Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Chia tài sản chung của vợ chồng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 75 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TỐNG THỊ LÝ

Chia tµi s¶n chung CñA vî chång
®Ó tiÕn hµnh ho¹t ®éng s¶n xuÊt kinh doanh

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TỐNG THỊ LÝ

Chia tµi s¶n chung CñA vî chång
®Ó tiÕn hµnh ho¹t ®éng s¶n xuÊt kinh doanh

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƢƠNG LAN

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn này chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Tống Thị Lý


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIA TÀI SẢN
CHUNG VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN .............. 8
1.1.

Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân ............................................................................................. 8

1.2.

Các nguyên tắc cơ bản của việc chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân .................................................................... 12


1.3.

Sự cần thiết của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân để sản xuất kinh doanh riêng.................................... 18

Chƣơng 2: CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG
THỜI KỲ HÔN NHÂN ĐỂ VỢ HOẶC CHỒNG SẢN XUẤT
KINH DOANH RIÊNG ................................................................... 24
2.1.

Quyền yêu cầu chia .......................................................................... 24

2.2.

Phƣơng thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân nhằm mục đích sản xuất kinh doanh riêng của vợ
hoặc chồng ......................................................................................... 29

2.3.

Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân để vợ hoặc chồng sản xuất kinh doanh riêng ............... 32

2.3.1. Quan hệ nhân thân .............................................................................. 33
2.3.2. Quan hệ tài sản ................................................................................... 35


2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con chung và đời sống
chung của gia đình sau khi chia tài sản chung ................................... 40
2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba khi chia

tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để một bên sản xuất, kinh
doanh riêng ......................................................................................... 44
2.4.

Vấn đề chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích sản xuất kinh
doanh riêng ....................................................................................... 46

Chƣơng 3: NHỮNG VƢỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG VIỆC ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ
CHỒNG ĐỂ TIẾN HÀNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH
DOANH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .............................................. 48
3.1.

Một số vƣớng mắc, bất cập khi áp dụng pháp luật về chia tài
sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để vợ hoặc
chồng sản xuất kinh doanh riêng .................................................... 48

3.1.1. Quyền yêu cầu chia tài sản chung để một bên vợ hoặc chồng sản
xuất kinh doanh riêng ......................................................................... 48
3.1.2. Hình thức chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ........ 49
3.1.3. Về hiệu lực của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân ............................................................................................. 50
3.1.4. Về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung khi một bên vợ
hoặc chồng đầu tư kinh doanh riêng trong thời kỳ hôn nhân ............ 51
3.1.5. Về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung
chưa được pháp luật quy định ............................................................ 53
3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chia tài sản

chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích
đầu tƣ kinh doanh riêng .................................................................. 55

3.2.1. Về quyền yêu cầu chia tài sản chung để một bên đầu tư kinh
doanh riêng ......................................................................................... 56


3.2.2. Về hình thức của việc chia tài sản chung để một bên đầu tư kinh
doanh riêng ......................................................................................... 57
3.2.3. Về thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung vợ chồng ........ 58
3.2.4. Về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân để một bên vợ, chồng sản xuất kinh doanh riêng ............. 59
3.2.5. Về các trường hợp chia tài sản chung bị coi là vô hiệu ..................... 60
3.2.6. Về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân ....................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 65


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự

HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

HN&GĐ


Hôn nhân và Gia đình

Luật DN

Luật Doanh nghiệp

Nghị định số 126/2014/NĐ-CP

Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày
31/12/2014 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP

Nghị

định

số

70/2001/NĐ-CP ngày

03/10/2001 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000.
Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật Hôn nhân và gia

đình năm 2000
Nghị quyết số 35/2000/QH10

Nghị

quyết

số

35/2000/QH

ngày

09/06/2000 của Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân là cơ sở của gia đình, hai người đến với nhau bằng tình yêu
và cùng nhau xây dựng một mái ấm, tạo nên gia đình hạnh phúc. Gia đình
luôn luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, nó được coi như
những “tế bào” của xã hội, gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi
trường quan trọng để hình thành và giáo dục nhân cách mỗi người, gia đình
có tốt thì xã hội cũng mới phát triển. Một trong những chức năng cơ bản của
gia đình đó là chức năng kinh tế mà nội dung của nó là sự tham gia của các
thành viên vào quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra của cải
vật chất, tinh thần bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của gia đình.
Gia đình là một “tế bào” xã hội thực hiện chức năng kinh tế, vì thế giữa
các thành viên gia đình luôn tồn tại những mối quan hệ liên quan đến tài sản.
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tính chất của mối quan hệ tài
sản giữa các thành viên trong gia đình cũng có nhiều thay đổi. Vì vậy các quy
định điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng luôn được các nhà làm luật quan
tâm và xây dựng để trở thành một trong những chế định quan trọng nhất của
pháp luật Hôn nhân và gia đình.
Trong Luật HN&GĐ năm 2014 chế độ tài sản chung của vợ chồng
được quy định tại Điều 28, vợ chồng có thể lựa chọn áp dụng chế độ tài sản
pháp định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Về nguyên tắc khi hôn nhân
còn tồn tại thì tài sản chung vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay
có rất nhiều cặp vợ chồng có nhu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. Trong quá trình chung sống vợ
chồng luôn tham gia vào các giao dịch dân sự, thương mại khác nhau để phát
triển kinh tế gia đình, đảm bảo các nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần của

1


gia đình. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì nhu cầu kinh

doanh của các cá nhân trong xã hội là rất cao. Với mục đích để sản xuất kinh
doanh riêng không ít các cặp vợ chồng đã thỏa thuận chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để sản xuất
kinh doanh riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt nó đáp ứng nhu cầu
chính đáng của vợ hoặc chồng trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng thể
hiện sự tôn trọng quyền tự do kinh doanh của công dân theo quy định của
pháp luật hiện hành. Việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
để sản xuất kinh doanh riêng vừa để đảm bảo nhu cầu về sử dụng vốn trong
hoạt động kinh doanh vừa để ngăn chặn những hậu quả rủi ro từ hoạt động
sản xuất kinh doanh đó đối với gia đình, đảm bảo cho lợi ích của gia đình.
Hiện nay việc chia tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm tạo
điều kiện cho một bên vợ hoặc chồng sản xuất kinh doanh riêng được tiến
hành không ít ở các vùng đô thị, thành phố lớn. Bên cạnh những tác động tích
cực của các quy định về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
để sản xuất kinh doanh thì thực tiễn thực hiện những quy định trên cũng bộc
lộ những bất cập. Đặc biệt là những trường hợp lợi dụng những quy định của
pháp luật về vấn đề này để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với
người thứ ba hay việc giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình
thực hiện việc yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng. Điều đó cho thấy cần
phải có sự nghiên cứu sâu về vấn đề chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân đặc biệt chia tài sản chung để vợ chồng sản xuất kinh doanh riêng,
phát hiện những bất cập của các quy định pháp luật để hạn chế những tranh
chấp phát sinh mà vẫn giữ được hạnh phúc gia đình.
Đó là lý do mà tác giả lựa chọn đề tài: “Chia tài sản chung của vợ
chồng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh” để nghiên cứu.

2


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu các quy định của pháp luật về chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân, đặc biệt trong việc đáp ứng yêu cầu kinh doanh
riêng của vợ hoặc chồng, phát hiện những bất cập, hạn chế còn tồn tại trong
quá trình áp dụng những quy định của pháp luật trong thực tiễn chia tài sản
chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Từ đó đưa ra một số kiến nghị góp
phần hoàn thiện quy định của pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
 Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành
về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trong đó chú trọng
nghiên cứu việc vận dụng quy định pháp luật về vấn đề này trong trường hợp
một bên vợ hoặc chồng đầu tư kinh doanh riêng.
Thứ hai, phân tích, nhận dạng những bất cập, hạn chế của pháp luật
hiện hành khi vận dụng những quy định trên trong thực tiễn hoạt động sản
xuất kinh doanh riêng của vợ chồng.
Thứ ba, một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nói chung và khi vợ hoặc
chồng đầu tư kinh doanh riêng trong mối quan hệ tương thích giữa Luật Hôn
nhân và gia đình hiện hành với các luật khác có liên quan như Luật Doanh
nghiệp; Luật Đầu tư; Luật Thương mại; Luật Đất đai…
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu
- Một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân.

3



- Quy định của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
- Vấn đề vận dụng những quy định của pháp luật hiện hành về chia tài
sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi một bên vợ hoặc chồng đầu tư
kinh doanh riêng, thực tiễn thực hiện qua một số hình thức đầu tư kinh doanh.
 Phạm vi nghiên cứu
Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để sản xuất kinh
doanh ở đây được hiểu là việc vợ chồng chia tài sản chung để tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh riêng của mỗi bên. Trong trường hợp vợ chồng
không thỏa thuận và đi đến thống nhất được việc sử dụng tài sản chung vào
việc đầu tư kinh doanh thì họ sẽ thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia để bên
có nhu cầu kinh doanh có nguồn vốn riêng phục vụ cho việc kinh doanh. Việc
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để tiến hành sản xuất kinh doanh sẽ
không được đặt ra trong trường hợp vợ chồng dùng tài sản chung để kinh
doanh, hoặc ủy quyền cho một bên đứng ra kinh doanh bằng tài sản chung.
Do đó, trong phạm vi nghiên cứu đề tài của Luận văn, tác giả tập trung đi sâu
và phân tích về trường hợp vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh riêng của một bên vợ hoặc
chồng. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trong đề
tài này được nghiên cứu trên cơ sở Luật HN&GĐ năm 2014 có sự so sánh với
Luật HN&GĐ năm 2000 để đánh giá những điểm mới, tiến bộ hơn của những
quy định pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Về thực tiễn thực hiện, do Luật HN&GĐ năm 2014 mới có hiệu lực,
việc thực hiện trong thực tế chưa có nên thực tiễn thực hiện được xem xét
nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các quy định về chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân theo Luật HN&GĐ năm 2000. Trong phạm vi đề tài
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về

4



chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích sản xuất
kinh doanh riêng, cũng như việc vận dụng những quy định đó trên thực tiễn
qua một số hình thức đầu tư kinh doanh của vợ chồng. Đồng thời nghiên cứu
và làm rõ những hệ quả pháp lý của các hoạt động sản xuất kinh doanh trực
tiếp vợ, chồng lựa chọn khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đề tài
nghiên cứu việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để vợ
hoặc chồng kinh doanh riêng trong việc góp vốn để thành lập hoặc tham gia
quản lý một số loại hình Doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh
nghiệp 2005 như: Doanh nghiệp tư nhân; Công ty TNHH; Công ty Cổ phần
hoặc Công ty Hợp danh.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian vừa qua đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu liên
quan đến tài sản chung của vợ chồng và chia tài sản chung vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
Các công trình là Luận văn, Luận án gồm có: Nguyễn Văn Cừ (2005),
Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
Nguyễn Hồng Hải (2002), Xác định chế độ tài sản của vợ chồng - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học luật Hà
Nội; Nguyễn Thị Hạnh (2012), Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp
luật Việt Nam. Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện. Luận văn Thạc sĩ luật
học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội; Phạm Hồng Minh Hoàng (2013),
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội; Trần
Đức Hoài (2006), Một số vấn đề về tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Một số bài viết trên các báo, tạp chí chuyên ngành Luật như: Ngô Thị

5



Hường, “Đăng ký quyền sở hữu tài sản và việc xác định tài sản chung, riêng
của vợ chồng”, Tạp chí Luật học số 10/2008; Nguyễn Phương Lan (2002),
“Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân”, Tạp chí Luật học số 6/2002;
Các công trình kể trên hầu như các tác giả đã đề cập đến chế độ tài sản
của vợ chồng và vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân theo Luật HN&GĐ năm 2000. Luận văn của tác giả Trần Đức Hoài nói
về tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại không
nói về chia tài sản chung của vợ chồng nhằm mục đích sản xuất kinh doanh
riêng. Một số công trình cũng đã dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp dụng những
quy định của pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Tuy nhiên các đề tài trên chưa nói đến các quy định của pháp luật, thực tiễn
áp dụng các quy định đó cũng như hậu quả pháp lý phát sinh từ việc chia tài
sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích sản xuất kinh
doanh riêng. Do đó, với đề tài mà tác giả lựa chọn và nghiên cứu là “Chia tài
sản chung vợ chồng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh” có nội dung
hoàn toàn mới và không có sự trùng lặp với các đề tài đã nghiên cứu.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Việc nghiên cứu những nội dung của đề tài dựa trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin với phép duy vật lịch sử và duy vật biện
chứng, gắn với thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và Pháp luật
nói chung và trong lĩnh vực pháp luật Hôn nhân và gia đình nói riêng.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích,
tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh để nghiên cứu đề tài.
6. Điểm mới của đề tài
Luận văn có điểm mới nhất định, bên cạnh việc hệ thống hóa và phân tích
những khái niệm, đặc điểm của vấn đề chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ


6


hôn nhân, luận văn đi sâu làm rõ trường hợp chia tài sản chung vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân để một bên vợ hoặc chồng sản xuất kinh doanh riêng.
Điểm mới cơ bản của luận văn là phân tích việc chia tài sản chung vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích để vợ chồng có vốn phục vụ
cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh riêng. Trên cơ sở đó luận văn xem xét,
nghiên cứu các trường hợp đầu tư kinh doanh riêng trực tiếp của vợ chồng
trong một số loại hình doanh nghiệp như: Công ty Cổ phần, Công ty Trách
nhiệm hữu hạn, Công ty Hợp danh hay Doanh nghiệp tư nhân và những hệ
quả pháp lý của các hoạt động sản xuất kinh doanh đó đối với vợ, chồng, đối
với gia đình cũng như cách giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá
trình vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng.
Từ việc phân tích những nội dung trên luận văn đã nêu lên được những
quy định chưa phù hợp, những hạn chế còn tồn tại của pháp luật hiện hành về
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, vận dụng trong trường
hợp một bên vợ hoặc chồng sản xuất kinh doanh riêng ở cả góc độ lý luận và
thực tiễn áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó luận văn kiến nghị một số giải
pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và góp phần
hoàn thiện những quy định của pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo và Mục lục
thì nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
Chương 2. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để vợ chồng sản
xuất kinh doanh riêng.
Chương 3: Những vướng mắc, bất cập trong việc vận dụng pháp luật về

chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để hoạt động sản xuất
kinh doanh riêng và một số kiến nghị.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
1.1. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
 Tài sản chung của vợ chồng
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng phát sinh, tồn tại cùng với sự phát
sinh và tồn tại của quan hệ hôn nhân. Tài sản của vợ chồng là một phạm trù
pháp lý gắn với quyền sở hữu của vợ chồng. Xuất phát từ tính chất của quan
hệ hôn nhân là cùng chung ý chí, chung công sức trong việc xây dựng gia
đình, đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó như:
chăm sóc, nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình, phát triển kinh tế… nên
pháp luật quy định giữa vợ chồng phát sinh tài sản thuộc sở hữu chung. Chế
độ tài sản chung của vợ chồng được quy định tại các điều 33, 34 Luật
HN&GĐ năm 2014, theo đó:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo
ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong
thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 điều 40
của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là
tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được
thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao
dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc quyền sở hữu chung
hợp nhất, được dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện
nghĩa vụ chung của vợ chồng.

8


3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản
mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài
sản đó được coi là tài sản chung [36, Điều 33].
Tài sản chung của vợ chồng dùng để đáp ứng các nhu cầu chung của
gia đình, thực hiện các nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng. Theo quy định
của BLDS và Luật HN&GĐ thì sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung
hợp nhất. Sự đóng góp công sức của vợ chồng vào việc xây dựng khối tài sản
chung có thể không ngang nhau nhưng quyền sở hữu của họ đối với tài sản
chung vẫn ngang nhau. Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do
công sức của cả hai vợ chồng mà có thể chỉ do vợ hoặc chồng làm ra hoặc là
thu nhập hợp pháp của một trong hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Như
vậy, trong thời kỳ hôn nhân một bên hoặc cả hai vợ chồng trực tiếp bỏ công
sức để tạo ra tài sản hoặc tham gia và trong quá trình lao động, sản xuất, kinh
doanh và có thu nhập thì tài sản và thu nhập đó được xác định là tài sản chung
của vợ chồng. Đồng thời những tài sản vợ chồng được tặng cho chung hoặc
thừa kế chung cũng được coi là tài sản chung của vợ chồng. Như vậy, khi chủ
sở hữu tài sản chuyển quyền sở hữu tài sản của họ cho vợ chồng bằng hợp
đồng tặng cho tài sản hoặc theo di chúc thì vợ chồng được xác lập quyền sở
hữu với tài sản được tặng cho hoặc được thừa kế. Tài sản chung hoặc tài sản
riêng của vợ chồng có thể phát sinh hoa lợi, lợi tức. Đó là các sản vật tự nhiên
mà tài sản mang lại hoặc là các khoản thu được từ việc khai thác tài sản. Theo
pháp luật hiện hành, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Hoa lợi, lợi tức phát

sinh từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng được xác
định là tài sản chung, trừ hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng được chia
từ khối tài sản chung của vợ chồng là tài sản riêng. Ngoài ra, tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn được xác lập từ những thu nhập hợp

9


pháp khác như: tiền thưởng, khoản trợ cấp thường xuyên hoặc bất thường mà
vợ chồng nhận được như trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp thai sản…, tiền trúng xổ
số… và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận nhập vào khối tài sản
chung. Theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam, việc xác định là tài sản chung vợ
chồng hay tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng được căn cứ vào thời kỳ hôn
nhân và nguồn gốc tài sản. Trong thời kỳ hôn nhân, tùy vào nguồn gốc tài sản
được quy định trong các điều luật nêu trên, sẽ xác định được đó là tài sản
chung hay tài sản riêng của vợ chồng. Thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân là
ranh giới để xác định tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Về
nguyên tắc thì những tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn luôn là tài sản
riêng của một bên vợ, chồng.
 Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Hiểu một cách khái quát thì thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian
tồn tại quan hệ vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân là “khoảng thời gian tồn tại
quan hệ vợ chồng được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt
hôn nhân” [36, Điều 3, Khoản 13]. Thời kỳ hôn nhân được tính từ thời điểm
hai bên nam nữ đăng ký kết hôn đến thời điểm chấm dứt hôn nhân do một bên
vợ hoặc chồng chết, vợ hoặc chồng bị tuyên bố chết hay do ly hôn bằng bản
án hoặc quyết định thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật.
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định chế độ tài sản của vợ chồng có thể là
chế độ tài sản pháp định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Chế độ tài sản
pháp định được quy định tại khoản 1 điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014. Tài

sản chung của vợ chồng thuộc khối tài sản chung hợp nhất, phần quyền sở
hữu của vợ chồng không được xác định trước. Đối với khối tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân thì vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc quản lý,
sử dụng. Chế độ tài sản này bắt đầu từ khi quan hệ hôn nhân được xác lập và
thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân. Trong một số trường hợp, vợ chồng có

10


thể chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, phần tài sản chung được chia
cho mỗi bên vợ, chồng là tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mặc dù quy định này đã được ghi nhận
từ Luật HN&GĐ năm 1986; Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm
2014, vì thế cũng đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về chia tài sản chung
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tác giả Phạm Thị Tươi đã đưa ra khái niệm
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau:
Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc
chuyển một phần hoặc toàn bộ tài sản vốn là tài sản chung của vợ
chồng thành tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng theo sự thỏa thuận
của vợ chồng hoặc do Tòa án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng
khi có những lý do nhất định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của mỗi bên vợ chồng và người thứ ba có liên quan mà không
làm chấm dứt quan hệ giữa vợ và chồng trước pháp luật [41].
Cũng liên quan đến khái niệm chia tài sản chung vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân thì tác giả Phạm Hồng Minh Hoàng lại cho rằng:
Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc
thay đổi một phần hoặc toàn bộ tài sản chung của vợ chồng thành
tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng theo thỏa thuận hoặc do Tòa án
quyết định trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,

thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng được thực hiện trong thời kỳ
hôn nhân và hậu quả pháp lý của việc này không làm chấm dứt
quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng trước pháp luật [15].
Trên cơ sở tìm hiểu các quy định về thời kỳ hôn nhân, tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tác giả xin đưa ra định nghĩa khái quát

11


về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau: Chia tài
sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp được pháp luật quy
định trong đó vợ chồng có quyền thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì
yêu cầu Tòa án giải quyết nhằm tách một phần hoặc chuyển toàn bộ tài sản
chung của vợ chồng thành tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng mà không làm
chấm dứt quan hệ vợ chồng với điều kiện không làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của gia đình, của các con và không nhằm mục đích trốn tránh các nghĩa vụ về
tài sản của vợ, chồng.
Có thể nói các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân: về trường hợp chia, hình thức chia, hậu quả pháp lý của việc
chia đã phát huy được hiệu quả, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của vợ chồng và các thành viên của gia đình cũng như lợi ích của bên thứ ba
tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại với vợ, chồng.
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của việc chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân
Nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được
xác định là những tư tưởng chỉ đạo mang tính chi phối, định hướng cho mọi
hoạt động của các chủ thể tham gia vào việc giải quyết các yêu cầu liên quan
đến chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Hiện nay, pháp
luật chưa có quy định cụ thể về các nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng

trong thời kỳ hôn nhân vì vậy ít nhiều đã gây ra những khó khăn trong thực
tiễn áp dụng luật. Căn cứ từ lý luận và thực tế cho thấy việc chia tài sản chung
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cần phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất
định. Cụ thể là:
Thứ nhất, nguyên tắc vợ chồng bình đẳng về tài sản.
Nguyên tắc bình đẳng được xem là nguyên tắc cơ bản giữa các chủ thể
khi tham gia các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ giữa vợ chồng nói

12


riêng. Nguyên tắc này được thể hiện trong các văn bản pháp luật có giá trị cao
nhất như Hiến pháp quy định về quyền bình đẳng giữa các công dân trước
pháp luật và quyền tự do kinh doanh của công dân. Hiến pháp năm 2013 quy
định rõ: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm” [34, Điều 33]. Quyền cơ bản này của công dân đã được
cụ thể hóa và quy định ở Bộ Luật dân sự cũng như các Luật chuyên ngành và
các văn bản pháp luật khác. Điều 5 BLDS năm 2005 đã ghi nhận trong quan
hệ dân sự các chủ thể đều bình đẳng với nhau, Điều 8 BLDS năm 2005 cũng
quy định trong quan hệ vợ chồng thì vợ, chồng là những chủ thể độc lập khi
tham gia bất cứ một giao dịch hợp pháp nào mà bên kia không có quyền ngăn
cản. BLDS năm 2005 quy định: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền,
nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự,
cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền
vững” [29, Điều 40]. Quy định này đã thể hiện sự bình đẳng về mọi mặt của
vợ chồng trong mọi quan hệ xã hội.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định cụ thể hơn nữa về quyền bình
đẳng của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Vợ chồng bình đẳng
với nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến

pháp, Luật này và các luật khác có liên quan” [36, Điều 17]. Quyền bình
đẳng đó thể hiện rõ trong việc vợ chồng cùng nhau bàn bạc và quyết định các
vấn đề liên quan đến nhân thân cũng như tài sản liên quan đến đời sống chung
của gia đình như việc chăm sóc nuôi dưỡng con cái hay xây dựng và phát
triển đời sống kinh tế của gia đình.
Quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng còn được thể hiện trong việc
yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Vợ chồng có thể
thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung trong thời

13


kỳ hôn nhân. Trong trường hợp yêu cầu Tòa án chia tài sản chung thì sẽ giải
quyết theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 tức là chia tài sản
như khi vợ chồng ly hôn. Tài sản của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính
đến các yếu tố như hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng
góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung;
bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Như vậy,
những quy định cụ thể của Luật HN&GĐ năm 2014 đã phần nào thực hiện
hóa nguyên tắc vợ chồng bình đẳng về tài sản. Mặc dù sự đóng góp của vợ,
chồng vào khối tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là khác nhau
nhưng khi thực hiện việc chia tài sản chung thì pháp luật vẫn luôn thể hiện sự
công bằng, bình đẳng của cả vợ và chồng. Trong nền kinh tế thị trường hiện
nay luôn mang đến những cơ hội đồng thời là những thách thức đối với mỗi
cá nhân khi họ tham gia vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Vì vậy, chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để một bên vợ hoặc chồng tham
gia vào sản xuất kinh doanh riêng cần phải đảm bảo được quyền bình đẳng
của vợ chồng nhằm thực hiện các quyền năng về tài sản của vợ chồng cũng
như đảm bảo cho cuộc sống của gia đình được bền vững.

Thứ hai, nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng.
“Thỏa thuận” có nghĩa là “đi tới sự đồng ý sau khi cân nhắc, thảo luận” [43].
BLDS năm 2005 và Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 cũng
như các văn bản pháp luật khác đều tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ
chồng đối với tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Trong thời kỳ hôn nhân
vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ khối tài sản chung.
Đây hoàn toàn là sự thỏa thuận riêng của vợ chồng, người thứ ba và các chủ
thể có liên quan đến tài sản của vợ chồng không thể can thiệp đến thỏa thuận
chia này. Việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân xuất phát

14


từ nhu cầu thực tế của vợ hoặc chồng. Ngoài những trường hợp chia bị coi là
vô hiệu như quy định tại Điều 42 Luật HN&GĐ năm 2014 thì vợ chồng hoàn
toàn có quyền thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản chung, có thể vì mục
đích kinh doanh riêng của một bên vợ hoặc chồng, hoặc những lý do chính
đáng khác. Tuy nhiên sự thỏa thuận này chỉ được coi là hợp pháp khi nó được
xác lập trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, cưỡng ép đồng thời
đó là ý chí độc lập của vợ, chồng dựa trên sự nhận thức đầy đủ và rõ ràng về
những hậu quả pháp lý phát sinh sau khi chia tài sản chung.
Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định cụ thể về hình thức
cũng như các nội dung chính khi vợ chồng thỏa thuận phân chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân. Cụ thể là, thỏa thuận phân chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng phải được lập thành văn bản và phải có
nội dung chính bao gồm: lý do chia tài sản, phần tài sản chia, phần tài sản
còn lại không chia (nếu có) và những nội dung khác (nếu có). Ngoài ra, vợ
chồng có thể yêu cầu cơ quan công chứng có thẩm quyền công chứng văn
bản thỏa thuận phân chia tài sản hoặc yêu cầu người khác làm chứng văn
bản đó. Những quy định trên nhằm tránh việc vợ chồng thỏa thuận phân chia

tài sản chung để trốn tránh nghĩa vụ tài sản với người thứ ba hay với mục
đích tẩu tán tài sản, đồng thời nó cũng thể hiện sự tự do thỏa thuận của vợ
chồng là hoàn toàn tuyệt đối về việc định đoạt khối tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân của họ.
Có thể nói pháp luật tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của vợ chồng
trong việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân với mục đích sản xuất
kinh doanh riêng của vợ hoặc chồng. Tuy nhiên, sự tự do thỏa thuận ấy lại bị
hạn chế và không được chấp nhận trong những trường hợp như: ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình, quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa
thành niên, còn đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có

15


khả năng lao động; trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại… [36, Điều 42].
Thứ ba, nguyên tắc sự thỏa thuận của vợ chồng chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định vợ chồng có quyền tự
do thỏa thuận và định đoạt đối với khối tài sản chung của họ trong thời kỳ hôn
nhân. Những quy định đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cá nhân vợ hoặc
chồng có thể thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ, đó có thể là việc
đầu tư sản xuất kinh doanh riêng hay những nhu cầu cá nhân khác. Do đó khi
vợ chồng có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật thì họ có thể thỏa
thuận hoặc yêu cầu Tòa án tiến hành việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân. Vợ chồng được tự do thể hiện ý chí trong việc thỏa thuận các nội dung
liên quan đến việc phân chia tài sản chung. Tuy nhiên sự tự do thỏa thuận này
không được làm ảnh hưởng hay gây bất lợi cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân
khác. Nếu sự thỏa thuận của vợ chồng vi phạm đến quyền, lợi ích, vi phạm
đạo đức xã hội thì pháp luật sẽ không thừa nhận và sự thỏa thuận của vợ

chồng sẽ bị vô hiệu. Pháp luật điều chỉnh quyền tự do định đoạt tài sản của vợ
chồng trên cơ sở sự tôn trọng quyền định đoạt của vợ chồng trong mối liên hệ
và tôn trọng các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể khác.
Tinh thần của nguyên tắc này được thể hiện và quy định cụ thể tại
Khoản 2 điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 và điều 42 Luật HN&GĐ năm
2014. Theo đó sự thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân sẽ bị vô hiệu khi với mục đích: trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp
dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên
bố phá sản; nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;
nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy
định khác của pháp luật có liên quan [36, Điều 42, Khoản 2]. Lợi ích chính

16


đáng của cộng đồng, của xã hội được bảo vệ bằng pháp luật và đạo đức xã
hội, nó trở thành giới hạn cho sự tự do ý chí của các chủ thể khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ hôn nhân gia đình nói riêng.
Nguyên tắc này thể hiện mục đích tôn trọng lợi ích của cộng đồng, của xã hội
và lợi ích chính đáng của các cá nhân trong xã hội.
Thứ tư, việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải
đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên và con đã thành niên nhưng
không có khả năng lao động.
So với Luật HN&GĐ năm 2000 thì Luật HN&GĐ năm 2014 đã có những
quy định cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ với con. Theo đó:
Mọi thỏa thuận của cha mẹ, con có liên quan đến quan hệ
nhân thân, tài sản không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình…. [36, Điều 68, Khoản 4].

Đồng thời Luật HN&GĐ năm 2014 cũng ghi nhận:
Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con;
chăm lo cho việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh cả
về thể chất, trí tuệ và đạo đức; trở thành người con hiếu thảo của gia
đình, công dân có ích cho xã hội. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình [36, Điều 69, Khoản 1,2].
Chăm sóc và nuôi dạy con cái không chỉ là nghĩa vụ của cha mẹ đối với
con mà nó còn là nghĩa vụ của cha mẹ đối với Nhà nước. Đối với bất kỳ quốc
gia nào trẻ em là đối tượng chăm sóc đặc biệt vì đó là lực lượng lao động
tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất

17


nước. Mặt khác, việc cha mẹ có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
em nhằm bảo đảm thực hiện những quyền cơ bản của trẻ em đã được ghi nhận
trong những văn bản pháp luật Quốc tế cũng như ở từng quốc gia cụ thể.
Trường hợp vợ chồng thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân, dù là phân chia toàn bộ khối tài sản chung hay chỉ phân chia một
phần thì mối quan hệ pháp lý của vợ chồng vẫn chưa chấm dứt, không vì thế
mà làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con cái, đặc biệt là
con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải có sự thỏa
thuận và thống nhất trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con cái.
Theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi: “Ảnh hưởng nghiêm
trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc con không có khả năng lao

động và không có tài sản để tự nuôi mình” [36. Điều 42, Khoản 1].
Đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên và con đã thành niên
nhưng không có khả năng lao động khi vợ chồng phân chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân một mặt nhằm đảm bảo cho quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của con cái trong gia đình mặt khác nó cũng thể hiện truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam đó là luôn có sự yêu thương, chăm sóc
lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
1.3. Sự cần thiết của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân để sản xuất kinh doanh riêng
Việc chia tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để sản xuất kinh
doanh riêng là cần thiết trong cuộc sống vợ chồng đặc biệt là trong điều kiện
kinh tế xã hội hiện nay. Bởi vì các lý do sau:
Thứ nhất, nhu cầu sản xuất kinh doanh riêng của mỗi bên vợ chồng là

18


×