Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

NHẬN DIỆN HÀNH VI TÔN GIÁO CỦA THANH NIÊN PHẬT GIÁO VÀ CÔNG GIÁO HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.45 KB, 12 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b><small>BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn </small></b>

NHẬN DIỆN HÀNH VI TÔN GIÁO CỦA THANH NIÊN PHẬT GIÁO VÀ CÔNG GIÁO HIỆN NAY

<i>(Qua khảo sát tại Hà Nội và Ninh Bình) </i>

<small>NGUYỄN THỊ MINH NGỌC</small><sup>*</sup>

<i><b>Tóm tắt: Những năm gần đây, tơn giáo có xu hướng thu hút sự tham gia của nhiều </b></i>

<i>tầng lớp xã hội, trong đó có thanh niên. Kết quả phân tích mẫu khảo sát thanh niên Cơng giáo và thanh niên Phật giáo trong độ tuổi từ 15 đến 29 tại Hà Nội và Ninh Bình vào năm 2014 cho thấy, đa số thanh niên Công giáo tham gia lễ tại nhà thờ vào chủ nhật hàng tuần, nhưng tỷ lệ thanh niên Phật giáo lễ chùa hàng tháng vào ngày rằm, mùng một không cao. Mục đích đi lễ của thanh niên Phật giáo có sự thay đổi hướng đến mục đích nhập thế thay vì xuất thế. Hành vi đi lễ của các nhóm thanh niên có sự khác biệt theo giới tính, tình trạng hơn nhân. Trong gia đình, thanh niên Cơng giáo và Phật giáo thực hiện nhiều hành vi tôn giáo như đọc kinh, xưng tội, sám hối hay các hoạt động thờ cúng tổ tiên. Đa số đều khẳng định họ mở rộng mạng xã hội qua tham gia sinh hoạt tôn giáo, </i>

<i><b>đồng thời thu được lợi ích từ việc mở rộng quan hệ này. </b></i>

<i><b>Từ khóa: niềm tin tơn giáo, hành vi tôn giáo, hành vi tôn giáo thanh niên. Ngày nhận bài: 30/5/2017; Ngày gửi phản biện: 2/9/2017; Ngày duyệt đăng: 18/11/2017 </b></i>

<b>1. Giới thiệu </b>

Thanh niên là lực lượng chủ chốt, có vai trị quan trọng trong sự phát triển xã hội. Việt Nam là đất nước đa tôn giáo, số lượng tín đồ tơn giáo chiếm gần 1/5 dân số<small>1</small>, trong đó có thanh niên. Thanh niên tơn giáo có sự khác biệt với nhóm thanh niên khơng theo tôn giáo ở chỗ bên cạnh việc tuân thủ chuẩn mực xã hội còn phải thực hiện các chuẩn mực tơn giáo. Vì vậy hành vi tơn giáo của thanh niên thường rất đa dạng giữa các nhóm và có tác động đáng kể đến nhận thức và định hướng giá trị của họ. Cho đến nay, đã có khơng ít nghiên cứu về vấn đề hoạt động tơn giáo và niềm tin tơn giáo hay về vai trị và ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống xã hội. Tuy nhiên nhìn chung, hành vi tơn giáo của thanh niên vẫn rất ít được đề cập và phân tích sâu trong các nghiên cứu đã có về tôn giáo ở Việt Nam.

Bài viết này tập trung tìm hiểu hành vi tơn giáo của thanh niên Phật giáo và Công giáo hiện nay, bao gồm các hành vi tại cơ sở thờ tự tôn giáo cũng như hành vi tôn giáo

<small> </small>

<small>*</small><i><small> Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. </small></i>

<small>1 Thống kê của Ban Tơn giáo Chính phủ năm 2010. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b><small>BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn </small></b>

trong gia đình, qua đó đánh giá ảnh hưởng của sinh hoạt tôn giáo đến nhận thức của thanh niên. Bài viết sử dụng số liệu khảo sát do Viện Xã hội học thực hiện tại Hà Nội và Ninh Bình vào cuối năm 2014 trong khn khổ đề tài “Vai trị của tơn giáo trong việc xây dựng niềm tin xã hội”. Trong mẫu khảo sát có 66 thanh niên Công giáo và 55 thanh niên Phật giáo trong độ tuổi từ 15 đến 29. Họ đều là những tín đồ Cơng giáo hoặc Phật giáo chính thức. Trong nghiên cứu này, tín đồ Phật giáo được xác định là người đã qua lễ quán đảnh.

<b>2. Tổng quan một số nghiên cứu có liên quan đến hoạt động tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo đến đạo đức lối sống </b>

Khảo sát xã hội học về tôn giáo lần đầu tiên được Viện Nghiên cứu Tôn giáo thực hiện năm 1992 đến 1994 trên quy mơ tồn quốc. Kết quả của cuộc khảo sát này được

<i>công bố trong cuốn “Về tín ngưỡng, tơn giáo Việt Nam hiện nay” (Đặng Nghiêm Vạn, 1996) do Viện Nghiên cứu Tơn giáo phát hành. Sau đó, cuốn sách “Những vấn đề lý luận </i>

<i>và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam” do Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên), xuất bản năm 1998 </i>

<i>tập hợp nhiều bài viết có giá trị về cả lý luận và thực tiễn tôn giáo Việt Nam. Bài viết Bàn </i>

<i>về tôn giáo của Đặng Nghiêm Vạn trong cuốn sách này cho thấy niềm tin tôn giáo của </i>

người Việt Nam thể hiện qua cuộc điều tra xã hội học tơn giáo năm 1992-1994 là niềm tin mang tính đa dạng. Trung bình, một người được hỏi tham gia vào từ 2 đến 3 hành vi tôn giáo khác nhau. Để củng cố niềm tin tôn giáo, nghi thức thờ cúng, lễ thức, hành hương, kiêng cữ... đóng một vai trị rất quan trọng. Tín đồ tơn giáo "hâm nóng" niềm tin tơn giáo của mình qua các nghi thức không chỉ ở bản thân hành vi tôn giáo mà ở tính cộng đồng của những người cùng nhu cầu tôn giáo.

Khảo sát xã hội học về tơn giáo trên phạm vi tồn quốc được Viện Nghiên cứu Tôn

<i>giáo tiến hành lần thứ 2 từ 1995 đến 1998. Cuốn “Lý luận về tơn giáo và tình hình tơn </i>

<i>giáo ở Việt Nam” của Đặng Nghiêm Vạn (2001) là một trong những cuốn sách đi sâu về </i>

thực trạng đời sống tôn giáo Việt Nam trên cơ sở số liệu khảo sát của cuộc điều tra này. Diễn biến và tình hình đời sống tơn giáo Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử cho đến giai đoạn đầu năm 2000 đã được tác giả mô tả sinh động, cung cấp cho người đọc nhiều tư

<i>liệu hay về đời sống tôn giáo thời kỳ đầu đổi mới. Cuốn sách “Đa dạng tôn giáo và niềm </i>

<i>tin tôn giáo tại Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Minh Ngọc (2016) đi sâu vào mô tả </i>

đời sống tôn giáo Việt Nam, trong đó nhấn mạnh về niềm tin tơn giáo trong bối cảnh đa dạng tơn giáo.

Nhóm nghiên cứu về vai trị và ảnh hưởng của tơn giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay được nhiều tác giả bàn đến từ khía cạnh đạo đức, nhận thức… Nhiều cơng trình đã chỉ ra những giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống của các tôn giáo phù hợp với giá trị của thời đại mới, cần thiết phải được phát huy trong công cuộc xây dựng xã hội mới ở Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu của Trần Ngọc Sơn (2012) đã nêu bật được ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo trong việc hình thành các chuẩn mực xã hội và quá trình khắc phục sự suy giảm đạo đức xã hội. Cùng bàn về ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo qua nghiên cứu trường hợp, tác giả Trần Hồng Liên (2002) đã phân tích ảnh hưởng của đạo đức tơn giáo đến đạo đức của cư dân thành phố Hồ Chí Minh và cho rằng đạo đức tơn giáo đã góp

<i>phần vào việc ổn định trật tự xã hội. Bài viết của Hoàng Thị Lan (2011) cho thấy việc </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b><small>BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn </small></b>

phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của các tơn giáo phải được tiến hành đồng thời với việc hạn chế dần các tác động tiêu cực của nó đối với xã hội.

Có thể nói rằng, các cơng trình nghiên cứu đã chỉ ra được hành vi tôn giáo của tín đồ các tơn giáo tại cơ sở thờ tự như hành vi đi lễ chùa, hành vi tham dự các nghi lễ tôn giáo cơ bản và hành vi thờ cúng tại gia đình. Từ đó cho thấy niềm tin tôn giáo của người dân Việt Nam từ giai đoạn sau mở cửa đến nay. Bên cạnh đó, các cơng trình cũng chỉ ra các chiều cạnh tác động của tôn giáo vào đời sống đạo đức, lối sống của tín đồ. Tuy nhiên, phân tích trong các cơng trình đều khơng đi sâu vào các nhóm tuổi, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên.

<b>3. Một số kết quả </b>

<i><b>3.1. Hành vi tham gia hoạt động tôn giáo tại cơ sở tôn giáo của thanh niên </b></i>

Về tần suất đi lễ tại các cơ sở tôn giáo, kết quả khảo sát cho thấy 83,3% thanh niên Cơng giáo trong nhóm khảo sát đi lễ nhà thờ hàng tuần. Đi lễ hàng tuần là quy định đối với tín đồ Cơng giáo và khảo sát cho thấy thanh niên Cơng giáo rất có ý thức tn thủ quy định này. Nỗ lực để duy trì đi lễ hàng tuần không phải là đơn giản trong bối cảnh của xã hội hiện thời với áp lực công việc lớn và thơng thường nhiều người cịn phải giải quyết các cơng việc trong những ngày cuối tuần.

<b><small>Hình 1. Tỷ lệ đi lễ nhà thờ của thanh niên Công giáo </small></b>

<small>T hanh niên Công giáo đi lễ nhà thờ hàng tuầnT hanh niên Phật giáo lễ chùa mỗi tháng 2 lần</small>

<i><small>Nguồn: Khảo sát của đề tài, 2014. </small></i>

Một số thanh niên Cơng giáo cho biết, vì đặc thù cơng việc họ chỉ có thể nỗ lực hết sức để đảm bảo có thể tham dự lễ ngày chủ nhật nhưng không đảm bảo được tất cả các ngày chủ nhật đều tham dự lễ.

<i>Em có tuần đi dự lễ tuần khơng vì có lúc em đang trên đường không kịp giờ. Nhiều hôm em tiện nhà thờ nào gần thì đến nhà thờ đó thôi chứ không về được nhà thờ chỗ nhà em đâu. </i>

(PVS, nam, 24 tuổi, chưa có gia đình, lái xe taxi, Hà Nội) Tỷ lệ nữ thanh niên Công giáo đi lễ nhà thờ hàng tuần nhiều hơn nam (85,0% so với 80,8%). Tỷ lệ thanh niên chưa kết hôn đi lễ hàng tuần cao hơn thanh niên đã kết hôn

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b><small>BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn </small></b>

(86,2% so với 81,1%). Thanh niên Phật tử có tỷ lệ đi lễ một tháng hai lần (vào ngày sóc vọng, tức ngày 1 và 15 (ngày rằm) Âm lịch) có tỷ lệ thấp (38,2%), 32,7% thanh niên Phật tử đi lễ tháng một lần hoặc vài tháng một lần; có đến 29,1% thanh niên Phật tử năm đi lễ một hai lần. Một thanh niên cho biết dù đã quy y tam bảo nhưng không coi trọng việc phải nhất thiết lên chùa đi lễ, thay vào đó là hướng đến việc tìm đọc giáo lý Phật giáo và thực hành những gì có thể áp dụng của giáo lý đó vào cuộc sống hàng ngày vì thấy rằng trong điều kiện xã hội ngày nay khó có thể tuân thủ mọi giới luật.

<i>Em ít đi chùa, em thường tìm đọc sách Phật, ý thức giữ năm giới cấm của Phật giáo nhưng thấy khó có thể thực hiện được hết. Khơng trực tiếp sát sinh thì được cịn vì khơng ăn chay làm sao mà nói khơng sát sinh; em cố gắng để khơng phải nói dối nhưng cơng việc nhiều lúc có làm được thẳng mọi thứ đâu; khơng uống rượu là khó nhất, bây giờ đi đâu giao dịch cũng phải uống. </i>

(Nam, 27 tuổi, nhân viên văn phòng) Tỷ lệ nữ Phật tử đi lễ chùa hàng tháng vào các ngày sóc vọng cao hơn so với nam Phật tử (39,0% so với 35,7%); tỷ lệ Phật tử đã kết hơn đi lễ hàng tháng vào các ngày sóc vọng cao hơn hẳn so với Phật tử chưa kết hôn (55,2% so với 19,2%).

Hành vi đi lễ cho thấy cách thức biểu đạt niềm tin của từng tơn giáo có sự khác biệt. Cơng giáo quy định niềm tin của tín đồ phải được thể hiện qua việc đi lễ nhà thờ, quy định chặt chẽ tín đồ phải tham gia đi lễ nhà thờ hàng tuần là để tham gia nghi lễ kết thông với Chúa dưới sự dẫn dắt của Linh mục. Nhà thờ thường tạo điều kiện cho mọi tín đồ có thể tham gia khố lễ bằng cách tổ chức nhiều khoá lễ theo khung giờ khác nhau trong ngày chủ nhật. Đi lễ nhà thờ hàng tuần là để thực hành nghi lễ tôn giáo, do vậy phải theo khung giờ nhất định của buổi lễ và thời gian thực hành khoá lễ thường là cố định.

Đối với Phật giáo, các tín đồ khơng bị quy định chặt chẽ, cụ thể về việc đi lễ chùa. Đi lễ vào ngày sóc vọng hàng tháng của Phật tử là sự thực hành nghi lễ mang tính cá nhân khơng có sự tương tác, dẫn dắt của tăng/ni sư/chức sắc Phật giáo, do vậy không theo khung giờ cố định, thời gian và cách thức thực hành nghi lễ cũng khác nhau tùy theo từng Phật tử. Mục đích đến với đạo Phật của Phật tử nói chung và của thanh niên Phật tử nói riêng hướng về những mục đích nhập thế hơn là mục đích xuất thế. Mục đích nhập thế rõ rệt nhất là cầu tài lộc: có đến 69,1% đến với Phật giáo vì mục đích này. Trong khi đó, tỷ lệ có mục đích thành người giác ngộ là 40%, mục đích được về cõi Tây Phương cực lạc và mục đích chết khỏi phải xuống địa ngục chỉ là 20%. Có sự khác biệt giữa nam và nữ thanh niên Phật tử trong việc lựa chọn các mục đích đi lễ. Nam có tỷ lệ lựa chọn mục đích đến với đạo Phật để hoàn thiện bản thân, để được tai qua nạn khỏi, chết không phải xuống địa ngục cao hơn nữ; trong khi đó, nữ có tỷ lệ cao hơn nam ở mục đích thành người giác ngộ, được về Tây Phương cực lạc, cầu tài lộc, tránh nghiệp báo. Mục đích đến với đạo Phật của thanh niên hai nhóm đã kết hơn và chưa kết hơn cũng có sự khác biệt, trong đó, nhóm đã kết hơn có tỷ lệ lựa chọn ở các mục đích cao hơn nhóm chưa kết hôn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b><small>BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn Hình 2. Mục đích đến với Phật giáo của thanh niên </small></b>

<i><small>Nguồn: Khảo sát của đề tài, 2014. </small></i>

Về hành vi tham gia học giáo lý, tỷ lệ tín đồ thanh niên Công giáo tham gia học giáo lý rất cao (87,9%). Chênh lệch về tỷ lệ tham gia học giáo lý giữa nam và nữ, giữa nhóm thanh niên đã kết hơn và chưa kết hôn không đáng kể. Tỷ lệ tham gia nghe giảng pháp/ học hỏi giáo lý của Phật tử không cao: 52,7% thanh niên Phật tử có tham gia nghe giảng pháp, trong đó chỉ có 12,7% thường xuyên tham gia. Tỷ lệ nữ tham gia nghe giảng pháp cao hơn nam, tuy nhiên, tỷ lệ nam thường xuyên tham gia nghe giảng pháp cao hơn nữ và tỷ lệ thanh niên đã kết hôn tham gia nghe giảng pháp cao hơn nhóm chưa kết hơn.

<i>Em đi theo Phật chỉ là mong cầu sao cho được bình an, mọi việc thuận lợi thôi chứ bọn em thanh niên cịn nhiều việc nên khơng có thể nào mà có thời gian tìm hiểu kỹ giáo lý nhà Phật. Em thì vẫn biết phải khơng có được tham sân si, cuộc sống có nhân quả nên phải làm việc thiện… </i>

(Nữ, 24 tuổi, nhân viên văn phòng, Hà Nội) Học hỏi giáo lý là một hoạt động mang tính bắt buộc đối với tín đồ Cơng giáo từ khi cịn nhỏ. Đây cũng là một nội dung sinh hoạt thường kỳ dưới sự tổ chức và giám sát chặt chẽ của nhà thờ. Đa số tín đồ Cơng giáo được linh mục trực tiếp giảng giáo lý (62,1%), tỷ lệ tự học chỉ có 35,8%. Phật giáo với tinh thần tự tu tự chứng nên nghe giảng pháp không phải là quy định bắt buộc đối với Phật tử. Chức sắc Phật giáo thường khuyên bảo Phật tử cần phải hiểu rõ ý nghĩa giáo pháp của đức Phật để có thể thực hành các giáo pháp đó trong đời sống hàng ngày. Trên tinh thần đó, các chùa hàng tháng tổ chức các buổi giảng pháp để giúp Phật tử có điều kiện nâng cao nhận thức của mình về giáo lý Phật giáo và khuyến khích Phật tử dành thời gian tham gia. Nhưng vì khơng mang tính bắt buộc mà chủ yếu là sự tự giác học hỏi của Phật tử nên tỷ lệ Phật tử tham gia hoạt động này thường xun khơng nhiều, đặc biệt là nhóm thanh niên. Người giảng pháp cho Phật tử chủ yếu cũng là các nhà sư (58,2%).

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b><small>BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn </small></b>

Riêng tín đồ Cơng giáo, xưng tội là hành vi mang tính bắt buộc được thực hiện tại nhà thờ, trước linh mục. Tín đồ thực hiện hành vi này năm một lần chiếm tỷ lệ cao nhất (31,8%), tiếp đó là thực hiện hàng quý (27,3%), hàng tháng (25,8%). Tỷ lệ nam thực hiện xưng tội hàng tháng, hàng quý nhiều hơn nữ. Tỷ lệ thanh niên chưa kết hôn thực hiện xưng tội hàng tháng, hàng quý nhiều hơn thanh niên đã kết hơn.

<b><small>Hình 3. Tỷ lệ thực hiện xưng tội của thanh niên Công giáo </small></b>

<i><small>Nguồn: Khảo sát của đề tài, 2014. </small></i>

Với tín đồ Phật giáo, sám hối không được quy định phải thực hiện theo định kỳ với sự hiện diện của nhà sư. Nhiều Phật tử cho biết họ chỉ thực hiện sám hối khi bản thân cảm thấy làm việc gì đó có lỗi. Họ thực hiện sám hối một cách trực tiếp với Phật qua việc đảnh lễ chư Phật trước ban thờ chính điện. Vì khơng phải là hành vi mang tính bắt buộc nên nhiều Phật tử chưa từng thực hiện hành vi sám hối, đặc biệt nhóm Phật tử thanh niên:

<i>Em chưa sám hối bao giờ và cũng khơng biết sám hối thì làm thế nào cả, hình như có lần mẹ em nói mẹ em có sám hối rồi thì phải. Bọn em chỉ đi chùa lễ mong bình an thơi. </i>

(Nữ, 27 tuổi, nhân viên văn phòng, Hà Nội)

<i><b>3.2. Hành vi tham gia hoạt động tôn giáo trong gia đình </b></i>

Đọc kinh cầu nguyện hàng ngày là một trong những nghi lễ bắt buộc đối với tín đồ Cơng giáo. Đây cũng là hành vi tơn giáo được tín đồ Công giáo thực hiện thường xuyên tại nhà nhất. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát, 63,6% thanh niên Công giáo thực hiện hành vi này hàng ngày nhưng cũng có một tỷ lệ khơng nhỏ vì sự bận rộn cơng việc hàng ngày, vì khơng thấy cần thiết phải giữ đủ các nghi thức, nghi lễ đã thỉnh thoảng mới thực hiện đọc kinh cầu nguyện tại nhà:

<i>Em cũng muốn đọc kinh tại nhà hàng ngày lắm nhưng công việc bận rộn nên cũng thơi, chúng em cịn thanh niên hết giờ làm thường tụ tập bạn bè đến khuya mới về, mà nhà em thì hiện cũng chỉ có bố mẹ em là đọc kinh đều thôi. </i>

(Nam, 26 tuổi, nhân viên văn phòng)

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b><small>BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn </small></b>

Tỷ lệ nữ đọc kinh cầu nguyện hàng ngày tại nhà cao hơn nam (72,5% so với 52,0%); tỷ lệ đã kết hôn đọc kinh cầu nguyện hàng ngày cao hơn chưa kết hôn (66,7% so với 62,1%). Thanh niên Phật tử có 43,6% có tụng kinh tại nhà nhưng không tụng hàng ngày. Trong nhóm có tụng kinh tại nhà, tỷ lệ nữ có tụng kinh cao hơn nam (46,3% so với 35,7%); nhóm thanh niên đã kết hơn có tỷ lệ có tụng kinh tại nhà cao hơn nhóm thanh niên chưa kết hơn (51,7% so với 34,6%). Một số thanh niên cho rằng tụng kinh là việc của các cụ già, thanh niên còn bận rộn nhiều việc không thể ngồi mà gõ mõ được, đồng thời họ không hứng thú với nội dung chữ Hán trong các bản kinh tụng.

<i>Em nghĩ tụng kinh là chỉ có các cụ thơi. Bọn em ngồi tụng nó kỳ kỳ sao ấy, mà em cũng có hơm lên chùa tụng kinh cầu siêu cho ông, em thấy tồn chữ Hán đọc chẳng hiểu, khó vào lắm. </i>

(Nữ, 27 tuổi, nhân viên văn phịng, Hà Nội) Chính vì chữ Hán trong các văn bản kinh tụng hiện nay khiến nhiều Phật tử không hiểu nội dung kinh nên một số nhà sư đã chuyển âm kinh tụng sang âm Việt. Tuy nhiên, bản kinh thuần Việt này hiện chưa phổ biến và nhận định của Phật tử về kinh thuần âm Việt còn nhiều ý kiến trái chiều.

Một trong những hoạt động tôn giáo quan trọng trong các gia đình Cơng giáo ngày nay là thờ cúng tổ tiên/tơn kính tổ tiên. Quan điểm của người Công giáo Việt Nam về thờ cúng tổ tiên có nhiều điểm khác biệt với các tơn giáo, tín ngưỡng khác. Tơn kính tổ tiên là một giới răn (giới răn thứ 4) trong các giới răn của Công giáo. Người Cơng giáo cho rằng họ khơng vì theo đạo mà bỏ ông bà tổ tiên. Tuy nhiên, cách thức tơn kính tổ tiên của tín đồ Cơng giáo có nhiều khác biệt với truyền thống thờ cúng tổ tiên của người Việt.

Trước hết, với người Cơng giáo, tơn kính tổ tiên được thực hiện qua việc cầu nguyện cho ông bà tổ tiên mỗi khi tham dự thánh lễ. Sau đó là thực hiện các nghi lễ tơn kính tổ tiên tại gia đình. Tại gia đình, theo quyết nghị vào năm 1974 của các Giám mục Việt Nam về lễ nghi tơn kính ơng bà tổ tiên, nghi thức thờ cúng tổ tiên của người Công giáo được quy định 6 điều (Website conggiao.info, 2014).

Quyết nghị này không chỉ cho phép và quy định cụ thể cách thức thờ cúng tổ tiên tại gia đình mà cịn mở rộng thờ cúng thành hồng trong các đình làng. Hiện nay, trong các gia đình Cơng giáo, số gia đình có ban thờ tổ tiên tại gia chiếm tỷ lệ cao (có đến 54,5% lập ban thờ thường xuyên và 9,1% lập ban thờ tạm). Tỷ lệ thanh niên trong nhóm gia đình chưa kết hơn có tỷ lệ có lập ban thờ gia tiên trong nhà cao hơn tỷ lệ đã kết hơn (72,4% so với 54% trong đó tỷ lệ có ban thờ cố định trong nhà là 69,0% so với 43,2%). Điều này cho thấy, nhóm chưa kết hơn là nhóm phần đơng hiện đang sống cùng bố mẹ. Bàn thờ gia tiên trong nhà do bố mẹ lập, thanh niên chưa kết hôn phần đông chưa phải chịu trách nhiệm với hoạt động thờ cúng tổ tiên. Đối với nhóm thanh niên đã kết hơn và ở riêng nhưng cịn bố mẹ thì khơng nhất thiết có nhu cầu lập ban thờ gia tiên cố định tại nhà. Tơn kính tổ tiên của người Công giáo quan trọng nhất là thực hiện rước lễ tại nhà thờ. Thời gian gần đây, truyền thống thờ cúng tổ tiên đang có xu hướng trở lại với người Cơng giáo, do vậy ngày càng có nhiều gia đình Cơng giáo thực hiện làm giỗ tại nhà. Tỷ lệ

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b><small>BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn </small></b>

gia đình thanh niên trong nhóm chưa kết hơn và đã kết hơn có tỷ lệ thực hiện rước lễ tại nhà thờ là tương đương; tỷ lệ nhóm gia đình đã kết hơn thực hiện làm lễ giỗ tại nhà cao hơn nhóm chưa kết hơn; tỷ lệ làm lễ giỗ tại nhà của nhóm chưa kết hơn cao hơn nhóm đã kết hơn. Kết hợp với tỷ lệ có ban thờ cố định tại nhà, như vậy hành vi làm lễ giỗ tại nhà gắn với các gia đình có ban thờ gia tiên cố định tại nhà; một số ít gia đình đã kết hơn sống độc lập lập ban thờ gia tiên tạm thời để sử dụng cúng giỗ gia tiên.

<b><small>Hình 4. Tỷ lệ thực hiện các hành vi thờ cúng tổ tiên trong gia đình thanh niên Cơng giáo </small></b>

<i><small> Nguồn: Khảo sát của đề tài, 2014. </small></i>

Phật tử thực hiện thờ cúng tổ tiên theo truyền thống người Việt. Thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng lâu đời của người Việt. Đây là một tín ngưỡng truyền thống có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần người Việt. Truyền thống thờ cúng tổ tiên khơng xung đột với Phật giáo mà cịn hồ trộn với Phật giáo trong một số nghi lễ ví dụ tang ma, nghi lễ xây mộ… Phật tử thực hiện thờ cúng tổ tiên theo đúng nghi thức truyền thống. Gia đình Phật tử có thể khơng có ban thờ Phật nhưng gia đình nào cũng có ban thờ tổ tiên. Điều đó cho thấy, với Phật tử thờ cúng tổ tiên có vị trí đặc biệt trong đời sống tâm linh của họ. Thờ cúng tổ tiên song hành cùng Phật giáo. Phật tử dù là thanh niên hay nhóm Phật tử ở độ tuổi lớn hơn đều thực hiện hành vi thờ cúng tổ tiên đều đặn theo nghi thức truyền thống. Hàng tháng Phật tử thắp hương trên bàn thờ gia tiên vào hai ngày sóc vọng, ngồi ra vào các ngày giỗ chạp đều có thực hiện nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh đó, một số Phật tử trước khi thực hiện một công việc quan trọng, hay có tin vui, buồn đều

<i>thắp hương kính báo gia tiên: “Trước khi đi thi là em thắp hương cầu mong ông bà phù </i>

<i>hộ cho em thi được tốt” (Nữ, 22 tuổi, sinh viên). </i>

<i><b>3.3. Ảnh hưởng của sinh hoạt tôn giáo đến thanh niên </b></i>

Thực hành tơn giáo góp phần xây dựng và củng cố niềm tin tôn giáo cá nhân, trong những khuôn khổ nhất định định vị lối sống cá nhân. Creel (2007) và Dow (2007) đã nghiên cứu ảnh hưởng của tôn giáo đến lối sống con người và chỉ ra rằng, tơn giáo có thể bảo vệ và thúc đẩy một lối sống lành mạnh thơng qua việc kiểm sốt hành vi lành mạnh của cá nhân, tơn giáo cũng góp phần hỗ trợ xã hội và trạng thái tâm lý cá nhân. Tôn giáo là một hệ thống liên quan đến một hoặc nhiều vị thần và kết hợp các nghi thức, nghi lễ, hướng dẫn

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b><small>BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn </small></b>

đạo đức và triết lý cuộc sống (Einolf, 2011). Tơn giáo có thể mang lại thêm ý nghĩa và mục đích cho cuộc sống của những người tin theo, giúp họ đánh giá cao quá khứ, hiểu hiện tại và hy vọng vào tương lai cũng như đem lại sự ổn định tâm lý. Người trong cùng một tơn giáo sẽ có những cảm nhận xã hội với nhau và từ đó tạo dựng nên một cộng đồng tơn giáo. Đây cũng chính là mạng lưới về mối quan hệ xã hội có thể giúp đỡ và bảo vệ các cá nhân tôn giáo khi cần thiết. Mạng xã hội của các tơn giáo đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện các hành vi ảnh hưởng đến chất lượng các mối quan hệ xã hội.

<b><small>Hình 5. Lợi ích từ quan hệ xã hội thông qua sinh hoạt tôn giáo của thanh niên Công giáo </small></b>

<i><small>Nguồn: Khảo sát của đề tài, 2014. </small></i>

Có tới 97% thanh niên Cơng giáo trong nhóm khảo sát cho biết họ có sự gia tăng mối quan hệ xã hội qua các hoạt động tơn giáo. Trong đó, 100% nhóm nam và nhóm chưa kết hơn khẳng định có sự gia tăng quan hệ xã hội. Mối quan hệ xã hội có được từ sinh hoạt tơn giáo mang lại nhiều lợi ích cho các cá nhân. 75,8% tin rằng quan hệ tạo dựng qua sinh hoạt tôn giáo mang lại cho họ niềm tin giữa con người với con người; 72,7% cho rằng các mối quan hệ này mang lại cho họ các kiến thức văn hoá xã hội; 66,7% cho rằng họ có được cách sống tốt hơn qua các mối quan hệ này; 48,5% cho rằng nhận được các thông tin làm ăn, phát triển kinh tế; 42,4% cho rằng mối quan hệ này mang lại việc làm cho họ. Lợi ích thu nhận được từ các mối quan hệ xã hội có được qua sinh hoạt tôn giáo của nam và nữ là khác nhau. Nữ có tỷ lệ gia tăng niềm tin; cách sống tốt và cơ hội việc làm cao hơn so với nam, cịn nam có tỷ lệ gia tăng kiến thức xã hội, các thông tin làm ăn kinh tế cao hơn so với nữ.

Có 54,6% thanh niên Phật tử trong nhóm khảo sát cho biết có sự gia tăng quan hệ xã hội qua sinh hoạt tôn giáo. Tỷ lệ nữ có sự gia tăng quan hệ xã hội cao hơn nam (58,5% so với 50,0%). Có sự khác biệt về lợi ích thu được giữa nam và nữ trong các mối quan hệ xã hội có được từ việc tham gia sinh hoạt tơn giáo. Nam có tỷ lệ gia tăng ở tất cả các chỉ báo: niềm tin, kiến thức văn hoá xã hội, cách sống tốt, thông tin làm ăn kinh tế và mang lại việc làm cao hơn nữ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b><small>BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn </small></b>

Tín đồ tơn giáo đặc biệt là tín đồ Cơng giáo, lối sống tôn giáo in dấu mạnh mẽ trong từng giai đoạn của cuộc đời từ khi sinh ra đến lúc chết. Ngay khi vừa chào đời, tín đồ Cơng giáo đã nhận lễ rửa tội. Theo Giáo luật, cha mẹ là người Công giáo phải lo liệu cho con được rửa tội ngay những tuần đầu sau khi sinh (khoản 867). Đến lúc trưởng thành và kết hôn, hầu hết tín đồ Cơng giáo đều mong muốn được cử hành hôn lễ tại nhà thờ, được linh mục ban phước. Khi chết đi, người ta cũng mong muốn được cử hành lễ tang theo nghi thức tơn giáo. Với tín đồ Phật giáo, đặc biệt là tín đồ Phật giáo Việt Nam, dấu ấn tôn giáo qua từng giai đoạn đời người khơng được rõ nét. Tuy nhiên, dù là tín đồ Cơng giáo hay Phật giáo thì việc gia nhập vào tôn giáo chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng, chuẩn mực tơn giáo cũng góp phần định hình nên lối sống cá nhân đậm nét tôn giáo mà họ đang thuộc về.

<i>Với bọn em đăng ký kết hôn là hợp thức về pháp lý. Chúng em quan trọng là được xác nhận trước Chúa vì Chúa chứng giám và đảm bảo cho hạnh phúc của chúng em. </i>

<i> (Nữ, 24 tuổi, buôn bán nhỏ) </i>

Trước đây, tổ chức nghi lễ kết hôn trên chùa hiếm khi được thực hiện, ngày nay, ngày càng nhiều bạn trẻ thực hiện nghi lễ hằng thuận tại chùa với niềm tin rằng trước sự chứng

<i>giám của chư Phật, cặp vợ chồng trẻ có được cuộc sống gia đình êm ấm, hạnh phúc. </i>

<i>Em có bạn làm lễ hằng thuận trên chùa Kim Liên, em sau này có cưới em cũng sẽ xin thực hiện nghi lễ này tại ngôi chùa nào đó. </i>

(Nữ, 24 tuổi, sinh viên) Tơn giáo khơng chỉ là sự xác nhận một hệ thống niềm tin mà cịn là cách thức sống của tín đồ. Tơn giáo dạy tín đồ cách thức ứng xử với những khó khăn trong cuộc sống. Tơn giáo dạy mỗi tín đồ đều phải biết giữ lời hứa với người khác. Tơn trọng chữ tín là cơ sở nền tảng để tạo dựng niềm tin. Khơng nói dối là một trong ngũ giới mà tín đồ Phật giáo phải tuân thủ. Tín đồ thực hiện được đúng lời dạy này trong cuộc sống cá nhân và xã hội sẽ có được sự tơn trọng và niềm tin của người khác. Có 74,5% thanh niên Phật tử trong nhóm khảo sát cho rằng tôn giáo làm gia tăng niềm tin giữa con người với con người. Tất cả thanh niên Công giáo được khảo sát đều cho rằng tôn giáo làm gia tăng niềm tin giữa con người với con người.

Tôn giáo có sự đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, đạo đức tơn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống con người. Có thể thấy rằng, đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc hồn thiện đạo đức cá nhân. Nhìn chung, đạo đức tôn giáo, chuẩn mực tôn giáo, giới luật tôn giáo bất kể là Công giáo hay Phật giáo đều là những nhân tố tác động trực tiếp đến lối sống của thanh niên là tín đồ. Trong một phạm vi nhất định, đạo đức tôn giáo, chuẩn mực tôn giáo là phù hợp với chuẩn mực và đạo đức xã hội. Tơn giáo nào cũng hướng tín đồ đến hành vi thiện, lối sống lành mạnh, biết tôn trọng, yêu thương người khác. Đây cũng là những giá trị để hình thành cá nhân có nhân cách tốt phù hợp với chuẩn mực xã hội. 78,2% thanh niên Phật tử trong nhóm khảo sát cho rằng mọi tơn giáo đều hướng thiện. Giá trị của tôn giáo được thể hiện ở: góp phần xây dựng con người có đạo đức tốt (83,6%); hướng con người có tinh

</div>

×