứng khốn, trụ sở, nhà xưởng, cơng trình xây dựng, máy móc thiết bị, cửa hàng, kho tàng, hàng hóa, nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư, tên thương mại, biển hiệu, nhãn hiệu hàng hoá, mạng lưới khách hàng…<small>15</small>. Đưa tài sản vào doanh nghiệp có tư cách pháp nhân thì tài sản đó sẽ thuộc về doanh nghiệp. Đưa tài sản vào doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân như doanh nghiệp tư nhân (sau đây viết tắt là DNTN) thì tài sản của công ty cũng là tài sản của chủ sở hữu. Đối với DNTN, đây là loại hình doanh nghiệp mà khơng có sự tách biệt tài sản chủ doanh nghiệp và tài sản của doanh nghiệp. Chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản. Nếu kinh doanh có rủi ro, thua lỗ thì tùy vào loại hình doanh nghiệp mà vợ chồng lựa chọn, vấn đề quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung đưa vào kinh doanh cũng khác nhau. Việc phân chia tài sản như thế nào sẽ được lý giải tại phần sau của đề tài.

Hôn nhân và gia đình là thiết chế gắn với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Việc kết hôn để tiến tới hơn nhân dựa trên nền tảng tình yêu, sự tự nguyện với mong muốn gắn kết lâu dài của hai người. Trong thời kỳ hôn nhân, nếu phát sinh những mâu thuẫn không thể giải quyết được, đi ngược lại với mục đích của hơn nhân thì pháp luật cho

<b>phép chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng việc ly hôn. Tuy pháp luật không ủng hộ việc ly hôn nhưng nếu hôn nhân đã thực sự tan vỡ, khơng thể hàn gắn được thì ly hơn thực sự là giải pháp cần thiết. </b>

Thực trạng ly hơn hiện nay có thể nhìn thấy đã và đang diễn ra rất nhiều ở nước ta. Xuất phát từ các lý do khác nhau, có thể do yếu tố chủ quan hoặc khách quan: bước vào cuộc sống hơn nhân khi cịn q trẻ, chưa đủ nhận thức chín chắn, kinh tế khó khăn khơng đủ để cùng nhau chung sống,… nhưng tình hình hiện nay cho thấy tình trạng ly hơn ngày càng trẻ hóa.

Pháp luật hiện hành công nhận quyền được tự do ly hơn nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của vợ, chồng. Ly hôn được hiểu là hai người sẽ chấm dứt quan hệ hơn nhân, khơng cịn bị ràng buộc quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng trước pháp luật. Khoản 14

<small> </small>

<small>15</small><i><small> Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa – Nxb. Tư pháp, tr. 686. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014 có khái niệm cụ thể: “ly hơn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án”. Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hơn của Tịa án có hiệu lực pháp luật<small>16</small>. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền u cầu Tịa án giải quyết ly hơn. Ly hơn do cả hai thuận tình đồng ý - sự tự nguyện của mỗi bên. Hoặc theo ý chí đơn phương của một bên nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình; vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài.

Như đã nêu ở trên, tài sản chung là phần tài sản của vợ và chồng hình thành trong thời kỳ hôn nhân (trừ những tài sản được quy định là tài sản riêng); tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Trong thời kỳ hôn nhân, khối tài sản chung dù ít hay nhiều cũng khơng thể xác định được phần tài sản cụ thể của vợ, chồng. Nhưng khi ly hơn thì khối tài sản này sẽ được phân định cụ thể, về nguyên tắc là tài sản chia đơi nhưng có tính đến cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Chia tài sản chung đưa vào kinh doanh khi ly hơn có thể hiểu là việc phân chia phần tài sản chung dùng để kinh doanh bằng các hình thức được chia như hiện vật (nhà cửa, đất đai,…) hoặc bằng giá trị (tiền).

Như vậy việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn được hiểu là việc phân định tài sản chung của vợ chồng trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung với việc thực hiện các hình thức đầu tư, sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận thành từng phần thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng khi quan hệ hôn nhân chấm dứt theo bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật.

<i><b>1.1.2. Đặc điểm của chia tài sản của vợ chồng khi đưa vào kinh doanh khi ly hôn </b></i>

<i>Một là, chia tài sản chung trong kinh doanh khi ly hôn là một trường hợp đặc thù của chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. </i>

Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn là một trường hợp cụ thể của chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn nên nó cũng có những đặc điểm

<small> 16 Khoản 1 Điều 57 Luật HNGĐ năm 2014. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

của chia tài sản chung khi ly hôn. Vợ chồng khi ly hơn có quyền tự thỏa thuận với nhau về tồn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có u cầu thì Tịa án phải xem xét, quyết định. Tòa án chỉ chia tài sản nếu vợ, chồng yêu cầu để đề cao quyền tự định đoạt của vợ, chồng đối với tài sản chung. Kinh doanh là hoạt động khá phức tạp, đa dạng ngành nghề vì thế chia tài sản được đưa vào kinh doanh có những điểm đặc thù riêng. Kinh doanh là lĩnh vực có thể nói nếu thành cơng thì sẽ mang lại cho chủ thể những lợi nhuận và thu nhập đáng kể, tuy nhiên nó cũng tiềm ẩn khá nhiều rủi ro. Hiện nay khái niệm rủi ro trong kinh doanh được hiểu là một điều không lành, một điều bất ngờ xảy đến. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến. Đối với chủ thể vì tâm lý sợ rủi ro, thua lỗ mà một bên vợ hoặc chồng khi ly hôn không muốn tiếp tục đầu tư kinh doanh chung hay, cũng như hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chung với nhau. Điều đó sẽ dẫn đến việc họ tiến hành chia tài sản chung được đưa vào kinh doanh khi ly hôn. Việc đưa tài sản vào kinh doanh có liên quan mật thiết đến quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng. Tùy vào loại hình doanh nghiệp mà vợ chồng kinh doanh thì Tịa án sẽ có những cách thức chia tài sản khác nhau vì khi đưa tài sản vào kinh doanh sẽ làm dịch chuyển quyền sở hữu tài sản từ vợ chồng sang công ty hoặc không.

<i>Hai là, chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn chịu sự điều chỉnh của pháp Luật HNGĐ và pháp luật về kinh doanh. </i>

Kết hôn, ly hôn, quyền và nghĩa vụ của quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con là những vấn đề mà Luật HNGĐ điều chỉnh. Có thể thấy, một trong những vấn đề cần được chú trọng khi giải quyết ly hôn là vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong đó có tài sản chung của vợ chồng được đưa vào kinh doanh. Về mặt tổng quan, Tòa án phải tuân thủ nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi giải quyết ly hôn . Ngày nay, việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn đang trở thành một nhu cầu tất yếu. Việc phân chia tài sản giúp bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Mặt khác giúp cho các Tòa án có thể giải quyết một cách đúng nhất và nhanh chóng các vụ việc.

Trong Luật HNGĐ năm 2014 quy định về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn trở thành một trong những nội dung cần được chú

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

trọng khi giải quyết ly hôn. Trong nhiều năm qua, những quy định này tạo cơ sở pháp lý để giải quyết những tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn, nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Khi giải quyết ly hơn có liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng thì đối với bất kỳ loại tài sản nào, Tòa án cũng cần đảm bảo tuân thủ nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn được quy định tại Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014 và những nguyên tắc cơ bản của chế độ hơn nhân và gia đình được ghi nhận tại Điều 2 Luật HNGĐ năm 2014. Có thể thấy với sự phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện nay thì các quan hệ cũng thay đổi cho phù hợp với xu thế của xã hội, do đó pháp luật cũng luôn phải thay đổi theo để bắt kịp với những thay đổi đó. Sự ra đời của Luật HNGĐ năm 2014 thay thế Luật HNGĐ trước đó là một sự thay đổi tiến bộ phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước, trong đó sự bổ sung quy định về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn là sự bổ sung đáng lưu tâm.

Bản chất của việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn chính là việc bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn phải tuân thủ theo các quy định chung của pháp luật về hơn nhân gia đình và thỏa mãn các quy định liên quan đến pháp luật về kinh doanh. Kinh doanh là hoạt động tương đối phức tạp với đa dạng các loại hình, ngành nghề kinh doanh và ứng với mỗi loại hình, ngành nghề, pháp luật lại đặt ra những yêu cầu, điều kiện nhất định17. Những tài sản đưa vào kinh doanh được phân chia phải chịu sự điều chỉnh của các luật chuyên ngành trong từng lĩnh vực hoạt động tương ứng. Do vậy, quy định của pháp luật về doanh nghiệp là một nguồn luật quan trọng và cần thiết trong việc phân chia tài sản đưa vào kinh doanh. Hiện nay, theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020 có các loại hình kinh doanh gồm: DNTN, cơng ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn (sau đây viết tắt là cơng ty TNHH) trong đó cơng ty TNHH bao gồm công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên, công ty cổ phần và doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, Luật <small> </small>

<small>17</small><i><small> Phạm Xuân Lộc (2020), Chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam </small></i>

<i><small>hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội, tr. 18. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Hợp tác xã năm 2012 cũng điều chỉnh đối với mơ hình kinh doanh hợp tác xã và Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ghi nhận cơ chế pháp lý điều chỉnh đối với loại hình kinh doanh. Các loại mơ hình kinh doanh được pháp luật Việt Nam quy định đa dạng, đòi hỏi các nhà làm luật, cơ quan tài phán phải có sự đối chiếu với pháp luật kinh doanh để xem xét hình thức kinh doanh mà vợ chồng lựa chọn. Từ đó, có sự áp dụng luật chính xác và xác định việc ảnh hưởng đến sự thay đổi chủ sở hữu của tài sản chung khi đưa vào kinh doanh.

<i><b>1.1.3. Ý nghĩa của quy định về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn </b></i>

Việc nghiên cứu chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong hoàn cảnh quy định về vấn đề này còn hạn chế, bất cập.

Một là, Chia tài sản chung của vợ chồng là chế định pháp lý quan trọng để giải

<b>quyết chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn </b>

Một trong những yếu tố giúp xây dựng gia đình hạnh phúc, ấm no là họ phải có điều kiện về vật chất để thoả mãn các nhu cầu cơ bản, cần thiết của vợ chồng và của gia đình. Đặc biệt, khi hồn cảnh xã hội, kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu tham gia vào nền kinh tế dưới hình thức đầu tư kinh doanh với mục đích tìm kiếm lợi nhuận dần trở nên phổ biến và hoạt động này được thực hiện thơng qua nhiều hình thức khác nhau như thành lập DNTN, hộ kinh doanh hay góp vốn, mua cổ phần trong công ty. Khi vợ chồng kinh doanh bằng khối tài sản chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh doanh là đại diện hợp pháp của nhau<small>18</small>. Quy định này tồn tại để bảo vệ quyền lợi của người vợ, chồng không trực tiếp tham gia vào quan hệ kinh doanh mà việc kinh doanh đó bắt nguồn từ tài sản chung của vợ chồng. Đồng thời, cơ chế này cũng ràng buộc trách nhiệm của vợ chồng không trực tiếp tham gia vào quan hệ kinh doanh về những rủi ro của thể gặp phải khi kinh doanh. Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận bằng văn bản về việc để một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung<small>19</small>

<small> 18 Khoản 1 Điều 25 Luật HNGĐ năm 2014. </small>

<small>19 Điều 36 Luật HNGĐ năm 2014. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Khi vợ chồng ly hơn, ngồi quan hệ hơn nhân thì quan hệ tài sản, nghĩa vụ tài sản cũng phải được tách bạch rõ ràng theo yêu cầu của đương sự. Theo khoản 2 Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014 thì chỉ quy định về bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất kinh doanh để các bên có điều kiện tiếp tục lao động thu nhập. Tuy nhiên, trong trường hợp việc kinh doanh này có nguồn tài sản là tài sản chung của vợ chồng cùng nhau tạo lập ra thì việc phân chia khối tài sản này phải đảm bảo được tính cơng bằng và đồng thời khơng được để ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng của mỗi bên trong kinh doanh và điều kiện tiếp tục lao động thu nhập của họ.

Sau khi chia tài sản chung khi ly hơn thì mỗi bên vợ chồng sẽ khơng cịn là đại diện hợp pháp của nhau trong việc tham gia quan hệ kinh doanh. Đồng nghĩa là các bên khi tham gia kinh doanh sẽ trở thành một cá thể độc lập, tự do kinh doanh theo ý chí của bản thân. Ngồi ra, việc xác định nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn có ý nghĩa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng về quyền tài sản và cả quyền tự do kinh doanh. Đây là tiền đề để giúp các bên vợ, chồng sau khi ly hơn có thể tiếp tục cuộc sống mới mà không chịu sự ràng buộc của người cịn lại. Họ có quyền dùng tài sản của riêng mình để tự do đầu tư, kinh doanh, tạo thu nhập. Hai là, quy định về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn góp phần bảo vệ quyền lợi về tài sản của bên thứ ba.

Trong q trình kinh doanh khơng tránh khỏi các quyết định thực hiện các giao dịch với bên thứ ba. Khi đó, giữa các bên sẽ phát sinh quyền, nghĩa vụ, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Trong trường hợp, khi chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh, Tòa án phải xác định các nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đưa vào kinh doanh với bên thứ ba. Bởi lẽ, trong một số loại hình doanh nghiệp, việc thỏa thuận đưa tài sản chung của vợ chồng vào kinh doanh sẽ dẫn đến khả năng chuyển dịch quyền sở hữu tài sản chung từ phía vợ chồng sang doanh nghiệp đang kinh doanh, điển hình cho việc chuyển quyền sở hữu tài sản là các loại hình doanh nghiệp có hình thức chịu TNHH đối quyền tài sản như công ty TNHH, công ty cổ phần,... Ngược lại, nếu vợ chồng dùng tài sản chung để thành lập doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh, một loại hình đầu tư mà khơng có sự chuyển dịch quyền sở hữu tài sản từ vợ chồng sang doanh nghiệp thì phần tài sản chung được đưa vào kinh doanh với tài sản của chủ sở

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

hữu cơng ty khơng có sự tách bạch rõ ràng<small>20</small>. Khi đó phần tài sản của bên thứ ba sẽ khó được xác định khi vợ chồng khơng có sự chuyển dịch tài sản sang doanh nghiệp.

Để làm rõ hơn, với mơ hình kinh doanh là công ty cổ phần, công ty TNHH loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, tài sản của doanh nghiệp độc lập với tài sản của chủ sở hữu, thành viên doanh nghiệp. Bởi thế, khi vợ chồng đầu tư vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với tài sản chung của vợ chồng sẽ có sự chuyển quyền sở hữu tài sản sang doanh nghiệp, lúc này thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp<small>21</small>.Tuy nhiên, trong luật doanh nghiệp có trường hợp người giữ chức danh trong công ty cổ phần, công ty TNHH là thành viên nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp và họ có thẩm quyền nhân danh công ty kết giao dịch của công ty theo quy định tại điều lệ cơng ty. Vì vậy, khi chia tài sản chung của vợ chồng có thể làm thay đổi người quản lý công ty, tác động đến hoạt động của công ty hay các đối tác kinh doanh. Trong khi đó, đối với loại hình doanh nghiệp là DNTN, doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp<small>22</small>. Có thể thấy, việc vợ chồng có tài sản chung trong doanh nghiệp thì khi ly hơn, việc phân định tài sản có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty.

Ba là, quy định về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn tạo cơ sở pháp lý cho Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp về phân chia tài sản chung của vợ chồng liên quan đến hoạt động kinh doanh.

Về mặt thẩm quyền, khi vợ chồng ly hơn thì việc chia tài sản chung, kể cả tài sản chung được vợ chồng đưa vào kinh doanh sẽ được giải quyết bởi Tòa án. Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh là một cơ chế pháp lý cực kì cần thiết mà Tịa án có thể viện dẫn, áp dụng vào các trường hợp tranh chấp tài sản là tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh. Chế định này được quy định rõ ràng sẽ giúp Tịa án dễ dàng có hướng xử lý thỏa đáng, đưa ra những phán quyết công bằng và hợp lý, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đúng như sứ mệnh của mình. Khi giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng, Tòa án phải xác định những phần tài sản cụ thể nào <small> </small>

<small>20</small><i><small> Lê Vĩnh Châu, Ngô Khánh Tùng (2021), Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn, Tạp </small></i>

<i><small>chí Khoa học pháp lý, sơ 3(142), tr. 37. </small></i>

<small>21 Khoản 1 Điều 46 Luật DN năm 2020.</small>

<small>22 Khoản 1 điều 188 Luật DN năm 2020. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

chuyển cho các bên vợ, chồng để phù hợp với phần mà họ được hưởng. Việc xác định này dựa trên các yếu tố như cơng sức đóng góp, hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng, yếu tố lỗi…<small>23</small>. Bên cạnh đó, ngồi việc Tịa án phải tuân thủ cơ chế pháp lý về chia tài sản chung được đưa vào kinh doanh mà còn đòi hỏi Tịa án phải có sự linh hoạt, nhìn nhận vấn đề trên nhiều phương diện. Ở đây việc của Tòa án không chỉ là phân định tài sản mà mỗi bên vợ chồng được nhận từ khối tài sản chung, kể cả tài sản chung được đưa vào kinh doanh sau ly hơn mà Tịa án cịn có một trách nhiệm là phải chắc chắn rằng việc chia tài sản chung này không được ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của vợ chồng theo khoản 2 Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014 và đảm bảo cả sự hoạt động bình thường của doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh mà vợ,chồng thành lập, góp vốn, mua cổ phần… trước khi ly hôn. Cụ thể, khi chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh thì vợ, chồng đang thực hiện hoạt động liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng.<small>24</small>

Nước ta đang trong q trình cơng nghiệp hóa, việc người dân bắt đầu kinh doanh, sản xuất trở thành xu hướng và việc vợ chồng hoặc một bên vợ hoặc chồng kinh doanh bằng khối tài sản chung trở nên phổ biến. Khi vợ chồng ly hôn, việc chia tài sản sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến doanh nghiệp mà họ đang cùng nhau kinh doanh, đồng thời điều này cũng có thể tác động khơng nhỏ đến nền kinh tế quốc gia mà nhà nước đang quản lý. Đó là lý do tại sao pháp luật cần phải có một hành lang pháp lý an tồn để giải quyết thỏa đáng vấn đề trên, tránh ảnh hưởng đến doanh nghiệp, chế định chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn là một quy định hữu hiệu cho việc này.

<b>1.2. Quy định của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn </b>

<i><b>1.2.1. Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia đình </b></i>

Khi ly hơn, việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh được thực

<i>hiện theo quy định tại Điều 64 của Luật HNGĐ năm 2014 như sau: “Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường </i>

<small> 23 Khoản 2 Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014. </small>

<small>24 Điều 64 Luật HNGĐ năm 2014. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i>hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác”. Tuy nhiên, việc chia tài sản chung của </i>

vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn là một trong những trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn, do đó, để giải quyết triệt để vấn đề này, cần nghiên cứu các quy định của pháp luật về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hơn.

Vợ và chồng có thể tự nguyện thoả thuận việc phân chia tài sản chung, tài sản riêng và các nghĩa vụ tài chính khác. Trường hợp khơng tự thoả thuận được và có u cầu Tồ án giải quyết, thì Tồ án sẽ có thẩm quyền phân chia tài sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014.

Theo Luật HNGĐ năm 2014, việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn sẽ được xác định dựa trên những nguyên tắc sau:

<i>Thứ nhất, chia tài sản chung theo thoả thuận của vợ chồng </i>

Vợ chồng khi ly hơn có quyền tự thỏa thuận với nhau về tồn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó. Tuy nhiên, nếu thoả thuận nhưng khơng có văn bản hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tun bố vơ hiệu tồn bộ thì việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn sẽ được áp dụng theo pháp luật. Trong quá trình giải quyết ly hơn nếu có u cầu tun bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thì Tịa án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

Trường hợp thỏa thuận không đầy đủ, không rõ ràng hoặc bị vơ hiệu thì áp dụng Luật HNGĐ năm 2014 về tài sản chung vợ chồng để giải quyết. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có u cầu thì Tịa án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật để giải quyết.

Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn sẽ thực hiện theo sự thỏa thuận của vợ chồng, khi hai vợ chồng không tự thoả thuận được việc chia tài sản chung thì Tồ án sẽ giải quyết theo quy định pháp luật. Vợ chồng có thể tự thoả thuận phân chia tài sản, mà khơng cần u cầu Tồ án giải quyết. Và, quyền tự do thoả thuận, quyền tự do định đoạt tài sản của vợ và chồng không phải là vơ hạn, mà việc thoả thuận đó phải đảm bảo ngun tắc tơn trọng lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích của bên thứ ba có liên quan.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<i>Thứ hai, chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật </i>

Theo khoản 1 Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014 thì tài sản chung sẽ được chia theo thoả thuận của vợ chồng. Trường hợp khơng có thoả thuận được và có u cầu thì Tồ án sẽ phân chia theo nguyên tắc chia đôi tài sản theo khoản 2 Điều 59, đồng thời Toà án sẽ phải cân nhắc đến các yếu tố hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung của vợ chồng; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để đảm bảo cho các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; và yếu tố lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Với từng căn cứ, Thông tư liên tịch số 01/2016 đã đưa ra cách hiểu nhằm tạo thuận lợi cho cơ quan tài phán trong quá trình giải quyết vụ việc trong thực tiễn<small>25</small>.

Có thể nói, trong số các yếu tố được người làm luật đề cập tại khoản 2 Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014 thì cơng sức đóng góp của vợ, chồng là căn cứ cực kỳ khó xác định chuẩn xác và trong nhiều trường hợp chỉ mang tính chất tương đối. Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung có thể là việc vợ, chồng đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, cơng việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong quá trình hình thành, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người chồng (vợ) ở nhà chăm sóc con, gia đình mà khơng đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng (vợ) đi làm. Bên nào có cơng sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

Khi ly hôn, về nguyên tắc luật định, tài sản chung sẽ được chia đơi và có tính đến cơng sức đóng góp của mỗi bên vợ, chồng. Để biết ai là người đã đóng góp cơng sức nhiều hơn vào khối tài sản chung đó thì vợ, chồng phải có nghĩa vụ chứng minh cho cơng sức đóng góp của mình. Tuy nhiên, trên thực tế việc chứng minh công sức của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì và pháp luật khối tài sản chung là vơ cùng khó vì nó khơng được quy định rõ ràng và cũng khơng có một quan điểm thống nhất cho vấn đề này. Để xem xét công sức đóng góp trong mỗi bên trong việc tạo lập, phát triển, giữ gìn, bảo quản tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân, Tồ án cần phải xem xét thật khách quan, toàn diện từ nguồn gốc hình thành tài sản, sự cần thiết và hiệu quả của <small> </small>

<small>25 Khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ban hành ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HNGĐ. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

công sức đã bỏ ra trong việc tạo lập, phát triển, giữ gìn, bảo quản tài sản chung của vợ chồng.

Bên cạnh đó, việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn có liên quan mật thiết đến nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong kinh doanh được minh định tại điểm c khoản 2 Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014. Lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập cần được hiểu là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải đảm bảo cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho phép vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản tương ứng. Việc đảm bảo lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được xâm phạm đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự<small>26</small>.

Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản nguyên tắc chia đôi là mỗi bên được một nửa giá trị tài sản đã tạo lập được trong thời kỳ hơn nhân. Tuy nhiên, Tồ án sẽ xét đến các yếu tố khác mà nhóm tác giả vừa đề cập ở nội dung trên. Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia đơi nhưng Tồ án phải giải quyết thấu đáo vụ việc trên nhiều phương diện, cụ thể là 04 căn cứ tại khoản 2 Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014.

Theo khoản 3 Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014, tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu khơng chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh tốn cho bên kia phần chênh lệch. Nguyên tắc này được hiểu là pháp luật ưu tiên chia bằng hiện vật trước, không chia được bằng hiện vật thì mới định giá thành tiền để chia, bên nhận hiện vật có giá trị thanh tốn lại cho bên kia bằng số tiền tương ứng. Ví dụ, vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ơ tô người chồng đang chạy xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hơn và chia tài sản chung, Tịa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là 100 <small> </small>

<small>26 Điểm c khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ban hành ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HNGĐ. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

triệu đồng<small>27</small>. Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng, giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc<small>28</small>.

Do là trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn có tính đặc thù nên khi xây dựng Luật HNGĐ năm 2014 thì người làm luật đã có quy định riêng đối với việc phân chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn. Trên nguyên tắc, bên đang thực hiện hoạt động kinh doanh được nhận tài sản để tiếp tục kinh doanh nhưng trên nguyên tắc tại Điều 59, họ phải thanh toán giá trị tương ứng cho bên vợ, chồng còn lại, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác. Như vậy, với quy định này yêu cầu cơ quan tài phán khi giải quyết từng loại tranh chấp cụ thể liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn cần có sự tham chiếu đến pháp luật về kinh doanh nhằm tạo tính thống nhất, chính xác trong phán quyết.

<i><b>1.2.2. Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hôn theo pháp luật về kinh doanh </b></i>

Khi các bên vợ chồng có ý muốn kinh doanh thì trước khi đưa tài sản chung vào kinh doanh, họ sẽ phải chọn loại hình kinh doanh. Tùy theo mục đích, nhu cầu, khả năng kinh doanh, quy mô vốn cũng như lĩnh vực muốn kinh doanh mà vợ chồng lựa chọn các loại hình kinh doanh có tư cách pháp nhân như công ty TNHH một thành viên hoặc hai thành viên trở lên, công ty hợp danh, công ty cổ phần… hay loại hình kinh doanh khơng có tư cách pháp nhân như DNTN hoặc kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh… Cho dù chọn loại hình thì việc kinh doanh của vợ chồng đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật về kinh doanh. Ở mỗi loại hình kinh doanh sẽ có những đặc điểm riêng biệt được quy định trong Luật DN năm 2020 và các văn bản pháp luật có liên quan.

Đối với loại hình cơng ty TNHH, cơng ty cổ phần thì khi vợ chồng thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản chung bằng cách thức sử dụng tài sản chung góp vốn vào cơng ty, bên cạnh việc tn thủ quy định của Luật HNGĐ năm 2014 về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung thì cịn phải thực hiện quy định của pháp luật doanh nghiệp như <small> </small>

<small>27 Điểm c khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ban hành ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HNGĐ. </small>

<small>28 Khoản 5 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ban hành ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HNGĐ. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

quy định tại Điều 35, Điều 36 Luật DN năm 2020 về chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn và định giá tài sản góp vốn<sup>29</sup>. Và khi này, khối tài sản chung của vợ chồng được chuyển sang cho doanh nghiệp. Vì vậy mà khi ly hơn, khối tài sản chung không thể là một loại tài sản có thể chia được bởi lúc này tài sản vẫn thuộc sở hữu của doanh nghiệp mà vợ chồng đã thoả thuận góp vốn vào kinh doanh. Đó là lý do vì sao mà Điều 64 Luật HNGĐ năm 2014 lại có quy định rằng “vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng”.

Tuy nhiên, Điều 64 Luật HNGĐ năm 2014 cũng chỉ ra một ngoại lệ cho quy định

<i>này, đó là “trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác”. Có những quy </i>

định đặc biệt trong Luật DN năm 2020 mà ta phải nhắc đến để chứng minh cho ngoại lệ của Điều 64 này. Đầu tiên, đối với cơng ty TNHH thì nếu vợ chồng cùng là thành viên của công ty, có sự phân chia tỷ lệ góp vốn giữa vợ chồng và có sự ghi nhận trong Điều lệ cơng ty thì nếu chia tài sản theo luật doanh nghiệp thì vợ hoặc chồng khi ly hơn khơng

<i>thể dễ dàng rút khỏi công ty. Khoản 2 Điều 50 Luật DN năm 2020 có quy định rằng “khơng được rút vốn đã góp ra khỏi cơng ty dưới mọi hình thức”. Trong trường hợp này </i>

người vợ hoặc người chồng khơng thể rút phần vốn góp từ nguồn gốc của khối tài sản chung mà người vợ hoặc người chồng có thể chào bán cho bên cịn lại. Cịn đối với cơng ty cổ phần thì đây là loại cơng ty có tính chất đối vốn, việc huy động vốn dễ dàng thì theo luật doanh nghiệp cổ đơng có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình<small>30</small>; Cổ đơng sáng lập có thể tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông cho cổ đông sáng lập khác, trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại Hội đồng cổ đông<sup>31</sup>. Điều này có nghĩa là nếu bên vợ, chồng là một cổ đơng bình thường thì việc chuyển nhượng diễn ra tự do, họ có thể chuyển nhượng cho bất kỳ ai mà họ muốn và nếu bên vợ, chồng là cổ đông sáng lập thì họ vẫn có thể chuyển nhượng số cổ phần mà mình có cho cổ đơng sáng lập khác trong

<small> </small>

<small>29</small><i><small> Trần Danh Phú, “Hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng tài sản chung của vợ chồng vào doanh nghiệp”, </small></i>

<small>nghiep. (truy cập ngày 10/8/2023) </small>

<small> Điều 127 Luật DN năm 2020 </small>

<small>31 Khoản 3 Điều 120 Luật DN năm 2020. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

thời hạn luật định. Lưu ý, cổ đơng sáng lập khác có thể là bên vợ, chồng cịn lại hoặc họ có thể chuyển nhượng số cổ phần cho người không phải là cổ đông sáng lập miễn là có sự đồng ý của Đại Hội đồng cổ đông. Lý do cho việc này là vì cổ phần, cổ phiếu là tài sản vơ hình, bản thân nó khơng chỉ có giá trị tài sản mà cịn có trong đó quyền biểu quyết, quyền phủ quyết, quyền ưu tiên... mà ta gọi chung là quyền tài sản vì tầm quan trọng này mà pháp luật Doanh nghiệp đề cao việc tự do chuyển nhượng theo ý chí của người sở hữu cổ phần. Có thể thấy, Luật DN năm 2020 phần nào ủng hộ quyền tự do chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp của các bên chứ khơng rập khn và mang tính ngun tắc như Luật HNGĐ năm 2014.

Cịn một loại hình kinh doanh khá đặc trưng và phổ biến là DNTN. Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của chủ DNTN không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp<small>32</small>. DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp<small>33</small>. Như thế có nghĩa là khơng có sự phân biệt giữa tài sản của chủ sở hữu DNTN và DNTN như trường hợp của công ty cổ phần hay cơng ty TNHH mà nhóm tác giả đã phân tích ở trên.Và bởi vì khơng có sự phân biệt nên ta không thể biết được tài sản mà vợ, chồng đầu tư vào trong DNTN là bao nhiêu, không thể phân tách giữa tài sản chung đưa vào DNTN và số tài sản chung còn lại của vợ chồng. Điều này sẽ dẫn đến sự khó khăn khi chia tài sản chung giữa vợ chồng đưa vào kinh doanh trong trường hợp là DNTN nhưng nếu gộp phần tài sản chung đã được đầu tư vào DNTN và phần tài sản chung cịn lại để chia thì sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến Doanh nghiệp.

Trên đây là một số quy định cơ bản, có liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn. Các quy định được phân tích chỉ mang tính khái quát, bởi lẽ mỗi ngành luật đều có hướng điều chỉnh đặc thù. Do vậy, việc kết hợp cơ chế pháp lý giữa Luật HNGĐ năm 2014 và các quy định tương thích của pháp luật về kinh doanh trong giải quyết các tranh chấp trên thực tế là một thách thức rất lớn đối với cơ quan tài phán. Tuân thủ pháp luật doanh nghiệp là cơ sở để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, góp phần giữ bình ổn cho nền kinh doanh. Việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh khi ly hơn nhìn chung khơng thể gây xáo trộn, và làm ảnh hưởng đến hoạt <small> </small>

<small>32 Khoản 4 Điều 35 Luật DN năm 2020. </small>

<small>33 Khoản 1 Điều 188 Luật DN năm 2020. </small>

</div>

×