Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.43 KB, 96 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Trưởng nhóm: Nguyễn Hằng Hồng Lam
Lớp: CLC46B Khoá: 46 Khoa: Các Chương trình đào tạo Chất lượng cao
<b> </b>
<b> Mã số cơng trình :………. </b>
<i><b>( Phần này do Phòng QL NCKH & HTQT đánh số vào ) </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>--- ✵ --- </b>
Lớp: CLC46B Khoá: 46 Khoa: Các Chương trình đào tạo Chất lượng cao
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">1.1.1. Khái niệm công chức ... 13
1.1.2. Khái niệm tham nhũng ... 19
1.1.3. Khái niệm quy trình xử lý kỷ luật ... 21
1.1.4. Khái niệm quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng ... 22
1.2. Đặc điểm của xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng .... 23
1.2.1. Đặc điểm chung ... 23
1.2.2. Đặc điểm riêng ... 26
<b>2. Vai trị, ý nghĩa của quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng ... 29 </b>
2.1. Đối với công chức ... 29
2.2. Đối với Nhà nước ... 30
2.3. Đối với xã hội... 32
<b>3. Quy định pháp luật về quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng ... 33 </b>
3.1. Quy trình xử lý kỷ luật thơng thường ... 33
3.1.1. Phát hiện hành vi vi phạm và thông báo xử lý kỷ luật ... 34
3.1.2. Tổ chức họp kiểm điểm ... 36
3.1.3. Thành lập hội đồng xử lý kỷ luật ... 38
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">3.1.4. Cấp có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật ... 40
1.1.1. Bất cập về việc phát hiện hành vi tham nhũng ... 49
1.1.2. Bất cập trong quy định về hội đồng xử lý kỷ luật ... 59
1.1.3. Bất cập trong quy định về ra quyết định xử lý kỷ luật ... 63
1.2. Thực trạng quy trình xử lý kỷ luật cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng theo thủ tục rút gọn ... 66
1.2.1. Thực trạng về việc phát hiện hành vi tham nhũng ... 66
1.2.2. Thực trạng về căn cứ không thành lập Hội đồng xử lý kỷ luật ... 70
1.2.3. Thực trạng về ra quyết định xử lý kỷ luật ... 74
<b>2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng ... 76 </b>
2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý kỷ luật ... 76
2.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về phát hiện hành vi tham nhũng ... 76
2.1.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về Hội đồng xử lý kỷ luật ... 80
2.1.3. Hoàn thiện quy định pháp luật về xác định thẩm quyền xử lý kỷ luật ... 82
2.1.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về ra quyết định xử lý kỷ luật ... 83 2.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng ... 84 2.2.1. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện nhanh chóng và xử lý kỷ luật nhanh chóng đối với hành vi tham nhũng. ... 84 2.2.2. Nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ cho công chức tham mưu và cán bộ, cơng chức có thẩm quyền xử lý kỷ luật cơng chức có hành vi tham nhũng. ... 87
<b>KẾT LUẬN ... 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 95 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT </b>
<b>1 Nghị định số 35/2005/NĐ-CP Nghị định số 35/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/03/2005 về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức </b>
<b>2 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP Nghị định số 34/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/5/2011 quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức. </b>
<b>3 Nghị định số 22/2019/NĐ-CP Nghị định số 22/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/05/2019 về tố cáo và giải quyết tố cáo trong Công an nhân dân. </b>
<b>4 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP Nghị định số 59/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật phòng, chống tham nhũng. </b>
<b>5 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP Nghị định số 112/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/9/2020 quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức. </b>
<b>6 Thông tư số 03/2020/TT-BNV Thông tư số 03/2020/TT-BNV của Bộ nội vụ ngày 21/07/2020 quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, biện pháp bảo </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>vệ vị trí cơng tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức. </b>
<b>7 Thông tư 145/2020/TT-BCA Thông tư số 145/2020/TT-BCA của Bộ Công an ngày 29/12/2020 quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục, biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo về hành vi tham nhũng, lãng phí. </b>
<b>8 Quy định số 102-QĐ/TW Quy định số 102-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương ngày 15/11/2017 về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm. </b>
<b>64/2013/QH13 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp 2013 của Quốc hội ngày 28/11/2013. </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và là kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. V.I.Lênin xác định một trong ba kẻ thù chính trong sự nghiệp cách mạng là nạn tham nhũng và tham nhũng, quan liêu chính là nguyên do triệt tiêu chủ nghĩa xã hội. Sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bên cạnh tập trung giải quyết những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền dân chủ, nhân dân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi phịng, chống tham nhũng là công việc quan trọng, cấp bách của công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà
<i>nước. Hồ Chí Minh khẳng định tham nhũng là căn bệnh nguy hiểm nhất, là “hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất”</i><small>1</small>. Khi bước vào thời kỳ đổi mới, kế thừa và tiếp thu một số chủ trương, quan điểm về phòng, chống tham nhũng của các Văn kiện Đại hội trước thì Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã đưa ra nhiều điểm mới về
<i>chủ trương và những giải pháp căn cơ quyết liệt về phòng, chống tham nhũng: “Khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa, cơ chế răn đe để kiểm soát tham nhũng. Thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Tiếp tục thực hiện chặt chẽ có hiệu quả về kê khai, kiểm soát, kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp”</i><small>2</small>.
Trong bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơng chức là đội ngũ có vị trí then chốt của nền hành chính; là một mắt xích khơng thể thiếu trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, đảm bảo cho việc thực thi chính sách, pháp luật trong đời sống có hiệu quả. Vì vậy, họ phải làm gương trong việc tuân thủ kỷ luật, kỷ cương. Tuy nhiên, hiện nay có một số bộ phận cơng chức có dấu hiệu tha hố về đạo đức, lối sống, tư tưởng, không tuân thủ quy định pháp luật, vì vụ lợi cá nhân mà thực hiện các hành vi tham nhũng. Ở nhiều nơi, tồn tại thực trạng một số người vì sợ bị trả thù, trù dập mà không dám tố cáo hành vi tham nhũng. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng ta động viên, khuyến khích, khen thưởng những tổ chức, cá nhân dám tố cáo hành vi tham nhũng,
<i>đồng thời đưa ra cơ chế cơ chế bảo vệ họ: “Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu quả cơng tác giám sát thanh tra, kiểm tra, làm tốt chức năng hỗ trợ thúc đẩy phát triển”</i><small>3</small>. Có thể thấy, một trong những yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo việc thực thi trách nhiệm, nghĩa vụ của công chức chính là cơng tác khen thưởng và kỷ luật. Một khi sự vô kỷ luật từ bên trong kết hợp với kẻ thù từ bên ngoài sẽ gây nên sự sụp đổ của chính quyền. Từ đó, dẫn đến tình trạng “chạy
<small> 1</small><i><small> Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.14, tr. 141. </small></i>
<small>2 Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr.146. </small>
<small>3 Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr.146. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">chức”, “chạy quyền”, tham nhũng, vụ lợi cá nhân,... làm giảm lòng tin của nhân dân đối với nhà nước.
Vì lẽ đó, pháp luật đã có những quy định nhằm nhận diện hành vi tham nhũng cùng với những chế tài nghiêm khắc để xử lý những hành vi đó của cơng chức. Bên cạnh chế tài hình sự, pháp luật cũng đề ra một số chế tài kỷ luật hành chính để xử lý những cơng chức có hành vi vi phạm hiện nay được quy định cụ thể tại Luật Cán bộ, công chức 2008, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018, Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2019 về Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật phòng, chống tham nhũng và Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 9 năm 2020 về Xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng vẫn có một số quy định chưa phù hợp, tính khả thi thấp, cịn “lỗ hổng”, nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung, hồn thiện kịp thời.
Tính đến thời điểm hiện nay, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề xử lý kỷ luật công chức như: các nguyên tắc xử lý kỷ luật, các hình thức kỷ luật, thẩm quyền xử lý kỷ luật cũng như mối liên hệ giữa các văn bản quy phạm pháp luật quy định về xử lý kỷ luật cơng chức. Tuy nhiên, đối với quy trình xử lý kỷ luật cơng chức thì thơng qua việc tìm kiếm tài liệu phục vụ nghiên cứu đề tài, nhóm tác giả có tìm thấy Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Hà Thị Minh Châu về “Quy trình xử lý kỷ luật cơng chức”. Cơng trình này đã được thực hiện vào năm 2014 nên khơng cịn phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay và cơng trình chưa đào sâu được các vấn đề về liên quan đối với quy trình xử lý kỷ luật cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng. Xuất phát từ tính cấp thiết đó, nhóm tác giả đã chọn đề tài: “Quy trình xử lý kỷ luật đối với cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
<b>2. Tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến đề tài </b>
Trong q trình nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu cho đề tài, nhóm tác giả đã tiếp cận một số cơng trình nghiên cứu có liên quan đến quy trình xử lý kỷ luật cơng chức và một số cơng trình nghiên cứu về pháp luật phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. Một số cơng trình thì phạm vi của nội dung vẫn quá rộng chứ không xét về từng lĩnh vực cụ thể. Số ít cơng trình chỉ tập trung nghiên cứu về một vấn đề chứ không bàn sâu một cách toàn diện. Từ các tài liệu mà nhóm tác giả tiếp cận được thì gần như chưa có cơng trình nghiên cứu nào về quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng.
Một số cơng trình nghiên cứu trong Trường đại học Luật TP. HCM về xử lý kỷ luật cơng chức nói chung như:
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><i>Nguyễn Thị Ngọc Đức (2014), Xử lý kỷ luật cơng chức, Khóa luận tốt nghiệp, </i>
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh: Với cơng trình này, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật cơng chức như các hình thức xử lý kỷ luật, nguyên tắc, thời hiệu, thời hạn, thẩm quyền xử lý kỷ luật và thực tiễn về việc áp dụng các quy định đó. Từ đó, phân tích nguyên nhân của những mặt hạn chế trong thực tiễn và kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý kỷ luật công chức. Tuy nhiên, phạm vi của cơng trình này cịn q rộng, chưa làm rõ và nghiên cứu sâu các quy định pháp luật về thủ tục cũng như thực tiễn áp dụng thủ tục về xử lý kỷ luật công chức.
<i>Lâm Tiến Thạch (2018), Xử lý kỷ luật công chức tại tỉnh Sóc Trăng, Luận văn </i>
Thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh: Trong cơng trình này, tác giả đã làm rõ các vấn đề về áp dụng quy định xử lý kỷ luật về thời hiệu, thời hạn; Hội đồng kỷ luật công chức; quyết định kỷ luật công chức và thực tiễn áp dụng các quy định đó tại Sóc Trăng. Thơng qua phân tích và phát hiện bất cập, tác giả đề xuất các kiến nghị tương ứng. Tuy nhiên, cơng trình của tác giả chưa đi sâu vào phân tích khái niệm, đặc điểm, quy định pháp luật về quy trình xử lý kỷ luật công chức áp dụng trong thực tiễn cũng như kiến nghị hoàn thiện các quy định về quy trình xử lý kỷ luật cơng chức.
<i>Hà Thị Minh Châu (2014), Quy trình xử lý kỷ luật công chức, Khóa luận tốt </i>
nghiệp, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh: Nội dung khóa luận bao gồm 2 Chương, trong đó, tác giả làm rõ khái niệm, ý nghĩa và các quy định của pháp luật về quy trình xử lý kỷ luật cơng chức tại Chương 1. Tác giả tập trung phân tích từng giai đoạn của quy trình xử lý luật trong thực tiễn cũng như đề xuất từ các giải pháp chung cho đến các giải pháp hoàn thiện về mặt pháp luật. Tuy nhiên, cơng trình này được thực hiện khi Nghị định số 34/2011/NĐ-CP vẫn còn hiệu lực, đã khơng cịn phù hợp với tình hình và xu thế hiện nay khi Nghị định số 112/2020/NĐ-CP đã được ban hành. Ngồi ra, cơng trình này vẫn chưa bàn sâu vào quy trình xử lý kỷ luật đối với cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng.
Một số cơng trình nghiên cứu trong Trường đại học Luật TP. HCM về pháp luật phịng, chống tham nhũng nói chung như:
<i>Trương Thị Minh Thuỳ (2022), Phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước theo pháp luật hiện hành và một số vấn đề được đặt ra, kỷ yếu </i>
hội thảo “Phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam - Những vấn đề pháp lý”, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.164-168: Bài viết này liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu, cụ thể là về giai đoạn phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tuy nhiên, nội dung của bài viết chỉ dừng lại ở việc phân tích một vài quy định pháp luật và đưa ra một vài vấn đề liên quan đến phát hiện tham nhũng chứ chưa đánh giá một cách
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">toàn diện các giai đoạn trong quy trình xử lý kỷ luật đối với cơng chức tham nhũng cũng như đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
<i>Nguyễn Văn Trí (2022), Một số vấn đề pháp lý về các biện pháp phát hiện tham nhũng ở Việt Nam, kỷ yếu hội thảo “Phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam - Những vấn </i>
đề pháp lý”, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.150-160: Nội dung của bài viết tập trung phân tích các biện pháp phát hiện tham nhũng trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, đồng thời làm rõ những hạn chế, bất cập của quy định pháp luật về biện pháp phát hiện tham nhũng. Từ đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật về các biện pháp phát hiện tham nhũng. Tuy nhiên, nội dung của bài viết chỉ dừng lại ở các biện pháp phát hiện tham nhũng, một trong các giai đoạn của thủ tục xử lý kỷ luật công chức chứ chưa tập trung làm rõ các giai đoạn còn lại của thủ tục xử lý kỷ luật công chức.
<i>TS. Lê Việt Sơn (2022), Hoàn thiện pháp luật về thanh tra đối với việc phòng, chống tham nhũng, kỷ yếu hội thảo “Phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam - Những </i>
vấn đề pháp lý”, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.55-65: Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích quy định của pháp luật về thanh tra đối với việc phòng, chống tham nhũng trên cơ sở các quy định của Luật Thanh tra năm 2010 và Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Đồng thời chỉ ra một số điểm bất cập trong quy định của pháp luật, từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, tác giả chỉ mới tập trung làm rõ các vấn đề lý luận, pháp lý về thanh tra cũng như phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra chứ chưa đề cập toàn diện những biện pháp phát hiện tham nhũng khác.
<i>ThS. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2022), Hoạt động thanh tra trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam, kỷ yếu hội thảo “Phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam - </i>
Những vấn đề pháp lý”, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.66-72: Bài viết của tác giả phân tích về cơng tác thanh tra trong phịng, chống tham nhũng ở Việt Nam và thực tiễn các tỉnh thành về vấn đề này, đồng thời đưa ra đề xuất hoàn thiện Luật Phịng, chống tham nhũng năm 2018 và cơng tác thanh tra trong phòng chống tham nhũng. Bài viết có liên quan trực tiếp tới đề tài nhưng chưa nghiên cứu toàn diện các biện pháp phát hiện tham nhũng khác.
Ngồi ra là các cơng trình nghiên cứu về kỷ luật cơng chức nói chung và các cơng trình về pháp luật phịng, chống tham nhũng được thực hiện ở ngoài trường Đại học Luật TP.HCM như:
Đối với sách:
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><i>Trường Đại học Luật TP. HCM (2020), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam: Trong cơng trình này, các tác giả </i>
phân tích về khái niệm cán bộ, cơng chức, quy chế pháp lý chung, các hình thức khen thưởng và xử lý kỷ luật đối với cán bộ và công chức tại Chương 8. Nhìn chung, các khái niệm, quy định, các hình thức xử lý kỷ luật của cán bộ, cơng chức đã được các tác giả phân tích tương đối rõ. Tuy nhiên, những quy định về quy trình xử lý kỷ luật cơng chức và bất cập của những quy định đó vẫn chưa được tác giả đề cập.
<i>TS. Cao Vũ Minh (2021), Xử lý kỷ luật công chức lý luận và thực tiễn, Nhà xuất </i>
bản Thanh niên: trong cơng trình này, tác giả tập trung làm rõ các quy định chung của pháp luật về xử lý kỷ luật công chức và thực tiễn áp dụng các quy định đó. Đồng thời, dựa trên những phân tích về ưu điểm, nhược điểm, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và tăng cường hiệu quả áp dụng trong xử lý kỷ luật công chức. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của cơng trình này là q rộng, chưa làm rõ được những khái niệm liên quan về tham nhũng cũng như chưa bàn sâu về quy trình xử lý kỷ luật công chức.
Đối với bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành Luật:
Nguyễn Ngọc Tốn (2016), “Ngun tắc của luật phịng, chống tham nhũng và
<i>một số kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 01(305), tr. 50-56: Bài viết </i>
tập trung đề cập các vấn đề cần lưu ý khi xây dựng điều khoản nguyên tắc trong văn bản luật và bình luận vấn đề này trong Luật Phịng, chống tham nhũng ở nước ta. Từ đó nêu kiến nghị góp phần hồn thiện việc xây dựng điều khoản ngun tắc trong một đạo luật nói chung và Luật Phịng, chống tham nhũng nói riêng.
TS. Cao Vũ Minh (2020), “Mối liên hệ giữa các nghị định quy định về xử lý kỷ
<i>luật cơng chức”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Viện nghiên cứu Lập pháp, Số 13 (413), </i>
tr. 38-44: Bài viết tập trung phân tích mối liên hệ giữa các nghị định về xử lý kỷ luật công chức, chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt và đồng thời đề xuất hướng hoàn thiện.
Theo đó, các cơng trình nghiên cứu khoa học này đã đề cập đến việc xử lý kỷ luật công chức. Tuy nhiên, các cơng trình đó chỉ dừng lại ở mức khái quát chung các vấn đề, chưa đi sâu cũng như đề cập vấn đề, đánh giá bình luận sự tiến bộ hay hạn chế của pháp luật về quy trình xử lý kỷ luật cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng. Hơn nữa, thời điểm nghiên cứu cơng trình đã khá lâu, trong khi hiện nay đã có sự cập nhật, thay đổi về các quy định của pháp luật và điều kiện thực tế. Xét về tình hình nghiên cứu, hiện nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu nào về quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b>3. Mục tiêu nghiên cứu </b>
Từ việc nghiên cứu đề tài, nhóm tác giả làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về quy trình xử lý kỷ luật đối với cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng, từ đó, đánh giá thực trạng pháp lý về vấn đề này và đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những bất cập của pháp luật.
Thơng qua góc độ thực tiễn, nhóm tác giả mong muốn nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa của quy trình xử lý kỷ luật đối với cơng chức có hành vi tham nhũng trong việc nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với cơ chế công vụ và trong vấn đề siết chặt kỷ của của Nhà nước. Qua việc ghi nhận từ tình hình thực tế, nhóm tác giả đánh giá cao những mặt tích cực, sự tiến bộ trong tư duy pháp lý của nhà lập pháp; Tuy nhiên, nhóm tác giả cũng đã đề cập đến những bất cập trong việc xét xử những vụ án tham nhũng của công chức trên thực tế. Dựa theo phân tích, nhóm tác giả muốn góp phần một số đề xuất trong việc hoàn thiện pháp luật xử lý kỷ luật đối với cơng chức có hành vi trên, nhằm mong muốn thực hiện thành cơng chính sách của Đảng và Nhà nước đã đề ra trước đó đối với vấn đề tham nhũng trong Nhà nước.
<b>4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu </b>
<i>Đối tượng nghiên cứu </i>
Đối tượng nghiên cứu của cơng trình này là quy định của pháp luật hiện hành về quy trình xử lý kỷ luật công chức thực hiện hành vi tham nhũng.
<i>Phạm vi nghiên cứu </i>
Trong giới hạn của đề tài này, nhóm tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề về thủ tục xử lý kỷ luật công chức thực hiện hành vi tham nhũng thông qua các quy định của pháp luật hiện hành. Thông qua nghiên cứu toàn diện, chi tiết các vấn đề pháp lý và thực tiễn có liên quan, nhóm tác giả đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quy định pháp luật cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thủ tục xử lý kỷ luật công chức thực hiện hành vi tham nhũng.
<b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo đó là phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật để đảm bảo quyền của cá nhân, Nhà nước. Bên cạnh đó, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Ngồi ra, nhóm tác giả cũng tiến hành kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau nhằm bảo đảm sự hiệu quả, tính khách quan và tồn diện góp phần làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra trong đề tài, bao gồm:
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng xun suốt trong cả cơng trình nghiên cứu, nhằm đọc, nghiên cứu và phát hiện những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn.
Phương pháp thống kê: Tổng hợp các quy định pháp luật có liên quan, quan điểm của các nhà khoa học, các tác giả, các đề tài nghiên cứu có liên quan. Thống kê các số liệu, vụ việc thực tiễn, các quyết định thi hành kỷ luật cơng chức có hành vi tham nhũng đã ban hành trên thực tế để minh họa cho các nội dung của đề tài.
Phương pháp so sánh: So sánh sự khác nhau trong quy định của pháp luật về vấn đề xử lý kỷ luật cơng chức nói chung ở các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển của pháp luật Hành chính; So sánh số liệu liên quan đến việc áp dụng quy trình trên thực tế.
<b>6. Bố cục của đề tài </b>
Cơng trình nghiên cứu bao gồm ba phần chính: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận. Trong đó, Phần nội dung của cơng trình nghiên cứu khoa học bao gồm hai chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận – pháp lý về quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng
Chương II: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quy trình xử lý kỷ luật đối với cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><b>Chương I: Một số vấn đề lý luận – pháp lý về quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng </b>
<b>1. Khái niệm, đặc điểm về quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng </b>
<i><b>1.1. Khái niệm quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng </b></i>
<i>1.1.1. Khái niệm công chức </i>
Khái niệm công chức là khái niệm thông thường được dùng để chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước và cơng việc chính của họ là thực hiện các hoạt động công vụ, phục vụ lợi ích người dân. Khác với khái niệm “quan chức” trong bộ máy quan lại thời phong kiến, vốn cũng là những người giúp việc cho cơ quan nhà nước (nhà Vua). Tuy nhiên xét đến cùng, bộ máy quan chức này ln có sự đối lập về quyền lợi đối với người dân trong thời kỳ phong kiến.<small>4</small>
Tùy vào đặc điểm của từng quốc gia như: chế độ chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá, quan niệm khác nhau sẽ dẫn đến việc định nghĩa về khái niệm công chức của mỗi nước cũng sẽ có sự khác biệt.
<i>Ở Pakistan, cơng chức được định nghĩa: “Công chức là người hoạt động công vụ ở Pakistan (All-Pakistan service) hay người hoạt động công vụ của Liên bang (civil service of the Federation), hay người giữ chức vụ dân sự liên quan đến các công việc của Liên bang, bao gồm bất kỳ chức vụ được kết nối với quốc phòng nhưng không bao gồm: Đại biểu của Liên bang từ bất kỳ tỉnh hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác; người được tuyển dụng theo hợp đồng, hoặc công việc được trả lương hoặc được trả lương từ khoản dự phịng; người là “cơng nhân” được định nghĩa trong Đạo luật Nhà máy 1934 (the Factories Act, 1934) hay Đạo luật Bồi thường cho người lao động 1923 (the Workmen's Compensation Act).”</i><small>5 </small>
Hoạt động công vụ ở Pakistan (All-Pakistan service) được quy định là một hoạt động chung của Liên bang hay các tỉnh đã tồn tại ngay trước ngày Đạo luật Majlis-e-Shoora có hiệu lực hoặc là một hoạt động chung được quy định bởi Đạo luật Majlis-e-
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Shoora<small>6</small>. Như vậy, Pakistan định nghĩa cơng chức theo hướng vị trí việc làm của họ, ví dụ, cơng chức hành chính quân sự trong Quân đội Pakistan.
<i>Ở Nhật Bản, Hiến pháp Nhật Bản 1946 quy định: “Công chức là người phục vụ tồn thể nhân dân, khơng phải là người phục vụ riêng của một bộ phận nào khác.”.</i><small>7</small>Hiến pháp điều chỉnh những vấn đề chung nhất của pháp luật Nhật Bản trong đó có vấn đề về cơng chức, nên việc quy định một cách chi tiết về khái niệm, quyền và nghĩa vụ của công chức là không cần thiết trong một bản Hiến pháp. Thay vào đó, Nhật Bản đã đưa ra hai văn bản quy phạm pháp luật riêng điều chỉnh về công chức, được chia thành hai nhóm là Cơng chức quốc gia và Cơng chức địa phương. Hai văn bản quy phạm pháp luật này đã quy định cụ thể về những vấn đề liên quan đến công chức, tránh việc hiểu công chức là một khái niệm rất rộng theo quy định tại Hiến pháp Nhật Bản. Ngoài ra, pháp luật Nhật Bản cũng quy định những đối tượng được loại trừ không phải là công chức tại khoản 6 và khoản 7 Điều 3 Luật Công chức Quốc gia Nhật Bản. Theo đó, những người được Chính phủ bổ nhiệm làm việc ở các vị trí khác ngồi chức vụ chung hoặc chức vụ đặc biệt, có trả lương, trả cơng hoặc các mức lương khác cho vị trí của họ; và những người có hợp đồng cơng việc được lập trên cơ sở cá nhân giữa Chính phủ hoặc giữa các cơ quan của Chính phủ với người nước ngồi thì không phải là công chức.
Luật Công chức Quốc gia Nhật Bản chia vị trí cơng chức thành hai nhóm là chức vụ chung và chức vụ đặc biệt. Chức vụ chung bao gồm tất cả các vị trí cơng chức quốc gia không bao gồm chức vụ đặc biệt. Chức vụ đặc biệt được quy định theo phương thức liệt kê, một vài trong số đó là Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Đại diện Chính phủ, cán bộ nhân sự và thanh tra viên,...<small>8</small>
Luật Công chức Địa phương Nhật Bản cũng chia vị trí cơng chức thành hai nhóm là chức vụ chung và chức vụ đặc biệt. Chức vụ chung là tất cả các vị trí cơng chức địa phương khơng bao gồm chức vụ đặc biệt. Vị trí đặc biệt được quy định là các vị trí được bổ nhiệm theo yêu cầu bầu cử công khai hoặc bầu cử, nghị quyết, sự đồng ý của Hội đồng chính quyền địa phương; Thành viên chính thức của ủy ban lao động tỉnh; ...<small>9</small>
Ở Trung Quốc, định nghĩa công chức được quy định tại Điều 2 Luật Cơng chức
<i>của nước Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa: “Công chức được đề cập trong Luật này là những người thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật, được đưa vào biên chế </i>
<small> </small>
<small>6 Part 12, Chapter 1, Article 240, The Constitution of the Islamic Republic of Pakistan, tr. 146, [ </small>
<small>7 15条 項日日日日日2 (khoản 2 điều 15 Hiến pháp Nhật Bản 1946) </small>
<small>8 (Điều 2 Luật Công chức Quốc gia Nhật Bản), [ </small>
<small>9 (Điều 2 Luật Công chức Địa phương Nhật Bản), gov.go.jp/document?lawid=325AC0000000261] </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><i>[https://elaws.e-hành chính nhà nước, trách nhiệm về tiền lương và phúc lợi do ngân sách nhà nước chi trả.”</i><small>10</small>
Qua việc nghiên cứu khái niệm cơng chức (Civil servants), nhóm tác giả nhận thấy khái niệm này hiện nay được sử dụng phổ biến ở hầu hết các quốc gia và có chung một số đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, công chức là người thực hiện công vụ mà không phải là người thực hiện các công việc khác như: dịch vụ cơng, hoạt động có tính chất nghề nghiệp, kinh doanh, xã hội,….
Thứ hai, công chức được nhà nước trả lương từ ngân sách nhà nước;
Thứ ba, công chức phục vụ lợi ích chung của cộng đồng, của người dân trong phạm vi cả nước.
Ngoài ra, tuỳ từng quốc gia mà có thêm các đặc điểm khác để nhận diện đối tượng công chức như: nơi làm việc (Pakistan), biên chế (Trung Quốc).
Ở Việt Nam, theo khoản 2 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức năm 2019, công chức được định nghĩa như
<i>sau: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.”</i><small>11</small>
Như vậy, khi xem xét khái niệm về khái niệm công chức của từng quốc gia nêu trên, có thể thấy được sự khác biệt đối với Việt Nam. Pakistan định nghĩa công chức dựa trên vị trí việc làm. Định nghĩa cơng chức của Trung Quốc cũng dựa trên tính chất cơng việc và chế độ. Nhật Bản định nghĩa công chức dựa trên tính chất cơng việc: phục vụ cộng đồng. So với các quốc gia khác, ở Việt Nam khái niệm về công chức được quy định chi tiết hơn, với nhiều đặc điểm nhận dạng hơn. Dù vậy, khái niệm công chức theo pháp luật Việt Nam hiện hành vẫn có những đặc điểm tiệm cận với quy định về công chức trong pháp luật của các quốc gia khác như: trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Bên cạnh những điểm giống nhau về khái niệm công chức giữa Việt Nam và các quốc gia nêu trên, ở Việt Nam khái niệm cơng chức cịn một số đặc điểm khác biệt. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về điều kiện gắn liền với nhân thân là yếu tố quốc tịch. Để trở thành đối tượng công chức theo pháp luật Việt Nam thì điều kiện tiên quyết là cá nhân phải có quốc tịch Việt Nam và chỉ có duy nhất một quốc tịch. Đồng thời cá nhân này phải cư trú trên lãnh thổ Việt Nam ở dạng thường trú. Người hai hay nhiều quốc tịch hoặc người không quốc tịch không thể trở thành công chức theo pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, về nơi làm việc. Pháp luật Việt Nam định nghĩa công chức dựa trên yếu tố nơi làm việc. Yếu tố này có thể dùng để phân biệt với một số đối tượng khác như: viên chức (làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập) hoặc người lao động (làm việc
<i>trong tổ chức kinh tế là chủ yếu). Theo đó, nơi làm việc của công chức là: trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, cơng nhân quốc phịng, trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan”<small>12</small></i>. Sự khác biệt này xuất phát từ hệ thống chính trị ở nước ta. Hệ thống chính trị của nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội<small>13</small>. Các thành tố trong hệ thống chính trị ở Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với nhau vì lịch sử hình thành gắn với các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc: Đảng thành lập các tổ chức chính trị - xã hội nên các tổ chức này gắn bó, mật thiết với Đảng và Nhà nước. Nhà nước là hình thức tổ chức quyền lực của Nhân dân do Đảng lập ra và các tổ chức chính trị - xã hội do Đảng sáng lập có nhiệm vụ chính trị là tổ chức, tập hợp, đồn kết quần chúng, đại diện ý chí và nguyện vọng của quần chúng. Do đó, hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống mang tính thống nhất và tập trung quyền lực, xuất phát từ nguồn gốc quyền lực của nhân dân ủy quyền cho Đảng, Nhà nước để thực hiện mục đích chung. Cơng chức được tuyển chọn thơng qua hình thức tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm sử dụng quyền lực của Nhà nước, thực hiện các hoạt động công vụ với mục tiêu phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân. Điều đó đáp ứng đủ bản chất, vai trị và nhiệm vụ của cơng chức trong hệ thống chính trị nước ta là duy trì trật tự, kỷ cương Nhà nước và bảo vệ lợi ích của quần chúng lao động. Đội ngũ cơng chức có nhiệm vụ tổ chức và thực hiện pháp luật trong cuộc sống, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội
<small> </small>
<small>12 Khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức năm 2019. </small>
<small>13 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Cơng đồn Việt Nam, Hội nơng dân Việt Nam, Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội cựu chiến binh Việt Nam. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">phù hợp với mục tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc quy định nơi làm việc của công chức bao gồm cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị xã hội là hợp lý.
Thứ ba, về phương thức trở thành công chức: công chức được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm. Đây là đặc điểm
<i>giúp phân biệt công chức với cán bộ và viên chức. Theo đó, cán bộ “được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ”<small>14</small> cịn viên chức “được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc”<small>15</small></i>. Đối với cơng chức lãnh đạo quản lý thì con đường hình thành sẽ thông qua phương thức bổ nhiệm; đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo quản lý thì hình thành thơng qua cách thức tuyển dụng (thi tuyển, xét tuyển hoặc xem xét tiếp nhận).
Như vậy, khái niệm cơng chức theo Pháp luật Việt Nam có những điểm tiến bộ hơn pháp luật quốc gia khác khi quy định khá chi tiết, cụ thể, rõ ràng các đặc điểm của đối tượng công chức như về nơi làm việc, về tiêu chuẩn nhân thân và phương thức hình thành. Mặc dù vậy, theo chúng tơi, khái niệm công chức trong pháp luật Việt Nam hiện hành vẫn chưa hồn thiện, cịn thiếu sót khi khơng đưa yếu tố bản chất công việc của công chức hay nói cách khác là đặc điểm về chế độ cơng vụ của công chức vào trong khái niệm. Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng, gắn liền với ý nghĩa tồn tại của đối tượng công chức. Hầu hết các quốc gia trên thế giới khi định nghĩa cơng chức đều có đặc điểm này trong khái niệm. Thế nhưng, ở Việt Nam chỉ có thể nhận biết đặc điểm này thông qua quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, các quyền và nghĩa vụ cụ thể của đối tượng công chức mà không thể hiện trong khái niệm.
Hoạt động công vụ của công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của công chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và các quy định khác có liên quan.<small>16</small> Theo đó, hoạt động cơng vụ có tính tổ chức cao, được tiến hành một cách có hệ thống, thường xuyên theo trật tự do pháp luật quy định trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Công chức nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội, lợi ích nhà nước, lợi ích chính đáng của các tổ chức và cá nhân. Khi công chức thực hiện tốt hoạt động công vụ, đề cao tính trách nhiệm với tinh thần tận tụy, mẫn cán và làm tròn bổn phận sẽ xây dựng được một nền công vụ hiệu lực, hiệu quả. Với ý nghĩa đó, cơng chức phải có trình độ, ý thức được những giá trị cơ bản của công chức trong thực thi cơng vụ, như cần, kiệm, liêm, chính... Từ đó, nhận thức được hoạt động cơng vụ là nền tảng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ
<small> </small>
<small>14 Khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). </small>
<small>15 Điều 2 Luật Viên chức năm 2010. </small>
<small>16 Điều 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">máy nhà nước, bảo đảm việc phục vụ người dân ngày một tốt hơn. Xem xét và đánh giá về tầm quan trọng của hoạt động công vụ trong bộ máy nhà nước, Báo cáo Tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng giai đoạn 2021 - 2030 đã đưa ra những biện pháp nhằm cải cách chế độ công vụ như: Đổi mới cơ chế, nâng cao chất lượng tuyển dụng, sử dụng cơng chức; Hồn thiện quy định về xác định vị trí việc làm của cơng chức;...<small>17</small> Hoạt động công vụ của công chức khác với hoạt động ngồi cơng vụ của viên chức (hoạt động nghề nghiệp của viên chức). Hoạt động nghề nghiệp của viên chức là việc thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ có u cầu về trình độ, năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của Luật Viên chức năm 2010 và các quy định khác của pháp luật có liên quan.<small>18</small> Theo đó, viên chức thực hiện các cơng việc mà mỗi người đã được đào tạo, trang bị, sở hữu kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm trong một lĩnh vực để kiếm sống và phát triển sự nghiệp cá nhân. Với mục tiêu tiến bộ trong sự nghiệp, thúc đẩy sự phát triển cá nhân và chuyên môn của mỗi người, các hoạt động nghề nghiệp có thể được thực hiện trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, hoặc tự làm chủ. Trong khi đó, hoạt động công vụ không chỉ thuần túy là hoạt động của cơng chức nhân danh quyền lực cơng mà cịn được hiểu là các hoạt động trong phạm vi rộng hơn: thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội và bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập.
Từ những phân tích trên, nhóm tác giả cho rằng nên đưa đặc điểm về chế độ công vụ của công chức vào trong khái niệm bởi nó gắn liền với ý nghĩa tồn tại của đối tượng công chức cũng như nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động công vụ của công chức trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, khái niệm cơng chức hồn thiện theo quan điểm của nhóm tác giả như sau:
<i><b> “Công chức là công dân Việt Nam thực hiện hoạt động công vụ theo quy định </b></i>
<i><b>của Luật này và các quy định khác có liên quan, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, </b></i>
chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, qn nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong
<i><b>biên chế, và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21"><i>1.1.2. Khái niệm tham nhũng </i>
<i>“Tham nhũng - Corruption” là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở đại đa số </i>
các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tham nhũng đã và đang là một hiện tượng kinh tế - xã hội có tính đa chiều, phức tạp và là một vấn đề nhức nhối gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước.
Ngân hàng Thế giới (WB - World Bank) đã đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về
<i>tham nhũng: “Tham nhũng là hành vi lạm dụng chức vụ công để tư lợi.”</i><small>19</small> (the abuse of public office for private gain). Tổ chức Minh bạch Quốc tế (IT - International Transparency) - một tổ chức phi chính phủ quốc tế hàng đầu hoạt động trong lĩnh vực
<i>chống tham nhũng cho rằng: “Tham nhũng bao gồm những hành vi từ phía các quan chức nhà nước, là chính trị gia hay cơng chức nhằm làm giàu cho bản thân mình hay những người thân cận một cách bất chính và phi pháp, bằng cách lạm dụng quyền lực mà họ được giao”<small>20</small></i>. Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB - Asian Development Bank)
<i>cho rằng: “Tham nhũng là những hành vi của các công chức trong khu vực nhà nước hay tư nhân nhằm làm giàu cho bản thân mình và cho những người thân một cách bất chính và phi pháp, hoặc xúi giục người khác làm việc này, bằng cách lạm dụng chức vụ mà họ được giao.”<small>21</small></i>
Tham nhũng tồn tại vô số các tác hại trải rộng ở mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,… và ở tất cả các cấp, các ngành. Việt Nam đã tham gia hai Công ước quốc tế là Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm xuyên quốc gia (CTOC - Convention against Transnational Organized Crime) và Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC - United Nations Convention against Corruption) để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm tham nhũng. Quan điểm của hai Công ước trên về tham nhũng như sau:
Công ước CTOC không đưa ra khái niệm về tham nhũng mà chỉ quy định nghĩa vụ tội phạm hóa các hành vi tham nhũng gồm hành vi đưa hối lộ và nhận hối lộ tại Điều 8 của Công ước<small>22</small>. Tương tự Công ước CTOC, Công ước UNCAC không đưa ra một khái niệm cụ thể về tham nhũng mà chỉ đưa ra các hành vi được cho là tham nhũng từ Điều 15 đến Điều 22 bao gồm: hối lộ, tham ô, biển thủ hoặc các dạng chiếm đoạt tài sản
<small> </small>
<small>19 World Bank (1997), “Helping Countries Combat Corruption: The Role of the World Bank”, tr. 8. </small>
<small>20 Transparency International (1996), “The TI Sourcebook”, tr. 1. </small>
<small>21 Asian Development Bank (1998), “Anticorruption Policy”, tr. 9. </small>
<small>22</small><i><small> Convention against Transnational Organized Crime, opened for signature 12-15 December 2000 ,CTOC, </small></i>
<small>(entered into force 29 September 2003). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">của công chức, lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi; lạm dụng chức vụ; hối lộ trong lĩnh vực tư; biển thủ tài sản trong lĩnh vực tư<small>23</small>.
Định nghĩa về tham nhũng theo quy định của pháp luật Việt Nam có những điểm tương đồng với một số định nghĩa về tham nhũng của các tổ chức quốc tế trên thế giới.
<i>Theo khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.”<small>24</small></i> So sánh với Luật Phịng, chống tham nhũng năm 2005 thì Luật này chỉ dừng lại ở việc quy định các hành vi tham nhũng trong khu vực cơng. Luật Phịng, chống tham nhũng năm 2018 đã mở rộng chủ thể của hành vi tham nhũng, không chỉ trong khu vực công mà có
<i>cả trong khu vực tư tại khoản 2 Điều 2: “Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngồi nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước…”</i><small>25</small> Tại thời điểm Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 được ban hành, Việt Nam đã là thành viên của Cơng ước CTOC nên các quy định của Luật Phịng, chống tham nhũng năm 2005 có điểm giống với Cơng ước CTOC là hành vi tham nhũng chỉ bao gồm trong khu vực cơng. Đến năm 2009, Việt Nam chính thức gia nhập Công ước UNCAC và năm 2018 Việt Nam thơng qua Luật Phịng, chống tham nhũng cùng các quy định tiến bộ hơn, phù hợp với các định nghĩa về tham nhũng trên thế giới, đặc biệt là hai quan điểm về tham nhũng của hai Công ước UNCAC và CTOC.
Với khái niệm tham nhũng này thì cơng chức có thể là chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng. Vì đối tượng cơng chức là người có chức vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật để thực hiện cơng vụ do đó họ có khả năng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi cá nhân.
<i>1.1.3. Khái niệm quy trình xử lý kỷ luật </i>
<i>Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quy trình là trình tự phải tn theo để tiến hành một cơng việc nào đó”<small>26</small></i>
Từ điển Tiếng Việt đưa ra hai cách hiểu về khái niệm kỷ luật như sau:
Một là, kỷ luật là tổng thể nói chung những điều quy định có tính chất bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong một tổ chức, để đảm bảo tính chặt chẽ của tổ chức.
Hai là, kỷ luật là hình thức phạt đối với người vi phạm kỷ luật.<small>27 </small>
<small>23</small><i><small> United Nations Convention against Corruption, opened for signature 9 December 2003, UNCAC, (entered </small></i>
<small>into force 14 December 2005). </small>
<small>24 Khoản 1 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018. </small>
<small>25 Khoản 2 Điều 2 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018. </small>
<small>26</small><i><small> Viện ngơn ngữ học, Hồng Phê và các tác giả khác (2021), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, tr. 1029. </small></i>
<small>27</small><i><small> Viện ngơn ngữ học, Hồng Phê và các tác giả khác (2021), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, tr. 656. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Kỷ luật dưới góc độ chung nhất là tổng thể các quy định nhằm đảm bảo trật tự, nề nếp hoạt động nội bộ của mọi cơ quan, tổ chức của Nhà nước và của xã hội nói chung, cũng như sự tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định đó.<small>28</small> Vi phạm kỷ luật là hành vi của công chức, viên chức xâm phạm các quy định liên quan đến kỷ luật cơ quan, đơn vị. Mối liên hệ về mặt nhân sự hình thành giữa chủ thể có thẩm quyền xử lý kỷ luật và công chức khi công chức thực hiện hành vi vi phạm kỷ luật.
Như vậy, có thể hiểu, kỷ luật là những nguyên tắc được luật hóa thành những quy định mang tính pháp lý, đòi hỏi các chủ thể phải tuân theo và nếu có chủ thể vi phạm kỷ luật thì chủ thể đó sẽ nhận chế tài tương xứng.
Xử lý kỷ luật là việc người có thẩm quyền áp dụng hình thức xử lý kỷ luật tương ứng với từng loại chủ thể có hành vi vi phạm mà theo quy định phải bị xử lý kỷ luật. Việc ban hành quyết định kỷ luật áp dụng hình thức kỷ luật là kết quả cuối cùng của quy trình xử lý kỷ luật. Để áp dụng hình thức xử lý kỷ luật tương xứng với hành vi vi phạm kỷ luật của cơng chức thì cần phải tiến hành các bước cụ thể từ giai đoạn như sau: thông báo xử lý kỷ luật; xác định hành vi vi phạm; xác định mức độ vi phạm; tổ chức họp kiểm điểm; thành lập Hội đồng kỷ luật; triệu tập chủ thể có hành vi vi phạm kỷ luật; tiến hành tổ chức họp Hội đồng xử lý kỷ luật và cuối cùng là ban hành quyết định xử lý kỷ luật.
Ở góc độ pháp lý, quy trình xử lý kỷ luật được hiểu là trình tự các hoạt động phải tuân theo của người có thẩm quyền để áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật tương xứng với từng loại chủ thể có hành vi vi phạm kỷ luật trong một tổ chức, đơn vị nhằm đảm bảo nề nếp, trật tự cho cơ quan, tổ chức đó. Căn cứ để tiến hành quy trình xử lý kỷ luật là phải có thơng báo xử lý kỷ luật. Việc xử lý kỷ luật phải được tiến hành từng các bước bằng quy trình cụ thể. Xử lý kỷ luật có tính nội dung, quy trình xử lý kỷ luật là sự thể hiện về mặt hình thức thực hiện của việc xử lý kỷ luật.
Tóm lại, có thể hiểu khái niệm về quy trình xử lý kỷ luật là các trình tự mà người có thẩm quyền phải tuân theo để xem xét và giải quyết vi phạm kỷ luật của các chủ thể mà theo quy định phải bị xử lý kỷ luật.
<i>1.1.4. Khái niệm quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng </i>
Từ những khái niệm được nêu ở trên, có thể kết luận quy trình xử lý kỷ luật đối với cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng như sau: Quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng là trình tự thủ tục được pháp luật quy định chặt chẽ mà người có thẩm quyền phải tuân theo khi xử lý kỷ luật đối với công chức thực <small> </small>
<small>28</small><i><small> Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nguyễn Cửu Việt và các tác giả khác (2010), Giáo trình Luật Hành </small></i>
<i><small>chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 293-294. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">hiện hành vi tham nhũng, được thể hiện từ bước đầu tiên là thông báo xử lý kỷ luật đến bước cuối cùng là ban hành quyết định xử lý kỷ luật.
Việc xử lý kỷ luật công chức thực hiện hành vi tham nhũng phải được thực hiện một cách chính xác, nghiêm minh, cơng bằng để mang lại hiệu quả, thành công trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Việc quy định khái niệm quy trình xử lý kỷ luật đối với cơng chức chỉ có ý nghĩa luận giải, làm rõ việc xác định nội hàm của khái niệm, từ đó làm cơ sở để triển khai, phân tích các bước của quy trình xử lý kỷ luật công chức thực hiện hành vi tham nhũng. Do đó, pháp luật khơng cần thiết quy định khái niệm mà chỉ cần quy định nội dung của quy trình tạo cơ sở để tiến hành hoạt động xử lý kỷ luật dễ dàng hơn.
<i><b>1.2. Đặc điểm của xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng </b></i>
<i>1.2.1. Đặc điểm chung </i>
Vì xử lý kỷ luật đối với cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng được tiến hành theo quy trình chung, tương tự với quy trình xử lý kỷ luật đối với hành vi khác nên quy trình xử lý kỷ luật trong trường hợp này cũng thể hiện các đặc điểm tương tự với xử lý kỷ luật cơng chức nói chung. Bao gồm các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng được pháp luật quy định chặt chẽ, tương đối chi tiết. Hành vi tham nhũng là một trong những vấn đề nghiêm trọng đang được xã hội quan tâm. Đặc biệt, đối với công chức, hành vi tham nhũng được coi là “một tội ác” và dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển của đất nước. Phòng, chống tham nhũng là “cuộc chiến” mà Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đấu tranh nhằm loại bỏ. Do đây là hoạt động áp dụng quyền lực nhà nước đối với hành vi vi phạm của công chức cho nên thủ tục xem xét kỷ luật đối với công chức cần phải được quy định một cách chặt chẽ. Đầu tiên, khi phát hiện công chức thực hiện hành vi tham nhũng, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ. Sau đó, sẽ xử lý hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo nguyên tắc:
<i>Một là, người có hành vi tham nhũng giữ bất kỳ chức vụ, vị trí cơng tác nào đều phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, kể cả người đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển cơng tác</i><small>29</small><i>. Hai là, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, người có hành vi tham nhũng phải bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật</i><small>30</small><i>. Ba là, trường hợp người có hành vi tham nhũng bị xử lý kỷ luật là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, </i>
<small> </small>
<small>29 Khoản 1 Điều 92 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018. </small>
<small>30 Khoản 2 Điều 92 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><i>đơn vị thì bị xem xét tăng hình thức kỷ luật</i><small>31</small><i>. Bốn là, người có hành vi tham nhũng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, tự giác nộp lại tài sản tham nhũng, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng thì được xem xét giảm hình thức kỷ luật, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật</i><small>32</small>.
Thứ hai, các bước trong quy trình xử lý kỷ luật thuộc về những chủ thể có thẩm quyền nhất định. Điều này làm cho việc xử lý kỷ luật cơng chức mang tính thống nhất, không mâu thuẫn với các quy định của luật khác, đồng thời hạn chế sự chồng chéo về thẩm quyền xử lý. Việc xử lý kỷ luật đối với công chức được thực hiện theo các bước<small>33</small>: Một là, tổ chức họp kiểm điểm. Đây là bước đầu tiên đi vào xử lý kỷ luật chính thức đối với cơng chức vi phạm. Theo đó, đối với cơng chức khơng giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo, hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị thì thẩm quyền tiến hành tổ chức họp kiểm điểm thuộc về người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng cơng chức đó. Thứ hai, đối với cơng chức bị kiểm điểm là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu thì lãnh đạo cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan sử dụng cơng chức có trách nhiệm họp kiểm điểm và quyết định thành phần dự họp. Thẩm quyền tổ chức họp kiểm điểm và trình tự họp kiểm điểm được quy định cụ thể tại Điều 26 Nghị định 112/NĐ-CP.
Hai là, thành lập Hội đồng kỷ luật. Chậm nhất 5 ngày làm việc kể từ ngày kể từ khi nhận được báo cáo và biên bản cuộc họp kiểm điểm, cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật quyết định thành lập Hội đồng kỷ luật để tư vấn về việc áp dụng hình thức kỷ luật đối với cơng chức có hành vi vi phạm, trừ trường hợp không thành lập Hội đồng kỷ luật theo khoản 3 Điều 27 Nghị định 112/NĐ-CP. Việc thành lập Hội đồng kỷ luật cũng phải tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại khoản 2 Điều này.
Ba là, cấp có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật. Cụ thể, theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP thì thẩm quyền xử lý kỷ luật công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý sẽ thuộc về người đứng đầu cơ quan quản lý hoặc người đứng đầu cơ quan được phân cấp quản lý cơng chức đó<small>34</small>. Điều này là phù hợp với quy định về nghĩa vụ của công chức là người đứng đầu theo khoản 4 Điều 10 Luật cán bộ,
<i>công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) cụ thể như sau: xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân. Đối với công chức </i>
<small> </small>
<small>31 Khoản 3 Điều 92 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018. </small>
<small>32 Khoản 4 Điều 92 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018. </small>
<small>33 Điều 25 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP. </small>
<small>34 Khoản 2 Điều 24 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><i>giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thì thẩm quyền xử lý kỷ luật sẽ thuộc về người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm cơng chức đó</i><small>35</small>. Quy định này đảm bảo được tính khách quan, cơng bằng trong việc xử lý kỷ luật công chức là người đứng đầu bởi lẽ công chức là người đứng đầu không thể
<i>tự xử lý kỷ luật mình mà cần có một chủ thể khác đứng ra làm việc này. Ngồi ra thì đối với công chức biệt phái, người đứng đầu cơ quan nơi công chức được cử đến biệt phái tiến hành xử lý kỷ luật, quyết định hình thức kỷ luật và gửi hồ sơ, quyết định kỷ luật về cơ quan quản lý công chức biệt phái</i><small>36</small>. Theo Điều 53 Luật Cán bộ, công chức năm 2008
<i>(sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì cơng chức được cử biệt phái vẫn thuộc biên chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị cử biệt phái nên việc xử lý kỷ luật công chức này vẫn thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức, đơn vị cử biệt phái. Do đó, hồ sơ, quyết định kỷ luật công </i>
chức biệt phái phải được gửi về cơ quan quản lý công chức biệt phái.
Thứ ba, kết quả của quy trình xử lý kỷ luật được thể hiện bằng văn bản là quyết định xử lý kỷ luật.
Theo quy định hiện nay, các hậu quả pháp lý bất lợi được thể hiện bằng nhiều hình thức xử lý kỷ luật khác nhau, cụ thể như: Khiển trách; Cảnh cáo; Hạ bậc lương; Giáng chức; Cách chức; Buộc thôi việc. Tuy nhiên, đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo thì hình thức kỷ luật cao nhất là buộc thơi việc, hình thức kỷ luật giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo<small>37</small>. Việc ra quyết định bằng văn bản có chức năng kiểm sốt, quản lý các cơng chức trong đơn vị của mình. Cụ thể trong quyết định kỷ luật phải ghi rõ thời điểm có hiệu lực thi hành<small>38</small>. Điều này thật sự cần thiết trong việc xác định được thời điểm quyết định có hiệu lực và giúp cho cơng tác thực thi hình thức kỷ luật được chính xác. Quyết định xử lý kỷ luật cơng chức có tính chất pháp lý, là căn cứ để các cơ quan, tổ chức tiếp tục thực hiện quản lý công chức và sử dụng nhân lực đối với những trường hợp vi phạm do các tài liệu liên quan đến việc xử lý kỷ luật và quyết định kỷ luật phải được lưu giữ trong hồ sơ công chức. Hình thức kỷ luật phải ghi vào lý lịch của cơng chức<small>39</small>. Ngồi ra việc ra quyết định bằng văn bản cũng thể hiện được nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước.
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><i>xử lý hình sự. </i>
Theo đó, vi phạm kỷ luật là vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ, đạo đức và văn hóa giao tiếp của công chức trong thi hành công vụ, vi phạm những việc công chức phải làm hoặc không được làm và vi phạm pháp luật bị Tịa án tun là có tội hoặc bị cơ quan có thẩm quyền kết luận bằng văn bản về hành vi vi phạm pháp luật, từ đó áp dụng quy trình xử lý kỷ luật công chức theo quy định tại Điều 25 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP. Cịn đối với cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng có thể là vi phạm quy định của pháp luật về Phòng, chống tham nhũng liên quan đến công chức nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do xuất phát từ những loại vi phạm khác nhau nên quy trình xử lý kỷ luật cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng có điểm khác tương đối với quy trình xử lý kỷ luật cơng chức bình thường. Để xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng, cần phải có các bằng chứng cụ thể về hành vi tham nhũng của cơng chức đó. Các bằng chứng này có thể là văn bản yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền hoặc <small> </small>
<small>40 Khoản 2 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018. </small>
<small>41 Điều 353 - 359 Bộ Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">qua xác minh, thanh tra, kiểm tra căn cứ theo khoản 2 Điều 43 Nghị định số CP. Các bằng chứng này sẽ là cơ sở để xác định xem cơng chức đó đã thực hiện hành vi tham nhũng hay chưa. Ngoài ra, để thực hiện quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng, pháp luật đã có quy định rõ ràng về các hình thức kỷ luật. Quy định rõ ràng về các hình thức kỷ luật sẽ giúp cho việc xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng được thực hiện một cách công bằng và minh bạch. Trên cơ sở của các bằng chứng cụ thể về hành vi tham nhũng và các quy định về các hình thức kỷ luật, quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng có thể được thực hiện một cách hiệu quả. Việc thực hiện quy trình này sẽ giúp đảm bảo sự trung thực, minh bạch và công bằng trong công tác quản lý và xử lý hành vi tham nhũng. Vì vậy, để thực hiện quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng, cần phải có cơ sở về hành vi tham nhũng trên thực tế. Các bằng chứng cụ thể, quy định rõ ràng về các hình thức kỷ luật sẽ giúp cho việc thực hiện quy trình này được đảm bảo đúng mực và hiệu quả.
<b>59/2019/NĐ-Thứ hai, quy trình xử lý kỷ luật công chức thực hiện hành vi tham nhũng thường được thực hiện sau khi kết thúc quy trình tố tụng. </b>
Trên thực tế, hành vi tham nhũng khi bị phát hiện thường ở mức độ nghiêm trọng nên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự rồi sau đó mới tiến hành xử lý kỷ luật. Cụ thể, các trường hợp tham nhũng bị phát hiện thường vượt qua khỏi ngưỡng xử phạt hành chính và rơi vào khung hình phạt theo Bộ luật Hình sự. Theo đó, Bộ luật hình sự quy định: người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm thực hiện hành vi tham nhũng vi phạm một trong các tội quy định tại Điều 353 đến Điều 359 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước sẽ khiến việc xem xét xử lý kỷ luật chưa thể tiến hành mà phải tạm ngưng chờ kết luận của cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật quy định công chức bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam chờ kết luận của cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử về hành vi vi phạm pháp luật thì chưa xem xét xử lý kỷ luật<small>42</small>. Sau đó, khi có kết luận của cơ quan tố tụng và bị xác định là có hành vi tham nhũng, thì đơn vị mới bắt đầu xử lý kỷ luật công chức. Như vậy, kết luận của cơ quan tố tụng là điều kiện tiên quyết để có thể xử lý kỷ luật công chức thực hiện hành vi tham nhũng đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì kết quả của cơ quan tiến hành tố tụng ảnh hưởng trực tiếp đến hình thức kỷ luật cơng chức có hành vi tham nhũng. Căn cứ theo khoản 2 Điều 30 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức quy định trường hợp cơng chức bị Tịa án kết án về hành vi tham nhũng, trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật của <small> </small>
<small>42 Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Tịa án, cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Ngược lại, trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng kết luận hành vi tham nhũng chưa cấu thành tội phạm thì người có thẩm quyền xử lý kỷ luật khơng áp dụng hình thức buộc thơi việc mà lựa chọn các hình thức kỷ luật khác cho phù hợp với mức độ của hành vi.
<b>Thứ ba, quy trình xử lý kỷ luật cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng có thể được áp dụng theo quy trình rút gọn. </b>
Thơng thường, cơng chức có hành vi vi phạm các quy định về nghĩa vụ; những việc công chức không được làm; nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; vi phạm đạo đức, lối sống hoặc vi phạm pháp luật khác khi thi hành cơng vụ thì bị xem xét xử lý kỷ luật. Quy trình xử lý kỷ luật sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 25 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP gồm 3 bước: Tổ chức họp kiểm điểm, thành lập Hội đồng kỷ luật và cấp có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật. Tuy nhiên, trường hợp cơng chức bị Tịa án kết án về hành vi tham nhũng thì khơng thực hiện tổ chức họp kiểm điểm và thành lập Hội đồng kỷ luật như quy trình xử lý kỷ luật đối với hành vi khác. Do đã có bản án của Tồ nên cơng chức có hành vi tham nhũng sẽ đương nhiên bị buộc thôi việc trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật của Tịa án<small>43</small>, vì thế không cần phải tổ chức họp kiểm điểm và thành lập Hội đồng xét xử kỷ luật công chức. Với quy trình này thì quy trình xử lý kỷ luật cơng chức có hành vi tham nhũng sẽ nhanh gọn hơn, thời gian ngắn hơn so với quy trình xử lý kỷ luật đối với một số vi phạm kỷ luật khác.
<b>2. Vai trò, ý nghĩa của quy trình xử lý kỷ luật đối với cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng </b>
Việc xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với cơng chức có hành vi tham nhũng không những mang lại ý nghĩa to lớn đối với Nhà nước, xã hội nói chung mà cịn đối với cơng chức có hành vi vi phạm nói riêng.
<i><b>2.1. Đối với công chức </b></i>
Việc xử lý kỷ luật đối với cơng chức có hành vi tham nhũng theo quy trình cụ thể khơng chỉ có ý nghĩa đối với Nhà nước, xã hội mà cịn có ý nghĩa đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng nói riêng và cơng chức nói chung.
Thứ nhất, xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng có ý nghĩa giáo dục và ý thức tuân thủ pháp luật. Về mặt giáo dục, Hồ Chí Minh ln coi trọng việc giáo dục tư tưởng, đạo đức đối với đội ngũ cán bộ, công chức và cho đến thời điểm hiện tại, công tác giáo dục tư tưởng này vẫn luôn được Đảng và nhà nước quan
<small> </small>
<small>43 Khoản 2 Điều 30 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">tâm. Chỉ có giáo dục về mặt đạo đức mới là “chất đề kháng” hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng đối với hàng ngũ cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công chức là người thực hiện chức năng kép, vừa là người thừa hành quyền lực ủy thác của nhân dân vừa là những “công dân tốt”, “công dân đứng đắn”, “công dân kiểu mẫu”, thế nên việc xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm góp phần giáo dục về mặt nhận thức cho đội ngũ này. Pháp luật là những quy định được xây dựng trên nền tảng lý luận và thực tiễn đời sống. Do đó, pháp luật càng gần gũi với đời sống sẽ càng tăng tính hiệu quả khi được áp dụng. Cơng chức sẽ xây dựng cho mình những nhận thức và những chuẩn mực hành vi không trái với quy định của pháp luật. Công chức đang công tác sẽ nhận thức được tính nghiêm trọng, tính nguy hiểm cho xã hội của việc tham ơ, quan liêu thì sẽ tránh được tình trạng nhũng nhiễu theo “hiệu ứng domino”<small>44 </small>và đồng thời cũng nhận thức được khi thực hiện hành vi vi phạm về phịng, chống tham nhũng thì phải gánh chịu hậu quả bất lợi là điều tất yếu. Việc này giúp cơng chức có trách nhiệm hơn với nhiệm vụ, chức vụ mà mình được giao và nắm giữ. Qua đó, việc xử lý kỷ luật cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng góp phần nâng cao chất lượng của Đảng và Nhà nước trong công tác giáo dục và xây dựng pháp luật, đồng thời góp phần tăng tính hiệu quả trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng.
Thứ hai, xử lý kỷ luật công chức thực hiện hành vi tham nhũng là sự trừng phạt của Nhà nước đối với hành vi trái pháp luật. Bên cạnh việc mang lại ý nghĩa trong việc uốn nắn nhận thức, tư tưởng của đội ngũ công chức, việc xử lý những công chức vi phạm theo quy định của pháp luật cịn mang tính răn đe, trừng phạt. Đối với công chức đạt các thành tựu, có cơng trong hoạt động phục vụ nhân dân thì việc khen thưởng được đặt ra để động viên, khuyến khích. Tuy nhiên, cơng chức vi phạm pháp luật nói chung và cơng chức thực hiện hành vi tham nhũng nói riêng thì việc xử lý kỷ luật càng được đặt ra để trừng phạt. Tùy vào từng hành vi và mức độ nguy hiểm của hành vi đó sẽ có các hình thức xử lý kỷ luật cụ thể. Các chế tài được đặt ra cho những người đang thực hiện công vụ, phục vụ đại đa số nhân dân nhưng lại có hành vi đi lệch với chuẩn mực đạo đức, khơng làm tốt vai trị, chức trách của mình, gây nhũng nhiễu trong bộ máy Nhà nước thì pháp luật buộc những chủ thể vi phạm pháp luật phải trả giá cho những hành vi của họ.
Thứ ba, xử lý kỷ luật công chức có ý nghĩa nâng cao trách nhiệm của cơng chức trong hoạt động cơng vụ và phịng ngừa việc tái phạm của cơng chức và tồn bộ đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức nói chung. Ngồi ra, việc xử lý các hành vi sai phạm một <small> </small>
<small>44Hiệu ứng domino là một phản ứng chuỗi xảy ra khi một thay đổi nhỏ tại điểm gốc của hệ có thể gây ra những thay đổi tương tự tại các điểm lân cận, từ đó lan tỏa ra các điểm xa hơn và tạo ra một chuỗi thay đổi tuyến tính. Hiệu ứng này thường được sử dụng trong trò chơi xếp quân domino, nó cũng được biết tới thơng qua thuyết domino, học thuyết chính trị hay được đề cập trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">tính khoa học cịn là tấm gương để tập thể cơng chức noi theo, họ biết điều gì nên làm và điều gì khơng nên làm phịng ngừa được tình trạng nhũng nhiễu trải dài trong bộ máy Nhà nước.
<i><b>2.2. Đối với Nhà nước </b></i>
Ngoài việc mang lại ý nghĩa đối với cơng chức như trên, quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng cịn có ý nghĩa quan trọng đối với nhà nước.
Thứ nhất, quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc, rõ ràng cho cơ quan, người có thẩm quyền xử lý công chức thực hiện hành vi tham nhũng trên thực tế. Giữ vai trò nâng cao định hướng cho chủ thể có thẩm quyền xử lý kỷ luật. Thẩm quyền xử lý kỷ luật được quy định theo Nghị định số 112/NĐ-CP một cách tường minh. Vì vậy, việc am hiểu quy định của pháp luật về thủ tục xử lý kỷ luật đối với công chức sẽ là một lợi thế lớn của chủ thể có thẩm quyền xử lý kỷ luật. Dựa trên căn cứ pháp lý do luật định, người có thẩm quyền xử lý kỷ luật sẽ dễ dàng hơn trong việc xác định phạm vi xử lý của mình, tránh tình trạng các chủ thể này lạm quyền gây ra nhũng nhiễu, chồng chéo trong công tác xử lý kỷ luật và kéo dài thời gian xử lý kỷ luật. Việc xác định chính xác thẩm quyền, phạm vi xử lý kỷ luật đội ngũ cơng chức đúng với quy trình khoa học pháp lý cịn thể hiện tính nghiêm khắc của pháp luật Việt Nam đối với hành vi nói trên. Bởi lẽ các cơ quan, người có thẩm quyền xử lý phải là người chịu trách nhiệm chính cho quyết định đã cơng bố. Vì vậy, nếu việc xử được thụ lý khơng đúng thẩm quyền, cơ quan sẽ dẫn đến tình trạng xảy ra nhiều sai phạm khác nhau và ảnh hưởng diện rộng đến cả quá trình xử lý kỷ luật.
Thứ hai, xử lý nhanh và triệt để đối với những cơng chức vi phạm cịn là chủ trương luôn được quan tâm hàng đầu. Trước khi trở thành Tân chủ tịch nước, ông Võ Văn Thưởng đã đề nghị Ban Nội chính Trung ương đơn đốc nâng cao hiệu quả của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tiêu cực tỉnh; phối hợp với cơ quan chức năng xử lý nghiêm các vụ án tham nhũng với tinh thần “khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và khơng chịu sức ép của bất cứ tổ chức, cá nhân nào”. Có thể thấy việc xử lý những vi phạm trên là thực sự cấp thiết. Nhìn vào thực tế, có thể thấy rằng vụ án liên quan đến Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao hiện nay đang trì trệ trong cơng tác điều tra, xử lý đã dẫn đến tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp vẫn đang kéo dài. Do đó, trình tự này cần phải được đẩy nhanh, xử lý tức khắc khi có sai phạm xảy ra, bởi hơn hết, trình tự này mang tính cấp bách trong việc bình ổn trật tự nội bộ cơ quan và đẩy mạnh công tác ngăn chặn tình trạng vi phạm tái xảy ra.
Thứ ba, xử lý công chức vi phạm là chế tài công khai của Nhà nước đối với đội ngũ cốt cán trong bộ máy nhà nước. Quy trình này là bước tiến để nâng cao hiệu quả
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">hoạt động của cơ quan, đơn vị, bởi lẽ việc xử lý kỷ luật giúp nâng cao tinh thần và trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ. Chế tài dành riêng cho những công chức vi phạm vơ cùng nghiêm khắc và hệ quả kèm theo đó cũng vô cùng nặng nề, cụ thể, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với những hình thức tham nhũng được dẫn chiếu tại Điều 353 đến Điều 359 Bộ Luật hình sự năm 2015 là vơ cùng khắc nghiệt. Vơ hình chung, những chế tài này trở thành áp lực từ công lý đối với đội ngũ cơng chức, từ đó họ thận trọng hơn trong cách ứng xử cũng như trách nhiệm hơn đối với quyền hạn mà mình đang nắm giữ. Từ quá trình tâm lý đó, việc xử lý vi phạm theo đúng quy trình chính là phương tiện thúc đẩy sự tăng lên về uy tín của cơ quan, đơn vị đối với nhân dân.
<i><b>2.3. Đối với xã hội </b></i>
Thứ nhất, xử lý kỷ luật đối với cơng chức có vi phạm làm trong sạch xã hội, góp phần hướng đến một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ và phát triển bền vững hơn.
<i>Sinh thời, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:“tham ơ, lãng phí, quan liêu là một thứ giặc ở trong lòng”. Ngày nay, thực trạng nhũng nhiễu của cán bộ, công chức gây ảnh hưởng nặng nề </i>
đến nền kinh tế đa thành phần của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: làm suy thoái tiềm lực của nền kinh tế, làm mất đi tính cạnh tranh giữa các vùng miền,... dẫn đến việc xã hội Việt Nam ngày càng xuống dốc và lụn bại. Chính vì những nguy cơ xã hội trên, việc xử lý nghiêm minh những trường hợp cơng chức có hành vi tham ô, quan liêu phải là sự trừng phạt của luật pháp, thay mặt cho Nhân dân trừng trị những kẻ đánh mất bản chất “cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư” của một người cán bộ, cơng chức. Quy trình xử lý kỷ luật phải được thực hiện, giám sát kỹ lưỡng bởi đây là quá trình giáo dục lại nhân phẩm, tư cách, đạo đức và hơn hết cịn góp phần kiến tạo một xã hội quan trường liêm chính, trung trực.
Thứ hai, xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng giúp tạo niềm tin đối với Nhân dân. Mọi hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích chính đáng của Nhân dân cần được xử lý nghiêm minh, triệt để. Người dân tin tưởng vào Nhà nước, vào đội ngũ công chức do mình trao quyền thực hiện cơng việc quản lý. Việc xây dựng đội ngũ công chức trong sạch, có năng lực là mục tiêu quan trọng trong việc hồn thiện thể chế cơng vụ. Hiện nay, tình trạng tham nhũng ngày càng trở nên phức tạp bởi đối tượng vi phạm ln biến hóa cách thức thực hành hành vi một cách tinh vi vì vậy quy định về việc xử lý kỷ luật đối với công chức có hành vi tham nhũng nói chung và quy trình xử lý nói riêng cần được tăng cường và hồn thiện. Hồ Chí Minh rất đề cao vai trị của việc
<i>xử lý kỷ luật:“Những cán bộ có ưu điểm thì phải khen thưởng, những người làm trái kỷ luật thì phải phạt”. Có thể thấy rằng, quan điểm của Người về việc thưởng, phạt là rất </i>
nghiêm minh. Đối với những cơng chức có cơng lao thì việc khen thưởng là cần thiết.
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Tuy vậy, đối với những chủ thể vi phạm thì khơng thể không đặt ra các chế tài xử phạt. Việc áp dụng chế tài xử phạt đối với công chức đồng nghĩa với việc áp dụng các hậu quả bất lợi đối với những cơng chức vi phạm. Bởi lẽ, hình thức xử lý kỷ luật sẽ được ghi vào hồ sơ công chức cùng với những chế tài khác, gây ảnh hưởng lớn đến con đường công danh của những cơng chức này. Những hình thức kỷ luật được xem là những chế tài thích đáng dành cho những chủ thể có lỗi, là sự trừng trị của Nhà nước đối với những người được xem là “công bộc” của nhân dân nhưng lại khơng hồn thành tốt nhiệm vụ, trách nhiệm của mình. Hơn thế nữa, thể chế cơng vụ khơng thể có được niềm tin tuyệt đối của Nhân dân nếu pháp luật khơng có sự trừng trị thích đáng với những vi phạm của cơng chức. Vì vậy như một cách nhấn mạnh, xử lý kỷ luật cơng chức có hành vi vi phạm làm kiên cố thêm lòng tin của nhân dân đối với đội ngũ cơng chức nói riêng và Nhà nước nói chung.
Thứ ba, dưới góc nhìn thực tế, với châm ngơn “phịng bệnh cịn hơn chữa bệnh” việc thực hiện quy trình xử lý kỷ luật theo chuẩn khoa học pháp lý cịn có tác dụng trong việc phịng ngừa vi phạm pháp luật tái phạm. Hành vi vi phạm của công chức ít nhiều để lại hậu quả nghiêm trọng và khó có thể khắc phục trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy việc bên cạnh việc trừng trị, những chế tài còn đề cao việc phòng ngừa vi phạm. Hơn thế nữa, việc kiểm tra, xem xét, xét xử thực hiện một cách nghiêm minh cịn góp phần tạo lòng tin cho người dân về một đội ngũ cơng chức liêm chính, một nền hành chính trong sạch.
<b>3. Quy định pháp luật về quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức thực hiện hành vi tham nhũng </b>
Công chức thực hiện hành vi tham nhũng khơng chỉ là vi phạm kỷ luật mà cịn có thể xác định là vi phạm hình sự hoặc vi phạm hành chính nên quy trình xử lý kỷ luật được tiến hành theo những cách thức khác nhau tùy vào mức độ của hành vi vi phạm. Có thể phân thành hai quy trình như sau: một là, quy trình xử lý kỷ luật thơng thường; hai là quy trình xử lý kỷ luật rút gọn.
<i><b>3.1. Quy trình xử lý kỷ luật thơng thường </b></i>
Tương tự với các quy trình xử lý kỷ luật nói chung, quy trình xử lý kỷ luật cơng chức áp dụng cho trường hợp thực hiện hành vi tham nhũng nhưng chưa đến mức bị xử lý hình sự gồm các bước sau áp dụng theo Điều 25 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP. Một là, phát hiện hành vi vi phạm và thông báo xử lý kỷ luật; Hai là tổ chức họp kiểm điểm; Ba là thành lập hội đồng xử lý kỷ luật; Bốn là cấp có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật. Mặc dù pháp luật chỉ quy định 3 bước (bao gồm: tổ chức họp kiểm điểm, thành lập Hội đồng xử lý kỷ luật và cấp có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật), tuy nhiên để làm rõ hơn quy trình xử lý kỷ luật xuyên suốt bắt đầu từ giai đoạn phát hiện ra hành vi
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">đến lúc có quyết định xử lý kỷ luật thì nhóm tác giả bổ sung thêm 01 bước đó là: Phát hiện hành vi vi phạm và thông báo xử lý kỷ luật.
<i>3.1.1. Phát hiện hành vi vi phạm và thông báo xử lý kỷ luật </i>
Phát hiện hành vi tham nhũng là việc tìm ra vụ việc tham nhũng và có biện pháp kịp thời để hạn chế thiệt hại xảy ra, đồng thời xác định mức độ trách nhiệm của người có hành vi vi phạm nhằm áp dụng hình thức xử lý thích đáng và nghiêm minh.
Việc phát hiện hành vi vi phạm của công chức không bị giới hạn bởi người thông báo hay thông tin về vi phạm. Điều này thể hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 4 và khoản 1 Điều 5 Luật Phịng, chống tham nhũng năm 2018. Vì vậy, bất kỳ ai phát hiện hành vi vi phạm của cơng chức đều có quyền báo cáo cho cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới sự bảo vệ của pháp luật về Phòng, chống tham nhũng. Quy định này tạo ra một cơ chế kiểm tra, giám sát khá chặt chẽ đối với công chức trong việc thực thi công vụ. Để thực hiện được điều này, Chương III Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã đưa ra ba phương thức cơ bản như sau để phát hiện hành vi tham nhũng, bao gồm: (i) Công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước và tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước; (ii) Hoạt động giám sát và kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; (iii) Phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng.
Theo đó, đối với phương thức công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước và tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước thì thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm thường xuyên tổ chức kiểm tra việc chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình nhằm kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng. Quy định này đặt ra trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức phải chủ động kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức do mình quản lý nhằm kịp thời phát hiện, giám sát, ngăn chặn các dấu hiệu tham nhũng. Đồng thời, người đứng đầu cũng phải thường xuyên đôn đốc các đơn vị trực thuộc kiểm tra người có chức vụ, quyền hạn do mình quản lý. Khi phát hiện có hành vi tham nhũng, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước phải kịp thời xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo cho cơ quan thanh tra, điều tra, viện kiểm sát có thẩm quyền. Bên cạnh đó thì việc tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị được quy định cụ thể tại Ðiều 56 cùng Luật<small>45</small>. Ngồi ra, đối với cơng tác kiểm tra thì được tiến hành theo hai phương <small> </small>
<small>45 Điều 56. Công tác tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị </small>
<small>1. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm chủ động tổ chức kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ của người có chức vụ, quyền hạn do mình quản lý mà thường xuyên, trực tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham nhũng. </small>
<small>2. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc đơn vị trực thuộc kiểm tra người có chức vụ, quyền hạn do mình quản lý trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. </small>
<small>3. Khi phát hiện có hành vi tham nhũng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải kịp thời xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cho cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">thức: thường xuyên và đột xuất. Trong đó, kiểm tra thường xuyên được tiến hành theo
<i>chương trình, kế hoạch và tập trung vào lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng. </i>
Kiểm tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện có dấu hiệu tham nhũng<small>46</small>.
Hình thức phát hiện tham nhũng thứ hai là thơng qua các hoạt động thanh tra, kiểm tốn, điều tra, truy tố, xét xử theo Điều 57, Điều 59 và Điều 60 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Các Cơ quan thanh tra, Kiểm toán Nhà nước, điều tra, Viện Kiểm sát, Tịa án, thơng qua hoạt động thanh tra, kiểm tốn, điều tra, truy tố, xét xử phải xác minh, xử lý hoặc kiến nghị xử lý và thông báo kết quả cho cơ quan, đại biểu đã đề nghị. Đối với Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Ðoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân thông qua hoạt động giám sát, là những người có trách nhiệm phát hiện hành vi tham nhũng, yêu cầu hoặc kiến nghị việc xử lý theo quy định của pháp luật. Những hoạt động này tập trung vào việc kiểm soát và giám sát hoạt động thực hiện nhiệm vụ của cơ quan nhà nước và cán bộ công chức, đồng thời đánh giá việc tuân thủ pháp luật, đặc biệt là các quy định của Nhà nước liên quan đến tài chính cơng và tài sản cơng, lĩnh vực mà thường xuyên gặp nguy cơ tham nhũng.
Hình thức thứ ba là phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng. Theo đó, cá nhân, tổ chức có quyền tố cáo hành vi tham nhũng với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định tại Điều 65 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Trước đó, trong Luật Phịng, chống tham nhũng năm 2018 đã quy định về bảo vệ người phản ảnh, tố cáo tại Điều 67<small>47</small><i>. “Tuy nhiên, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định chủ thể được áp dụng bảo vệ trong phản ánh, báo cáo hành vi tham nhũng chỉ là người phản ánh, báo cáo, khơng bao gồm người thân thích của họ. Điều này chưa thật sự hợp lý<small>48</small></i>”. Thông thường, những người tố cáo hành vi tham nhũng của công chức là nhân viên hoặc cấp dưới của họ. Theo đó, một điểm mới hiện nay trong vấn đề phòng, chống tham nhũng ở nước ta là đã ban hành Thông tư số 145/2020/TT-BCA để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo về hành vi tham nhũng. Người được bảo vệ bao gồm cả người tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí và người thân của người tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí trong đó bao gồm: Vợ, chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người này. Cơ chế này giúp pháp huy được quyền dân chủ trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. <small> </small>
<small>46 Điều 58 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2008 </small>
<small>47 Điều 67. Bảo vệ người phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng </small>
<small>1. Việc bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo. </small>
<small>2. Người phản ánh, báo cáo về hành vi tham nhũng được áp dụng các biện pháp bảo vệ như bảo vệ người tố cáo. </small>
<small>48 Trương Thị Minh Thuỳ (2022), “Phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước theo </small>
<i><small>pháp luật hiện hành và một số vấn đề được đặt ra”, Kỷ yếu hội thảo về “Phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam - </small></i>
<i><small>Những vấn đề pháp lý”, do Khoa Luật Hành chính - Nhà nước Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh tổ chức </small></i>
<small>ngày 14/10/2022 tại Trường Đại học Luật TP.HCM, tr.168 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Tuy nhiên, việc bảo vệ theo quy định tại Thông tư số 145/2020/TT-BCA chỉ áp dụng với đối tượng tố cáo tham nhũng ở trong nước mà không áp dụng với người đang sinh sống, làm việc, học tập tại nước ngồi theo quy định tại Điều 3 của Thơng tư.
Theo quy định của pháp luật về thời hạn xử lý kỷ luật cơng chức sẽ được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm kỷ luật của cơng chức đến khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành quyết định xử lý kỷ luật là khơng q 90 ngày. Trường hợp vụ việc có những tình tiết phức tạp cần có thời gian thanh tra, kiểm tra để xác minh làm rõ thêm thì thời hiệu xử lý kỷ luật có thể kéo dài nhưng khơng q 150 ngày<small>49</small>. Như vậy, có thể thấy việc ra thông báo bằng văn bản xử lý kỷ luật thuộc về người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền trong việc thực hiện cơng vụ của cơng chức do
<i>mình quản lý trực tiếp. </i>
<i>3.1.2. Tổ chức họp kiểm điểm </i>
Nghị định số 112/2020/NĐ-CP quy định về quy trình tổ chức họp kiểm điểm với 4 nội dung: chủ thể tham dự họp kiểm điểm; chủ thể chịu trách nhiệm cho việc tổ chức cuộc họp; trình tự tiến hành của cuộc họp và cuối cùng là báo cáo về cuộc họp kiểm điểm theo quy định của pháp luật. Họp kiểm điểm là cơ hội để công chức bị xử lý kỷ luật có thể giải bày về hành vi tham nhũng của mình. Quy định của pháp luật về vấn đề
<i>này được cụ thể hoá tại Điều 26 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP. </i>
<i>Thứ nhất, về chủ thể chịu trách nhiệm tổ chức cuộc họp kiểm điểm: </i>
Đối với cơng chức có hành vi vi phạm khơng giữ chức vụ là người đứng đầu, người lãnh đạo, quản lý thì cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng cơng chức có trách nhiệm tổ chức cuộc họp kiểm điểm để cơng chức kiểm điểm và nhìn nhận hình thức xử lý kỷ luật. Quá trình tiến hành cuộc họp kiểm điểm được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 26 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP.
Đối với người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu có hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật liên quan đến phịng, chống tham nhũng thì người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan sử dụng công chức chịu trách nhiệm cho việc tổ chức họp kiểm điểm đối với cơng chức có hành vi trên và đồng thời quyết định thành phần tham gia cuộc họp.
<i>Thứ hai, về thành phần tham dự cuộc họp kiểm điểm: </i>
Đối với trường hợp cơ quan sử dụng cơng chức có đơn vị cấu thành thì thành phần tham dự cuộc họp là tồn thể cơng chức của đơn vị đó, ngồi ra cịn có đại diện lãnh đạo, cấp ủy và cơng đồn của cơ quan sử dụng cơng chức có hành vi vi phạm đó. <small> </small>
<small>49 Khoản 3 Điều 5 Nghị định 112/2020/NĐ-CP </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Trường hợp cơ quan sử dụng công chức không được cấu thành bởi bất kỳ đơn vị nào thì thành phần tham dự họp kiểm điểm là tồn bộ công chức của cơ quan nơi công chức đang cơng tác.
Kế thừa từ Nghị định số 34/2011/NĐ-CP thì quy định tại Điều 26 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP đã bổ sung thêm 02 trường hợp đối với quy định về vấn đề thành phần tham dự họp kiểm điểm:
<i>Trường hợp thứ nhất, đối với công chức bị xử lý kỷ luật là người được cử biệt </i>
phái thì thành phần tham dự cuộc họp kiểm điểm bên cạnh tồn thể cơng chức nơi cơng chức bị xử lý đang công tác, đại diện lãnh đạo, cấp ủy và cơng đồn của cơ quan thì buộc phải có sự tham gia của đại diện lãnh đạo của cơ quan cử công chức biệt phái.
Trường hợp thứ hai, trong trường hợp công chức bị xử lý kỷ luật là cơng chức cấp xã thì thành phần tham dự cuộc họp là tồn thể cơng chức của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi công chức công tác, đại diện lãnh đạo chính quyền, cấp ủy, và cuối cùng là đại diện của tổ chức chính trị - xã hội có liên quan.
Thứ ba, việc tổ chức cuộc họp kiểm điểm được tiến hành theo trình tự quy định tại khoản 3 Điều 26 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP. Người chủ trì cuộc họp có trách nhiệm thơng báo, tuyên bố lý do cuộc họp hoặc ủy quyền cho cơ quan tham mưu về công tác tổ chức để thông báo về các nội dung liên quan đến cuộc họp như: q trình cơng tác, thời điểm xảy ra hành vi tham nhũng của công chức, thời điểm phát hiện hành vi vi phạm, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, thời hiệu và thời hạn xử lý kỷ luật, các hình thức xử lý đã ban hành (nếu có). Cơng chức có hành vi vi phạm phải tự viết bản kiểm điểm nêu rõ hành vi sai trái của mình trong đó có tự nhận hình thức kỷ luật. Trường hợp cơng chức có hành vi vi phạm nhưng khơng trình bày bản kiểm điểm và vắng mặt sau 02 lần được triệu tập thì cuộc họp kiểm điểm vẫn được diễn ra bình thường. Sau khi tiếp nhận ý kiến của các thành viên tham dự cuộc họp kiểm điểm thì người chủ trì có quyền kết thúc cuộc họp và tất cả những gì diễn ra trong suốt cuộc họp phải được lập thành biên bản.
Thứ tư, Biên bản cuộc họp phải tường minh, thể hiện rõ ràng các nội dung: kiến nghị việc xử lý kỷ luật hoặc kiến nghị về hình thức xử lý kỷ luật và trình tự thực hiện, thời hiệu và thời hạn xử lý kỷ luật theo đúng quy định của pháp luật, hành vi, tính chất và hậu quả của hành vi vi phạm của công chức và cuối cùng là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Trong thời hạn 03 ngày kể từ thời điểm cuộc họp kiểm điểm kết thúc, người chủ trì cuộc họp có trách nhiệm gửi báo cáo và biên bản cuộc họp đến cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><i>3.1.3. Thành lập hội đồng xử lý kỷ luật </i>
Hội đồng kỷ luật công chức được cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật quyết định thành lập sau khi nhận được báo cáo và biên bản cuộc họp kiểm điểm chậm nhất là 05 ngày làm việc theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP. Việc thành lập Hội đồng xử lý kỷ luật đóng vai trị tư vấn cho người có thẩm quyền về việc áp dụng hình thức kỷ luật đối với người có hành vi vi phạm pháp luật. Quy định việc thành lập hội đồng xử lý kỷ luật, có sự tham gia đa dạng của các thành phần trong đó giúp đảm bảo cho sự xem xét vấn đề một cách toàn diện, khách quan, đảm bảo yếu tố dân chủ trong quy trình xử lý kỷ luật.
Bàn về nguyên tắc hoạt động của Hội đồng kỷ luật, khoản 2 Điều 27 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP quy định rõ số lượng thành viên tham dự bắt buộc là từ 03 thành viên trở lên, trong đó phải có Chủ tịch Hội đồng và Thư ký Hội đồng. Cuộc họp phải được lập thành biên bản, thể hiện rõ ý kiến của các thành viên dự họp và kết quả bỏ phiếu kiến nghị hình thức kỷ luật. Việc kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật của Hội đồng được thơng qua hình thức bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo tính khách quan, tránh các sự tác động từ bên ngoài làm ảnh hưởng đến quyền tự do thể hiện ý chí của các thành viên dự họp.
Thành viên của Hội đồng xử lý kỷ luật gồm có 5 thành viên. Đối với cơng chức khơng giữ chức vụ lãnh đạo, thì Hội đồng xử lý kỷ luật gồm: (i) Chủ tịch Hội đồng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan quản lý công chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý công chức; (ii) một Uỷ viên Hội đồng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trực tiếp sử dụng công chức; (iii) một Ủy viên Hội đồng là đại diện cấp ủy của cơ quan, đơn vị trực tiếp sử dụng công chức; (iv) một Ủy viên Hội đồng là đại diện Ban chấp hành công đồn của cơ quan quản lý cơng chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý công chức; (v) một Ủy viên kiêm Thư ký Hội đồng là đại diện cơ quan tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan quản lý công chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý công chức. Đối với cơng chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thì Hội đồng xử lý kỷ luật bao gồm: (i) Chủ tịch Hội đồng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan quản lý công chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý công chức; (ii) một Ủy viên Hội đồng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trực tiếp sử dụng công chức; (iii) một Ủy viên Hội đồng là đại diện tổ chức đảng của cơ quan quản lý công chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý công chức; (iv) một Ủy viên Hội đồng là đại diện Ban chấp hành cơng đồn của cơ quan quản lý công chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý công chức; (v) một Ủy viên kiêm Thư ký Hội đồng là đại diện cơ quan tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan quản lý công chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">công chức. Trường hợp người đứng đầu hoặc tất cả cấp phó của người đứng đầu cơ quan quản lý cơng chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý công chức là người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến hành vi vi phạm của công chức bị xem xét xử lý kỷ luật thì lãnh đạo cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan quản lý công chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý công chức là Chủ tịch Hội đồng. Trường hợp người đứng đầu hoặc tất cả cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trực tiếp sử dụng công chức là người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến hành vi vi phạm của công chức bị xem xét xử lý kỷ luật thì cử một cơng chức của cơ quan trực tiếp sử dụng cơng chức có hành vi vi phạm thay thế.
Trước khi phiên họp của hội đồng xử lý kỷ luật tiến hành tổ chức họp, giấy mời triệu tập được gửi tới cơng chức có hành vi vi phạm chậm nhất là 07 ngày làm việc.
<i>Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 29 Nghị Định số 112/2020/NĐ-CP: “sau khi gửi giấy triệu tập lần thứ 3, Hội đồng kỷ luật tiến hành họp, kể cả trong trường hợp cơng chức đó vẫn vắng mặt”, có thể hiểu giấy triệu tập sẽ được gửi tới cơng chức có hành vi </i>
vi phạm tối đa 03 lần. Trường hợp cơng chức có hành vi vi phạm vắng mặt sau 02 lần gửi giấy triệu tập thì sau lần thứ 3 khi giấy triệu tập được gửi dù cơng chức có hành vi vi phạm vắng mặt thì cuộc họp của hội đồng xử lý kỷ luật vẫn được tiến hành theo trình tự, thủ tục đã định. Đặc biệt, lý do vắng mặt của công chức có hành vi vi phạm phải chính đáng.
Cuộc họp hội đồng xử lý kỷ luật được thực hiện theo trình tự được quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP. Theo đó, Chủ tịch Hội đồng kỷ luật tuyên bố lý do, giới thiệu các thành viên tham dự. Ủy viên kiêm Thư ký Hội đồng kỷ luật đọc trích ngang sơ yếu lý lịch của cơng chức có hành vi vi phạm và các tài liệu khác có liên quan. Cơng chức có hành vi vi phạm đọc bản tự kiểm điểm; Trường hợp cơng chức có hành vi vi phạm vắng mặt nhưng có bản kiểm điểm thì Thư ký Hội đồng kỷ luật đọc thay; trường hợp có mặt nhưng không làm bản tự kiểm điểm hoặc vắng mặt và khơng có bản kiểm điểm thì Hội đồng kỷ luật tiến hành các trình tự cịn lại của cuộc họp quy định tại khoản này. Ủy viên kiêm Thư ký Hội đồng kỷ luật đọc biên bản cuộc họp kiểm điểm. Các thành viên Hội đồng kỷ luật và người tham dự cuộc họp thảo luận và phát biểu ý kiến. Cơng chức có hành vi vi phạm phát biểu ý kiến; nếu cơng chức có hành vi vi phạm không phát biểu ý kiến hoặc vắng mặt thì Hội đồng kỷ luật tiến hành các trình tự cịn lại của cuộc họp quy định tại khoản này. Hội đồng kỷ luật bỏ phiếu về việc có kỷ luật hay khơng kỷ luật; trường hợp đa số phiếu kiến nghị kỷ luật thì bỏ phiếu về việc áp dụng hình thức kỷ luật; việc bỏ phiếu được tiến hành bằng hình thức bỏ phiếu kín theo phương pháp tích phiếu. Chủ tịch Hội đồng kỷ luật cơng bố kết quả bỏ phiếu kín và thơng qua biên bản cuộc họp. Chủ tịch Hội đồng kỷ luật và Ủy viên kiêm Thư ký Hội đồng kỷ luật ký biên bản cuộc họp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Quy định “Hội đồng kỷ luật bỏ phiếu về việc có kỷ luật hay không kỷ luật” so với Nghị định số 34/2011/NĐ-CP trước đây thì quy định này có tính nhân văn, nhân đạo và thể hiện ý chí đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, sự ăn năn, hối lỗi của công chức thực hiện hành vi vi phạm thơng qua q trình cơng chức đó viết và trình bày bản kiểm điểm trước cuộc họp của hội đồng xử lý kỷ luật.
Trường hợp nhiều công chức trong cùng cơ quan, tổ chức, đơn vị có hành vi vi phạm thì Hội đồng kỷ luật họp để tiến hành xem xét xử lý kỷ luật đối với từng cơng chức.
Các phân tích trên cho thấy rõ tầm quan trọng của thành lập Hội đồng kỷ luật. Tuy nhiên, pháp luật quy định có những trường hợp không cần thành lập Hội đồng kỷ luật mà đưa ra quyết định xử lý kỷ luật đối với cơng chức vi phạm. Theo đó, cơng chức vi phạm đã có kết luận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về hành vi vi phạm, trong đó có đề xuất hình thức kỷ luật và cơng chức vi phạm đã có quyết định xử lý kỷ luật đảng thì khơng phải thành lập Hội đồng kỷ luật nữa.
<i>3.1.4. Cấp có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật </i>
Giai đoạn ra quyết định kỷ luật là thời gian mà chủ thể có thẩm quyền sẽ xem xét và ra quyết định xử lý kỷ luật đối với cơng chức có hành vi tham nhũng. Dựa trên quy định tại Điều 30 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc cuộc họp do Hội đồng xử lý kỷ luật tổ chức, Hội đồng buộc phải có kiến nghị về việc xử lý kỷ luật đối với công chức có hành vi như đã đề cập bằng văn bản đồng thời kèm theo biên bản họp Hội đồng kỷ luật gửi cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật. Kế tiếp, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ lúc nhận được văn bản kiến nghị về việc xử lý kỷ luật trong trường hợp thành lập Hội đồng kỷ luật hoặc biên bản cuộc họp kiểm điểm của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong trường hợp không thành lập Hội đồng kỷ luật hoặc văn bản đề xuất của cơ quan tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ của cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật, cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật ra quyết định kỷ luật hoặc kết luận công chức không vi phạm.
Điều 24 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP đã quy định một cách cụ thể về thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với cơng chức có hành vi vi phạm:
<i> Thứ nhất, “đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc được phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật”<small>50</small></i>. Công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý mặc nhiên khơng thể tự mình kỷ luật mình mà phải có chủ thể khác tiến
<small> </small>
<small>50 Khoản 1 Điều 24 Nghị định 112/2020/NĐ-CP </small>
</div>