Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Mua Lại Doanh Nghiệp Theo Pháp Luật Cạnh Tranh.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.24 KB, 62 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

Trong xu hướng tồn cầu hóa kinh tế, làn sóng mua lại doanh nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ và Việt Nam được xem là một trong số các quốc gia có thị trường mua lại thu hút nhiều nhà đầu tư tiếp cận tham gia nhất trên thế giới. Chính điều này đã làm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung và hoạt động của các doanh nghiệp khi tham gia thương vụ mua lại nói riêng. Do đó, để thực hiện hoạt động mua lại, mỗi doanh nghiệp cần phải tìm hiểu các quy định về cạnh tranh, thủ tục hành chính,... và các vấn đề pháp lý khác liên quan nhằm đảm bảo rằng những hành vi của mình được phép thực hiện theo quy định của pháp luật. Nhận thấy đây là các vấn đề cần được khai thác

<i><b>và tìm hiểu sâu nên nhóm đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Mua lại doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh”. Mục tiêu nghiên cứu là hướng đến sự hiểu biết pháp luật cho </b></i>

các doanh nghiệp và đưa ra những kiến nghị cải tiến phù hợp thực tiễn tại Việt Nam. Theo đó, phân tích vấn đề mua lại doanh nghiệp dưới góc độ pháp lý là một trong những nội dung nghiên cứu của bài viết và nêu ra thực trạng của việc mua lại tại Việt Nam. Đồng thời phân tích, đánh giá quy định mua lại doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, từ đó, đưa ra một số hạn chế của pháp luật Việt Nam khi so sánh pháp luật Hoa Kỳ.

Từ những hạn chế của pháp luật Việt Nam, nhóm tác giả đã đề xuất một số khuyến nghị về quy định pháp luật cho phù hợp với thực tiễn nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia. Bao gồm: phát triển cơ quan chuyên trách về cạnh tranh xử lý các giao dịch mua lại, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, ghi nhận hình thức mua lại doanh nghiệp trong văn bản, đưa ra phương pháp đánh giá các tiêu chí, quy định cho nhà đầu tư nước ngồi.

Từ khóa: mua lại doanh nghiệp, pháp luật cạnh tranh, M&A.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>STT Ký hiệu Nguyên nghĩa </b>

2 FTC Federal Trade Commission - Ủy ban Thương mại Liên bang 3 M&A Mergers & Acquisitions – Mua lại và Sáp nhập

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>TÓM TẮT</b>

<b>DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT</b>

<b>PHẦN MỞ ĐẦU ... 1</b>

<b>CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ MUA LẠI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ... 6</b>

1.1. Khái niệm mua lại doanh nghiệp ... 6

1.1.1. Khái niệm mua lại doanh nghiệp theo góc độ kinh tế ... 6

1.1.2. Khái niệm mua lại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam ... 6

1.2. Đặc điểm mua lại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam ... 8

1.2.1. Chủ thể doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam ... 8

1.2.2. Đối tượng doanh nghiệp mua lại theo pháp luật Việt Nam ... 11

1.2.3. Phạm vi điều chỉnh hành vi mua lại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam... 13

1.2.4. Hệ quả pháp lý mua lại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam ... 14

1.3. Các hình thức mua lại doanh nghiệp ... 16

1.3.1. Phân loại dựa trên mục đích và cách thức ... 16

1.3.2. Phân loại dựa trên quan hệ giữa người mua và người bán ... 17

1.4. Pháp luật Cạnh tranh điều chỉnh về hoạt động mua lại doanh nghiệp... 19

1.4.1. Cơ quan thực thi ... 19

1.4.2. Đánh giá tác động cạnh tranh khi thực hiện hành vi mua lại ... 21

1.4.3. Chế tài xử lý ... 23

1.5. Ý nghĩa việc mua lại doanh nghiệp với kinh tế và với pháp luật ... 24

1.6. Thực trạng việc mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam ... 25

Kết luận Chương I ... 27

<b>CHƯƠNG II. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI DOANH NGHIỆP CỦA HOA KỲ VÀ KHUYẾN NGHỊ CHO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ... 28</b>

2.1. Khái quát về pháp luật Hoa Kỳ về vấn đề mua lại doanh nghiệp ... 29

2.1.1. Hệ thống pháp luật điều chỉnh mua lại doanh nghiệp tại Hoa Kỳ ... 29

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

2.2. Cơ quan thực thi pháp luật tập trung kinh tế, chống độc quyền ... 35

2.2.1. Phòng Chống độc quyền của Bộ Tư pháp (Antitrust Division of DOJ) ... 35

2.2.2. Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC) ... 36

2.2.3. Các Tòa án ... 37

2.2.4. Tổng Chưởng lý ... 38

2.3. Đánh giá tác động cạnh tranh theo pháp luật Hoa Kỳ về vấn đề mua lại doanh nghiệp ... 38

2.3.1. Quy định về ngưỡng thông báo và nghĩa vụ thông báo ... 39

2.3.2. Trường hợp cấm thực hiện mua lại doanh nghiệp ... 42

2.3.3. Chế tài ... 48

2.4. Hạn chế của Luật Cạnh tranh Việt Nam về vấn đề mua lại doanh nghiệp khi so sánh với pháp luật Hoa Kỳ ... 49

2.4.1. Hạn chế về cơ quan thực thi, xét xử trong lĩnh vực cạnh tranh ... 49

2.4.2. Hạn chế về quy định trong phân loại các hình thức mua lại ... 51

2.4.3. Hạn chế về tiêu chí đánh giá tác động cạnh tranh ... 51

2.5. Khuyến nghị xây dựng khung pháp lý về hành vi mua lại ở Việt Nam ... 52

Kết luận Chương II ... 54

<b>KẾT LUẬN CHUNG ... 55TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>

Theo Dữ liệu thống kê từ Refinitiv, cuối năm 2020, tổng số vụ M&A đã tăng 18% so với kỳ năm trước và giúp tổng giá trị các thương vụ M&A trên toàn cầu trong cả năm đạt mức 3.600 tỷ USD<small>1</small>. Cũng theo kênh này, mặc dù có phần chậm lại vào đầu năm 2022, nhưng nhiều thương vụ với giá trị lớn đã được triển khai nâng tổng giá trị các giao dịch M&A quý I/2022 cao hơn cả tổng giá trị từ năm 2019 – 2021.

Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, bất chấp những khó khăn của thời kỳ dịch Covid, giá trị và số lượng thương vụ M&A vẫn liên tục tăng trưởng. Điều này đã minh chứng rằng, Việt Nam vẫn là một điểm thị trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.

Trong thời gian gần đây, cùng với sự phát triển của thị trường thương mại toàn cầu, các doanh nghiệp trong và ngồi nước đều khơng ngừng nỗ lực mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình nhằm mục đích củng cố địa vị và gia tăng sức cạnh tranh trên bản đồ thị trường khu vực và thế giới. Tiêu biểu cho hoạt động M&A tại thị trường Việt Nam là vụ việc Công ty Cổ phần Tập đoàn Masan mua lại 51% của Phúc Long sau hai năm và chính thức trở thành công ty mẹ của chuỗi thức uống này. Không chỉ vậy, bên cạnh việc nhưng công ty lớn trong nước liên tục trở thành chủ sở hữu của các công ty nhỏ, thị trường M&A cũng trở nên sôi động hơn bao giờ hết khi có sự góp mặt của các cơng ty, tập đồn nước ngồi. Một trong số các vụ M&A nổi tiếng không thể không nhắc đến chính là thương vụ mua lại cơng ty bánh kẹo Kinh Đơ của tập đồn bánh kẹo hàng đầu thế giới Mondelez.

Dù cho tần suất các thương vụ M&A xuất hiện ngày càng mạnh mẽ, và có sức ảnh hưởng, tiếng vang lớn trong nền kinh tế, nhưng thực tế cho thấy, trên khía cạnh pháp lý thì các quy định pháp luật về lĩnh vực M&A ở Việt Nam chưa thực sự rõ ràng, thống nhất, các quy định vẫn còn tồn tại rải rác ở nhiều văn bản khác nhau và vẫn chưa thực sự được hoàn thiện nên khi áp dụng các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn.

Nhìn nhận được thị trường hiện nay, cũng như nhận thấy việc nghiên cứu phân tích pháp luật về hành vi mua lại là hết sức cần thiết cả về mặt học thuật lẫn thực tiễn, nhóm

<i><b>tác giả quyết định nghiên cứu với đề tài “Mua lại doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh”. Nghiên cứu sẽ đưa ra các đánh giá về hành vi mua lại theo pháp luật Việt Nam, </b></i>

đồng thời thông qua việc phân tích pháp luật của nước đi đầu về lĩnh vực M&A, nhóm

<small> truy cập lần cuối ngày 05/3/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

tác giả sẽ chỉ ra những khiếm khuyết cũng như đề xuất các giải pháp để hoàn thiện khung pháp lý trong lĩnh vực này tại Việt Nam. Từ đó, góp phần khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài cũng như đảm bảo quyền lợi cho các bên trong các thương vụ này.

<b>2. Tổng quan nghiên cứu </b>

Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, nhóm tác giả tiến hành tổng hợp các tài liệu trong và ngoài nước nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến đề tài mà nhóm tác giả đã chọn.

<i><b>2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước </b></i>

1. Đỗ Khắc Tất Hưng (2021), “Một số vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động sáp

<i>nhập và mua lại (M&A) tại Việt Nam - So sánh với Singapore”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. </i>

Trong luận văn “Một số vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động sáp nhập và mua lại (M&A) tại Việt Nam - So sánh với Singapore”, tác giả đã nghiên cứu sơ lược về sáp nhập và mua lại, cấu trúc và trình tự của giao dịch sáp nhập và mua lại tại Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả đã đưa ra những vấn đề pháp lý liên quan đến giao dịch sáp nhập và mua lại tại Singapore, từ đó đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

<i>2. Trương Hữu Ngữ (2021), Pháp lý M&A căn bản, Nxb. Công thương. </i>

Trong tài liệu này, tác giả đã phân tích và làm rõ một số vấn đề về giao dịch M&A. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra thêm các kiến thức cơ bản, mang tính hệ thống về một số giao dịch M&A.

3. Nguyễn Hạnh Nguyên (2020), “Quy định của Luật Cạnh tranh đối với hoạt động

<i>mua bán và sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường </i>

Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong luận văn này, tác giả đã chỉ ra một số khái niệm, đặc điểm và phân loại mua bán và sáp nhập doanh nghiệp; đồng thời cũng nêu ra tổng quan pháp luật Việt Nam và một số quốc gia khác về khái niệm mua bán và sáp nhập doanh nghiệp. Hơn nữa, nghiên cứu này đã nêu ra thực trạng áp dụng pháp luật đối với hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam trong thời gian qua để đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của Luật Cạnh tranh.

4. Nguyễn Phúc Linh (2017), Pháp luật về mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Nghiên cứu này đã đưa ra những vấn đề lý luận về hoạt động sáp nhập và mua bán doanh nghiệp; đồng thời, đưa ra một số hoạt động M&A và bất cập trong pháp luật ở Việt Nam. Từ đó, xây dựng hướng hoàn thiện pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam.

<i><b>2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước </b></i>

1. Lorenzo Corte & Scott Hopkins Skadden, Arps, Slate, Meagher & Flom (UK)

<i>LLP (2023), The International Comparative Legal Guide to: Mergers & Acquisitions 2023 (17th Edition). </i>

Tài liệu này đã đưa ra một số thông tin về mua lại và sáp nhập trong môi trường kinh tế và chính trị. Ngồi ra, các tác giả cũng cung cấp những kiến thức phong phú về quy định pháp luật của một số quốc gia về vấn đề mua lại và sáp nhập doanh nghiệp.

2. Bernile, G., & Lyandres, E. (2019), “The effects of horizontal merger operating

<i>efficiencies on rivals, customers, and suppliers”, Review of Finance, 23(1), 117-160. </i>

Nghiên cứu này đưa ra kết quả trong sáp nhập theo chiều ngang ảnh hưởng đến phản ứng thị trường của các đối thủ, khách hàng và nhà cung cấp của các công ty sáp nhập.

Những công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo nhằm cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về hoạt động mua lại doanh nghiệp. Việc nghiên cứu các tài liệu nêu trên đã giúp nhóm tác giả bổ sung thêm kiến thức về việc pháp luật quy định về vấn đề mua lại và qua đó, nhóm tác giả có thể nghiên cứu sâu hơn nhằm đưa ra những đánh giá, kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với hoạt

<b>động mua lại. </b>

<b>3. Mục tiêu nghiên cứu </b>

Mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra kiến nghị cải tiến pháp luật về mua lại doanh nghiệp sao cho phù hợp với nhu cầu, tình hình thực tiễn của hoạt động này tại Việt Nam.

Bằng cách nghiên cứu pháp luật cạnh tranh của Việt Nam và Hoa Kỳ qua các thời kỳ, đồng thời dựa trên các đặc điểm kinh tế, chính trị và xã hội đặc trưng của mỗi quốc gia, nhóm tác giả tập đã tìm hiểu và phân tích những quy định mang tính căn bản trong hệ thống pháp luật nhằm hiểu rõ tư duy lập pháp của các nhà làm luật. Từ đó, so sánh, đối chiếu giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật Hoa Kỳ để xác định các quy định khác biệt trong hệ thống pháp luật cạnh tranh của hai quốc gia và nguyên nhân dẫn đến các sự khác biệt này. Kết quả là nhận diện và xây dựng định hướng điều chỉnh những điểm

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

hạn chế nên được thay đổi trong các quy định liên quan đến mua lại doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam.

<b>4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu </b>

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhóm tác giả đã tập trung nghiên cứu một số quy định của pháp luật về cạnh tranh của Việt Nam và Hoa Kỳ, bao gồm:

<i>Một là, khái niệm mua lại doanh nghiệp và các quan điểm về mua lại doanh </i>

nghiệp;

<i>Hai là, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động mua lại doanh </i>

nghiệp;

<i>Ba là, các loại hình mua lại doanh nghiệp; </i>

<i>Bốn là, cơ quan tham gia việc thực thi pháp luật cạnh tranh; </i>

<i>Năm là, các trường hợp mua lại doanh nghiệp bị kiểm soát tập trung kinh tế theo </i>

pháp luật cạnh tranh – trong đó nhấn mạnh vào hai nhóm hành vi là Nhóm hành vi phải thơng báo cùng các tiêu chí về ngưỡng thông báo mua lại doanh nghiệp, các trường hợp được miễn trừ, thủ tục thơng báo, và Nhóm hành vi bị cấm cùng quy định về đánh giá tác động cạnh tranh từ một thương vụ mua lại doanh nghiệp.

Trên thực tế, các nội dung nghiên cứu vừa liệt kê được quy định ở nhiều văn bản luật khác như luật cạnh tranh, luật doanh nghiệp, luật chứng khoán, luật đầu tư... Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ bó hẹp trong các quy định của pháp luật cạnh tranh hoặc/và pháp luật chống độc quyền về kiểm soát mua lại doanh nghiệp.

<b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>

Để thực hiện đề tài này, nhóm tác giả kết hợp một số các phương pháp nghiên cứu phù hợp khác nhau. Nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh nhằm khai thác nội dung từ các cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố có liên quan đến đề tài để tiến hành phân tích các vấn đề về hoạt động mua lại doanh nghiệp. Nhóm tổng hợp, hệ thống hoá các thiết chế pháp luật hiện hành về hoạt động mua lại doanh nghiệp. Đồng thời, nhóm cũng phân tích, nghiên cứu pháp luật của Hoa Kỳ, từ đó rút ra kinh nghiệm và hồn thiện pháp luật về hoạt động mua lại tại Việt Nam. Đây là phương pháp được nhóm sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu.

<b>6. Kết cấu của đề tài </b>

Đề tài nghiên cứu gồm 02 chương:

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ MUA LẠI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Trong chương thứ nhất, nhóm tác giả tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc điểm và các hình thức mua lại doanh nghiệp. Đồng thời, nhóm cũng phân tích các vấn đề liên quan đến việc mua lại doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh, từ đó đưa ra ý nghĩa của việc mua lại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhóm cũng nêu được thực trạng mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam.

CHƯƠNG II. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI DOANH NGHIỆP CỦA HOA KỲ VÀ KHUYẾN NGHỊ CHO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Trong chương này, thơng qua việc phân tích quy định pháp luật về mua lại doanh nghiệp của Hoa Kỳ, nhóm tác giả đưa ra những hạn chế của pháp luật Việt Nam về vấn đề mua lại doanh nghiệp. Theo đó, nhóm tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ MUA LẠI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 1.1. Khái niệm mua lại doanh nghiệp </b>

<i><b>1.1.1. Khái niệm mua lại doanh nghiệp theo góc độ kinh tế </b></i>

Ở Việt Nam, hoạt động mua lại doanh nghiệp thường được xem là hoạt động kinh doanh, quyết định đầu tư và quản trị chiến lược công ty, tài chính doanh nghiệp rất phổ biến để mở rộng thị trường và phát triển. Trong nghiên cứu của David L.Scott đã định nghĩa mua lại là quá trình mua lại tài sản như máy móc một bộ phận hay thậm chí tồn bộ cơng ty<small>2</small>.

Mua lại là hành vi để tối đa hóa sự tăng trưởng về doanh thu/tài sản hoặc để kiểm sốt một cơng ty lớn. Trong bài nghiên cứu của Paul Halpern đã đưa ra một số mục tiêu của việc mua lại. Chẳng hạn như, việc mua lại cho phép tái sử dụng lượng tiền mặt dư thừa do bên mua hoặc mục tiêu nắm giữ. Hay việc mua lại mang lại có thể làm giảm xác suất phá sản do hành vi mua lại đó làm giảm chi phí phá sản dự kiến và tăng khả năng trả nợ. Hoặc việc mua lại dẫn đến sự gia tăng dòng tiền dự kiến với tư cách là các công ty độc lập. Việc mua lại cũng có thể với mục đích là giành quyền kiểm sốt mục tiêu.<small>3</small>

Theo đó, việc mua lại dưới góc độ kinh tế được thực hiện dưới nhiều mục đích khác nhau.

<i><b>1.1.2. Khái niệm mua lại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam </b></i>

<i>Trước đây, khoản 3 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm sốt, chi phối tồn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.” Theo đó, đặc điểm của hoạt động mua lại bao gồm: Thứ nhất, cách thức là thu mua một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp khác; Thứ hai, hệ quả của hoạt động </i>

này là kiểm soát, chi phối toàn bộ doanh nghiệp hoặc một ngành nghề nhất định của doanh nghiệp đó.

Tuy nhiên, so với quy định nêu trên, tại khoản 4 Điều 29 Luật Cạnh tranh 2018, các nhà làm luật đã quy định chi tiết hơn về cách thức thực hiện hành vi mua lại, cụ thể

<i>“Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp mua toàn bộ hoặc một phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối doanh nghiệp hoặc một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại.” Qua đó có thể thấy, doanh </i>

<small>2</small>

<i><small> David L.Scott (2003), Wall Street Words: An A to Z Guide to Investment Terms for Today’s Investor. </small></i>

<small> Halpern, P. (1983), “Corporate acquisitions: A theory of special cases? A review of event studies applied to </small>

<i><small>acquisitions”, The Journal of Finance, 38(2), tr.297-317. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

nghiệp có thể thực hiện việc mua lại bằng cách trực tiếp, nhân danh chính bản thân hoặc gián tiếp, thông qua chủ thể thứ ba để mua tồn bộ hoặc một phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp khác. Ngoài ra, đối tượng mua lại lại theo Luật Cạnh tranh hiện hành có thể là tài sản hoặc phần vốn góp của doanh nghiệp. Lý do của sự bổ sung này là vì vốn góp chính là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào doanh nghiệp (doanh nghiệp trong trường hợp này là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh), đổi lại thành viên này sẽ được trao một hoặc một số quyền tác động đối với doanh nghiệp tương ứng với tỷ lệ vốn đã góp. Như vậy, thơng qua việc mua lại phần vốn góp, doanh nghiệp thu mua cũng có khả năng kiểm soát, chi phối một ngành nghề hoặc tồn bộ doanh nghiệp bị mua lại. Bên cạnh đó, pháp luật cũng làm rõ vấn đề: doanh nghiệp có khả năng kiểm sốt, chi phối tồn bộ ngành nghề của một doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc kiểm sốt, chi phối tồn bộ doanh nghiệp đó. Cụ thể, khoản 1 Điều 2 Nghị định 35/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật cạnh tranh (sau đây gọi là Nghị định 35/2020/NĐ-CP) chỉ ra các trường hợp mua lại đủ để kiểm soát, chi phối doanh nghiệp hoặc một ngành, nghề của doanh nghiệp khác như sau:

<i>Trường hợp 1, doanh nghiệp mua lại giành được quyền sở hữu trên 50% vốn </i>

điều lệ hoặc trên 50% cổ phần có quyền biểu quyết của doanh nghiệp bị mua lại;

<i>Trường hợp 2, doanh nghiệp mua lại giành được quyền sở hữu hoặc quyền sử </i>

dụng trên 50% tài sản của doanh nghiệp bị mua lại trong toàn bộ hoặc một ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp bị mua lại đó;

<i>Trường hợp 3, hệ quả của việc mua lại giúp doanh nghiệp mua có quyền trực </i>

tiếp hoặc gián tiếp quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc của doanh nghiệp bị mua lại; có quyền quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ của doanh nghiệp bị mua lại; hoặc có quyền quyết định các vấn đề quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị mua lại bao gồm việc lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; lựa chọn điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh; lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp đó.

Có thể thấy, tuy có sự thay đổi về cách nhìn nhận, đánh giá hành vi mua lại, song pháp luật cạnh tranh được ban hành năm 2004 và hiện hành đều khẳng định hành vi là một hình thức tập trung kinh tế.

Xét theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020 (sửa đổi, bổ sung 2022) (sau đây gọi là Luật Doanh nghiệp 2020), các nhà làm luật khơng đưa ra điều khoản giải thích

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cho thuật ngữ “mua lại doanh nghiệp”. Bởi lẽ về mặt bản chất, việc mua lại tuy có dẫn đến hệ quả là doanh nghiệp bị mua lại sẽ chịu sự kiểm soát của doanh nghiệp mua lại, song sự tồn tại thực tế và tồn tại pháp lý của doanh nghiệp này vẫn khơng bị xóa bỏ. Đồng thời, số lượng doanh nghiệp trên thị trường không có sự thay đổi, trong khi Luật Doanh nghiệp chỉ quy định về các hình thức tổ chức lại doanh nghiệp.

Từ các khái niệm trên, có thể thấy một số các hành vi mua lại được xem là mua lại theo góc độ kinh tế nhưng khơng chắc đã thoả theo thuật ngữ pháp lý.

<b>1.2. Đặc điểm mua lại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam </b>

<i><b>1.2.1. Chủ thể doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam </b></i>

Hoạt động mua lại được tiến hành bởi các doanh nghiệp, trong đó một bên là doanh nghiệp mua lại, bên cịn lại là doanh nghiệp bị thu mua. Hay nói các khác trong giao dịch mua lại, việc xuất hiện chủ thể là “doanh nghiệp” là điều kiện bắt buộc. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thuật ngữ “doanh nghiệp” được quy định tại rất nhiều nguồn luật khác nhau như Bộ luật dân sự, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp và cả Luật Cạnh tranh. Tuy nhiên, nội hàm các khái niệm này cũng mang những đặc điểm riêng biệt chỉ chịu sự điều chỉnh của các luật riêng rẽ.

Theo pháp luật về dân sự, thì doanh nghiệp là một hình thức biểu hiện của pháp nhân nhân thương mại.<small>4</small> Chính vì thế dưới sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015), doanh nghiệp phải thỏa mãn các điều kiện và tiêu chí của bộ luật này về pháp nhân thương mại như: được thành lập theo quy định của BLDS, luật khác có liên quan; có cơ cấu tổ chức rõ ràng theo quy định của luật; có tài sản độc lập với với cá nhân, tổ chức khác; tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó và cuối cùng là phải hồn tồn nhân danh chính mình tham gia các quan hệ pháp luật.<small>5</small>

Mặt khác, khi xét đến “luật khác có liên quan” theo quy định này là Luật Doanh nghiệp 2020 thì: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”<small>6</small>. Có 04 (bốn) loại hình doanh nghiệp được thừa nhận theo Luật Doanh nghiệp bao gồm: Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân. Có thể thấy khái niệm về doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp có phần chi tiết hơn các quy định chung về pháp nhân thương mại trong BLDS 2015. Bởi vì theo Luật Doanh

<small>4</small>

<small> Xem thêm Điều 75 BLDS 2015. 5</small>

<small> Xem thêm khoản 1 Điều 74 BLDS 2015. 6</small>

<small> Khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

nghiệp, doanh nghiệp tư nhân được xem là loại hình khơng có tư cách pháp nhân do không thỏa mãn hai điều kiện “có tài sản độc lập với cá nhân”<small>7</small> và “nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật”<small>8</small>. Dù có mang một vài đặc điểm giống nhau: là một chủ thể sinh ra dựa trên những quy định của pháp luật, cùng hoạt động kinh doanh, nhưng nội hàm các khái niệm về “doanh nghiệp” trong quy định của pháp luật Việt Nam cũng khơng hồn tồn thống nhất với nhau.

Doanh nghiệp dưới sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh không chỉ bao gồm những thực thể pháp lý mà còn là những cá nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh. Cụ thể là “tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ cơng ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam”<small>9</small>. Có thể thấy phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh mang hàm nghĩa rộng lớn hơn so với các pháp luật khác khi hướng sự điều chỉnh của mình đến tất cả các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh và có khả năng tác động đến thị trường chung. Điều này giảm bớt đáng kể đi các thiếu sót trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên, việc phân chia ra nhiều chủ thể như “doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ cơng ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nước ngồi hoạt động tại Việt Nam”<small>10</small> sẽ khơng đem lại nhiều ý nghĩa nếu như pháp luật không đặt ra được quy định được những quy định mang tính chất “cá biệt” để phù hợp với từng loại chủ thể này.

Theo quan điểm của nhóm, Luật Cạnh tranh chia doanh nghiệp thành 02 (hai) hình thức chính là doanh nghiệp Việt Nam (bao gồm doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước) và doanh nghiệp nước ngoài. Trong đó, doanh nghiệp Việt Nam sẽ thành lập lập hoặc đăng ký thành lập theo pháp luật Việt Nam theo pháp luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam (nếu doanh nghiệp là tổ chức kinh doanh); và là người có quốc tịch Việt Nam, tự mình thực hiện hoạt động kinh doanh (nếu doanh nghiệp là cá nhân kinh doanh). Doanh nghiệp nước ngoài khi gia nhập vào thị trường Việt Nam không chỉ chịu sự điều chỉnh của các pháp luật chuyên ngành, pháp luật liên quan mà trước hết phải chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư về các ngành nghề, tiêu chí điều kiện gia nhập

<small> Tài sản của Doanh nghiệp tư nhân không có tính độc lập với chủ sở hữu, do đó khơng thể tự chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Thay vào đó, chủ Doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô thời hạn cho hoạt động của Doanh nghiệp. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

thị trường như: các ngành nghề dự định gia nhập là các ngành nghề được phép tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài; phải đảm bảo các quy định về quốc phòng, an ninh và cũng phải tuân thủ quy định của pháp luật về đất đai về điều kiện nhận, quyền sử dụng đất, điều kiện sử dụng đất tại đảo, xã, phường, thị trấn biên giới, xã, phường, thị trấn ven biển. Không thể phủ nhận rằng các quy định trong pháp luật Việt Nam góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển. Pháp luật đầu tư cũng vậy, việc đặt ra những rào cản về gia nhập thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài đã đem lại những lợi thế nhất định cho các doanh nghiệp trong nước, từ đó thúc đẩy tiềm năng tự chủ kinh tế của nước ta. Tuy nhiên, pháp luật về đầu tư chỉ đặt ra các điều kiện cho các chủ thể trước khi gia nhập thị trường nhưng lại không đề cập đến những ảnh hưởng kéo theo khi các doanh nghiệp này tham gia thị trường mới. Hay nói cách khác, sau khi tham gia thị trường, pháp luật đầu tư không thể điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp này nữa. Khi các doanh nghiệp nước ngồi có hành vi tác động cạnh tranh thì pháp luật điều chỉnh lúc này lại là pháp luật cạnh tranh.

Có thể hình dung rằng, việc một cơng ty, doanh nghiệp có vốn đầu tư mạnh mẽ, có tiềm lực kinh tế và độ nhận diện trong một ngành nghề khi gia nhập một thị trường mới vẫn có thể tạo ra tiếng vang và làm ảnh hưởng đến thị trường và cả người tiêu dùng. Ví dụ như sự gia nhập của tập đoàn Vingroup vào lĩnh vực sản xuất xe điện. Dù có tiền thân là ngành nghề kinh doanh bất động sản và nổi tiếng với những khu đô thị hàng đầu ở các thành phố lớn, hay trong lĩnh vực hàng tiêu dùng và F&B, nhưng không thể phủ nhận rằng, việc Vingroup gia nhập vào một thị trường hoàn toàn mới tại Việt Nam là thị trường sản xuất ô tô và xe điện cũng tạo ra một tiếng vang lớn và thay đổi cách nhìn nhận của thị trường và người tiêu dùng. Vậy sẽ ra sao nếu các doanh nghiệp, tập đoàn lớn ở các quốc gia khác như Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, nơi nhận được nguồn vốn đầu tư mạnh mẽ và có tiềm năng kinh tế vượt bậc so với các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường và dẫn đầu tại các ngành nghề trong nước. Khi cấu trúc thị trường thay đổi, các doanh nghiệp trung bình, nhỏ trong nước liệu có cịn cơ hội cạnh tranh với các ông lớn này. Tiêu biểu là vụ việc tập đoàn hàng đầu Thái Lan - Thaibev tiến hành hàng loạt các thương vụ M&A nhằm mua lại hàng loạt những công ty của Việt Nam (như Sabeco - doanh nghiệp bia lớn nhất Việt Nam) và trở thành một trong những nhà đầu tư nước ngoài quan trọng<small>11</small>. Có thể thấy, lợi thế của các doanh nghiệp trong nước phần lớn là dựa trên hệ thống pháp luật. Việc vừa cân bằng để tạo điều kiện cho

<small> Theo Vietnam Finance thì việc ThaiBev mua lại Sabeco sẽ giúp kiểm sốt 17% thị phần sản xuất của ASEAN, khơng chỉ tăng năng lực sản xuất khu vực, mà còn mở rộng thị phần bia của ThaiBev trên thị trường bia Đông Nam Á lên 26% từ mức 9%, truy cập lần cuối ngày 08/8/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

các doanh nghiệp trong nước phát triển vừa thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngồi là điều khơng hề dễ dàng. Tuy nhiên, điều này chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ các quy định của pháp luật Việt Nam trong thời điểm hiện tại.

Chính vì thế, như nhóm đã đề cập ở trên, việc pháp luật cạnh tranh ngầm chia tách

<i>các hình thức khác nhau về doanh nghiệp nhưng không quy định sự khác nhau của các </i>

khái niệm này không đem lại nhiều ý nghĩa dưới cả góc độ thực tiễn và pháp lý.

<i><b>1.2.2. Đối tượng doanh nghiệp mua lại theo pháp luật Việt Nam </b></i>

Như đã trình bày, mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp mua toàn bộ hoặc một phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối doanh nghiệp hoặc một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại. Theo đó, đối tượng của hoạt động mua lại chính là doanh nghiệp, hay nói cụ thể hơn chính là tài sản và phần vốn góp của doanh nghiệp. Với hai đối tượng này, doanh nghiệp mua lại có quyền lựa chọn mua lại toàn bộ hoặc một phần tài sản hoặc/và phần vốn góp của doanh nghiệp khác, miễn sao kết quả của việc mua lại này dẫn đến việc kiểm sốt, chi phối một ngành, nghề hoặc tồn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

<i>a. Mua tài sản của doanh nghiệp </i>

Theo Luật Doanh nghiệp 2020, tài sản của doanh nghiệp nói chung bao gồm: tài sản góp vốn của các thành viên, cổ đơng đã được chuyển quyền sở hữu cho công ty; tài sản do cơng ty tạo lập hoặc tự mình tích lũy được từ hoạt động kinh doanh; các tài sản khác do pháp luật quy định. Đối với các loại hình doanh nghiệp là Cơng ty cổ phần, Cơng ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty hợp danh, các tài sản của doanh nghiệp luôn được phân biệt tách bạch với tài sản của chủ sở hữu. Do đó, khi hoạt động mua lại tài sản được diễn ra, chỉ có tài sản do doanh nghiệp làm chủ bị thay đổi chủ sở hữu, còn tài sản riêng của các cổ đông, thành viên của các công ty này không bị ảnh hưởng. Sau khi chuyển quyền sở hữu, doanh nghiệp đã chuyển nhượng khơng cịn bất cứ quyền gì đối với tài sản nữa. Tuy nhiên, về mặt bản chất, việc sở hữu tài sản của các doanh nghiệp này khơng hồn tồn dẫn đến việc hình thành hoặc gia tăng khả năng tác động của các nhà đầu tư đối với doanh nghiệp. Bởi lẽ, tài sản ở đây là thực thể tồn tại dưới dạng vật chất, đặt dưới sự quyết định của doanh nghiệp; chỉ khi giá trị của các tài sản này được quy đổi thành số lượng cổ phần hoặc phần vốn góp cụ thể thì tổ chức, cá nhân kinh doanh nắm giữ số tài sản này mới có quyền can thiệp, gây ra sự kiểm soát, chi phối đối với doanh nghiệp bị mua lại tài sản.

Điều này hoàn toàn trái ngược với doanh nghiệp tư nhân. Như đã phân tích ở phần 1.2.1, vì doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp duy nhất khơng có tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

cách pháp nhân, tài sản của doanh nghiệp khơng hồn tồn độc lập với tài sản của chủ sở hữu. Do đó, sau khi chuyển nhượng tài sản của mình cho doanh nghiệp khác, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp tư nhân phát sinh trong thời gian trước ngày chuyển giao doanh nghiệp, trừ trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân, người mua và chủ nợ của doanh nghiệp tư nhân có thỏa thuận khác (Điều 192 Luật Doanh nghiệp 2020).

<i>b. Mua phần vốn góp của doanh nghiệp </i>

Luật Doanh nghiệp 2020 quy định: Vốn góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào doanh nghiệp. Theo đó, các nhà đầu tư trong nước và nước ngồi có thể sở hữu phần vốn góp này bằng 02 (hai) cách thức: một là nhận chuyển nhượng cổ phần hoặc phần vốn góp của các cổ đơng, thành viên; hai là mua cổ phần, hoặc góp vốn vào doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp tăng vốn điều lệ.

Trước hết, đối với thủ tục nhận chuyển nhượng cổ phần hoặc phần vốn góp của các cổ đơng, thành viên. Vì hành vi cốt lõi của hoạt động tập trung kinh tế này là mua lại, nên cách hiểu về việc nhận chuyển nhượng trong trường hợp này cũng được hiểu là việc một bên sử dụng tiền hoặc lợi ích vật chất tương đương nhằm xác lập việc mua bán cổ phần, phần vốn góp với doanh nghiệp. Do đó, ta sẽ khơng phân tích hoạt động chuyển nhượng dưới hình thức là tặng cho hay nhận thừa kế. Với cách thức này, giao dịch sẽ được xác lập bởi một bên là doanh nghiệp thu mua, bên còn lại là các thành viên, cổ đông của bất kỳ một doanh nghiệp nào.

Đầu tiên, hoạt động mua lại phần vốn góp của Cơng ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên chỉ được diễn ra khi bên bán có quyền được bán theo quy định tại khoản 4 Điều 51 và khoản 1 Điều 52 Luật Doanh nghiệp 2020. Tức là, các thành viên phải chào bán phần vốn góp đó cho các thành viên còn lại trong doanh nghiệp theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện chào bán và việc chào bán đã kéo dài hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày bán mà được các thành viên còn lại mua hoặc không mua hết.

Khác với Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, việc mua bán cổ phần giữa các nhà đầu tư và cổ đông của Công ty cổ phần không chỉ được thực hiện bằng hợp đồng, mà cịn có thể được xác lập trên thị trường chứng khốn. Bởi Cơng ty cổ phần thường có quy mơ hoạt động, cũng như số vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều so với các loại hình doanh nghiệp khác. Đặc biệt, nhu cầu gia nhập hay rút lui khỏi Công ty cổ phần của các nhà đầu tư cũng thay đổi thường xuyên và phức tạp hơn. Do đó, cần một thị trường trung gian tham gia vào, nhằm hỗ trợ cho hoạt động mua –

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

bán giữa các bên được diễn ra nhanh chóng và thuận lợi hơn. Theo đó, trong trường hợp chuyển nhượng bằng hợp đồng thì giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc người đại diện theo ủy quyền của họ ký. Còn nếu giao dịch được xác lập trên thị trường chứng khoán thì trình tự, thủ tục chuyển nhượng được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán.

Tại Điều 187 Luật Doanh nghiệp 2020, pháp luật không quy định rõ về việc mua lại phần vốn góp từ thành viên hợp danh của Công ty hợp danh. Tuy nhiên, xét về bản chất, việc chuyển nhượng phần vốn góp của Cơng ty hợp danh và Cơng ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều điểm tương đồng, cho nên ta sẽ áp dụng tương tự như Công ty trách nhiệm hữu hạn.

Kế đến, đối với thủ tục mua cổ phần, hoặc góp vốn vào doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp tăng vốn điều lệ nhằm mục đích tiếp nhận thêm vốn góp của thành viên, cổ đơng mới. Trong trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn có nguyện vọng tăng vốn điều lệ bằng việc huy động thêm phần vốn góp của người khác, thì cơng ty phải tổ chức quản lý theo loại hình Cơng ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên (nếu là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) hoặc Cơng ty cổ phần (có thể là Cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên). Theo đó, doanh nghiệp ngày phải tiến hành tổ chức quản lý lại công ty theo thủ tục được quy định tại khoản 2 Điều 87 Luật Doanh nghiệp 2020. Cịn khi Cơng ty hợp danh khi có nhu cầu gia tăng vốn điều lệ của mình thì việc góp vốn sẽ tuân theo các quy định tại Điều 186 Luật Doanh nghiệp 2020: việc góp vốn của các nhà đầu tư phải được Hội đồng thành viên chấp nhận và phải nộp đủ số vốn cam kết góp vào công ty trong thời hạn luật định. Với Công ty cổ phần có thể tăng vốn theo hình thức chào bán cổ phần bằng cách chào bán cổ phần ra công chúng (điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 123) hoặc chào bán cổ phần riêng lẻ (Điều 125 Luật Doanh nghiệp 2020). Tùy thuộc vào hình thức chào bán do Công ty cổ phần quyết định, các nhà đầu tư trong và ngồi nước có thể đưa ra quyết định mua hoặc không mua, mua với số lượng bao nhiêu để đạt đến khả năng kiểm soát, chi phối một ngành, nghề hoặc toàn bộ doanh nghiệp.

<i><b>1.2.3. Phạm vi điều chỉnh hành vi mua lại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam </b></i>

Theo Luật Cạnh tranh thì hành vi mua lại doanh nghiệp là một trong những hình thức tập trung kinh tế hồn tồn có thể tác động hay gây ảnh hưởng đến thị trường Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i>Theo đó, pháp luật cạnh tranh điều chỉnh các hành vi “có khả năng tác động gây hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam”</i><small>12</small>. Chính vì thế bất cứ hành vi mua lại doanh nghiệp nào gây ra các tác động trên, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế thị trường thì đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh không kể chủ thể, cách thức thực hiện và hệ quả kèm theo. Hay nói cách khác, bất kể giao dịch được thực hiện, tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam, hay trên lãnh thổ nước ngồi; có chủ thể tham gia là doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp nước ngoài nhưng hệ quả mang lại “có khả năng tác động gây hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam”<small>13</small> thì đều chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Đây được xem là một sự tiến bộ của pháp luật cạnh tranh so với trước đây, khi Luật Cạnh tranh 2004 chỉ quy định phạm vi điều chỉnh của pháp luật theo cách thức liệt kê<small>14</small> các hoạt động cụ thể nhưng không đính kèm hệ quả mà nó mang lại. Sự mở rộng về phạm vi này cho phép Nhà nước có thể kiểm soát hoạt động cạnh tranh trên thị trường tốt hơn.

<i><b>1.2.4. Hệ quả pháp lý mua lại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam </b></i>

Về bản chất, hệ quả của việc tập trung kinh tế dưới hình thức mua lại không dẫn đến việc thay đổi số lượng doanh nghiệp trên thị trường, doanh nghiệp bị mua lại vẫn tồn tại về mặt pháp lý lẫn thực tế. Trong khi đó, việc tiến hành sáp nhập, hợp nhất liên doanh có làm biến mất hoặc xuất hiện thêm doanh nghiệp trên thị trường. Đồng thời, tư cách pháp lý của các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động tập trung kinh tế này cũng có ít nhiều sự thay đổi.

Do đó, để có thể phân biệt các thuật ngữ trên, khái niệm và đặc điểm của các hình thức tập trung kinh tế khác bao gồm sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, liên doanh giữa các doanh nghiệp sẽ được phân tích cụ thể dưới đây.

<i>a. Sáp nhập doanh nghiệp </i>

<i>Khoản 1 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 nêu định nghĩa “Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập”. Hiện nay, quy định này được kế thừa tại khoản 2 Điều 29 </i>

Luật Cạnh tranh 2018.

<small>12</small>

<small> Điều 1 Luật Cạnh tranh 2018 13</small>

<small> Điều 1 Luật Cạnh tranh 2018 14</small>

<i><small> Điều 1 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “Luật này quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh </small></i>

<i><small>khơng lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh.” </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Đồng thời, khoản 1 Điều 201 Luật Doanh nghiệp 2020 cũng giải thích: “Một hoặc một số công ty (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một cơng ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang cơng ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập”.

Như vậy, tuy Luật Cạnh tranh và Luật Doanh nghiệp đã qua nhiều lần thay đổi, sửa đổi, bổ sung; song thuật ngữ sáp nhập doanh nghiệp (hay sáp nhập công ty) ở hai lĩnh vực này vẫn khơng có sự thay đổi và đều thống nhất với nhau về mặt nội hàm của khái niệm.

Từ các quy định trên, để hiểu được hoạt động này một cách đơn giản, ta có minh họa bằng sơ đồ sau:

A + B → A

Với sơ đồ trên, có thể hiểu rằng, sau sáp nhập, từ hai doanh nghiệp A và B sẽ chỉ còn tồn tại một doanh nghiệp duy nhất còn hoạt động là doanh nghiệp A, đồng thời doanh nghiệp bị sáp nhập là B sẽ chấm dứt sự tồn tại của mình cả về phương diện pháp lý và hoạt động thực tế.

<i>b. Hợp nhất doanh nghiệp </i>

Đối với hành vi sáp nhập doanh nghiệp thì sau khi kết thúc thủ tục sáp nhập, một hoặc nhiều doanh nghiệp với tư cách là đối tượng bị sáp nhập sẽ chấm dứt tồn tại của mình, nhưng đối với hành vi hợp nhất doanh nghiệp thì khác. Theo đó, tại khoản 2 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004, khoản 3 Điều 29 Luật Cạnh tranh 2018 các doanh nghiệp tham gia hợp nhất sẽ đồng thời, cùng nhau chấm dứt tồn tại, cùng với đó là sự ra đời của một doanh nghiệp mới – kế thừa quyền, nghĩa vụ pháp lý của tất cả các doanh nghiệp hợp nhất. Tương tự với sáp nhập, quy định về hợp nhất doanh nghiệp (hay hợp nhất công ty) giữa Luật Cạnh tranh và Luật Doanh nghiệp khơng có sự mâu thuẫn nhau.

Ta cũng có thể hiểu được thủ tục trên như sau: A + B → C

<i>c. Liên doanh giữa các doanh nghiệp </i>

Khoản 4 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004, khoản 5 Điều 29 Luật Cạnh tranh 2018

<i>quy định: “Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới”. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Như vậy, pháp luật về cạnh tranh đặt ra yêu cầu về quốc tịch đối với doanh nghiệp tham gia hợp đồng liên doanh. Theo đó, việc liên doanh có thể tiến hành giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau hoặc giữa một hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam với một hoặc nhiều doanh nghiệp nước ngoài, miễn là có mục đích thành lập một doanh nghiệp mới. Tuy nhiên, thông thường trên thực tế ta thường thấy hoạt động liên doanh được thực hiện bởi doanh nghiệp trong nước nước với doanh nghiệp nước ngoài, hoặc giữa Chính phủ và doanh nghiệp nước ngồi.

Tương tự với các hình thức khác, hoạt động liên doanh cũng có thể hiểu bằng mơ hình minh họa sau:

A + B → A + B + C

Trong đó, C là doanh nghiệp mới được hình thành do sự kết hợp phần một phần vốn góp, quyền và nghĩa vụ pháp lý của hai doanh nghiệp A và B. Bằng cách này, A và B vẫn tiếp tục tồn tại song song cùng với sự xuất hiện của một doanh nghiệp mới là doanh nghiệp C.

<b>1.3. Các hình thức mua lại doanh nghiệp </b>

Pháp luật Cạnh tranh khơng quy định cụ thể các hình thức mà doanh nghiệp có thể áp dụng trong giao dịch mua lại doanh nghiệp. Tuy nhiên, từ góc độ kinh tế, cách thức tiến hành giao dịch và mục đích mua lại, nhóm đã phân loại các giao dịch dựa trên 02 (hai) tiêu chí sau: mục đích và cách thức, quan hệ giữa người mua và người bán.

<i><b>1.3.1. Phân loại dựa trên mục đích và cách thức </b></i>

Dựa trên mục đích và thiện chí của các doanh nghiệp mà thị trường M&A chia làm có 04 (bốn) kiểu mua lại doanh nghiệp:

Đầu tiên, đó là mua lại kiểu thân thiện (Friendly Takeover). Có nghĩa là cả hai bên đều có thiện chí muốn thực hiện các thương vụ mua bán này, và hoàn thành trong vài lần đàm phán, thỏa thuận. Giá cả cũng được sự chấp thuận của đa số cổ đông và người điều hành. Các doanh nghiệp mua lại trong các lĩnh vực này thường mong muốn mua và bán nên các thỏa thuận đạt được là thường dễ dàng hơn.

Thứ hai là mua lại kiểu thù địch (Hostile Takeover) hay còn gọi là thâu tóm thù địch - là kiểu thu mua mà trong đó cơng ty thu mua tiến hành thu mua trực tiếp cổ phần từ các cổ đông của công ty mục tiêu (công ty bị thu mua) hoặc đấu tranh để giành quyền quản lý trái với ý muốn của các cổ đơng cịn lại hoặc với những người điều hành chính thức của cơng ty mục tiêu. Thơn tính thù địch có thể diễn ra nếu một cơng ty tin rằng công ty mục tiêu bị đánh giá thấp hay các cổ đông nắm giữ vốn chủ sở hữu có ý muốn

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

thay đổi một số chiến lược trong cơng ty. Có hai phương thức thường được dùng trong các vụ thu mua mang tính chất thù địch là đề nghị giá mềm (tender offer) hay cuộc chiến uỷ quyền (Proxy fight). Nếu “đề nghị giá mềm” tiến hành bằng việc tích lũy cổ phiếu của doanh nghiệp mục tiêu nhằm chiếm quyền đa số để thực hiện kế hoạch thay đổi ban quản trị mới của cơng ty này thì “proxy fight” lại là nỗ lực của một nhóm cổ đơng phản đối, giảm uy tín ban quản trị hiện tại để tiến hành thay đổi ban quản trị mới cho công ty. Các phương thức này đều khiến cho tình trạng nội bộ của công ty gặp mâu thuẫn, ban quản trị có thể bị phân tâm, hoảng loạn, dẫn đến những quyết định thiếu sáng suốt và làm công ty bị thâu tóm dễ dàng hơn.

Thứ ba là mua lại kiểu thâu tóm lại (Reverse Takeover) - là q trình thâu tóm mà các cơng ty tư nhân có thể trở thành các công ty đại chúng mà không phải trải qua đợt chào bán cơng khai, việc này có thể tiết kiệm được chi phí và tránh các thủ tục, quy trình kéo dài liên quan đến đợt phát hành lần đầu ra công chúng của các công ty tư nhân này. Sau khi nắm giữ một số lượng cổ phiếu đủ để kiểm sốt cơng ty này, các cổ đơng của cơng ty tư nhân sau đó trao đổi cổ phần của mình trong cơng ty tư nhân cho cổ phiếu trong công ty đại chúng. Khi đấy các cơng ty tư nhân ban đầu hồn tồn có khả năng niêm yết trên sàn chứng khoán bằng cách đổi tên cổ phiếu của nó.

Cuối cùng là mua lại kiểu Backflip (Backflip Takeover), thực tế đây được xem là hình thức mua lại trái với bản chất của một vụ mua lại thông thường, công ty lớn mua lại cơng ty nhỏ, thâu tóm ngược được tiến hành khi một cơng ty thu mua biến mình thành cơng ty con của cơng ty mục tiêu. Có thể thấy, lúc này bên thâu tóm lại trở thành cơng ty con của bên bị thâu tóm. Và danh tiếng của thực thể bị thâu tóm mới là mục tiêu cuối cùng trong các thương vụ này, vì các công ty mục tiêu lúc này là các công ty có danh tiếng hơn cơng ty thu mua trên thị trường nhưng lại gặp các vấn đề nội bộ không thể giải quyết được hoặc tiềm lực tài chính khơng đủ để trang trải khó khăn.

<i><b>1.3.2. Phân loại dựa trên quan hệ giữa người mua và người bán </b></i>

<i>a. Mua lại theo chiều ngang (Horizontal acquisition) </i>

Mua lại theo chiều ngang là việc một doanh nghiệp mua lại một doanh nghiệp khác trong cùng lĩnh vực kinh doanh. Đối với hình thức này việc mua lại doanh nghiệp có thể liên quan đến đối thủ cạnh tranh hoặc khơng. Ví dụ như hai doanh doanh nghiệp A và B là đối thủ của nhau trong sản xuất vải, và có cùng một đối tượng khách hàng tại khu vực miền Nam, A tìm cách mua lại B để loại bỏ đối thủ. Tuy nhiên nếu A kinh doanh vải tại khu vực miền Bắc, B kinh doanh vải tại khu vực miền Nam thì khi này việc A mua lại B khơng phải là đề loại bỏ đối thủ cạnh tranh mà để mở rộng thị trường

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

của mình đến khu vực mới. Việc mua lại này sẽ giúp A dễ dàng thâm nhập vào thị trường miền Bắc với lợi thế là nhóm khách hàng và thơng tin mà B đang có sẵn và dễ dàng hơn trong việc dẫn đầu thị trường. Một trong những ngành nghề nổi tiếng trong việc thu mua doanh nghiệp là công nghệ thơng tin.

Năm 2014, một trong những tập đồn sản xuất kinh doanh bánh kẹo và các loại đồ uống đóng hộp là Mondelez International đã bỏ ra 370 triệu USD (gần 8.000 tỷ đồng) để mua lại tập đồn bánh kẹo Kinh Đơ, một ơng lớn vốn đã có tiếng tăm lẫy lừng trong ngành sản xuất bánh kẹo tại Việt Nam. Nhìn từ góc độ vị thế của các doanh nghiệp, có thể thấy việc tập đồn Mondelez mua lại Kinh Đơ khơng nhằm mục đích loại bỏ đối thủ cạnh tranh mà mục đích mở rộng thị phần của mình trong ngành này tại Việt Nam. Tuy nhiên, để ngăn cản sự tái xuất hiện của một “Kinh Đô mới” sau khi “Kinh Đô cũ" đã về tay mình, Mondelez cũng đã đặt ra thêm điều khoản để “Kinh Đơ” khơng có khả năng trở thành đối thủ cạnh tranh “nặng ký” của mình trong những năm đầu gia nhập thị trường, và tiếp quản thương hiệu này.

<i>b. Mua lại theo chiều dọc (Vertical acquisition) </i>

Tiếp đến, mua lại theo chiều dọc là việc các doanh nghiệp giữ các vị trí khác nhau trong chuỗi cung ứng tiến hành mua lại các doanh nghiệp khác trong cùng chuỗi cung ứng với mình. Hình thức mua lại theo chiều dọc này có thể phân loại thành “hội nhập xi” hoặc “hội nhập ngược”, tùy vào vị trí của doanh nghiệp mua lại và doanh nghiệp bị mua lại trong chuỗi cung ứng. Chẳng hạn như, khi công ty cổ phần sản xuất may mặc quần áo thể thao A tiến hành mua lại công ty B - công ty này có các cửa hàng bán lẻ các mặt hàng quần áo và trong đó có các mặt hàng của cơng ty A. Việc mua lại của công ty A được xem là hội nhập xi. Ngược lại, q trình hội nhập ngược diễn ra khi công ty bán lẻ ngành hàng may mặc A tiến hành mua lại công ty sản xuất dệt may B.

Vào những năm dẫn đầu thị trường bánh kẹo tại Việt Nam, KIDO đã bỏ ra khơng ít vốn để mua lại một trong những hãng kem Wall’s từ Unilever để trở thành quyền sở hữu của mình. “Thương vụ M&A này đã giúp KIDO tận dụng hơn 50% thị phần và kênh phân phối từ kem Wall’s (gồm 130 nhà phân phối và 4.000 điểm bán lẻ) và KIDO chỉ làm mỗi việc thay thế hình ảnh trên các tủ kem. Cùng với hệ thống vốn có, sau thương vụ, KIDO đã có 30.000 điểm bán trên toàn quốc.”

<i>c. Mua lại theo dạng hỗn hợp (Congeneric acquisition) </i>

Mua lại theo dạng hỗn hợp là khi một doanh nghiệp yêu cầu mua lại một doanh nghiệp có sản phẩm hoặc dịch vụ khác với mình nhưng cùng đối tượng khách hàng, trong cùng ngành nghề có liên quan.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Việc mua lại kiểu này sẽ giúp các cơng ty thu mua nhanh chóng mở rộng thị phần và dịng sản phẩm của mình đến nhóm khách hàng mà công ty mục tiêu đang nắm giữ.

<i>d. Mua lại theo dạng tập đoàn (Conglomerate acquisition) </i>

Đây là một kiểu mua lại các doanh nghiệp không liên quan đến lĩnh vực hay ngành nghề mà doanh nghiệp mua lại đang kinh doanh. Hình thức mua lại này thường thể hiện mục tiêu đa dạng hoá sản phẩm hoặc ngành nghề của doanh nghiệp thu mua.

Ví dụ như Central Group là một tập đoàn bán lẻ hàng đầu của Thái Lan, để mở rộng thị trường và đa dạng hóa mặt hàng tiêu thụ, Central Group đã tiến hành mua lại Nguyễn Kim và Big C, đây đều là những doanh nghiệp hàng đầu trong các lĩnh vực hàng hoá của Việt Nam.

<b>1.4. Pháp luật Cạnh tranh điều chỉnh về hoạt động mua lại doanh nghiệp </b>

<i><b>1.4.1. Cơ quan thực thi </b></i>

Theo pháp luật Việt Nam, UBCTQG là cơ quan điều tiết và kiểm soát hoạt động cạnh tranh trên thị trường. Không chỉ vậy, cơ quan này còn nhận khiếu nại và tiến hành xử lý các vi phạm về cạnh tranh và thực hiện cả các chức năng khác có liên quan hay có khả năng tác động đến cạnh tranh trên thị trường<small>15</small>. Chính vì thế, đây cũng chính là cơ quan kiểm sốt các giao dịch tập trung kinh tế nói chung hay mua lại doanh nghiệp nói riêng trong lĩnh vực cạnh tranh. Cơ cấu tổ chức của UBCTQG gồm người đứng đầu là Chủ tịch UBCTQG (sau đây gọi tắt là Chủ tịch), Phó Chủ tịch và các thành viên khác, trong đó, các thành viên này có thể là công chức của các Bộ, ngành hay các chuyên gia và nhà khoa học<small>16</small> và số lượng thành viên tối đa là 15 người. Ngồi ra, UBCTQG cịn có hệ thống các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề phát sinh về tố tụng cạnh tranh như Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Trong đó, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh chỉ được thành lập khi có quyết định của Chủ tịch UBCTQG.

Các giao dịch mua lại doanh nghiệp nói riêng hay tập trung kinh tế nói chung khi có khiếu nại của cá nhân, tổ chức hay phát hiện của UBCTQG đều sẽ được đều được xem xét, đánh giá để đưa ra quyết định xem có nên tiến hành điều tra vụ việc cạnh tranh. Nếu xác định giao dịch mua lại thuộc trường hợp vi phạm pháp luật Cạnh tranh phải điều tra, Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh sẽ ra quyết định điều tra vụ

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

việc cạnh tranh.<small>17</small> Sau khi tiếp nhận hồ sơ tài liệu đã qua điều tra, Chủ tịch UBCTQG sẽ xem xét để ra các quyết định đình như chỉ điều tra, yêu cầu điều tra bổ sung hay xử lý vi phạm<small>18</small>. Trong trường hợp những vi phạm trong giao dịch mua lại là vi phạm về tập trung kinh tế theo quy định tại Điều 44 Luật Cạnh tranh 2018, Chủ tịch là người có thẩm quyền ra Quyết định xử lý vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế.<small>19</small> Sau đó, nếu khơng đồng tình với kết quả xử lý, tổ chức, cá nhân phải khiếu nại với chính người ra quyết định đó là Chủ tịch, lúc này Chủ tịch cũng sẽ có thẩm quyền xem xét việc thụ lý đơn khiếu nại. Không chỉ vậy nếu thụ lý, Chủ tịch sẽ tiếp tục là người ra quyết định để giải quyết khiếu nại theo thẩm quyền. Có thể thấy, việc pháp luật cạnh tranh quy định chủ thể ra quyết định cũng chính là chủ thể xem xét, giải quyết khiếu nại về quyết định đó sẽ làm cho cơng tác xử lý khơng được khách quan.

Ngồi ra việc pháp luật cạnh tranh không chỉ trao cho UBCTQG thẩm quyền ra quyết định về tố tụng và xử lý cạnh tranh mà còn là thẩm quyền giải quyết khiếu nại về quyết định trong Tố tụng cạnh tranh. Có thể nói UBCTQG vừa là cơ quan thực thi pháp luật vừa là cơ quan tư pháp về cạnh tranh, mang chức năng xét xử của Toà án trong các vụ việc vi phạm về cạnh tranh. Chính vì thế, khi các bên có quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, cá nhân, tổ chức buộc phải khởi kiện một phần hoặc toàn bộ quyết định này lên Tồ án có thẩm quyền.<small>20</small> Có thể thấy, khơng có sự tham gia của cơ quan tư pháp là Tịa án trong tố tụng cạnh tranh, Tồ án trong trường hợp này chỉ đóng vai trị là cơ quan xét xử vụ việc hành chính (khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh), chứ khơng gồm vai trị trong xét xử vi phạm về cạnh tranh.

Nhìn chung, với một loạt chức năng, nhưng số lượng thành viên ít ỏi và quy định chưa khách quan về thẩm quyền, cơ quan thực thi cạnh tranh của Việt Nam khó có thể giải quyết các vi phạm về cạnh tranh một cách hợp lý.

<small>17</small>

<small> Xem thêm Điều 80 Luật Cạnh tranh 2018. 18</small>

<small> Xem thêm các quy định tại Điều 89 Luật cạnh tranh 2018. 19</small>

<small> Theo quan điểm của nhóm một giao dịch về mua lại doanh nghiệp khơng chỉ bị giới hạn trong phạm vi vi phạm của tập trung kinh tế mà cịn có thể vi phạm về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Ví dụ như việc hai doanh nghiệp tiến hành thỏa thuận với nhau trước khi tiến hành giao dịch về khả năng tác động hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp này trong tương lai (thoả thuận hạn chế cạnh tranh). Tuy nhiên khơng có sự khác biệt q lớn trong bất cập về xử lý vi phạm, nên nhóm sẽ lấy quá trình xử lý vi phạm trong vụ việc vi phạm tập trung kinh tế như một ví dụ điển hình cho những bất cập mà nhóm muốn nhắc đến. </small>

<small> Xem thêm Điều 103 Luật Cạnh tranh 2018. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<i><b>1.4.2. Đánh giá tác động cạnh tranh khi thực hiện hành vi mua lại </b></i>

Mua lại doanh nghiệp chính là một hình thức tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh, chính vì thế, ngoài những quy định riêng biệt về hoạt động mua lại, doanh nghiệp cũng phải chịu sự điều chỉnh chung khi muốn thực hiện một hành vi tập trung kinh tế.

Cụ thể, Luật Cạnh tranh 2018 quy định các doanh nghiệp phải thông báo tập trung kinh tế cho UBCTQG khi đến ngưỡng tập trung kinh tế và tiến hành nộp hồ sơ thông báo tập trung kinh tế khi đến “ngưỡng tập trung kinh tế”. Hay nói cách khác, “ngưỡng” ở đây chính là bước sơ khai trong việc xác định xem có sự can thiệp của luật pháp Cạnh tranh vào sự tự do của nền kinh tế thị trường hay không khi các doanh nghiệp tiến hành mở rộng thị phần và tăng sức mạnh của mình. Ngồi ra, “ngưỡng thơng báo tập trung kinh tế” cũng chính là một trong những thước đo để đánh giá sức mạnh của các doanh nghiệp trong quá trình mua bán doanh nghiệp, qua đó có thể loại bỏ khả năng những doanh nghiệp nào có sức mạnh thị trường tương đối lớn dùng sức mạnh của mình để thâu tóm doanh nghiệp nhỏ, hay những doanh nghiệp có vị thế trong ngành nghề nhất định bị chi phối bởi những cá nhân, doanh nghiệp khác gây nên thiệt hại cho nền kinh tế nói chung và các ngành nghề nói riêng.

Tuỳ vào từng lĩnh vực hoạt động mà các doanh nghiệp có các ngưỡng thơng báo khác nhau. Cách xác định “ngưỡng” phụ thuộc vào các yếu tố để xác định sức mạnh doanh nghiệp như tổng tài sản, tổng doanh thu của các doanh nghiệp tham gia, giá trị giao dịch của mỗi thương vụ mua bán trên thị trường và thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp này, điều này được cụ thể hoá theo quy định tại Điều 14 Nghị định 35/2020/NĐ-CP.

Khi đến ngưỡng phải thông báo việc thu mua doanh nghiệp, các doanh nghiệp tiến hành thu mua phải nộp hồ sơ cho UBCTQG để tiến hành thẩm tra sơ bộ và ra một số quyết định như tập trung kinh tế được thực hiện hoặc tập trung kinh tế cần thẩm định chính thức.

Sau khi lần nữa kết thúc quá trình thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế, UBCTQG sẽ ra một trong các quyết định sau để các doanh nghiệp thực hiện: Tập trung kinh tế được thực hiện, tập trung kinh tế có điều kiện, tập trung kinh tế thuộc trường hợp bị cấm. Và để có thể ra được những quyết định trên cần phải dựa vào đánh giá tác động của hành vi mua lại. Theo đó, quyết định kết quả “tập trung kinh tế được thực hiện” là một “tín hiệu xanh” cho các doanh nghiệp tiến hành các phi vụ thu mua của mình. Tuy nhiên, việc cho phép thực hiện các thương vụ thu mua lẫn nhau của doanh nghiệp không đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp được tự do hoàn toàn trong quá trình mua bán mà

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

việc mua lại vẫn phải nằm trong khuôn khổ của các quy định về pháp luật liên quan như quy định về luật thuế, luật doanh nghiệp,...

Khi kết quả của UBCTQG là “tập trung kinh tế có điều kiện” nghĩa là các doanh nghiệp có thể tiếp tục tiến hành các phi vụ mua bán của mình nhưng kèm theo một số điều kiện nhất định như điều kiện về giá cả, tài sản của doanh nghiệp bị thu mua, hầu hết các điều kiện này nhằm mục đích bảo đảm cho doanh nghiệp thu mua không nắm giữ quyền lực quá lớn dẫn đến khả năng gây hạn chế cạnh tranh hoặc tác động gây hạn chế cạnh tranh đến các doanh nghiệp khác trong cùng ngành nghề hoặc trong các ngành nghề liên quan.

Còn một hệ quả có thể xảy ra với doanh nghiệp sau khi tiến hành thẩm định chính thức, đó là hành vi mua lại thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm. Luật Cạnh tranh 2018 không xác định cụ thể các lý do nào sẽ khiến cho hành vi tập trung kinh tế bị cấm, mà chỉ quy định chung rằng, tập trung kinh tế bị cấm khi “Doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam”<small>21</small>. Việc đánh giá tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể được quy định tại Điều 31 Luật Cạnh tranh 2018 và Điều 15 Nghị định 35/2020/NĐ-CP.

Qua đó, để đánh giá “tác động” hoặc “khả năng gây tác động” hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của hoạt động mua lại doanh nghiệp cần phải xác định rõ các tiêu chí cần lưu ý như sau:

<i>Thứ nhất, thị trường liên quan</i><small>22</small> của hoạt động mua lại đó. Việc xác định rõ được thị trường liên quan sẽ khoanh vùng được các doanh nghiệp khác, các đối thủ của doanh nghiệp có hành vi mua lại có bị ảnh hưởng không.

<i>Thứ hai, cần xác định khả năng gây tác động hạn chế một cách đáng kể được </i>

quy định tại Điều 15 Nghị định 35/2020/NĐ-CP. Bên cạnh đó, cơ quan cạnh tranh cũng cần đảm bảo tính tồn diện khi đánh giá các yếu tố giúp đưa ra quyết định một vụ việc tập trung kinh tế có khả năng gây hạn chế một cách đáng kể hay không.

Như vậy, việc đánh giá tác động “tích cực” hay “tiêu cực” cũng là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp có thể thực hiện tập trung kinh tế hay tập trung kinh tế bị cấm. Và từ các vấn đề trên, nhận thấy rằng việc xác định “ngưỡng thông báo tập trung kinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

tế” là vấn đề mà các doanh nghiệp thực hiện hành vi mua lại cần phải quan tâm. Tuy nhiên, không giống như nhiều nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, tại Việt Nam khơng có quy định rõ ràng về ngoại lệ hoặc miễn trừ nghĩa vụ thông báo tập trung kinh tế.<small>23</small> Vậy nên, bên cạnh các quy định về hình thức, thủ tục thì tại Điều 44 Luật Cạnh

<i><b>tranh 2018 đã quy định những hành vi vi phạm quy định về kiểm soát kinh tế. 1.4.3. Chế tài xử lý </b></i>

Với những hành vi mua lại doanh nghiệp mà vi phạm quy định về kiểm sốt kinh tế thì theo Điều 110 Luật Cạnh tranh 2018 và Điều 12 Nghị định 75/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh (sau đây gọi là Nghị định 75/2019/NĐ-CP) quy định rằng tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Hình thức xử phạt là cảnh cáo hoặc phạt tiền, trong đó sẽ phạt tiền doanh nghiệp mua lại từ 1% đến 5% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp mua lại và doanh nghiệp bị mua lại đối với hành vi mua lại một phần hoặc tồn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp khác bị cấm theo quy định tại Điều 30 của Luật Cạnh tranh. Cùng với đó là áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản mà doanh nghiệp đã mua; buộc chịu sự kiểm sốt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn nhất định về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp mua lại.<small>24</small>

Bên cạnh việc áp dụng xử phạt hành chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền thì các doanh nghiệp cũng sẽ phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả. Việc áp dụng này sẽ làm giảm yếu tố gây hạn chế cạnh tranh, và nâng cao sự phát triển nền kinh tế.

Pháp luật Việt Nam có sự phát triển khi quy định giá trị phạt tiền từ 1% đến 5% trên tổng doanh thu, vì có thể đánh giá mức xử phạt dựa trên giá trị thực của các doanh nghiệp vi phạm. Tuy nhiên, với con số phần trăm trên là quá nhỏ và sẽ có thể khiến doanh nghiệp tái phạm việc thực hiện vi phạm. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam đã quy định về việc truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi mua lại mà vi phạm quy định pháp luật để có thể răn đe và khiến các doanh nghiệp không thực hiện vi phạm.

<small>23</small>

<i><small> Đỗ Khắc Tất Hưng (2021), Một số vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động sáp nhập và mua lại (M&A) tại Việt </small></i>

<i><small>Nam - So sánh với Singapore, tr.36. </small></i>

<small> Quy định tại Điều 12 Nghị định 75/2019/NĐ-CP. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Qua đó, có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam quy định chế tài về hành vi mua lại vi phạm tập trung kinh tế. Điều này tạo sân chơi lành mạnh, gây tác động tích cực cho

<i><b>các doanh nghiệp thực hiện hành vi mua lại trong thị trường Việt Nam. </b></i>

<b>1.5. Ý nghĩa việc mua lại doanh nghiệp với kinh tế và với pháp luật </b>

Hoạt động mua lại doanh nghiệp trên thế giới cũng như mua lại theo Việt Nam đều cho rằng sẽ có thể tăng thêm giá trị cho doanh nghiệp, đồng thời góp phần mở rộng thị phần, tăng doanh thu, thêm cơ hội phát triển.

Hơn nữa, việc mua lại doanh nghiệp cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn với nền kinh tế. Bởi lẽ, hiện nay đã hình thành nhiều doanh nghiệp hoạt động trong một cùng một ngành dẫn đến tính cạnh tranh cao. Và khi nền kinh tế rơi vào thời kỳ suy thối, để tránh tình huống phá sản, xu hướng liên kết thông qua mua bán để cùng tồn tại và phát triển là một lựa chọn trong giai đoạn đó.<small>25</small>

Bên cạnh đó, với góc độ kinh tế, nguyên nhân khiến các doanh nghiệp mua lại là do thị trường với lực lượng lao động dồi dào, nguồn tài nguyên phong phú. Điều này sẽ hấp dẫn các doanh nghiệp - đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hành vi mua lại; từ đó sẽ góp phần đẩy mạnh sự phát triển thị trường vốn, cơng nghệ, ….<small>26</small>

Ngồi ra, hoạt động mua lại doanh nghiệp đã tác động đến hành lang pháp lý tại Việt Nam. Có thể thấy rằng, với hành vi mua lại doanh nghiệp không được quy định cụ thể trong một văn bản mà còn rải rác ở nhiều nơi. Và nếu một doanh nghiệp muốn dự định thực hiện hành vi mua lại thì cũng cần phải lưu ý các văn bản khác để đảm bảo được sự phát triển kinh tế.

Chẳng hạn như, đối với thị trường chứng khoán, việc mua lại doanh nghiệp sẽ có thể làm tăng/giảm giá cổ phiếu; do chứng khoán vận hành dựa trên những tin tức trong thị trường. Theo đó, hành vi mua lại doanh nghiệp từ việc mua lại cổ phần, phần vốn góp sẽ có thể chịu sự điều chỉnh của Luật Chứng khoán; và doanh nghiệp cần phải tuân theo sự kiểm soát, tránh ảnh hưởng đến thị trường chung.

Do đó, để xây dựng một nền tảng pháp lý cho hành vi mua lại doanh nghiệp, hệ thống pháp luật Việt Nam cần có sự quy định rõ ràng, thống nhất với nhau để đảm bảo quyền lợi cho các bên khi tham gia và từ đó, có thể đảm bảo sự kiểm soát từ Nhà nước

<small>25</small>

<small> Đặng Ngọc Hùng, Hoàng Thị Việt Hà (2010), “Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp thời kỳ hậu khủng hoảng”, </small>

<i><small>Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ, Số (03), tr.56. </small></i>

<small> Đặng Hữu Mẫn, Hồng Dương Việt Anh (2014), “Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua lại doanh nghiệp </small>

<i><small>tại một số nền kinh tế khu vực Châu Á - Thái Bình Dương”, Phát triển Kinh tế 281, Số (03), tr.78. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

với các doanh nghiệp - đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia vào thị trường Việt Nam.

Như vậy, hoạt động mua lại doanh nghiệp là một hoạt động phát triển, mang tính tất yếu khách quan địi hỏi cần sự thích ứng, và đây cũng là một trong những giải pháp giúp nâng cao năng lực cạnh tranh.

<b>1.6. Thực trạng việc mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam </b>

Mặc dù chịu sự ảnh hưởng của đại dịch Covid và tình trạng suy thối kinh tế, tuy nhiên thị trường M&A vẫn hoạt động một cách sôi nổi không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới. “Trong năm 2022, thị trường M&A toàn cầu ghi nhận khối lượng giao dịch giảm 17% và giá trị thương vụ giảm 37% so với năm 2021, nhưng vẫn cao hơn năm 2020 cũng như thời điểm trước dịch.”<small>27</small> Qua đó, có thể thấy sức hút của hoạt động này đối với thị trường quốc tế là rất lớn.

Trong khu vực, thị trường M&A ở Việt Nam được cho là một trong những thị trường hấp dẫn nhất. Theo thống kê cho thấy trong 20 năm qua Việt Nam có hơn 4 nghìn thương vụ M&A với giá trị đạt gần 50 tỷ USD, đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á về giá trị M&A. Việt Nam được đánh giá là quốc gia năng động trong hoạt động M&A khi thu hút được dòng vốn ngoại và nhà đầu tư ngoại tham gia vào thị trường.<small>28</small> Dù chịu ảnh hưởng từ dịch Covid tuy nhiên năm 2021 dịng vốn đầu tư nước ngồi thơng qua M&A vào thị trường Việt Nam vẫn có sự tăng trưởng. Theo số liệu của KPMG Việt Nam (Công ty cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp tại Việt Nam), trong 10 tháng năm 2021, thị trường M&A đã thu hút hơn 8,8 tỷ USD, tăng 17,9% so với năm 2020 và 13,7% so với năm trước dịch, năm 2019.

Tuy nhiên, việc thị trường thu hút các doanh nghiệp nước ngoài cũng đem đến những khó khăn nhất định cho các doanh nghiệp trong nước khi phải đối đầu với các tập đồn lớn có tiềm lực tài chính và sức ảnh hưởng trong khu vực. Đặc biệt, là khi thị trường Việt Nam cũng đang phải gánh chịu những ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid và suy thoái kinh tế, việc gia tăng lãi suất từ các ngân hàng và gánh nặng về tài chính trong thời điểm lạm phát, các doanh nghiệp trong nước đã phải chật vật để tìm kiếm và tiếp cận nguồn vốn mới. Nhiều doanh nghiệp trước nguy cơ phá sản đã phải “bán mình” cho các tập đoàn lớn hay các nhà đầu tư nước ngồi. Chính vì thế hầu hết các doanh

<small> truy cập lần cuối ngày 12/8/2023. </small>

<small> Viện Chiến lược và chính sách tài chính (2021), Cơ hội M&A trên thị trường Việt Nam, </small>

<small> truy cập lần cuối ngày 12/8/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

nghiệp hiện tại đều mất lợi thế trong quá trình đàm phán các giao dịch mua lại. Điều này tạo cơ hội cho các doanh nghiệp nước ngoài tiến hành thâu tóm thị trường trong nước và mất dần lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Có thể thấy sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng lớn tại Việt Nam, tiêu biểu là những tập đoàn lớn từ Thái Lan như Central Group. Central Group nổi tiếng với việc thu mua các doanh nghiệp bán lẻ, hàng tiêu dùng hàng đầu tại Việt Nam như Công ty Đầu tư phát triển công nghệ và giải pháp mới NKT (chủ sở hữu Công ty thương mại Nguyễn Kim), siêu thị Lan Chi, hệ thống siêu thị Big C, chuỗi cửa hàng Tops Market, chuỗi cửa hàng thời trang Marks & Spencer (của Anh) và chuỗi cửa hàng đồng giá Komonoya (của Nhật) tại Việt Nam. Chưa dừng lại ở đó tập đồn này cịn có tham vọng mở rộng. Khơng chỉ có các cơng ty nước ngồi, các tập đồn lớn của Việt Nam cũng mong muốn tiến hành mở rộng thị trường, một trong những tập đoàn nổi tiếng với nhiều thương vụ trị giá hàng tỷ đô là Masan Group. Đây là một trong những tập đoàn hàng đầu của Việt Nam về lĩnh vực hàng tiêu dùng và tài nguyên, tập đoàn này tiến hành thu mua hàng loạt các thương vụ đình đám như Phúc Long, Vinmart, VinEco… Có thể thấy thị trường Việt Nam đang dần được đánh dấu bởi những cái tên tiêu biểu, có sức mạnh kinh tế và tiềm lực lớn, lâu năm.

Trong khoảng thời gian từ năm 2021 đến năm 2022, Tập đoàn Thái Lan SCG đã thực hiện mua lại đối với Công ty Cổ phần sản xuất nhựa Duy Tân (gọi tắt là Duy Tân). Trước những năm trước đó, theo tạp chí Forbes Việt Nam, cơng ty nhựa Duy Tân được ghi nhận là doanh nghiệp nhựa gia dụng hàng đầu trong số 50 thương hiệu giá trị nhất tại Việt Nam<small>29</small>. Mặt khác, SCG là một trong những cái tên tiêu biểu lĩnh vực sản xuất công nghiệp như bao bì, nhựa,... Tập đồn này hiện sở hữu hàng loạt các công ty lớn trong lĩnh vực này như Công ty Cổ phần sản xuất nhựa Duy Tân, Công ty Cổ phần Prime Group, Công ty Cổ phần Bao bì Tín Thành, Cơng ty Cổ phần Nhựa Bình Minh và Cơng ty Bao bì Biên Hịa. Do đó, việc tiếp tục xác lập giao dịch mua lại Công ty Duy Tân đã làm gia tăng sức mạnh thị trường của tập đoàn SCG một cách đáng kể, từ đó làm giảm sự tham gia của các doanh nghiệp nhựa nội địa khác do khơng có đủ năng lực tài chính và lợi thế khoa học, cơng nghệ.

Tóm lại, có thể nói, các giao dịch M&A được xem như là một con dao hai lưỡi, vừa giúp thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế Việt Nam, vừa khiến thị trường trở nên khó điều tiết hơn. Việt Nam là một thị trường M&A giàu tiềm năng nhưng cũng “mới mẻ”, chính vì thế vẫn còn nhiều hạn chế nhất định trong thực tiễn và cả hệ thống

<small> Duy Tân (2021), Duy Tân lọt top “50 giá trị thương hiệu dẫn đầu năm 2020”, su-kien/hoat-dong/duy-tan-lot-top-top-50-gia-tri-thuong-hieu-dan-dau-2020, truy cập lần cuối ngày 10/8/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

lý. Hiện tại, khơng nhiều doanh nghiệp Việt Nam có đủ năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài do còn những hạn chế về cơ cấu tổ chức, thiếu thông tin về thị trường và thiếu nguồn lực lao động bền vững. Không chỉ vậy, khung pháp lý về M&A vẫn cịn nhiều thiếu sót và chưa thực tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế thị trường đang ngày một thay đổi. Những quy định, chính sách mới được ban hành kịp thời để thích nghi với những thay đổi hiện tại không chỉ giúp Việt Nam giữ vững vị thế trong thị trường M&A mà còn giúp các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội vươn mình để trở thành những cơng ty hàng đầu cả nước và khu vực.

<b>Kết luận Chương I </b>

Trong phạm vi chương I, nhóm tác giả đã đưa ra được khái niệm mua lại doanh nghiệp dưới hai góc độ, các đặc điểm về vấn đề mua lại doanh nghiệp, phân biệt một số thuật ngữ liên quan đến các hình thức tập trung kinh tế và hình thức mua lại doanh nghiệp. Qua đó, có thể thấy được rằng, mua lại doanh nghiệp khơng có một văn bản pháp luật quy định chi tiết, cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên, nhóm tác giả đã phân tích các vấn đề pháp lý liên quan đến hành vi mua lại doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh. Với các quy định trên, nhóm đã đưa ra ý nghĩa của việc mua lại tác động đến kinh tế và pháp luật.

Bên cạnh đó, khi nghiên cứu thực trạng hoạt động mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam, nhóm tác giả nhận thấy vẫn tồn tại những rủi ro, bất cập nhất định cho thị trường Việt Nam.

Từ việc phân tích những vấn đề mua lại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam và thực trạng về hoạt động mua lại, nhóm tiếp tục trình bày về quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động mua lại tại Hoa Kỳ, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam tại chương II.

</div>

×