Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.93 KB, 33 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>BẢNG GIẢI THÍCH TỪ VIẾT TẮT </b>
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CEDAW Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
CRPD Công ước về quyền của người khuyết tật
ECHR Công ước bảo vệ Nhân quyền và các quyền tự do căn bản
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị ICERD Cơng ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>MỤC LỤC </b>
1.1.1. Khái quát về quyền con người ... 11
1.1.2. Phân biệt quyền con người và quyền công dân ... 12
1.1.3. Cơ chế bảo vệ quyền con người trên thế giới ... 13
1.2.1. Lịch sử hình thành/bối cảnh Công ước Nhân quyền châu Âu... 15
1.2.2. Đặc điểm ... 16
1.2.3. Vai trò ... 19
2.1.1. Phạm vi bảo vệ quyền con người ... 21
2.1.2. Thực tiễn bảo vệ quyền con người ở VN ... 23
2.1.3. Thực tiễn bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội tại Việt Nam ... 25
<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>
Như ta chúng ta đã biết, quyền con người luôn là một quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm đã được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật các quốc gia cũng như các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, không một quốc gia nào có thể bảo đảm một cách tuyệt đối trong việc thực hiện các nghĩa vụ từ các điều ước quốc tế về quyền con người. Gần đây, trên thế giới, thực trạng quyền con người đang ngày càng bị xâm hại một cách nghiêm trọng như: quyền được sống, tự do và an toàn thân thể của những người dân trong cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraine hay quyền được học tập của những người phụ nữ ở Afghanistan dưới chế độ thống trị của Taliban. Tại Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tuy đã được quy định tương đối đầy đủ và cụ thể trong Hiến pháp và luật nhưng vẫn còn tồn tại những vụ việc nổi cộm xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi thiêng liêng này. Tháng 12/2021 vừa qua, một vụ án mẹ kế đã bạo hành con chồng đến chết đã làm chấn động cả nước vì sự tàn bạo. Chính vụ việc này đã đặt ra một câu hỏi liệu rằng pháp luật nước ta đã có đủ cơ chế để bảo vệ quyền được sống, quyền được tự do, an toàn về thân thể cho đứa trẻ trong vụ việc này chưa? Năm 2016, vụ việc công ty Formosa làm ô nhiễm cả một vùng biển miền Trung đã trực tiếp xâm hại đến quyền con người cụ thể là quyền được sống trong môi trường trong lành của những người dân nơi đây. Do đó, dựa vào thực trạng những vụ việc hiện nay, quyền con người tại Việt Nam đang cần những cơ chế bảo vệ triệt để hơn nhằm đáp ứng những nhu cầu vốn có, khách quan và tự nhiên của con người một cách tối ưu nhất. Thơng qua q trình nghiên cứu những mơ hình bảo vệ nhân quyền trên thế giới, nhóm quyết định lựa chọn nghiên cứu mơ hình Tịa án Nhân quyền châu Âu - một mơ hình đi đầu trong việc xây dựng cơ chế bảo vệ quyền con người. Mơ hình Tòa án Nhân quyền (ECtHR) là một trong ba cơ quan giám sát thực thi quyền con người được thành lập dựa trên Công ước Nhân quyền châu Âu - là tiền đề pháp lý để công dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ chế này giúp cho bất cứ công dân nào bị xâm hại của các nước đã ký kết cũng được quyền yêu cầu (Tòa án Nhân quyền/Cơ quan hành pháp châu Âu về nhân quyền này) xem xét bảo vệ quyền lợi của mình. Các phán quyết về những vi phạm nhân quyền buộc các nước liên quan phải có nghĩa vụ thi hành,
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">bồi thường thiệt hại cho ngun đơn nên mơ hình này giúp bảo vệ nhân quyền cá nhân ở mức độ cao nhất. Với cơ chế chặt chẽ của mình, cơ chế đảm bảo quyền con người ở châu Âu với mô hình Tịa án nhân quyền châu Âu là một mơ hình tiên tiến mà qua đó ta có thể học tập để áp dụng vào thực tiễn Việt Nam. Vì vậy, với tư cách là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện nhằm góp phần bảo vệ và thực thi hiệu quả nhất quyền con người ở Việt Nam nói chung và thế giới nói riêng.
<b>2. Tổng hợp tình hình nghiên cứu trong và ngồi trường: 2.1. Trong trường </b>
Liên quan đến đề tài, nhóm đã tiếp cận được những cơng trình nghiên cứu sau:
<i><b>- Nguyễn Xn Quang và Nguyễn Xuân Lý (2017), “Phân tích một số phán quyết của Tòa án Nhân quyền châu Âu liên quan quyền sống và kiến nghị hoàn thiện cơ chế thực thi quyền này trong luật pháp Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển </b></i>
kinh tế Trường Đại học Tây Đô, số 02 - 2017. Bài viết liên quan đến quyền sống - quyền cơ bản nhất của quyền con người và cơ chế thực thi của Công ước Nhân quyền châu Âu đặc biệt trong việc bảo vệ quyền quan trọng này. Tác giả nêu ra cơ chế thực thi quyền sống ở Việt Nam và đưa ra kiến nghị bổ sung cơ chế đảm bảo thực thi quyền sống ở nước ta. Qua bài viết nhóm cũng có những góc nhìn khách quan, đa chiều về quyền sống - quyền cơ bản nhất của quyền con người nhằm làm đa dạng và củng cố cho bài viết của nhóm.
- Nguyễn Bảo Quốc, Nguyễn Thị Kim Uyên, Hồ Thị Linh Phương (2011- 2012),
<i><b>“Giảng dạy pháp luật về quyền con người trong các trường đại học đào tạo Luật tại Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp”, cơng trình dự thi Nghiên cứu khoa </b></i>
học sinh viên cấp trường. Bài viết đề cập đến những vấn đề lý luận trong việc giảng dạy pháp luật quyền con người trong các trường đào tạo Luật hiện nay. Nổi bật trong bài viết thể hiện ở thực trạng giáo dục về quyền con người hiện nay. Bài viết đã hỗ trợ nhóm trong việc đưa ra những góc nhìn thực tế về nhân quyền tại Việt Nam, từ nền tảng chính là sự giáo dục, đến việc ứng dụng vào đời sống.
<i><b>- Nhóm tác giả Ths. Nguyễn Thị Yên (chủ nhiệm đề tài) (2012), “Cơ chế Đảm bảo và thúc đẩy quyền con người của Liên Hợp quốc và kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam”, cơng trình Nghiên cứu khoa học có sự hỗ trợ của Trung tâm Nhân quyền. Nội dung </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">bài viết giúp đọc giả hiểu rõ hơn về các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người tại Liên Hợp quốc, ở Việt Nam. Hơn hết là những kết luận và kiến nghị được nhóm tác giả trên đúc kết thơng qua q trình nghiên cứu và so sánh giữa Việt Nam và Liên Hợp quốc. Nhờ vào đó, nhóm có thể phát hiện được những cơ chế, nội dung cơ bản về quyền con người ở Việt Nam có những đặc trưng riêng, phù hợp với đặc tính nước ta, đồng thời cũng nhận xét về những thiếu sót, từ đó nhóm dự đốn được những biện pháp phù hợp cho vấn đề này.
<i><b>- “Vai trò của Tịa án nhân quyền châu Âu”</b></i><small>2</small>, trang thơng tin điện tử “vie-public.fr”
<i><b>cũng như bài viết “ECtHR: Composition &Election Process”</b></i><small>3</small> giới thiệu khái quát về cơ cấu của Tòa án nhân quyền châu Âu, số lượng thành viên, thẩm phán. Cả hai bài viết đều làm rõ những nội dung liên quan đến quá trình hình thành, cũng như làm nổi bật cách thức hoạt động. Đồng thời trên hai trang thơng tin điện tử nước ngồi đã nêu, ta có thể xem các vụ án đã được xét xử, những vụ án phổ biến, tiêu biểu về các vụ tranh chấp liên quan đến nhân quyền.
<small> </small>
<small>1 Nga, Đồng Thị Huyền. “Quan điểm của Tòa án Nhân quyền châu Âu về quyền được sống trong môi trường trong lành.” 2018, (truy cập ngày 19/7/2023). </small>
<small>2</small><i><small> Raconnay, Nicolas. “Quel est le rôle de la Cour européenne des droits de l'homme (CEDH) ?” Vie publique, 9 </small></i>
<small>January 2023, lhomme. (truy cập ngày 19/7/2023). </small>
<small> “ECtHR: COMPOSITION & ELECTION PROCESS.” International Justice Resource Center, </small></i>
<small> (truy cập ngày 19/7/2023). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>3. Mục tiêu của đề tài: </b>
Sau khi tìm hiểu tư liệu cũng như trong q trình nghiên cứu, nhóm nhận ra những bất cập đang hiện hữu trong thực tiễn liên quan đến cơ chế bảo vệ quyền con người hiện nay. Chính vì lẽ đó, nhóm mong muốn có thể lấy kinh nghiệm từ pháp luật nước ngồi, mơ hình Tịa án quốc tế nhằm đưa ra một số đề xuất làm phong phú thêm cũng như đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Thông qua việc làm này, nhóm mong rằng sẽ góp được một phần sức nhỏ nhoi vào công cuộc lập pháp của nước nhà, đồng thời hỗ trợ cho việc củng cố kỹ năng hành pháp, tư pháp liên quan đến vấn đề nhân quyền. Qua những kinh nghiệm này từ nước ngoài, cụ thể là châu Âu, nhóm nghiên cứu đề tài này nhằm giúp Việt Nam có thể củng cố lại những thế mạnh vốn có của Việt Nam về lĩnh vực pháp lý, hơn nữa, nước ta
<b>có thể cải thiện hệ thống pháp luật của mình, trước tiên là ở khía cạnh nhân quyền. </b>
Ngồi ra, thơng qua những thay đổi tích cực, nhóm hi vọng quyền con người (của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng) có thể ngày càng được bảo vệ một cách tối ưu. Từ đó, ta có thể giúp con người có thể tự do phát triển theo ý chí tự nguyện của bản thân mình, song, vẫn phải trong khn khổ được pháp luật quy định, bảo vệ. Cả hai yếu tố ý chí con người và sự khn phép của pháp luật nếu cộng hưởng cho nhau sẽ tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho con người tự chủ được cuộc sống, có đủ sự tiện nghi để góp sức bản thân vào công cuộc xây dựng thế giới văn minh hơn, hiện đại hơn.
Cuối cùng, quyền con người có được bảo đảm, phát triển thì đời sống xã hội mới có thể phát triển, con người được tự do sinh sống, hoàn thiện bản thân sẽ dẫn đến khả năng nâng cấp nền kinh tế, đồng thời cải cách tân tiến hơn về quy mô, tầm hiệu quả của cơ chế chính trị. Có thể hiểu đơn giản, quyền con người ở Việt Nam được bảo vệ, nhờ sự học tập từ cơ chế Tòa án Nhân quyền châu Âu, sẽ là nền tảng để hoàn chỉnh, làm vững mạnh thêm cơ sở hạ tầng, nhằm phát triển, củng cố kiến trúc thượng tầng ở nước ta.
<b>4. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 4.1. Cách tiếp cận: lý luận đến thực tiễn </b>
Khi phân tích và nghiên cứu đề tài “Cơ chế bảo quyền con người thơng qua mơ hình Tịa án nhân quyền và những kinh nghiệm cho Việt Nam” nhóm đã vận dụng các phương pháp như phân tích và tổng hợp nhằm đảm bảo được cấu trúc mạch lạc của bài luận. Đồng
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">thời, kết hợp vào đó chính là việc so sánh các yếu tố nhất định giữa quốc gia và quốc tế để làm sáng tỏ các luận điểm. Cuối cùng, dựa vào cơ chế Tòa án Nhân quyền châu Âu và những điểm nổi bật của mơ hình này, nhóm đã nghiên cứu nhằm rút ra những bài học quý báu nhằm áp dụng, giải quyết những thực trạng ở Việt Nam.
<b>4.2. Về phương pháp nghiên cứu: </b>
Nhằm đảm bảo việc nghiên cứu được diễn ra hiệu quả, mạch lạc và đạt mục tiêu của nhóm đề ra, nhóm chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp lý thuyết và từ đó áp dụng phương pháp phân tích - tổng kết kinh nghiệm.
Đối với phương pháp phân tích - tổng hợp lý thuyết: nhóm tiến hành nghiên cứu phương thức ra đời và cơ chế của Tòa án nhân quyền châu Âu nhằm đưa ra góc nhìn tổng quan nhất về cơ quan tư pháp đặc biệt này. Bên cạnh đó, nhóm tiến hành nghiên cứu các tài liệu trong, ngồi trường để có góc nhìn khách quan, đa chiều về vấn đề quyền con người trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Thơng qua q trình nghiên cứu, phân tích, nhóm tổng hợp những đặc điểm về quyền.
Đối với phương pháp phân tích - tổng kết kinh nghiệm: học tập và kế thừa những ưu điểm của Tòa án nhân quyền châu Âu trong cơ chế bảo vệ quyền con người. Thơng qua mơ hình Tịa án đặc biệt này, nhóm đóng góp, bổ sung, đưa ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong công cuộc bảo vệ quyền con người.
So sánh: các yếu tố giữa góc độ quốc gia - quốc tế. Tìm hiểu những điểm sáng, hiện đại của hệ thống tư pháp phương Tây, cơ cấu của Tịa án Nhân quyền châu Âu có những ưu điểm gì để từ đó, nhóm rút ra và đưa vào thực tiễn ở Việt Nam. Ngược lại, nhìn từ góc độ Việt Nam, nghiên cứu xem hệ thống pháp lý của nước ta đã có những nền tảng gì, và cuộc sống đời thực diễn ra như thế nào, từ đó, sẽ chọn lọc lại những ưu điểm, kiến thức mới từ phương Tây sao cho phù hợp với đời sống con người Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu: những lý luận và cách thức hoạt động Tòa án nhân quyền châu Âu, từ đó phân tích, đúc kết được các đặc trưng cơ bản mang tính ứng dụng cao. Đồng thời nhóm cũng sẽ nghiên cứu về pháp luật ở Việt Nam nhằm chỉ ra các ưu nhược điểm trong q trình bảo vệ nhân quyền. Từ đó, nhóm đưa ra những khuyến nghị, dưới góc độ một sinh
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">viên, giúp cơ chế này ở Việt Nam được bảo đảm vững chắc, hiện đại, phù hợp hơn với hoàn cảnh hội nhập quốc tế.
Phạm vi về không gian: nghiên cứu Công ước về Nhân quyền ở châu Âu, quyền con người quy định tại Hiến pháp Việt Nam và các điều luật khác nếu có.
Phạm vi về thời gian: nghiên cứu Cơng ước Nhân quyền châu Âu từ khi có hiệu lực cho đến hiện tại. Thơng qua tiến trình lập pháp Việt Nam về nhân quyền (các bản Hiến pháp) kết hợp với những kinh nghiệm quốc tế để củng cố, hoàn thiện, xây dựng cơ chế bảo vệ quyền con người trong tương lai.
<b>5. Tóm tắt nội dung của đề tài: </b>
Đề tài “Cơ chế bảo quyền con người thơng qua mơ hình Tịa án nhân quyền và những kinh nghiệm cho Việt Nam” được nhóm triển khai trên 2 nội dung chính: (1) Lý luận và pháp lý cơ bản về quyền con người; (2) Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền con người và kiến nghị hồn thiện. Thơng qua bài nghiên cứu, nhóm mong muốn học tập những kinh nghiệm từ mơ hình quốc tế để đưa ra những thay đổi mới cho Việt Nam trong công cuộc bảo vệ quyền con người.
<b>CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI 1.1. Cơ chế bảo vệ quyền con người </b>
1.1.1. Khái quát về quyền con người
Khi mỗi cá nhân được sinh ra đã mang trong mình một thứ quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm - quyền con người. Ta định nghĩa quyền con người là những lợi ích, cơ bản, vốn có và khách quan của nhân loại. Ngồi ra, nó cịn có ý nghĩa là những địi hỏi chính đáng về tự do cũng như là các nhu cầu cuộc sống phổ thông cần được đáp ứng của con người. Theo bài viết Universal Declaration of Human Rights<small>4</small> của Liên hợp Quốc đã tuyên bố, khẳng định phạm vi, cũng như đối tượng áp dụng các quyền cơ bản này: Tuyên ngôn về Nhân quyền này như một tiêu chuẩn mới được đặt ra để tất cả dân tộc, quốc gia, chủ yếu
<small> </small>
<small>4</small><i><small> “OHCHR | Universal Declaration of Human Rights - English.” ohchr, </small></i>
<small> (truy cập ngày 19/7/ 2023). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">là mọi cá nhân, tổ chức xã hội luôn ghi nhớ và thực hiện theo Tuyên ngôn này, đồng thời sẽ tuyên truyền, giáo dục nhằm củng cố, phát triển các quyền lợi, tự do của con người. Ngoài ra, sử dụng các biện pháp tiến bộ, tầm quốc gia và quốc tế để đảm bảo sự tiếp nhận và thực hiện theo giữa người dân của các quốc gia thành viên của LHQ cũng như giữa người dân của các vùng lãnh thổ thuộc quyền tài phán với các quốc gia này.
Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hiệp quốc, quyền con người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người.
Còn ở Việt Nam, khái niệm về quyền con người có lẽ quen thuộc và dễ hiểu hơn cả là trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Dựa trên khía cạnh đa chiều thì quyền con người được xem như một chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Nhờ những chuẩn mực này, con người được bảo vệ nhân phẩm và có đủ điều kiện phát triển toàn vẹn các năng lực cá nhân. Cho dù tồn tại nhiều góc nhìn đa chiều nhưng không thể phủ nhận rằng quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội ở mọi giai đoạn lịch sử.
Tóm lại, qua các định nghĩa về quyền con người mang tính phổ biến, qua những tuyên bố, văn kiện xoay quanh quyền lợi, lợi ích của con người, đặc biệt là người dân Việt Nam, ta thấy được đây là một thứ quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của mỗi cá thể sống, từ đó, ta rút ra được những kiến thức về đảm bảo nhân quyền, cũng như có cái nhìn thực tế về đời sống xã hội của con người ra sao, ở góc độ xã hội lẫn pháp lý.
1.1.2. Phân biệt quyền con người và quyền công dân
Bên cạnh quyền con người, mỗi đất nước sẽ bổ sung thêm cho người dân của họ quyền công dân khi họ đã đủ điều kiện theo quy định pháp luật từng quốc gia. Cả hai thuật ngữ
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">này đều được gọi là “quyền”, với nội dung thể hiện những gì cá nhân được phép lựa chọn thực hiện hoặc khơng thực hiện; ngồi ra những “quyền” này đều có thể bị hạn chế trong trường hợp nhất định; trong hệ thống lập hiến của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, quyền con người và quyền công dân đều được quy định trong Hiến pháp với các hình thức như: quy định trực tiếp trong Hiến pháp, trong các tu chính Hiến pháp hoặc trong các tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền.
Tuy nhiên, hai loại quyền này không thể được hiểu hồn tồn đồng nhất, mà chúng có những đặc tính khác nhau, ta sẽ đánh giá dựa trên các tiêu chí: ra đời, bản chất, chủ thể quyền, văn bản điều chỉnh…
Xét về góc độ pháp lý, Việt Nam đã có năm bản Hiến pháp, và qua từng giai đoạn thì các nhà lập hiến cũng đã có những tư tưởng tiến bộ: tách biệt quyền con người và quyền công dân, bổ sung thêm các trách nhiệm của Nhà nước đối với các quyền, hoàn thiện các bất cập nhằm đảm bảo hơn các quyền của con người, cơng dân (ví dụ: khoản 1, 2 Điều 14 Hiến pháp 2013). Và theo Hiến pháp hiện hành tại nước ta, nhân quyền có thể được gộp thành các nhóm như: nhóm quyền cơ bản về dân sự (Điều 17, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 30, 31, 36, 42 Hiến pháp 2013), nhóm quyền cơ bản về chính trị (Điều 27, 28, 29, 30 Hiến pháp 2013);... Tuy nhiên các quy định pháp luật của Hiến pháp này chú tâm đến các quyền lợi về mặt khái quát, cơ bản hơn của con người, chính là quyền sống, học tập, kết hôn, ly hôn, khiếu nại, tố cáo, bầu cử và quyền tự do kinh doanh.
1.1.3. Cơ chế bảo vệ quyền con người trên thế giới
Hiến chương Liên Hợp Quốc là một văn kiện nền tảng của luật quốc tế về quyền con người. Sự ra đời của LHQ năm 1945 đánh dấu một bước phát triển đối với lịch sử nhân loại trong việc bảo vệ hịa bình, an ninh, thúc đẩy phát triển cũng như trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người trên quy mơ tồn cầu. Dù không trực tiếp điều chỉnh về mối quan hệ xã hội này nhưng cộng đồng quốc tế vẫn thừa nhận rằng Hiến chương Liên Hợp Quốc là văn kiện xác lập nền tảng của luật quốc tế về quyền con người thông qua những quy định cụ thể. Hiến chương khẳng định việc bảo vệ quyền con người là một trong những
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">mục tiêu hoạt động của LHQ và đã xác lập thêm những nguyên tắc, khuôn khổ thiết chế cơ bản để bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người.
Các nội dung của pháp luật quốc tế về quyền con người được đề cập và tiêu biểu ở ba văn kiện quan trọng, nền tảng lần lượt là Tun ngơn Tồn thế giới về Quyền con người năm 1948 (UDHR) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR) được thơng qua năm 1966. Tun ngơn Tồn thế giới về Quyền con người là văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên tập hợp các quyền và tự do cụ thể, cơ bản của con người dựa trên nhiều phương diện. Mặc dù UDHR không phải là một điều ước quốc tế tuy nhiên đây lại được xem là cấu thành trung tâm của luật tập quán quốc tế về quyền con người, có thể xem như có hiệu lực bắt buộc với mọi quốc gia trên thế giới. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (The International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (The International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights - ICESCR) quy định các thủ tục giải quyết các khiếu nại, tố cáo của các cá nhân về vi phạm quyền dân sự, chính trị của các quốc gia. Như vậy, các nội dung của pháp luật quốc tế về quyền con người có vị trí đặc biệt trong luật quốc tế về quyền con người, đây được xem như những văn kiện quốc tế đầu tiên có nội dung hoàn toàn về nhân quyền. Những văn kiện này cung cấp khuôn khổ các tiêu chuẩn cơ bản để có thể làm tiền đề cho các văn kiện khác của luật quốc tế về quyền con người.
Bên cạnh hai Cơng ước trên, có bảy Cơng ước khác cũng được xem là cơng ước chính yếu gồm: Cơng ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc (ICERD - 1965), Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW - 1979), Công ước chống tra tấn (CAT - 1984), Công ước về quyền trẻ em (CRC -1989), Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của mọi người lao động di trú (ICRMW -1990), Công ước quốc tế về bảo vệ mọi người khỏi bị cưỡng bức mất tích (ICPPED - 2006) và Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD - 2007). Thế giới ghi nhận được rằng Việt Nam là một quốc gia đóng góp to lớn vào quá trình bảo vệ nhân quyền quốc tế nói chung và trong nước nói riêng, điều này được thể hiện qua việc hiện nay, đất nước của chúng ta đã tham gia hầu hết các Công ước về quyền con người trên thế giới. Trong các văn bản được
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">liệt kê ở trên, Việt Nam đã gia nhập vào gần như tất cả, lần lượt là ICERD (gia nhập ngày 09/6/1982), CRC (vào ngày 20/2/1990, là quốc gia châu Á đầu tiên tham gia), CEDAW (là quốc gia thành viên thứ 35), CRPD.
Các văn kiện phổ quát về quyền con người trong các lĩnh vực. Về nội dung, các văn kiện quy định các chuẩn mực về quyền trong các lĩnh vực (quyền tự quyết, chống kỳ thị, trong lĩnh vực tư pháp, ...) hay quyền của một nhóm người cụ thể (người thiểu số, phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, ...). Bên cạnh những văn kiện được thông qua tại Đại Hội đồng LHQ cịn có những văn kiện do các cơ quan chuyên môn của LHQ soạn thảo (UNESCO, ILO, ...) và về giá trị pháp lý, sẽ có văn kiện mang tính ràng buộc, có những văn kiện chỉ mang tính khuyến nghị, có ý nghĩa về mặt chính trị.
Sau khi tìm kiếm, phân tích tài liệu, nhóm thấy tồn tại một cơng ước phù hợp với Việt Nam về mặt văn hóa, cũng như về kỹ năng tư pháp mà nước ta có thể học tập, vận dụng vào hệ thống pháp lý của mình qua đó có thể áp dụng vào đời sống và đó chính là Cơng ước Nhân quyền châu Âu. Đây là bản cơng ước giúp hình thành nên cơ quan tư pháp với mục đích hiện thực hóa các biện pháp bảo vệ quyền con người - Tòa án Nhân quyền châu Âu. Văn bản quy phạm pháp luật này được thế giới biết đến rộng rãi với những điều luật quy định chặt chẽ về đảm bảo quyền tự do tuyệt đối với con người dù trong trạng thái nào. Với những lý do này, nhóm quyết định sẽ nghiên cứu, phân tích, qua đó rút ra được những kinh nghiệm cho Việt Nam.
<b>1.2. Khái quát về Công ước Nhân quyền châu Âu </b>
1.2.1. Lịch sử hình thành/bối cảnh Công ước Nhân quyền châu Âu
Công ước châu Âu về quyền con người có tên chính thức là Công ước bảo vệ Nhân quyền và các quyền Tự do căn bản (tiếng Anh: Convention for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms - ECHR) là một hiệp ước quốc tế nhằm bảo vệ nhân quyền, các quyền tự do căn bản ở châu Âu được Hội đồng châu Âu thông qua và ký kết vào ngày 04/11/1950, tại thủ đô Roma của nước Ý bởi Ủy hội châu Âu có hiệu lực từ ngày 03/9/1953.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Ủy hội châu Âu (Council of Europe) quyết định thông qua Công ước Nhân quyền châu Âu như một cơ chế ràng buộc các quy tắc của Tuyên bố phổ quát (Universal Declaration of Human Rights), do Tuyên bố phổ qt khơng có tính ràng buộc các quốc gia thành viên về mặt pháp lý. Như vậy, Công ước Nhân quyền châu Âu có tác dụng thực tế hơn Tuyên bố phổ quát và các công ước khác trong khu vực vì Cơng ước này thành lập ra một cơ quan thực thi là Tòa án Nhân quyền châu Âu. Bên cạnh việc đưa ra những quy định về quyền con người, Cơng ước cịn thành lập một cơ chế giám sát gồm ba cơ quan: Ủy ban quyền con người trực thuộc Hội đồng châu Âu (The European Commission of Human Rights, hiện nay cơ quan này đã ngừng hoạt động); Tòa án Quyền con người châu Âu (The European Court of Human Rights) và Ủy ban Các bộ trưởng của Hội đồng châu Âu (The Committee of Ministers of the Council of Europe)<small>5</small>. Tòa án nhân quyền châu Âu ngày càng mở rộng và việc lập một tòa án để bảo vệ các cá nhân khỏi bị vi phạm nhân quyền là một điểm mới cho một cơng ước quốc tế về nhân quyền, vì nó cho cá nhân vai trị tích cực trên trường quốc tế (theo luật quốc tế, các quốc gia mới được coi là chủ thể trong công pháp quốc tế). Cơng ước này hiện vẫn cịn là điều ước quốc tế về nhân quyền duy nhất bảo vệ cá nhân ở mức độ cao nhất.
Công ước châu Âu về Nhân quyền có nhiều Nghị định thư. Sự ra đời của Công ước là kết quả của sự thỏa hiệp giữa các nước thành viên của Liên minh châu Âu (European Union - EU) thống nhất phê chuẩn Công ước là một phần của pháp luật châu Âu, đồng thời là nền tảng cho việc giải thích và áp dụng pháp luật của từng quốc gia thành viên<small>6</small>.
<small> “Bảo đảm quyền của người bị buộc tội theo điều 6 – Công ước châu Âu về quyền con người.” Bộ Tư pháp, </small></i>
<small>(01/02/2017), </small>
<small>4bd81e36adc9&ItemID=2089&SiteRootID=b71e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3. (truy cập ngày 19/7/2023). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">các cách thức và quy chế hoạt động của nó, cuối cùng chính là quy ước về kết thúc, chấm dứt khác nhau tại mục III. Trong đó ta cần đặc biệt quan tâm đến mục I bởi các điều khoản tại đây chú trọng vào việc bảo đảm về quyền, lợi ích con người, ví dụ như: Điều 5 quy định về “Tự do và an tồn”... Ngồi ra, cơng ước này có nhiều Nghị định thư. Tính đến thời điểm năm 2010 đã có 15 Nghị định thư được bổ sung. Trong đó tiêu biểu là Nghị định thư 13 về việc cấm án tử hình.
Điều ước này ra đời nhằm đánh dấu sự thỏa thuận, thống nhất, phê chuẩn của các nước thành viên Liên minh châu Âu (tên tiếng anh: European Union - EU), qua đó trở thành nền tảng cho việc giải thích và áp dụng pháp luật của quốc gia thành viên<small>7</small>. Tất cả các nước thành viên của Ủy hội châu Âu đều là thành viên của công ước (hiện nay có 47 quốc gia thành viên).
Cuối cùng, dù ra đời chỉ mới 50 năm nhưng Công ước được đánh giá là có điểm tiến bộ trong việc bảo vệ quyền con người đặc biệt là quyền của người bị buộc tội được thể hiện tại Điều 6 Công ước. Điều khoản này bao gồm 2 nội dung chính: đưa ra các nguyên tắc cơ bản trong việc bảo đảm quyền lợi các bên trong vụ án dân sự và hình sự (Điều 6.1) và đưa ra những quyền cơ bản của người bị buộc tộc trong vụ án hình sự (Điều 6.2 và Điều 6.3). Theo đó, vấn đề đảm bảo quyền của người bị buộc tội được thể hiện trên hai phương diện: i). Đảm bảo quyền của người bị buộc tội trên cơ sở các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng;
ii). Quy định về quyền cơ bản của người bị buộc tội.
Theo thực tế xét xử, sự buộc tội được khởi phát từ thời điểm một người được thông báo chính thức bởi cơ quan có thẩm quyền về những chứng cứ rõ ràng cho rằng (nghi vấn) người đó đã thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: lệnh bắt, lệnh khám xét nhà, ...). Việc thông báo này đơi khi có giá trị ngay cả khi người có liên quan không hiểu hoặc không biết được thông báo đó thì kể từ thời điểm có thơng báo người đó bị coi là người bị buộc tội trong vụ <small> </small>
<small>7</small><i><small> “Bảo đảm quyền của người bị buộc tội theo điều 6 – Công ước châu Âu về quyền con người.” Bộ Tư pháp, </small></i>
<small>(01/02/2017), </small>
<small>4bd81e36adc9&ItemID=2089&SiteRootID=b71e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3. (truy cập ngày 19/7/2023). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">án hình sự. Sự buộc tội sẽ tồn tại và kéo dài trong suất quá trình tố tụng chứng minh hành vi của người bị cáo buộc là có tội hay không.
Nguyên tắc xét xử công bằng và nguyên tắc suy đốn vơ tội là hai ngun tắc cơ bản chi phối hoạt động tố tụng hình sự, bảo đảm quyền của người bị buộc tội. Nguyên tắc xét xử cơng bằng nhằm mục đích đảm bảo việc xét xử công bằng đối với các bên trong vụ án, đối với người bị buộc tội thì họ cũng có quyền được xét xử một cách công bằng nhất ngay cả khi họ khơng có khả năng tự bào chữa hay khơng có căn cứ nào minh bạch đối với hành vi vi phạm của họ. Đối với nguyên tắc suy đốn vơ tội, đây là một thành cơng lớn của khoa học pháp lý hiện đại và giữ một vị trí vơ cùng quan trọng định hướng tồn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự đối với hầu hết các quốc gia. Theo quan điểm các luật gia châu Âu, khía cạnh quan trọng và nền tảng nhất của ngun tắc suy đốn vơ tội chính là sự buộc tội và điều này cũng gắn liền với việc xét xử cơng bằng của tịa án. Ngun tắc suy đốn vơ tội có sự gắn bó mật thiết với ngun tắc xét xử cơng bằng vì thẩm phán không thể công bằng nếu việc phán xử của họ là phiến diện hay thiên vị, và ngược lại.
Công ước nhân quyền châu Âu cũng đã thể hiện được nét hiện đại của mình khi chỉ ra những quyền cơ bản của người bị buộc tội theo Điều 6.3 của Công ước như quyền được thông báo kịp thời về lý do buộc tội (Điều 6.3a); quyền được tạo điều kiện thuận lợi về khoảng thời gian thích hợp để chuẩn bị cho việc bào chữa (Điều 6.3b); quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, trong trường hợp thực sự cần thiết mà người bị buộc tội khơng có khả năng tài chính để lựa chọn người bào chữa thì họ sẽ được giúp đỡ miễn phí (Điều 6.3c); quyền được quyền thu thập chứng cứ và kiểm tra lại các chứng cứ do nhân chứng cung cấp chống lại người bị buộc tội (Điều 6.3d); quyền được có người phiên dịch miễn phí (Điều 6.3e).
Như vậy, ta có thể thấy Cơng ước nhân quyền châu Âu về việc đảm bảo quyền con người đặc biệt là quyền của người bị buộc tội có nhiều điểm tiến bộ so với một số văn bản bảo vệ nhân quyền khác như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 hay Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 vì quyền của người bị buộc tội đã được Công ước nhân quyền châu Âu ghi nhận một cách chi tiết và cụ thể.
</div>