Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.21 KB, 29 trang )

Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ
chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật Việt
Nam (đê tài NCKH năm thứ 2)
January 23, 2010
Lời mở đầu
Hai người nam nữ khi chưa bước vào hôn nhân, họ là những người có tài sản riêng, hoàn
toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Khi bước vào hôn nhân, điều đó đã khác.
Trong thời kì hôn nhân, hai người phải ràng buộc với nhau bởi rất nhiều bổn phận, nghĩa
vụ và quyền lợi. Lợi ích của họ vì thế đã hòa làm một để trở thành một thứ có tên là lợi ích
gia đình. Thời trước, khi xác lập, thay đổi, chấm dứt một giao dịch, họ chỉ nhân danh lợi
ích gia đình. Tài sản chung là thứ cần có để tạo điều kiện cho việc nhân danh lợi ích gia
đình khi tham gia các giao dịch. Suy cho cùng, tài sản chung hay là tài sản riêng của vợ,
chồng cũng phải được khai thác để nhằm bảo đảm cho sự tồn tại, duy trì và phát triển của
gia đình. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, diện mạo
của gia đình đã thay đổi đáng kể, chức năng kinh tế của gia đình đã chuyển từ sản xuất
sang tiêu dùng. Cùng với điều đó việc mỗi người có đủ tài sản riêng để đặt cơ sở vật chất
cho các hoạt động nghề nghiệp và các giao dịch do mình thực hiện không phụ thuộc nhiều
vào người còn lại là rất cần thiết. Qui định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì
hôn nhân là một giải pháp cho vấn đề đó trong bối cảnh chế độ tài sản của vợ chồng trong
Luật Hôn nhân và Gia đình hiện nay là chế độ cộng đồng tạo sản.
Trong thời gian gần đây, số lượng án phải giải quyết về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kì hôn nhân trong cả nước đang có chiều hướng gia tăng: năm 2004 là 159 vụ,
năm 2005 là 398 vụ, năm 2006 là 404 vụ, năm 2007 là 452 vụ[1]. Qui định về chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã cụ thể hơn so với
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 song vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần có quan điểm
thống nhất về lí luận cũng như thực tiễn xét xử. Hơn nữa còn có một vấn đề là việc chia tài
sản chung trong thời kì hôn nhân thường được coi là đi kèm với những mâu thuẫn về tình
cảm của vợ chồng, vì thế mọi người nghĩ chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là một
việc không tốt. Điều đó cho thấy cần thiết phải có sự nghiên cứu sâu về vấn đề chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân của vợ chồng cũng như có giải pháp cho việc chia tài sản
chung mà vẫn có thể giữ được hạnh phúc gia đình. Chính vì lí do đó mà người viết chọn đề


tài “Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân”
để nghiên cứu.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, người viết muốn đề cập, phân tích toàn bộ các qui định
về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân và chứng minh được tính hợp pháp cũng như
sự hợp lí của việc tồn tại một thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân với
nội dung, hình thức và phạm vi phù hợp, kiến nghị về việc cụ thể hóa thỏa thuận này để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng nó.
Hiện tại, việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân được nhiều tác giả đề cập đến trong
nhiều công trình, bài viết, tuy nhiên chỉ là đề cập tới nó như một phần của một vấn đề khác
hoặc là chỉ đề cập tới một phần của nó. Việc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng cũng được
nhiều tác giả đề cập tới nhưng là đề cập dưới góc độ gắn nó với chế độ tài sản ước định và
cho rằng nó không phù hợp với qui định pháp luật hiện hành. Việc phân tích toàn bộ các
qui định pháp luật về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, tóm tắt về một số chế định
tương tự trong pháp luật của các nước và chứng minh tính hợp pháp của một loại thỏa
thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân sẽ là điểm mới của đề tài.
Nội dung chính của đề tài được kết cấu thành 3 chương với 13 mục lớn. Cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân;
Chương 2: Qui định của pháp luật hiện hành về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân;
Chương 3: Vấn đề thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KÌ HÔN
NHÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ, Ý NGHĨA
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
Thời kì hôn nhân
Thời kì hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng. Theo pháp luật Việt Nam
thì thời kì hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân[2].
Tuy nhiên từ các qui định của Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 có thể suy ra hai trường
hợp đặc biệt mà thời kì hôn nhân được tính theo cách khác, đó là trường hợp quan hệ vợ
chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987 mà không đăng kí kết hôn, trường hợp quan hệ vợ

chồng được xác lập trong khoảng thời gian từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 mà đăng
kí kết hôn trong khoảng từ ngày 1/1/2001 đến ngày 1/1/2003 (thời kì hôn nhân được tính từ
ngày quan hệ vợ chồng thực tế được xác lập đến ngày chấm dứt hôn nhân)[3]
Tài sản chung
Tài sản chung là tài sản thuộc sở hữu của nhiều chủ sở hữu. Tuy nhiên khái niệm tài sản
chung được đề cập ở đây chỉ là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, tức là
tài sản thuộc sở hữu của cả vợ và chồng mà với tài sản đó phần quyền sở hữu của mỗi
người không được xác định.
Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân không được định nghĩa trong các văn bản
pháp luật, có lẽ nhà làm luật cho rằng cụm từ chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đã
đủ để phản ánh khái niệm đó. Theo người viết có thể tạm định nghĩa: chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân là việc chuyển một phần hoặc toàn bộ các tài sản thuộc sở hữu
chung hợp nhất của vợ chồng thành các tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng, hay
sở hữu chung theo phần của vợ chồng.
1.1.2. Đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
Chế định chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chỉ có thể tồn tại khi pháp luật ghi nhận
quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng vì nếu không ghi nhận quyền bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng thì vợ chồng sẽ không được bình đẳng trong
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản, mà mục đích của vợ chồng khi chia tài sản chung là
để cho vợ hoặc chồng hoặc cả hai có thể tự do định đoạt với những tài sản được chia.
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chỉ có thể thực hiện được trong thời kì hôn
nhân, việc chia tài sản thuộc sở hữu chung của hai người chưa kết hôn hay chia tài sản của
hai người đã li hôn đều không thể coi là chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân.
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chỉ có thể thực hiện khi tồn tại khối tài sản
chung vì nếu khối tài sản chung không thể tồn tại thì không có đối tượng để chia. Tuy
nhiên một số trường hợp cũng có thể chia với khối tài sản chung chưa thuộc sở hữu của vợ
chồng trong hiện tại nhưng sẽ phát sinh trong tương lai[4].
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân không làm chấm dứt hoàn toàn sở hữu

chung của vợ chồng vì việc chia tài sản chung này không chỉ đơn thuần như việc chia tài
sản chung thuộc các hình thức sở hữu chung như qui định của Bộ luật Dân sự[5], khối tài
sản chung vẫn có thể còn tồn tại hoặc vẫn có thể xuất hiện (trong trường hợp không chia
hết hoặc sau khi chia lại được thừa kế chung, tặng cho chung, hay vợ chồng khôi phục chế
độ tài sản chung…)
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân hoàn toàn không làm ảnh hưởng tới quan hệ
nhân thân của vợ chồng. Sau khi chia tài sản chung, quan hệ vợ chồng vẫn tồn tại trước
pháp luật, do đó vẫn tồn tại mọi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng như chung thủy yêu
thương, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, tôn trọng giữ gìn danh dự, nhân phẩm uy tín cho
nhau, tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhau … điều này khác hẳn với chế định li
thân ở một số nước.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là một giải pháp để loại bỏ các mâu thuẫn
giữa vợ chồng trong quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản. Tài sản chung của vợ chồng theo
qui định pháp luật phải được quản lí theo sự nhất trí của hai người, định đoạt theo sự thỏa
thuận của hai người mà hai người thì không phải bao giờ cũng có thể nhất trí về cách quản
lí của nhau, bằng lòng về cách định đoạt tài sản của nhau và như thế thì chắc chắn sẽ có
mâu thuẫn phát sinh, mâu thuẫn đó khiến cho việc dịch chuyển tài sản bị chậm lại, có khi
bị ngừng lại gây bất lợi cho kinh tế gia đình. Còn việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu cá
nhân thì không cần có sự nhất trí, sự bằng lòng của nhau, chính vì vậy mà việc chia tài sản
chung sẽ là một giải pháp để loại bỏ các mâu thuẫn trong quản lí, sử dụng và định đoạt tài
sản.
Việc chia tài sản chung là một giải pháp cho các cặp vợ chồng có tuổi vì lí do nào đó mà có
mẫu thuẫn sâu sắc về tình cảm, nhưng lại không dám ra tòa li hôn do sợ điều tiếng của dư
luận, sợ mất hòa khí gia đình, sợ con cái lo buồn, sợ hàng xóm chê cười. Qui định này tạo
điều kiện cho họ được có tài sản riêng để sống độc lập, tránh đối mặt với các mâu thuẫn.
Qui định về việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đã đánh dấu sự chuyển mình
theo thời đại của các qui định pháp luật về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng. Việt Nam
trong một thời gian dài tồn tại dựa vào nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu nên tư duy của con
người khó lòng thoát khỏi nguyên tắc của xã hội trồng lúa nước – đó là ổn định để tồn tại,

đoàn kết để tồn tại, chính vì thế mà người ta thường lạ lẫm với việc rạch ròi về tài sản, nhất
lại là tài sản của vợ chồng, nếu như cặp vợ chồng nào có sự độc lập về tài chính với nhau
hay sự phân định “của anh, của tôi” thì thường bị người ta chê cười. Sang thời đại của
công nghệ thông tin, của internet, của thẻ tín dụng, của toàn cầu hóa sự độc lập của mỗi cá
nhân không thể bị bó buộc trong lối tư duy cũ đó nữa. Và con người thực sự cần sự độc lập
hơn về tài chính để có thể tồn tại trong xã hội hiện đại. Việc chia tài sản trong chung trong
thời kì hôn nhân như một giải pháp để dung hòa giữa truyền thống xưa và tư duy của ngày
nay.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN
THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM QUA CÁC THỜI
Như đã nói ở trên người Việt Nam tự ngàn xưa đã luôn coi trọng sự ổn định, với tư duy
“an cư thì mới lạc nghiệp”, gia đình với người Việt Nam luôn được đặt lên hàng đầu, và sự
phân chia tài sản trong thời kì hôn nhân trong cố luật là không thể có.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trong pháp luật Việt Nam
trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực là không hề có. Tuy một số
luật dưới thời Ngụy quyền, thời Pháp thuộc do ảnh hưởng của pháp luật phương Tây cũng
qui định cho vợ chồng được thỏa thuận về tài sản trong hôn ước (lập trước khi kết hôn),
nhưng hôn ước này thì lại bất di bất dịch nên việc chia tài sản chung không thể được thực
hiện trong thời kì hôn nhân.
Qui định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân lần đầu tiên xuất hiện trong pháp luật
Việt Nam tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
1.2.1. Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân trong Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 1986
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 chế độ tài sản vợ chồng là chế độ tài sản pháp
định, tài sản chung của vợ chồng “gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề
nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà
vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung”[6]. Luật không qui định rằng những
tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung thì cũng thuộc khối tài sản chung nhưng lại
qui định “đối với tài sản mà vợ chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc
được cho riêng trong thời kì hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không

nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”[7] và việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản
chung của vợ chồng được thực hiện theo qui định của Nghị định số 45-HĐBT ngày
27/2/1991 về tổ chức và hoạt động của công chứng nhà nước[8].
Tài sản chung của vợ chồng chỉ có thể được chia trong thời kì hôn nhân khi có lí do chính
đáng và có yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên. Chỉ có một cách thức chia duy nhất là
quyết định của tòa án. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 không dự liệu các lí do chính
đáng nên việc đánh giá lí do chính đáng hoàn toàn phụ thuộc vào tòa án (Nghị quyết hướng
dẫn Luật Hôn nhân và Gia đình có nêu một trường hợp được coi là lí do chính đáng đó là
vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn li hôn mà chỉ muốn ở
riêng[9]) Nguyên tắc chia giống như chia tài sản trong một vụ li hôn[10]. Luật cũng không
hề dự liệu về hậu quả pháp lí về tài sản sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân và
các văn bản dưới luật cũng không hướng dẫn vấn đề này. Vấn đề nhập lại tài sản riêng có
được do chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân cũng không được qui định trong luật, mà
luật cũng chỉ qui định về việc nhập hay không nhập các tài sản có trước khi kết hôn, tài sản
được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân[11].
Xuất phát từ tình hình năm 1986 đất nước ta đang bước vào thời kì đổi mới, nên mọi qui
định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chưa được cụ thể. Hơn nữa với tình hình
thời đó thì không có một vụ án nào về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân nào được
đưa ra xét xử sơ thẩm[12], trường hợp chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân mà được
tòa án giải quyết (nếu có) cũng chỉ được coi là trường hợp đặc biệt ngoại lệ.
1.2.2. Chia tài sản chung trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 tài sản chung của vợ chồng bao gồm: “tài sản
do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa
kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài
sản chung”. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã bổ sung thêm một căn cứ xác lập tài
sản chung của vợ chồng đó là thỏa thuận của vợ chồng.
Theo luật tài sản chung của vợ chồng cũng chỉ được chia khi có lí do chính đáng, luật dự
liệu cụ thể hai trường hợp được coi là có lí do chính đáng đó là vợ chồng đầu tư kinh
doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Luật cũng cho phép vợ chồng được thỏa

thuận chia tài sản chung bằng văn bản bên cạnh việc chia tài sản chung bằng quyết định
của tòa án
Luật đã dự liệu về hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, và
theo qui định về tài sản chung thì vợ chồng cũng có thể nhập lại tài sản đã được chia vào
khối tài sản chung theo căn cứ xác lập tài sản chung là thỏa thuận của vợ chồng.
Vấn đề qui định của pháp luật về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân sẽ được làm rõ
hơn ở chương 2.
1.3. MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH TƯƠNG TỰ TRONG PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Do sự khác nhau về nền văn hóa và các điều kiện kinh tế, chính trị những hình thức có thể
coi là chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân ở một số nước có sự khác nhau nhất định
với Việt Nam. Sau đây xin được điểm qua một số hình thức tương tự chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân.
1.3.1. Chế định chia tài sản vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo Bộ luật Dân sự và
Thương mại Thái Lan[13]
Quyền sở hữu của vợ chồng ở Thái Lan được điều chỉnh bằng hai phương thức: theo hôn
ước mà vợ chồng lập ra trước khi cưới và theo qui định của pháp luật khi vợ chồng không
có hôn ước hoặc hôn ước đó không được công nhận.
Theo qui định của pháp luật Thái Lan kể từ thời điểm kết hôn vợ chồng sẽ phát sinh quan
hệ tài sản chung với những tài sản có nguồn gốc sau:
Tài sản vợ chồng làm ra trong thời kì hôn nhân.
Tài sản mà vợ chồng có được trong thời kì hôn nhân thông qua một di chúc hoặc tặng cho
được làm bằng văn bản nếu trong các văn bản này tuyên bố rõ tài sản đó là tài sản chung.
Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng
Ngoài ra trong trường hợp tài sản có nguồn gốc hợp pháp khác nhưng không chứng minh
được nó là của riêng một bên vợ, chồng thì tài sản đó dược coi là tài sản chung[14].
Tài sản chung của vợ chồng chỉ có thể chia trong thời kì hôn nhân trong các trường hợp cụ
thể sau:
Một bên vợ hoặc chồng có nghĩa vụ tài sản riêng nhưng không có hoặc không đủ tài sản
riêng để thực hiện, phải thực hiện bằng phần tài sản của mình trong khối tài sản chung[15]

Một bên vợ hoặc chồng có hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lí tài sản chung như: gây mất
mát tài sản chung mà không có lí do chính đáng; lâm vào tình trạng nợ nần hoặc chịu
những món nợ vượt quá 1/2 giá trị tài sản chung; cản trở vợ hoặc chồng mình trong việc
quản lí tài sản chung mà không có lí do chính đáng[16].
Một bên vợ hoặc chồng bị tuyên bố phá sản.[17]
Một bên vợ hoặc chồng bị tuyên mất năng lực hành vi và người kia bị coi là không thích
hợp để làm người giám hộ và do đó bố hoặc của người đó hoặc một người ngoài được chỉ
định làm người giám hộ thì người giám hộ đó sẽ trở thành người đồng quản lí tài sản
chung với người kia. Trong trường hợp này, vợ hoặc chồng của người bị mất năng lực
hành vi có quyền yêu cầu tòa án chia tài sản chung nếu có tình huống quan trọng gây nguy
hại cho họ[18]
Sau khi chia tài sản chung thì phần tài sản chia cho mỗi bên cợ chồng trở thành tài sản
riêng của họ. Bất cứ tài sản nào mà vợ hoặc chồng có được sau khi chia sẽ là tài sản riêng
của người đó và không được coi là tài sản chung. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung, tặng cho chung trở thành tài sản riêng chia đều cho mỗi bên. Hoa lợi thu được từ tài
sản riêng của người nào thuộc sở hữu của người đó[19].
Chế độ tài sản chung chỉ được tòa án cho phục hồi khi có yêu cầu của vợ, chồng và khi các
lí do chia tài sản chung đã hết.
1.3.2. Một loại hậu hôn ước (postnuptial agreement) ở Hoa Kì[20]
ở Hoa Kì chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản ước định, luật pháp chỉ can thiệp
vào việc qui định tài sản của vợ chồng khi họ không lập hôn ước hay còn gọi là khế ước
tiền hôn nhân (prenuptial agreement) và việc qui định về tài sản của vợ chồng ở mỗi bang
lại có sự khác nhau. Tuy nhiên pháp luật Hoa Kì cũng cho phép các cặp vợ chồng được lập
hậu hôn ước (postnuptial agreement) một loại khế ước được lập sau khi kết hôn nhưng
trước khi li hôn để qui định về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng.
Có ba kiểu hậu hôn ước:
Hậu hôn ước qui ước về tài sản của vợ chồng khi xảy ra cái chết của một người, như vậy
thì người còn sống sẽ không phải nhận tài sản từ di chúc hay từ qui định của pháp luật về
thừa kế.
Hậu hôn ước qui ước về những tranh chấp khi li hôn và tránh việc phải theo sự phân xử

của tòa án bằng việc qui định rõ về việc chia tài sản, về quyền nuôi con, về việc cấp dưỡng.
Hậu hôn ước loại này được bao gồm với bản án li hôn của tòa án.
Hậu hôn ước qui định về quyền lợi về tài sản trong thời kì hôn nhân bao gồm: qui định về
việc giới hạn hay từ bỏ việc cấp dưỡng; đặt khối tài sản có được trong suốt thời kì hôn
nhân trong tình trạng riêng biệt.
Như vậy có thể nói kiểu hậu hôn ước thứ ba cũng là một hình thức chia tài sản chung trong
thời kì hôn nhân, hậu hôn ước này phải được lập thành văn bản có chữ kí của cả hai vợ
chồng, giá trị của hậu hôn ước chỉ được công nhận khi tài sản riêng của nhau được các bên
biết rõ, không có sự hăm dọa, gian dối hay cưỡng bức trong việc lập hôn ước. Sau khi lập
hậu hôn ước, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ biệt sản.
1.3.3. Qui ước về tài sản trong luật Hôn nhân của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (sửa
đổi năm 2001)[21]
Quyền sở hữu của vợ chồng ở Trung Quốc được điều chỉnh theo phương thức qui ước của
vợ chồng song song với những qui định của pháp luật:
Theo qui định của điều 17 Luật Hôn nhân của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (sửa đổi năm
2001) thì:
“Trong thời gian còn duy trì quan hệ hôn nhân những tài sản dưới đây thuộc về sở hữu
chung của hai vợ chồng
Lương, tiền thưởng
Lợi nhuận từ sản xuất và kinh doanh
Lợi nhuận từ quyền sở hữu tài sản trí thức
Tài sản có được nhờ thừa kế, hiến tặng nhưng ngoài quy định tại điều 18 chương 3 của luật
này
Những tài sản khác mà cần thuộc về sở hữu chung.
Đối với những tài sản thuộc sở hữu chung, hai vợ chồng bình đẳng về quyền xử lí”.
Tuy nhiên Luật Hôn nhân (sửa đổi năm 2001) có qui định cho vợ chồng qui ước để những
tài sản trên không còn là tài sản chung nữa. Theo điều 19:
“Hai vợ chồng có thể qui ước những tài sản có được trong thời gian quan hệ hôn nhân còn
duy trì và những tài sản trước hôn nhân thuộc về sở hữu cá nhân, sở hữu chung hoặc sở
hữu cá nhân bộ phận, sở hữu chung bộ phận.

Qui ước được ghi lại bằng văn bản. Nếu không có quy ước hoặc quy ước không rõ ràng, áp
dụng thích hợp theo qui định của điều 17 và 18 luật này.
Qui ước về những tài sản có được trong thời gian quan hệ hôn nhân đang được duy trì và
những tài sản trước hôn nhân, có sức ràng buộc đối với cả hai phía”.
Theo qui định đó thì vợ chồng hoàn toàn có thể thương lượng với nhau về vấn đề tài sản
của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Việc qui ước này phải được lập thành văn bản, văn
bản này có thể được công chứng[22]. Nếu không có bản thỏa thuận này hoặc bản thỏa
thuận này không rõ ràng thì mới áp dụng thích hợp theo điều 17 và điều 18 (qui định về tài
sản chung và tài sản riêng của vợ chồng)[23].
Chương 2
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG
THỜI KÌ HÔN NHÂN
2.1. TÀI SẢN CHIA
Tài sản để chia phải là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
2.1.1. Tài sản chung theo qui định của pháp luật
Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 qui định
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những
tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là
tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải
đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ
chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh
chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”.
Theo qui định này thì tài sản chung của vợ chồng bao gồm: các tài sản do vợ chồng tạo ra

trong thời kì hôn nhân; các tài sản có được do thu nhập hợp pháp trong thời kì hôn nhân;
các tài sản do được thừa kế chung, tặng cho chung; các tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là
tài sản chung.
Thu nhập hợp pháp của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân
Các thu nhập có tính ổn định
Thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trước hết phải kể đến các khoản
thu nhập có tính chất ổn định của vợ, chồng như lương, lợi nhuận do hoạt động kinh doanh
mang lại, hoa lợi lợi tức có tính chất ổn định như tiền do bán cây ăn quả lâu năm, tiền cho
thuê nhà…Những thu nhập này thường là nguồn thu nhập chính, ổn định để đảm bảo cho
cuộc sống chung của gia đình. Theo điều 233 Bộ luật Dân sự thì người lao động, người
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh có quyền sở hữu đối với tài sản tạo ra đó[24],
nhưng theo Luật Hôn nhân và Gia đình thì tài sản đó được qui định là thuộc sở hữu chung
của vợ chồng. Theo điều 235 Bộ luật Dân sự thì “chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có
quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể
từ thời điểm thu được hoa lợi, lợi tức đó” như vậy có thể thấy nếu tài sản gốc là tài sản
chung thì hoa lợi lợi tức tất nhiên sẽ thuộc tài sản chung của vợ chồng, nhưng nếu tài sản
gốc là tài sản riêng của một người thì hoa lợi lợi tức phát sinh trong trường hợp này cũng
thuộc khối tài sản chung theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Các thu nhập có tính chất bất thường
Một số thu nhập có tính chất bất thường, sự phát sinh ra nó là bất thường hoặc có thể là bất
ngờ với chủ sở hữu. Các thu nhập này có thể là do trúng xổ số, trúng thưởng, được hưởng
các loại khuyến mại bất ngờ, hoặc cũng có thể là lợi tức bất thường: cổ phiếu đột ngột lên
giá… Trong các trường hợp này chỉ cần quyền sở hữu đối với chủ sở hữu (vợ hoặc chồng
hoặc cả hai) được xác lập thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Ví dụ một người mua xổ
số trước ngày kết hôn, sau khi kết hôn thì có kết quả và trúng số độc đắc, số tiền thưởng sẽ
là tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản được tạo ra trong thời kì hôn nhân
Tài sản tạo ra trong thời kì hôn nhân có thể thuộc một trong các trường hợp sau[25]:
Tài sản tạo ra do trộn lẫn, sáp nhập, chế biến (các điều 236, 237, 238 Bộ luật Dân sự)
Trong trường hợp này nếu tất cả các tài sản được đem sáp nhập trộn lẫn chế biến là tài sản

chung thì đương nhiên quyền sở hữu được xác lập theo qui định của pháp luật theo các
điều 236, 237, 238 đối với vật mới là sở hữu chung của vợ chồng.
Trong trường hợp tất cả tài sản được đem trộn lẫn, sáp nhập, chế biến là tài sản riêng thì tài
sản mới tạo ra cũng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Bởi đó là tài sản mới là tài sản
được tạo ra trong thời kì hôn nhân.
Trong trường hợp tài sản chung hoặc tài sản riêng của vợ chồng được đem sáp nhập trộn
lẫn chế biến với tài sản của người khác để tạo thành tài sản mới thì phần quyền sở hữu với
tài sản mới thuộc sở hữu chung của vợ chồng theo qui định của các điều 236, 237, 238.
Tài sản có được do xác lập quyền sở hữu theo các điều từ 239 đến 244 và điều 247, 246
Bộ luật Dân sự
Trường hợp này bao gồm các tài sản có được do nhặt được vật do người khác đánh rơi, bỏ
quên, nhặt được vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu, đào được vật bị chôn
giấu, tìm thấy vật bị chìm đắm, bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc, các trường hợp được
xác lập quyền sở hữu với vật nuôi dưới nước, tài sản có được do xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu, tài sản có được do phán quyết của các cơ quan có thẩm quyền.
Có lẽ theo tinh thần của điều luật và mục đích của việc qui định tài sản chung thì chỉ cần
tài sản được xác lập quyền sở hữu vào thời kì hôn nhân thì đã thuộc tài sản chung, các
trường hợp đào được, nhặt được… có thể coi như là một trường hợp của thu nhập bất
thường của vợ chồng. Đối với các trường hợp này, chỉ cần quyền sở hữu thuộc về một
trong hai người trong thời kì hôn nhân thì đó đương nhiên là tài sản chung.
Ví dụ 1: Một người bắt được một con bò bị lạc, sau khi đã báo cho ủy ban nhân dân xã nơi
cư trú để thông báo rộng rãi cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Ba tháng sau người đó kết
hôn, ba tháng sau nữa là hết thời hạn sáu tháng không có ai đến nhận bò, con bò là tài sản
chung của vợ chồng[26].
Ví dụ 2: Một người mua một bức tượng bằng vàng chiếm hữu công khai, liên tục, nhưng
không biết đó là đồ ăn trộm, 9 năm sau người đó kết hôn, một năm sau khi kết hôn, bức
tượng bằng vàng sẽ thuộc sở hữu chung của vợ chồng chứ không phải là tài sản riêng của
một người như trong trường hợp nó không phải là đồ ăn trộm[27].
Tài sản có được theo thỏa thuận dưới dạng các hợp đồng, mua bán, vay mượn… đối với
các chủ sở hữu khác

Với các trường hợp này, dù tiền dùng để mua, tài sản dùng để trao đổi, tài sản dùng để thế
chấp cầm cố… là tài sản riêng hay chung thì những tài sản mua được, đổi được, vay
được….có được thông qua sự thỏa thuận này cũng thuộc khối tài sản chung. Theo qui định
pháp luật thì việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo nguyên tắc thỏa thuận, dễ
nhận thấy một điều như sau: một căn nhà thuộc sở hữu riêng của anh chồng, trong trường
hợp nó không phải là có giá trị lớn so với tổng số tài sản của hai vợ chồng, anh chồng có
thể tự do định đoạt, có thể cho, tặng bất cứ ai tùy ý, vì đó là tài sản riêng của anh ta, nhưng
khi bán đi thì lại không thể tự do cho ai đó chính số tiền bán nhà vì số tiền đó lúc này đã là
tài sản chung của vợ chồng. Thậm chí do luật chỉ qui định là tài sản tạo ra trong thời kì hôn
nhân nên “trong trường hợp vợ hoặc chồng giao kết hợp đồng mua tài sản và đã trả tiền
trước khi kết hôn, nhưng quyền sở hữu đối với tài sản chỉ được chuyển cho người mua sau
khi kết hôn thì tài sản mua được cũng là tài sản chung”[28]. Ví dụ một người mua một căn
nhà trước khi cưới, đã trả tiền đầy đủ, chỉ chưa làm giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà,
sau khi kết hôn căn nhà mới chính thức thuộc quyền sở hữu của người đó, khi đó căn nhà
là tài sản chung của vợ chồng.
* Như vậy ta nhận thấy bất cứ tài sản nào hợp pháp tạo ra trong thời kì hôn nhân cũng
thuộc khối tài sản chung, bất kể nguồn gốc, cách thức để tạo ra nó.
Các tài sản do được thừa kế chung, tặng cho chung
Thừa kế chung
Theo căn cứ xác lập quyền sở hữu do được thừa kế và các qui định về thừa kế thì nếu
người có di sản thừa kế chỉ rõ trong di chúc là để lại tài sản thừa kế cho cả hai vợ chồng
thừa kế chung thì đó mới được coi là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Nếu là thừa
kế theo di chúc mà người thừa kế theo di chúc chỉ là một người hoặc thừa kế theo pháp luật
mà chỉ có một người được hưởng thừa kế thì đương nhiên tài sản thừa kế là tài sản riêng
của vợ hoặc chồng. Nếu di chúc chỉ rõ là cho cả hai vợ chồng được thừa kế tài sản nhưng
lại chỉ rõ phần quyền của mỗi người thì tài sản đó thuộc sở hữu chung theo phần của hai
người theo qui định của Bộ luật Dân sự (không phải là sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng). Nếu hai người được thừa kế theo pháp luật (trường hợp cha mẹ được thừa kế tài
sản của con, hoặc trường hợp con đẻ kết hôn với con nuôi, con nuôi kết hôn với con nuôi
được thừa kế tài sản của cha mẹ…) thì tùy từng trường hợp có thể coi đây tài sản riêng của

mỗi người, hoặc tài sản thuộc sở hữu chung theo phần dân sự của hai người, chứ không thể
coi là thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
Tặng cho chung
Cũng như trường hợp thừa kế, nếu như người có tài sản tặng cho thể hiện rõ là tặng cho
chung vợ chồng mà không hề phân biệt phần quyền của mỗi người đối với tài sản tặng cho
thì tài sản đó mới được coi là sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
Các tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung
Do tôn trọng ý chí của vợ chồng, xuất phát từ thực tế cuộc sống là cần phải có tài sản
chung để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, xuất phát từ sự gắn bó tình cảm vợ chồng, từ
quan niệm không phân biệt “của anh của tôi” vợ chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng của
mình vào khối tài sản chung và Luật Hôn nhân và Gia đình cũng qui định nó là tài sản
chung của vợ chồng. Tài sản chung do thỏa thuận này có thể là tài sản riêng có được trước
khi kết hôn, cũng có thể là tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng, cũng có thể là tài sản
riêng do chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Với những tài sản là là nhà ở, quyền sử
dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn hoặc những tài sản là tài sản riêng do chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân thì việc thỏa thuận này phải được lập thành văn bản, có chữ
kí của cả vợ và chồng, một số trường hợp pháp luật qui định thì văn bản đó phải được công
chứng chứng thực. Việc thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung nhằm trốn tránh
các nghĩa vụ về tài sản thì sẽ bị vô hiệu[29].
Một số trường hợp đặc biệt
Quyền sử dụng đất có được trong thời kì hôn nhân
Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2002, “Quyền sử dụng đất mà vợ
chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ
hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ
chồng có thỏa thuận”. Thực ra theo luật thì qui định về quyền sử dụng đất không có gì đặc
biệt hơn so với qui định về các tài sản khác. Cũng có thể nói là việc qui định riêng về
quyền sử dụng đất này không cần thiết nếu như quyền sử dụng đất tự bản thân nó không có
những điểm đặc thù và tầm quan trọng nhất định. Quyền sử dụng đất là một loại quyền dân
sự đặc thù, là loại quyền phụ thuộc, chịu sự chi phối bởi quyền độc lập là quyền sở hữu
toàn dân của đất đai, vợ chồng chỉ có quyền được quyền tài sản này khi được nhà nước

giao đất hoặc cho thuê đất[30]. Việc qui định riêng về quyền sử dụng đất có lẽ chỉ để làm
rõ về chế độ pháp lí của loại tài sản này trong quan hệ vợ chồng.
Tài sản có được do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Các trường hợp tài sản có được là tài sản do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong các trường hợp tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp khác của vợ hoặc chồng hoặc cả hai bị xâm phạm có phải là tài sản chung

×