Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 103 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Trong quá trình thực hiện Khóa luận tốt nghiệp của chun ngành Cơng tác xã hội với đề tài “Công tác xã hội cá nhân với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần” (Trường hợp tại trường Trung học phổ thông Einstein), bên cạnh sự cố gắng và nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình từ thầy cơ và những lời động viên sâu sắc từ phía gia đình, bạn bè.
Lời đầu tiên, tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn Th.S Trần Tú Hoa, người đã không quản ngại thời gian và cơng sức trực tiếp hướng dẫn chỉ bảo tận tình và giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Tơi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô thuộc bộ môn Công tác xã hội – Đại học Thăng Long đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu trong những năm vừa qua khơng chỉ tạo nền tảng cho q trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận này mà cịn là hành trang giúp tôi vững bước trên con đường sau này.
Ngồi ra, tơi xin chân thành cảm ơn đến Ban giám hiệu, các thầy cô và các em học sinh của trường Trung học phổ thông Einstein đã tạo mọi điều kiện để tơi có thể hồn thành tốt Khóa luận tốt nghiệp này.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Phước Ngọc Hân
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Tôi xin cam đoan nội dung Khóa luận tốt nghiệp “Cơng tác xã hội cá nhân với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần” (Trường hợp tại trường Trung học phổ thơng Einstein) là cơng trình nghiên cứu của tơi, có sự hỗ trợ từ giảng viên hướng dẫn là Th.S Trần Tú Hoa. Những nội dung được sử dụng thuộc về các tác giả, cơ quan, tổ chức khác đã được nêu rõ trong danh mục tài liệu tham khảo. Các thơng tin, kết quả trình bày trong Khóa luận này là hồn tồn trung thực, chính xác, đảm bảo mang tính khách quan.
<i><b>2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ... 2 </b></i>
<i><b>3. Tổng quan nghiên cứu ... 3 </b></i>
<i><b>3.1. Các nghiên cứu ngoài nước ... 3 </b></i>
<i><b>3.2. Các nghiên cứu trong nước ... 6 </b></i>
<i><b>4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ... 8 </b></i>
<i><b>4.1. Đối tượng nghiên cứu ... 8 </b></i>
<i><b>7. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu ... 10 </b></i>
<i><b>7.1. Câu hỏi nghiên cứu ... 10 </b></i>
<i><b>7.2. Giả thuyết nghiên cứu ... 10 </b></i>
<i><b>8. Phương pháp nghiên cứu ... 10 </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><i><b>8.1. Phương pháp phân tích tài liệu ... 10 </b></i>
<i><b>8.2. Phương pháp quan sát ... 11 </b></i>
<i><b>8.3. Phương pháp phỏng vấn ... 11 </b></i>
<i><b>8.4. Phương pháp Công tác xã hội cá nhân ... 11 </b></i>
<i><b>9. Kết cấu khóa luận ... 15 </b></i>
<i><b>CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI HỌC SINH CÓ VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN ... 16 </b></i>
<i><b>1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài ... 16 </b></i>
<i><b>1.1.1. Khái niệm Công tác xã hội ... 16 </b></i>
<i><b>1.1.2. Khái niệm Công tác xã hội cá nhân ... 16 </b></i>
<i><b>1.1.3. Khái niệm và vai trò của Nhân viên CTXH trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần17 1.1.4. Khái niệm về Học sinh Trung học phổ thông ... 18 </b></i>
<i><b>1.1.5. Khái niệm Sức khỏe tâm thần ... 19 </b></i>
<i><b>1.1.6. Khái niệm Học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần ... 21 </b></i>
<i><b>1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ... 22 </b></i>
<i><b>1.2.1. Thuyết Hệ thống và Sinh thái ... 22 </b></i>
<i><b>1.2.2. Thuyết Nhận thức – Hành vi ... 24 </b></i>
<i><b>1.3. Luật pháp, chính sách hỗ trợ học sinh có vấn đề Sức khỏe tâm thần ở Việt Nam25 1.3.1. Chính sách về Y tế ... 26 </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><i><b>CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CƠNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỌC SINH </b></i>
<i><b>CĨ VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN TẠI TRƯỜNG THPT EINSTEIN ... 32 </b></i>
<i><b>2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ... 32 </b></i>
<i><b>2.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển ... 32 </b></i>
<i><b>2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và hệ thống tổ chức bộ máy ... 33 </b></i>
<i><b>2.1.3. Nhân sự và các chính sách, chế độ với cán bộ, nhân viên ... 35 </b></i>
<i><b>2.1.4. Cơ sở vật chất, kỹ thuật ... 36 </b></i>
<i><b>2.1.5. Các hoạt động chăm sóc đối tượng và kết quả ... 36 </b></i>
<i><b>2.2. Thực trạng về hoạt động Công tác xã hội đối với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần ... 37 </b></i>
<i><b>2.2.1. Các hoạt động Cơng tác xã hội đối với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần37 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động Công tác xã hội đối với học sinh có vấn đề Sức khỏe tâm thần ... 38 </b></i>
<i><b>2.3.1. Vai trò của Nhân viên Công tác xã hội ... 38 </b></i>
<i><b>2.3.2. Sự nhận thức của các em học sinh có vấn đề Sức khỏe tâm thần ... 40 </b></i>
<i><b>2.3.3. Sự quan tâm của nhà trường ... 41 </b></i>
<i><b>2.3.4. Sự quan tâm của gia đình ... 42 </b></i>
<i><b>2.4. Nhu cầu hoạt động Cơng tác xã hội với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần43 CHƯƠNG 3. NỘI DUNG THỰC HÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN VỚI HỌC SINH CÓ VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN TẠI TRƯỜNG THPT EINSTEIN ... 45 </b></i>
<i><b>3.1. Mô tả thân chủ ... 45 </b></i>
<i><b>3.1.1. Lý do lựa chọn thân chủ ... 45 </b></i>
<i><b>3.1.2. Giới thiệu sơ lược về thân chủ và vấn đề thân chủ đang gặp phải ... 45 </b></i>
<i><b>3.2. Mơ tả tiến trình thực hành Cơng tác xã hội cá nhân ... 46 </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><i><b>3.2.1. Giai đoạn 1: Tiếp cận thân chủ ... 46 </b></i>
<i><b>3.2.2. Giai đoạn 2: Thu thập thông tin ... 46 </b></i>
<i><b>3.2.3. Giai đoạn 3: Đánh giá và xác định vấn đề ... 47 </b></i>
<i><b>3.2.4. Giai đoạn 4: Lập kế hoạch hỗ trợ ... 54 </b></i>
<i><b>3.2.5. Giai đoạn 5: Triển khai các hoạt động trợ giúp thân chủ giải quyết vấn đề55 3.2.6. Giai đoạn 6: Lượng giá, Kết thúc ... 56 </b></i>
<i><b>KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ... 59 </b></i>
<i><b>Ảnh 1.1. Hệ thống sinh thái ... 23</b></i>
<i><b>Ảnh 2.1. Logo THPT Einstein ... 32</b></i>
<i><b>Bảng 2.1. Tỷ lệ HS nhận diện đúng về một số loại RLTT thường gặp ... 40</b></i>
<i><b>Bảng 2.2. Tỷ lệ học sinh xác định phương pháp trợ giúp khi gặp vấn đề về SKTT ... 41</b></i>
<i><b>Bảng 3.1. Phân tích những điểm mạnh và điểm hạn chế ... 53</b></i>
<i><b>Bảng 3.2. Kế hoạch hỗ trợ thân chủ ... 55</b></i>
<i><b>Bảng 3.3. Bảng lượng giá ... 56</b></i>
<i><b>Sơ đồ 2.1. Cơ cấu Ban điều hành ... 34</b></i>
<i><b>Sơ đồ 2.2. Cơ cấu Ban giảng dạy chuyên môn... 34</b></i>
<i><b>Sơ đồ 3.1. Cây vấn đề ... 49</b></i>
<i><b>Sơ đồ 3.2. Sơ đồ phả hệ ... 50</b></i>
<i><b>Sơ đồ 3.3. Sơ đồ sinh thái ... 52</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Học sinh Trung học Phổ Thông là một giai đoạn cực kỳ quan trọng trong đời sống của một người. Đây là thời kỳ chuyển tiếp giữa trẻ con và người lớn, khi các em càng ngày càng mở rộng hơn về đối tượng giao tiếp, quan tâm nhiều hơn các vấn đề trong xã hội. Các em sắp trở thành một công dân thực thụ, chuyển sang giai đoạn học nghề và làm nghề để phát triển bản thân đồng thời cống hiến cho sự phát triển của xã hội.
Các nghiên cứu dịch tễ về SKTT ở thanh thiếu niên đã thống kê cho thấy có một tỷ lệ đáng kể cần được quan tâm theo dõi. Theo Tổ chức Y tế thế giới, có khoảng 10 − 20% trẻ em và thanh thiếu niên trên thế giới được tiên lượng là có rối loạn hay vấn đề về tâm thần. Thực tế tại Việt Nam, vấn đề SKTT đặc biệt tâm lý thanh thiếu niên tuổi học đường chưa được chú trọng nhiều. Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần chung ở Việt Nam từ 8% đến 29% đối với trẻ em và vị thành niên theo Báo cáo tóm tắt “Sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của trẻ em và thanh thiếu niên tại một số tỉnh và thành phố ở Việt Nam” của UNICEF.Còn theo thống kê của Bộ GD&ĐT, có khoảng 50% trẻ ở độ tuổi vị thành niên có vấn đề về SKTT; trầm cảm, lo âu, rối loạn tâm thần tăng 3 − 5 lần so với bình thường.
Có rất nhiều ngun nhân ảnh hưởng đến Sức khỏe tâm thần tuổi học đường như: áp lực học tập nhất là vào mùa thi; các bậc cha mẹ đặt quá nhiều kỳ vọng ở con cái và điều này tạo ra áp lực rất lớn cho các em; sự thay đổi các mối quan hệ bạn bè; những thói quen sống khơng lành mạnh như khơng hoặc ít tập luyện thể dục; thức quá khuya, ngủ dậy muộn,
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Xuất phát từ những vấn đề trên cũng là lý do tôi lựa chọn vấn đề “Công tác xã hội cá nhân với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần” (Trường hợp tại trường Trung học phổ thông Einstein) làm đề tài khóa luận của mình.
<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>
<i><b>2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu </b></i>
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về CTXH với cho học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần cũng như những lý luận về CTXH cá nhân trong việc hỗ trợ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần thơng qua việc rà sốt các văn bản pháp luật, các chính sách có liên quan và các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước.
Trên cơ sở nền tảng các lý thuyết, kỹ năng và phương pháp thực hành CTXH, tác giả tiến hành áp dụng tiến trình CTXH cá nhân cho học sinh có vấn đề SKTT. Đề xuất một số biện pháp trong việc hỗ trợ CTXH với học sinh có vấn đề SKTT.
<b>3. Tổng quan nghiên cứu </b>
<i><b>3.1. Các nghiên cứu ngoài nước </b></i>
SKTT có vai trị quan trọng đối với sự phát triển ở tuổi vị thành niên và thanh niên (lứa tuổi THPT) song tỉ lệ vị thành niên và thanh niên có vấn đề về SKTT lại tương đối cao trên thế giới. Merikangas và cộng sự (2014) đã tổng quan những nghiên cứu dịch tễ về các vấn đề SKTT của trẻ em cho thấy khoảng 1/4 thiếu niên và thanh niên trải qua một rối loạn tâm thần nào đó trong 1 năm qua và 1/3 có rối loạn tâm thần trong ; suốt cuộc đời. Rối loạn lo âu là cao nhất, tiếp đến là rối loạn hành vi, rối loạn cảm xúc, và lạm dụng chất kích thích. Báo cáo quốc gia về sức khỏe tâm thần của thanh niên ở Úc (2000) chỉ ra 14% trẻ em và thanh thiếu niên được xác định là có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Điều đáng báo động là nhiều người trong số những người có vấn đề về sức khỏe tâm thần gia tăng nguy cơ thực hiện hành vi tự tử mà không tìm kiếm sự giúp đỡ từ các nguồn hỗ trợ SKTT chuyên nghiệp (Sawyer et al, 2001). Tỉ lệ trẻ vị thành niên có vấn đề SKTT là tương đối cao, song phần lớn trẻ không nhận được hoặc tiếp cận hỗ trợ/ dịch vụ khi có vấn đề SKTT (Corrigan, Druss et al, 2014). [3, trang 789]
Theo Bộ Y tế Hoa Kỳ, cứ 5 trẻ em và thanh thiếu niên thì có 1 em gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần trong những năm đi học. Ví dụ như căng thẳng, lo âu, bắt nạt, các vấn đề gia đình, trầm cảm, khuyết tật học tập, lạm dụng rượu và chất kích thích. Các vấn đề sức khỏe tâm thần nghiêm trọng, chẳng hạn như các hành vi tự gây thương tích và tự tử, đang gia tăng, đặc biệt là ở giới trẻ. Thật không may, nhiều trẻ em và thanh thiếu niên không nhận
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>4 </small>
được sự giúp đỡ cần thiết, sự chênh lệch về khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc vẫn cịn tồn tại trong các cộng đồng thu nhập thấp, nhóm người trẻ thiểu số. Trong số 3,8 triệu thanh thiếu niên ở độ tuổi 12–17 đã cho biết về giai đoạn trầm cảm nghiêm trọng trong năm qua, gần 60% không nhận được bất kỳ sự điều trị nào − theo một báo cáo năm 2019 của Cơ quan Quản lý Dịch vụ Sức khỏe Tâm thần và Lạm dụng chất. Trong số những trẻ vị thành niên được giúp đỡ, gần 2/3 là những sự hỗ trợ đến từ ở trường học. [10]
Trong một cuộc khảo sát quốc gia vào năm 2007 về lĩnh vực SKTT, tác giả Jorm và Reacley (tại Úc) [3] đã tiến hành nghiên cứu về nhận thức về SKTT bằng cách đưa ra các trường hợp có RLTT để người dân nhận diện. Kết quả cho thấy:
− Khả năng nhận diện các rối loạn và tìm kiếm sự trợ giúp: khoảng 75% các trường hợp liên quan đến trầm cảm được gọi đúng tên. Khoảng 1/3 số này là tâm thần phân liệt và rối loạn stress sau sang chấn cũng được nhận diện chính xác. Kết quả trong nhóm cộng đồng nói chung, có 9% người trả lời sai tên của rối loạn ám ảnh xã hội, con số này ở giới trẻ là 3%.
− Các loại thuốc chống trầm cảm với rối loạn trầm cảm là cách điều trị tốt nhất. Còn các chiến lược phòng ngừa trong cuộc sống như các hoạt động thể dục thể thao; tìm kiếm thơng tin về các vấn đề của mình; đi ra ngồi; thực hiện các cách thức thư giãn cũng là những cách hỗ trợ tốt.
− Đối với giới trẻ, các thơng tin thu được khá đa dạng: tìm kiếm sự hỗ trợ của bạn thân trước tiên; uống vitamin (với rối loạn như trầm cảm, trầm cảm kết hợp với lạm dụng chất, ám sợ xã hội), hoặc thuốc chống trầm cảm (với các rối loạn khác); các cách thức phòng ngừa được đánh giá cao là các hoạt động tăng cường thể chất, sự ủng hộ của nhóm, thư giãn, giảm uống rượu, thuốc lá và cần sa.
− Các quan điểm về nguyên nhân và cách can thiệp được thể hiện như sau:
+ Ở các nghiên cứu trên cộng đồng, quan niệm về các tác nhân xã hội, như là những vấn đề gặp trong ngày, sự mất mát người thân, các sự kiện gây sang chấn và những chấn thương thời thơ ấu là các nguyên nhân khá phổ biến. Ngoài ra, yếu tố mất cân bằng sinh hóa cũng cần phải được xem xét thêm.
<small>5 </small>
+ Đối với giới trẻ, họ cho rằng giữ mối quan hệ giao tiếp với bạn bè và gia đình, duy trì lịch sinh hoạt thư giãn điều độ được xem như là chiến lược tốt nhất để phòng ngừa RLTT. [3]
Trong nghiên cứu về tìm hiểu nhận thức của bố mẹ với vấn đề SKTT của trẻ, tác giả Dianne Shanley (2008) đã thu thập thông tin qua việc sử dụng bảng hỏi. Theo bà, nhận thức về SKTT thể hiện ở các ý sau:
− Nhận diện các biểu hiện bất thường ở trẻ.
− Quan điểm về các nhóm nguyên nhân: có 11 nhóm nguyên nhân chủ yếu, chia thành 3 nhóm vấn đề mang tính tồn cầu: Các nguyên nhân về tâm sinh lý (cá nhân, các vấn đề của gia đình); Các nguyên nhân từ xã hội (bạn bè, vùng văn hóa...); Các ngun nhân do khơng hịa hợp về tự nhiên/tâm linh (bị ma nhập, sự sụt giảm về năng lượng...)
− Quan điểm về các cách thức điều trị để hỗ trợ cho trẻ: Điều trị cá nhân cho trẻ; Điều trị nhóm cả trẻ và bố mẹ; Điều trị từ phía trường học; Dùng thuốc [1]
Trong nghiên cứu, Đặng Hoàng Minh (2016) đã tổng hợp và tóm tắt các đặc điểm của một số chương trình nâng cao hiểu biết về SKTT dựa vào trường học: [2, trang 30 − 37]
Chương trình của Petchers và cộng sự thực hiện vào năm 1988 tại Hoa Kỳ với mục tiêu nâng cao kiến thức cơ bản về SKTT/ các trải nghiệm thực tế của người bệnh tâm thần, hình thức can thiệp: Chương trình sử dụng video kèm với chương trình giảng dạy về các khái niệm cơ bản về SKTT và các vấn đề về tâm thần; sau can thiệp, khơng có nhóm kiểm chứng, tiến hành trên 102 HS trung học; có kết quả là điểm số về kiến thức của HS tăng.
Chương trình của Battaglia và cộng sự (Mental Illness Awareness Week5, Hoa Kì, 1990); với mục tiêu cải thiện hành vi tìm kiếm trợ giúp và thái độ đối với bác sỹ tâm thần; hình thức can thiệp: Bác sỹ ở viện tâm thần tới nói chuyện với học sinh về trầm cảm, sử dụng chất gây nghiệm, tự tử, các hành vi tìm kiếm và trợ giúp chuyên nghiệp; bản đánh giá sau can thiệp, so sánh giữa nhóm được can thiệp (n=1380) và nhóm khơng được can thiệp (n= 282); kết quả cho thấy học sinh có tham gia các buổi nói chuyện với bác sỹ tâm thần có sự cải thiện ở mức độ trung bình với hành vi tìm kiếm sự trợ giúp ở nhà tham vấn/ bác
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Chương trình của Petrus Ng & Chan (Hong Kong, 2001), với mục tiêu thay đổi nhận thức đối với người bệnh tâm thần; hình thức can thiệp: Chương trình can thiệp 4 phần: giáo dục về SKTT, ngày truyền thơng SKTT, các buổi nói chuyện và trưng bày, tiếp xúc trực tiếp với người bệnh; cách đánh giá: 117 học sinh nhóm thực nghiệm và 102 học sinh nhóm kiểm chứng được đánh giá trước, sau và 7 tháng sau chương trình bằng thang OMICC6; kết quả cho thấy Có sự thay đổi tích cực trên các chỉ số về định kiến và phân biệt, kết quả duy trì sau can thiệp. Tuy nhiên khơng có sự thay đổi ở các mặt khác của thái độ.
<i><b>3.2. Các nghiên cứu trong nước </b></i>
Trong những năm qua, các cơng trình nghiên cứu, khảo sát về Sức khỏe tâm thần được triển khai thực hiện tại Việt Nam đã trở nên nhiều hơn, đặc biệt là những nghiên cứu, khảo sát dành cho lứa tuổi học sinh. Điều đó cho thấy các cơng trình nghiên cứu khoa học về tâm lý đang đáp ứng phần nào sự quan tâm của xã hội về các vấn đề Sức khỏe tâm thần.
Theo kết quả nghiên cứu của Bệnh viện Tâm thần ban ngày Mai Hương với Đại học Melbourne (Australia) trong khn khổ dự án “Chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh” cho thấy, trong nhà trường ln có một tỷ lệ học sinh có vấn đề về SKTT, có 15,94% em có rối nhiễu tâm trí trong tổng số học sinh các cấp học. [1]
<small>7 </small>
Một số nghiên cứu khác cũng chỉ ra tỷ lệ học sinh có các vấn đề SKTT khá cao, như: Nghiên cứu trong năm 2010, của do các bác sỹ Đại học Y tế cơng cộng thực hiện nhằm tìm hiểu thực trạng sức khỏe tâm thần (SKTT) và một số yếu tố nguy cơ ở trường THPT Cầu Giấy Hà Nội, kết quả cho thấy, 22,9% học sinh được xác định có rối loạn SKTT chung, trong đó 16,5% có rối loạn nặng và 6,4% có rối loạn nhẹ. Trong 5 phân nhóm rối loạn SKTT (cảm xúc, hành vi, tăng động, quan hệ nhóm bạn và giao tiếp xã hội) thì rối loạn về quan hệ nhóm bạn có tỷ lệ cao nhất (25,4%) và rối loại cảm xúc chiếm tỷ lệ thấp nhất (14,7%) ... Một nghiên khác trong năm năm 2012, của Nguyễn Cao Minh “Điều tra tỷ lệ trẻ em và vị thành niên miền Bắc có các vấn đề sức khỏe tâm thần” cho thấy 18% trẻ có nguy cơ mắc phải các vấn đề về SKTT. [5] Bên cạnh đó, nghiên cứu của Nguyễn Thanh Tâm và cộng sự đã cho thấy, có khoảng 18 − 68% học sinh THPT có biểu hiện của lo âu. Ngồi ra, có nhiều vấn đề khác đã và đang xảy ra đối với học sinh như tình trạng áp lực, quá tải trong học tập, bạo lực học đường, sự khủng hoảng định hướng giá trị sống, các biểu hiện hành vi lệch chuẩn, nghiện game, ma túy, mang thai tuổi học đường, các mối quan hệ tình cảm phức tạp, bạo lực và trầm cảm, hồn cảnh gia đình khó khăn…[7]
Nghiên cứu Nhu cầu tham vấn tâm lý của HS THPT và một số yếu tố tâm lý xã hội, kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu tham vấn tâm lý của HS THPT có mối quan hệ với 05 yếu tố: (1) Mức độ stress, (2) Mức độ khó khăn tâm lý, (3) Cách ứng phó với căng thẳng, (4) Quan hệ bạn bè, (5) Kiểu tính cách. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đã kiến nghị một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tham vấn tâm lý trong trường học như sau: Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu tham vấn cho HS THPT nói chung, tham vấn học đường cần tập trung giúp đỡ những đối tượng HS có nguy cơ gặp nhiều khó khăn và rối nhiễu tâm lý, đó là những HS: (1) chịu nhiều stress, (2) mức độ khó khăn tâm lý trong các lĩnh vực cơ bản cao, (3) sử dụng các cách ứng phó kém hiệu quả, (4) ít bạn bè thân, (5) kiểu tính cách thiên về hướng nội. Để xác định các đối tượng HS trên, hằng năm các trung tâm, văn phòng tham vấn học đường cần khảo sát về SKTT, các khó khăn tâm lý cũng như tính chất các mối quan hệ của HS và đặc điểm tâm lý nhân cách của các em. [4, trang 337]
Trong báo cáo tóm tắt nghiên cứu “Nghiên cứu toàn diện về các yếu tố liên quan đến trường học ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần và sự phát triển toàn diện của trẻ em nam và
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small>8 </small>
nữ vị thành niên tại Việt Nam” của Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc UNICEF, đã cho thấy các yếu tố nguy cơ chính đối với sức khỏe tâm thần ở trẻ vị thành niên ở Việt Nam bao gồm giới tính nữ, tuổi cuối vị thành niên, tình trạng di cư, sức khỏe tâm thần khơng tốt của người chăm sóc, giao tiếp khơng hiệu quả giữa cha mẹ và con cái, cảm giác xa cách với trường học, áp lực học tập và trải nghiệm bị lạm dụng, sang chấn và bỏ mặc. [10, trang 5]
“Chăm sóc sức khỏe tâm thần dựa vào trường học: kinh nghiệm của thế giới và bài học cho Việt Nam” của Nguyễn Thị Hoài Phương (2021) đã làm rõ nhu cầu cấp thiết của việc chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh trong trường học hiện nay. Từ đó, đề xuất một số định hướng phát triển các chương trình này tại Việt Nam trong tương lai. [8]
Từ các cơng trình nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng thực trạng số lượng học sinh có các vấn đề sức khỏe tâm thần đang chiếm tỷ lệ không nhỏ và đa dạng về các rối loạn gặp phải. Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng chỉ ra được các yếu tố liên quan đến trường học ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần và nhu cầu cấp thiết của việc chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh trong trường học hiện nay. Tuy nhiên, trong số những nghiên cứu được trình bày ở trên, chưa có nghiên cứu nào về Cơng tác xã hội cá nhân tại một trường THPT ở địa bàn quận Đống Đa, Hà Nội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài về “Công tác xã hội cá nhân với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần” (Trường hợp tại trường Trung học phổ thông Einstein) là cần thiết.
<b>4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu </b>
<i><b>4.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>
− Đối tượng nghiên cứu: Công tác xã hội cá nhân với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần tại trường Trung học phổ thông Einstein.
<i><b>4.2. Khách thể nghiên cứu </b></i>
− Khách thể nghiên cứu: Học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần, trường hợp học sinh bị rối loạn lo âu.
− Số lượng người tham gia nghiên cứu/ phỏng vấn: 25 người, bao gồm:
+ 1 học sinh có vấn đề SKTT, trường hợp rối loạn lo âu; và 11 học sinh khác. + 5 phụ huynh học sinh
+ 5 giáo viên chủ nhiệm, 2 trợ lý điều hành của trường
về Công tác xã hội cá nhân với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần (về các khái niệm, định nghĩa có liên quan đến đề tài như: khái niệm Công tác xã hội, khái niệm Công tác xã hội cá nhân, khái niệm Sức khỏe tâm thần, …) để sinh viên có thể tham khảo và cũng đồng thời khẳng định vai trò của ngành Công tác xã hội trong việc hỗ trợ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần tại Trường Trung học phổ thông Einstein.
<i><b>6.2. Về thực tiễn </b></i>
− Nhân viên CTXH khơng chỉ có vai trị hỗ trợ về mặt tâm lý cho học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần mà cịn có vai trò giúp giáo viên và phụ huynh học sinh hiểu tình trạng của học sinh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><small>10 </small>
− Đối với nhân viên CTXH, kiểm huấn viên, đề tài nghiên cứu này cung cấp những thông tin chân thực, chính xác về thực trạng hoạt động CTXH trong việc hỗ trợ cho hỗ trợ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần tại Trường THPT Einstein.
− Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng hoạt động thực hành CTXH cá nhân đối với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần.
<b>7. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu </b>
<i><b>7.1. Câu hỏi nghiên cứu </b></i>
Câu hỏi 1: Thực trạng hoạt động Công tác xã hội với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần tại trường Trung học phổ thông Einstein như thế nào?
Câu hỏi 2: Nhân viên Cơng tác xã hội có vai trị như thế nào trong việc hỗ trợ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần tại trường Trung học phổ thông Einstein?
Câu hỏi 3: Việc thực hành Công tác xã hội cá nhân với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần tại trường Trung học phổ thơng Einstein sẽ có tác động như nào đối với sức khỏe tâm thần thân chủ?
<i><b>7.2. Giả thuyết nghiên cứu </b></i>
Giả thuyết 1: Có nhiều hoạt động Cơng tác xã hội với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần tại trường Trung học phổ thông Einstein.
Giả thuyết 2: Nhân viên Cơng tác xã hội có vai trị quan trọng trong việc hỗ trợ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần tại trường Trung học phổ thông Einstein.
Giả thuyết 3: Việc thực hành Công tác xã hội cá nhân với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần tại trường Trung học phổ thơng Einstein sẽ có tác động tích cực đối với sức khỏe tâm thần thân chủ.
<b>8. Phương pháp nghiên cứu </b>
<i><b>8.1. Phương pháp phân tích tài liệu </b></i>
Trên cơ sở nghiên cứu các văn bản tài liệu có liên quan đến nội dung đề tài để nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực tiễn. Với nội dung nghiên cứu tài liệu bao
<small>11 </small>
gồm: nghiên cứu các tác phẩm có liên quan đến vấn đề Sức khỏe tâm thần của học sinh; nghiên cứu các cơng trình các tác giả trong và ngồi nước về Cơng tác xã hội với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần, một số lý thuyết công tác xã hội và các vấn đề khác có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.
Nghiên cứu các Luật pháp, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến việc hỗ trợ học sinh có vấn đề Sức khỏe tâm thần nước ta. Việc nghiên cứu tài liệu này, sẽ giúp cho tác giả có cái nhìn tổng quan từ những nghiên cứu đi trước về hoạt động Công tác xã hội với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần.
<i><b>8.2. Phương pháp quan sát </b></i>
Quan sát khoa học là phương pháp tri giác đối tượng một cách có hệ thống để thu thập thông tin về thực trạng hoạt động Công tác xã hội với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần. Trong quá trình nghiên cứu thực tiễn, nghiên cứu sử dụng phương pháp quan sát nhằm mục đích thu thập thêm thông tin khách quan của khách thể nghiên cứu, mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong quá trình học tập, mối liên hệ giữa gia đình và nhà trường, mối quan hệ bạn bè của học sinh, nhận thức, thái độ, hành vi của học sinh trong các giờ học.
<i><b>8.3. Phương pháp phỏng vấn </b></i>
Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà nghiên cứu và người cung cấp thơng tin nhằm tìm hiểu cuộc sống, kinh nghiệm và nhận thức của người cung cấp thơng tin thơng qua chính ngơn ngữ của người ấy.
Nhân viên Công tác xã hội sẽ phỏng vấn với kiểm huấn viên, giáo viên chủ nhiệm và 1 học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần.
<i><b>8.4. Phương pháp Công tác xã hội cá nhân </b></i>
8.4.1. Giai đoạn 1: Tiếp cận thân chủ
Đây là bước có ý nghĩa quyết định sự thành cơng của tiến trình can thiệp. Việc tiếp cận thân chủ có thể thông qua người giới thiệu trung gian (như cá nhân, tổ chức, gia đình...) hoặc thân chủ tự tìm đến gặp nhân viên CTXH hay nhân viên CTXH đến gặp thân chủ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>12 </small>
Mục đích của giai đoạn này nhằm:
− Tạo mối quan hệ với thân chủ hướng đến việc hợp tác và chia sẻ thông tin. − Thiết lập mối quan hệ trợ giúp giữa thân chủ và nhân viên CTXH.
− Khuyến khích và tạo động lực cho thân chủ tìm đến các buổi kế tiếp.
Trong giai đoạn này, nhân viên CTXH có thể sử dụng những nội dung sau để bắt đầu nhập cuộc với khách hàng/thân chủ của mình:
− Hiểu biết rõ hơn về nguyên do thân chủ tìm kiếm dịch vụ nhằm hiểu rõ vấn đề hiện tại của thân chủ.
− Tác động của những vấn đề này tới việc thực hiện các chức năng xã hội và cơ thể bình thường của thân chủ.
− Những điều kiện sống hiện tại của thân chủ: y tế, vệ sinh, các nhu cầu khác ... − Tìm hiểu về các hệ thống trợ giúp: gia đình, bạn bè, xóm giềng, ...
− Những thông tin cần thiết của một người ở nhiều khía cạnh như giáo dục, những mối quan hệ, tiểu sử công việc, tiểu sử pháp luật.
− Kỳ vọng của thân chủ.
Trong giai đoạn này, gia đình được coi như “chiếc cầu nối” giữa nhân viên CTXH và thân chủ, cung cấp một số thông tin liên quan đến thân chủ cũng như gia đình.
8.4.2. Giai đoạn 2: Thu thập thơng tin
Đây là tiến trình thu thập thơng tin để có cái nhìn tổng thể về vấn đề của thân chủ. Nhưng những thơng tin ban đầu cũng có nhiều mập mờ, tương phản haysai lạc cần được làm sáng tỏ hoặc được kiểm chứng lại với thân chủ, có thể do truyền thơng khơng được tốt, cũng có thể do chính thân chủ đang ở trong tình trạng mập mờ, mâu thuẩn.Nhân viên xã hội cần hỗ trợ thân chủ từ từ nhìn rõ lại vấn đề và thường những mâu thuẩn này bắt nguồn từ những nguyên nhân sâu xa.
Công việc thu thập và kiểm chứng các thơng tin được duy trì liên tục trong thời gian thực hành cơng tác xã hội vì con người thân chủ và hồn cảnh của thân chủ ln thay đổi, nhất là từ khi có sự can thiệp của nhân viên xã hội.
<small>13 </small>
Nguồn thu thập thông tin : − Chính thân chủ tự bộc lộ; − Người thân, bạn bè;
− Trường học, nơi làm việc, tổ dân phố, đoàn thể; − Tài liệu, biên bản có liên quan, ...
8.4.3. Giai đoạn 3: Chuẩn đốn, phân tích, đánh giá và xác định vấn đề
Chẩn đoán là xác định trọng tâm vấn đề dựa trên cơ sở các dữ kiện thu thập được, tức là ghi nhận:
− Các điểm mạnh và giới hạn của thân chủ − Các điểm thuận lợi và bất lợi của hoàn cảnh, − Tâm trạng, nhận thức, mong đợi của thân chủ.
Gồm 3 bước: chẩn đốn, phân tích, thẩm định. Chẩn đốn là xác định xem có trục trặc ở chỗ nào, tính chất của vấn đề là gì, trên cơ sở các dữ kiện thu thập được. Phân tích là động tác chỉ ra các nguyên nhân hay nhân tố dẫn đến hay đóng góp vào khó khăn. Thẩm định là thử xem có thể loại bỏ hay giảm bớt khó khăn trên cơ sở động cơ và năng lực của thân chủ để tham gia giải quyết vấn đề, tạo mối quan hệ và sử dụng sự giúp đỡ. Sự thẩm định này mang tính chất tâm lý xã hội vì đây là trọng tâm của CTXH.
8.4.4. Giai đoạn 4: Lập kế hoạch hỗ trợ
Đây là giai đoạn lập kế hoạch giải quyết vấn đề. Dựa trên sự chẩn đoán chi tiết của giai đoạn trước, nhân viên xã hội giúp thân chủ hướng tìm lối thốt cho họ. Giai đoạn này nhằm xác định mục đích trị liệu và các mục tiêu cụ thể. Nhân viên xã hội hỗ trợ bằng cách phản ánh, phân tích, tơn trọng quyền tự quyết của thân chủ và chính thân chủ là người chủ động trong sự lựa chọn giải pháp.
Ở đây nhân viên CTXH xác định loại hỗ trợ sẽ cung ứng cho thân chủ, cách can thiệp cho rằng tốt nhất cho thân chủ. Giai đoạn này gồm việc xác định mục đích trị liệu và các mục tiêu cụ thể để đạt được mục đích. Càng nhiều càng tốt đây là một sự chung sức của
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><small>14 </small>
nhân viên CTXH và thân chủ vì chính thân chủ là người phải tạo ra những thay đổi cần thiết với sự hỗ trợ của NVXH. Sự chọn lựa mục đích cuối cùng phụ thuộc vào:
− Điều thân chủ mong muốn.
− Điều mà nhân viên CTXH cho là cần thiết khả thi.
− Và các yếu tố liên hệ như có hay khơng có các dịch vụ, tài ngun cần thiết.
8.4.5. Giai đoạn 5: Triển khai các hoạt động trợ giúp thân chủ giải quyết vấn đề Đó là tổng hợp các hoạt động và dịch vụ nhằm vào việc giúp đỡ cá nhân có vấn đề. Đó là giải tỏa hay giải quyết một số vấn đề trước mặt và điều chỉnh những khó khăn với sự công nhận và tham gia của thân chủ. Có khi mục tiêu chỉ là giữ khơng cho tình huống trở nên xấu hơn, giữ vững hiện trạng, giữ mức độ hoạt động tâm lý xã hội của thân chủ thông qua các hỗ trợ vật chất và tâm lý. Một cách đặc thù mục tiêu của trị liệu gồm:
− Thay đổi hay cải thiện hoàn cảnh của thân chủ bằng cách đưa vào các tài nguyên như cải thiện các mối quan hệ gia đình.
− Giúp cá nhân thay đổi thái độ, hành vi trong hoàn cảnh trước mặt.
Làm như thế nhân viên CTXH có thể sử dụng một cách tiếp cận hay liên kết 3 cách. + Cung cấp một dịch vụ cụ thể.
+ Cải tạo môi trường và trị liệu trực tiếp mà ngày nay người ta gọi là tham vấn. Tham vấn cá thể được sử dụng một mình nó như một cách trị liệu hay kết hợp với một cách tiếp cận khác.
Công cụ của trị liệu là mối quan hệ nhân viên CTXH và thân chủ, vấn đàm, triển khai các tài nguyên xã hội, vật chất, áp dụng chính sách và tài nguyên của cơ quan xã hội và nối kết với các tài nguyên của cơ quan và cộng đồng khác. Việc trị liệu phải hướng vào và dựa trên gia đình, và vấn đề nên được xem như vấn đề của gia đình khi thấy phù hợp. Thành viên trong gia đình có thể là nhân tố đóng góp vào vấn đề hay ngược lại có người có những khả năng mà nhân viên CTXH có thể huy động để giải quyết vấn đề. Các cuộc vấn đàm có thể nhằm vào lứa đơi hay gia đình như một phần của trị liệu.
<small>15 </small>
8.4.6. Giai đoạn 6: Lượng giá các hoạt động
Là động tác nhằm xác định xem sự can thiệp của nhân viên CTXH hay trị liệu có đem lại kết quả mong muốn không. Lượng giá được thực hiện thỉnh thưởng trong quá trình trị liệu để giúp thân chủ tự mình xem cuộc trị liệu có giúp gì cho anh ta khơng. Kết quả lượng giá sẽ nêu lên nhu cầu sửa đổi hay thích nghi. Lượng giá cũng giúp NVXH xác định xem mục đích mục tiêu đề ra đạt được đến mức nào để điều chỉnh trị liệu.
Chỉ có thể lượng giá tốt khi các mục tiêu được xác định rõ ràng và có thể đo đạt trên cơ sở thơng tin đầy đủ. Ngoài ra, nhân viên CTXH, thân chủ và những người cùng giúp đỡ khác (như bác sĩ, gia đình, nhà tâm lý) phải cùng tham gia việc lượng giá khi cần thiết.
8.4.7. Kết thúc
Nhân viên xã hội có thể phát triển một số kế hoạch tiếp theo để thân chủ để thực hiện. Thông thường, giai đoạn kết thúc diễn ra khi các mục tiêu can thiệp đạt được hay vấn đề của thân chủ được giải quyết. Tuy nhiên, vẫn cịn có một số lí do khác khiến việc can thiệp phải kết thúc đột ngột: Thân chủ tự vượt qua được; Chuyển tuyến…
<b>9. Kết cấu khóa luận </b>
<b>Khóa luận tốt nghiệp này gồm 3 chương: </b>
Chương 1:Cơ sở lý luận về Công tác xã hội với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần Chương 2: Thực trạng hoạt động Công tác xã hội đối với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần tại trường THPT Einstein
Chương 3. Thực hành Công tác xã hội cá nhân với học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần tại trường THPT Einstein
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>16 </small>
<b>1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài </b>
<i><b>1.1.1. Khái niệm Công tác xã hội </b></i>
Năm 1970, Hiệp hội quốc gia nhân viên xã hội Mỹ (NASW) đưa ra định nghĩa: “Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó”.
Năm 2000, Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế tại Montréal, Canada (IFSW) đưa ra định nghĩa: “Nghề Công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, Công tác xã hội tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và Công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề". Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ: CTXH góp phần giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế phát sinh các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ, hưởng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến.
<i><b>1.1.2. Khái niệm Công tác xã hội cá nhân </b></i>
Theo Grace Mathew “CTXH cá nhân là một phương pháp giúp đỡ cá nhân con người thông qua mối quan hệ một − một. Nó được nhân viên xã hội ở các cơ sở xã hội sử dụng để giúp những người có vấn đề về chức năng xã hội và thực hiện chức năng xã hội”.
Còn theo Helen Harris Perman, “CTXH cá nhân là một tiến trình được các cơ quan lo về an sinh con người sử dụng để giúp các cá nhân đối phó hữu hiệu hơn với các vấn đề thuộc về chức năng xã hội của họ”.
Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh (1998), “ CTXH cá nhân là một biện pháp can thiệp quan tâm đến những vấn đề về nhân cách mà một đối tượng cảm nghiệm”.
<small>17 </small>
Như vậy có thể thấy CTXH cá nhân có những đặc điểm như sau: − Một cách thức, một qua trình nghiệp vụ
− Thông qua mối quan hệ 1 − 1
− Nhân viên CTXH sử dụng các kiến thức kỹ năng chuyên môn giúp cho thân chủ phát huy tiềm năng, tham gia tích cực vào q trình giải quyết vấn đề, cải thiện điều kiện sống của mình.
<i><b>1.1.3. Khái niệm và vai trò của Nhân viên CTXH trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần </b></i>
Công tác xã hội là nghề nghiệp tham gia giải quyết các vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội trong quá trình can thiệp các mối tương tác của con người với môi trường sống (IFSW& IASSW, 2011). CTXH với những chức năng can thiệp, giải quyết, phòng ngừa các vấn đề xã hội, phát triển tiềm năng cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Nhân viên công tác xã hội làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tâm thần cũng thực hiện các chức năng, nhiệm vụ trên của CTXH trong các cơ sở trợ giúp những cá nhân, gia đình và nhóm người có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Nhân viên CTXH tham gia vào các hoạt động sau trong quá trình giúp đỡ những người tâm thần:
− Phát triển và cải thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội trong đó có luật pháp, chính sách, chương trình dịch vụ liên quan tới sức khỏe tâm thần;
− Trợ giúp cá nhân, gia đình giải quyết và đối phó với vấn đề về sức khỏe tâm thần; − Kết nối cá nhân, gia đình với hệ thống dịch vụ và nguồn lực trong xã hội để giải
quyết vấn đề liên quan tới SKTT;
− Thúc đẩy các tổ chức xã hội cung cấp dịch vụ và nguồn lực hoạt động có hiệu quả cho việc trợ giúp người có vấn đề SKTT.
CTXH được sử dụng trong thúc đẩy chăm sóc sức khỏe tâm thần bởi CTXH tham gia vào: 1/ Thúc đẩy chính sách hợp tác và sự tham gia của chuyên gia, cơ quan chức năng trong can thiệp trợ giúp người tâm thần; 2/ Phát triển môi trường và hệ thống cung cấp dịch
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><small>18 </small>
vụ và sử dụng dịch vụ liên quan tới sức khỏe tâm thần; 3/ Thúc đẩy khía cạnh nhiều chiều, đa yếu tố của chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần trong cộng đồng; cung cấp minh chứng cho việc sử dụng CTXH tạo nên tính thân thiện, hiệu quả và sự bình đẳng trong can thiệp trợ giúp người tâm thần (M. Duggan et. Al. 2002:5).
Có thể nói nhân viên CTXH là một trong những nhà chuyên môn cung cấp dịch vụ nhiều nhất so với các nhà chuyên môn khác trong hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần. Nghiên cứu sự tham gia của nhân viên CTXH trong lĩnh vực an sinh xã hội nói chung và đặc biệt trong chăm sóc sức khỏe tâm thần nói riêng cho thấy, nhân viên CTXH có rất nhiều vai trị khác nhau trong cơ sở sức khỏe tâm thần, cụ thể như:
− Cung cấp dịch vụ trực tiếp cho cá nhân, gia đình hay nhóm qua tham vấn cá nhân, can thiệp khủng hoảng, biện hộ, điều phối nguồn lực và quản lý ca...
− Tham gia vào xây dựng kế hoạch, cung cấp các dịch vụ, thiết lập sự hợp tác của các nhà chun mơn, người chăm sóc, và gia đình họ.
− Phối hợp với cộng đồng xây dựng môi trường thân thiện cho đối tượng.
− Biện hộ, bảo vệ đối tượng để họ tiếp cận được các dịch vụ có chất lượng, tiếp cận các mơ hình can thiệp và nguồn lực cần thiết.
− Biện hộ chính sách xã hội như hỗ trợ đối tượng tâm thần, rối nhiễu tâm thần có hồn cảnh nghèo đói, khơng có việc làm, khơng nhà ở, biện hộ cho sự công bằng xã hội đối với đối tượng và gia đình họ.
− Hỗ trợ các chương trình phịng ngừa như can thiệp sớm, giáo dục cá nhân và cộng đồng, cải tiến các dịch vụ, cung cấp thông tin.
− Tham gia nghiên cứu để đưa ra những căn cứ, bằng chứng cho xây dựng chính sách và xây dựng các hệ thống dịch vụ trợ giúp người rối nhiễu tâm thần
<i><b>1.1.4. Khái niệm về Học sinh Trung học phổ thơng </b></i>
Học sinh Trung học phổ thơng cịn gọi là tuổi đầu thanh niên (thời kì từ 15 − 18 tuổi), là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên cũng thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện tượng, nó được giới hạn ở hai mặt: sinh lí và tâm lý.
<small>19 </small>
<i><b>1.1.5. Khái niệm Sức khỏe tâm thần </b></i>
Theo WHO, SKTT nói đến một loạt các yếu tố có thể trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến sự lành mạnh về tâm trí, một yếu tố trọng trong định nghĩa của WHO về sức khoẻ: “là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội và khơng phải chỉ bao gồm có tình trạng khơng có bệnh hay thương tật”.
Theo Từ điển Tâm lý học, SKTT “là một trạng thái thoải mái, dễ chịu về tinh thần, khơng có các biểu hiện rối loạn về tâm thần, một trạng thái đảm bảo cho sự điều khiển hành vi, hoạt động phù hợp với môi trường”.
Như vậy cách định nghĩa này cũng thống nhất với cách định nghĩa của WHO.
Ở Việt Nam, Sức khoẻ tinh thần và SKTT thường được dùng lẫn lộn với nhau nhưng với ý nghĩa như nhau và cùng có từ tương đương trong tiếng Anh là “mental health”. Trong tiếng Việt, “tâm thần” mang rất nhiều định kiến vì nó gắn liền với những bệnh tâm thần nặng như tâm thần phân liệt, động kinh (điên, cuồng, lên cơn giật...) nên những nhà tâm lý thường sử dụng từ Sức khoẻ tinh thần nhằm làm giảm nhẹ định kiến xã hội với SKTT.
Tổ chức Y tế thế giới cho rằng các vấn đề SKTT bao gồm rất nhiều các vấn đề khác nhau từ nhẹ đến nặng với nhiều triệu chứng phong phú. Tuy nhiên, một cách khái quát, những triệu chứng này là sự kết hợp của những suy nghĩ cảm xúc, hành vi lệch lạc và mối quan hệ với người khác lệch lạc, ví dụ như trầm cảm, lo âu, stress đến chậm phát triển và những rối loạn liên quan đến việc lạm dụng chất gây nghiện. Vấn đề SKTT rất phổ biến với con người nói chung. Cũng theo WHO, cứ ba người thì có một người có vấn đề về SKTT và trong đời người ai cũng có một lần trải qua các vấn đề về SKTT.
Khi đề cập đến khái niệm các vấn đề SKTT, có một số thuật ngữ hay được sử dụng kèm là RLTT, bệnh tâm thần. RLTT là thuật ngữ dùng để chỉ những suy nghĩ, cảm xúc, hành vi lệch lạc ở mỗi cá nhân và những biểu hiện này ảnh hưởng đến chức năng cuộc sống hiện tại của cá nhân đó. Một người có thể có vấn đề về SKTT nhưng chưa chắc đã bị RLTT nếu như vấn đề đó khơng ảnh hưởng đến cuộc sống (gia đình, cơng việc, xã hội,...) của họ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">− Rối loạn trầm cảm
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp, xuất hiện với nhiều triệu chứng và hay gặp nhất đó là sự buồn bã một cách sâu sắc.
− Rối loạn lưỡng cực
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực là một rối loạn mà cảm xúc của người bệnh thường thay đổi từ giai đoạn trầm cảm sang hưng phấn hoặc ngược lại. Cũng có những lúc khí sắc bệnh nhân bình thường. Những triệu chứng trong giai đoạn trầm cảm giống với chứng rối loạn trầm cảm. Đối với giai đoạn hưng phấn, người bệnh thường vui vẻ quá mức, cảm giác mình là nhất, tăng hoạt động và hoang tưởng tự cao.
− Chứng chán ăn tâm thần
Chán ăn tâm thần là loại rối loạn tâm thần được thể hiện dưới dạng rối loạn ăn uống. Bệnh có đặc điểm là bệnh nhân từ chối duy trì một trọng lượng cơ thể bình thường tối thiểu, rất sợ tăng cân và có nhận thức sai lầm về trọng lượng hay hình dáng cơ thể bản thân.
− Rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế là một loại rối loạn lo âu có thể xuất hiện ở bất kỳ độ tuổi nào nhưng chủ yếu bắt đầu trong thời kỳ thơ ấu. Bệnh gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống gia đình, xã hội và cơng việc hay vấn đề học tập của người bệnh.
<small>21 </small>
− Rối loạn ám sợ
Rối loạn ám sợ là toàn bộ các phản ứng tâm lý và cơ thể do một đối tượng hay hoàn cảnh gây sợ gây ra. Đối tượng gây sợ có thể là một con vật cụ thể như rắn, nhện, cơn trùng,... hoặc là một hồn cảnh xã hội như khi phải nói chuyện trước đám đơng, khi trong thang máy, khi đi trên máy bay hoặc trong xe bus,... Rối loạn ám sợ làm cho bệnh nhân sợ hãi và tránh những cơng việc có thể gây ra phản ứng sợ hãi, dẫn tới hậu quả làm giảm hiệu suất trong công việc và các mối quan hệ xã hội.
− Rối loạn lo âu
Rối loạn lo âu có đặc điểm là bệnh nhân luôn cảm thấy lo âu và căng thẳng quá mức hoặc không thực tế về những vấn đề trong cuộc sống. Bệnh nhân luôn cảm thấy lo sợ như: sợ hết tiền, sợ mình hoặc người thân sắp bị bệnh, bị tai nạn hay gặp chuyện không may.
− Rối loạn tâm thần do rượu hay ma túy
Rối loạn tâm thần do rượu, ma túy là hậu quả của việc làm dụng rượu và các chất gây nghiện. Hiện nay, vấn đề này đang ngày càng nổi bật và khó giải quyết. Những người lạm dụng rượu, ma túy hay các chất gây nghiện khác thường không kiểm soát được hành vi, và họ sẽ cần dùng liên tục mỗi ngày với liều lượng ngày càng cao.
− Chậm phát triển trí tuệ
Chậm phát triển trí tuệ là một tình trạng bệnh lý với đặc điểm là khả năng trí tuệ chung của bệnh nhân thấp hơn mức bình thường một cách rõ rệt. Cùng với đó là giảm khả năng thích nghi như khả năng tự lập, khả năng thực hiện các trách nhiệm của xã hội tương ứng với độ tuổi.
<i><b>1.1.6. Khái niệm Học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần </b></i>
Học sinh có vấn đề SKTT là học sinh có các biểu hiện rối loạn có thể gặp phải biểu hiện qua nhận thức, cảm xúc và hành vi. Học sinh có vấn đề SKTT nếu gặp hồn cảnh và mơi trường tác động có thể dẫn tới những ảnh hưởng tiêu cực tới học tập, quan hệ xã hội và cuộc sống của các em. [9, trang 26]
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><small>22 </small>
<b>1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu </b>
<i><b>1.2.1. Thuyết Hệ thống và Sinh thái </b></i>
Quan điểm của thuyết hệ thống dựa trên nền tảng lý thuyết sinh học cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống, được tạo nên từ các tiểu hệ thống và đồng thời bản thân các tiểu hệ thống cũng là một phần của hệ thống lớn hơn. Do đó, con người là một bộ phận của xã hội, và được tạo nên từ những phần tử nhỏ hơn. Vì thế, hành vi của con người không phải bộc lộ tự phát một cách độc lập, mà nằm trong mối quan hệ qua lại với những hệ thống khác trong xã hội. Nói cách khác, con người là một bộ phận của xã hội, cuộc sống của con người chịu sự tác động của các hệ thống xã hội. Sự thay đổi ở bất kỳ mắt xích nào trong hệ thống xã hội cũng tạo ra những ảnh hưởng đến hệ thống con nằm trong đó.
Nội dung chủ đạo của lý thuyết hệ thống sinh thái nhấn mạnh đến mối liên hệ tương tác giữa con người và môi trường sống. Đây là một lý thuyết quan trọng trong nền tảng triết lý của ngành CTXH. Tiếp cận theo lý thuyết này, mỗi cá nhân đều có mối quan hệ tương hỗ với các nhân tố xung quanh họ và phụ thuộc vào mơi trường và hồn cảnh sống. Theo đó, sự phát triển của mỗi cá nhân hay hành vi của mỗi cá nhân sẽ chịu ảnh hưởng, tác động nhất định của các yếu tố, các hệ thống xung quanh, ví dụ như: gia đình, bè bạn, thầy cơ, làng xóm, tổ chức, đoàn thể,... Các hệ thống này hoạt động vừa có tính chất riêng biệt, lại vừa có sự trao đổi, liên kết chặt chẽ với nhau. Để hiểu biết về một yếu tố nào đó trong mơi trường, ví dụ như về một cá nhân, cần phải tìm hiểu cả hệ thống mơi trường xung quanh nó. Vì vậy, bất cứ một sự can thiệp hay giúp đỡ một cá nhân nào đó đều có liên quan và ảnh hưởng đến tồn bộ hệ thống đó và ngược lại.
Theo quan điểm hệ thống sinh thái của Bronfenbrenner (1917 – 2005) cho rằng có 5 mức độ mơi trường ảnh hưởng đồng thời tới cá nhân:
<small>23 </small>
<i><small>Ảnh 1.1. Hệ thống sinh thái </small></i>
− Hệ vi mô (microsystem): Là hệ thống bố trí nên cuộc sống cá nhân của mỗi người, gồm: gia đình; những anh chị em, gia đình mở rộng; trường học; hàng xóm thân thiết;... Chính mỗi cá nhân sẽ chủ động thiết lập nên hệ thống này.
− Hệ trung mô (mesosystem): Là sự tương tác giữa các hệ thống vi mô với nhau và kết nối cá nhân trẻ với các bối cảnh bên ngoài như: Các tương tác giữa trải nghiệm trong gia đình với trường học; các quan hệ với các tiểu hệ thống trong gia đình... − Hệ ngoại vi (exosystem): Các trải nghiệm trong các thiết lập xã hội mà mỗi cá nhân
khơng có vai trị hoạt động nhưng nó có ảnh hưởng đến các cá nhân trong bối cảnh gần gũi với mình.
− Hệ vĩ mơ (macrosystem): Các yếu tố rộng lớn hơn, đó là những thái độ hay hệ thống tư tưởng trong nền văn hoá mà cá nhân đang sinh sống như ảnh hưởng của xã hội nói chung, hệ thống chính trị, chính quyền, các giá trị văn hố và tơn giáo...
− Hệ thời gian (chronosystem): Là các yếu tố liên quan đến sắp xếp các sự kiện của môi trường, các thay đổi đặc biệt trong suốt cuộc sống; các tác động bởi thời gian và các giai đoạn phát triển then chốt. Đồng thời cũng là các điều kiện lịch sử — xã hội tác động, chi phối đến đời sống cá nhân. [9, trang 106 − 109]
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><small>24 </small>
<i><b>1.2.2. Thuyết Nhận thức – Hành vi </b></i>
Nhận thức – hành vi (Cognitive – Behavioral Therapy) là một liệu pháp tâm lý xuất hiện khá phổ biến trong những năm gần đây. Tiếp cận nhận thức – hành vi đã xuất hiện trên 50 năm dựa trên sự tổng hợp mang tính thực nghiệm của liệu pháp hành vi và liệu pháp nhận thức. Trang Bách khoa toàn thư trực tuyến Wikipedia đã liệt kê hơn 30 cách tiếp cận thuộc mơ hình này, trong đó, phương pháp hành vi cảm xúc thuần lý của Ellis và phương pháp điều chỉnh nhận thức của Back được xem là hai hướng tiếp cận mang tính chất kinh điển nhất của tiếp cận nhận thức − hành vi.
Dựa trên các nghiên cứu của Robertson (2010, Sharf (2000), Sommers – Flanagan và Sommers – Flanagan (2004), có thể rút ra một số tư tưởng cơ bản của tiếp cận nhận thức – hành vi như sau:
Các nhà tâm lý theo hướng nhận thức – hành vi quan niệm rằng con người không phải là sinh vật thụ động bị kiểm sốt chặt chẽ của mơi trường. Cách thức con người hành động xuất phát từ sự hiểu biết và nhận thức của họ. Chính suy nghĩ của con người tạo nên cảm xúc và hành vi, chứ không phải là sự kiện, tình huống bên ngồi hay những cá nhân ở quanh ta. Nhận thức của mỗi cá nhân tồn tại trong mối quan hệ tương tác giữa cảm xúc, hành vi, cùng những hậu quả của chúng trước các sự kiện xảy ra trong môi trường sống của họ. Chính vì thế, việc thay đổi nhận thức về sự kiện xảy ra có thể thay đổi được cảm xúc và hành vi.
Theo tiếp cận nhận thức – hành vi, những rỗi nhiễu tâm lý xuất hiện có thể do:
<i>− Những suy nghĩ, niềm tin phi lý, tức là những suy nghĩ, niềm tin bóp méo sự thực; </i>
ngăn chặn cá nhân đạt mục tiêu của họ, tạo nên những cảm xúc cùng cực, dai dẳng gây buồn khổ, lo lắng; chứa đựng những cách thức phi logic trong việc đánh giá cá nhân, người khác và thế giới.
<i>− Những ý nghĩ tự động “méo mó”, cực đoan hoặc khơng chính xác, tức là những ý </i>
nghĩ xuất hiện tự động trên niềm tin cốt yếu sai lệch của con người về bản thân mình và thế giới xung quanh.
<small>25 </small>
<i>− Sơ đồ nhận thức khơng thích ứng và sự bóp méo nhận thức, tức là những suy nghĩ </i>
không phù hợp về thế giới, những niềm tin quan trọng và những giả định lệch lạc về con người, sự kiện và môi trường sống.
Việc nhận diện và đánh giá lại những niềm tin lệch lạc, suy nghĩ tiêu cực và thay thế chúng bằng những suy nghĩ tích cực, có lý hơn, dựa trên nền tảng thực tế và rèn luyện hành vi (củng cố) để có hành vi mới, phù hợp với thực tiễn sẽ giúp cá nhân cải thiện được các RNCX của mình. [9, trang 110 − 111]
<b>1.3. Luật pháp, chính sách hỗ trợ học sinh có vấn đề Sức khỏe tâm thần ở Việt Nam </b>
Khoa học đã chứng minh trẻ em, nạn nhân của các hình thức hành hạ, ngược đãi có rủi ro rất lớn trở thành người có vấn đề tâm thần hoặc tội phạm. Chính vì vậy, bảo vệ để trẻ em không trở thành nạn nhân của các hình thức hành hạ, ngược đãi là một trong những nhiệm vụ chính của Công ước quốc tế 1989 về quyền trẻ em. Năm 1990, Việt Nam trở thành nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này.
Hiến pháp 1946, có hai điều quy định về an sinh trẻ em: Nhà nước đảm bảo cho trẻ em được giáo dục và chăm sóc; Nhà nước cũng có chính sách trợ giúp với học trò nghèo. Quyền trẻ em được tăng dần Hiến pháp 1959, 1980, và tăng lên 10 khoản trong Hiến pháp 1992, bao gồm bảo đảm của Nhà nước về quyền được học tập, chăm sóc và bảo vệ về mặt sức khỏe, thể chất. Chính sách học phí, học bổng đối với trẻ em năng khiếu, trẻ em khuyết tật hoặc có hồn cảnh khó khăn; nghĩa vụ bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em là của gia đình, Nhà nước và xã hội.
Về chăm sóc SKTT, Việt Nam khơng có chính sách riêng về chăm sóc SKTT, đặc biệt là chính sách về SKTT với học sinh. Thực tế, một số nội dung chính sách được đề cập đến trong các chương trình, quyết định khác nhau do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Một số chính sách hiện hành của Việt Nam có liên quan đến chăm sóc SKTT cho học sinh chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực y tế và xã hội, giáo dục do Bộ Y tế và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là đầu mối triển khai thực hiện, có thể chia thành các nhóm chính sách về SKTT trẻ em như sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>26 </small>
<i><b>1.3.1. Chính sách về Y tế </b></i>
Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân ban hành năm 1989 đã khăng định cơng dân có quyền được bảo vệ sức khoẻ, nghỉ ngơi, giải trí, rèn luyện thân thể, được bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường sống và được phục vụ về chuyên môn y tế. Trong Luật này cũng đề cập đến quyền của người RLTT thông qua quy định một số tình trạng sức khoẻ cần có sự đồng ý của gia đình người có vấn đề tâm thần trước khi điều trị cũng như điều kiện để được điều trị bắt buộc.
Dự án Bảo vệ SKTT cộng đồng thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số bệnh xã hội – bệnh dịch nguy hiểm HIV/AIDS, nay thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế. Dự án này được Chính phủ phê duyệt năm 1998 trong đó có nêu rõ mục tiêu cần đạt tới là xây dựng mạng lưới, triển khai mơ hình lồng ghép nội dung chăm sóc SKTT với các nội dung chăm sóc sức khoẻ khác của trạm y tế xã, phường; phát hiện, quản lý và điều trị người có vấn đề tâm thần (tập trung vào tâm thần phân liệt, động kinh) kịp thời để họ sớm trở về sống hoà nhập với cộng đồng.
Luật Dược năm 2005 quy định về quản lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và tiền chất làm thuốc.
Luật Bảo hiểm y tế 2005 quy định bảo hiểm bắt buộc đối với các thân chủ bảo trợ xã hội được hưởng trợ cấp hằng tháng, trong đó bao gồm thân chủ tâm thần.
Luật Khám chữa bệnh ban hành năm 2009 quy định bắt buộc phải chữa bệnh cho người có vấn đề tâm thần, phải có hội chẩn và chế độ hồ sơ bệnh án cho người có vấn đề tâm thần.
<i><b>1.3.2. Chính sách về Giáo dục </b></i>
Hiến pháp nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục” (Điều 37) và “Cơng dân có quyền và nghĩa vụ học tập” (Điều 39). Điều 61 trong Hiến pháp quy định “Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục;... bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học...”.
<small>27 </small>
Hiện thực hoá các quy định của Hiến pháp, Việt Nam đã ban hành và thực hiện một số luật nhằm “bảo đảm quyền bình đẳng cơ hội tham gia giáo dục tất cả trẻ em không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần, địa vị xã hội” và “nghiêm cấm cản trở việc học tập của trẻ em” (Điều 4 và Điều 7, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em). Khơng chỉ khuyến khích, bảo đảm quyền được tham gia học tập, các chính sách của Việt Nam cịn quy định bắt buộc tham gia phổ cập giáo dục tiểu học cho tất cả trẻ em trong độ tuổi (Điều 10, Luật Giáo dục). Với mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, Nhà nước đã quy định trong Luật về việc phổ cập giáo dục tiểu học và giáo dục Trung học cơ sở. Mọi công dân Việt Nam trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để đạt trình độ giáo dục tiểu học (Điều 11, Luật Giáo dục; Điều 1, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học). Điều đó có nghĩa là mọi trẻ em Việt Nam có độ tuổi quy định có quyền và nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện phổ cập giáo dục Tiểu học và giáo dục Trung học cơ sở.
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2006 quy định quyền tra em và trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan đồn thể, cộng đồng và gia đình trong việc chăm sóc trẻ em có hồn cảnh đặc biệt, bao gồm: trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em khuyết tật thể chất và tâm thần trẻ em nhiễm HIV, trẻ em nhiễm chất độc màu da cam.
Điều này được khẳng định và cụ thể hoá hơn trong Luật Người khuyết tật (2010). Điều 27 của Luật này có quy định: “Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật được học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của người khuyết tật. Người khuyết tật được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng...”. Theo quy định này, học sinh khuyết tật sẽ được điều chỉnh chương trình theo hướng “miễn, giảm” về một số nội dung và môn học.Những nội dung và mơn học cịn lại vẫn phải bảo đảm theo chương trình giáo dục phổ thơng.
Luật Người khuyết tật quy định các cơ sở giáo dục phải “Bảo đảm các điều kiện dạy và học phù hợp đối với người khuyết tật, không được từ chối tiếp nhận người khuyết tật nhập học trái với quy định của pháp luật. Thực hiện việc cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất dạy và học chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật”; “Trung tâm hỗ trợ
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><small>28 </small>
phát triển giáo dục hoà nhập là cơ sở cung cấp nội dung chương trình, thiết bị, tài liệu dạy và học, các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ giáo dục, tổ chức giáo dục phù hợp với đặc điểm và hoàn cảnh của người khuyết tật”.
Trong Thông tư số 30 /2014/TT–BGDĐT, ngày 28 tháng 8 năm 2014 đã ban hành quy định đánh giá học sinh Tiểu học, tại Điều 12 cũng dành một mục riêng cho đánh giá giáo dục hoà nhập học sinh khuyết tật: “Đối với học sinh khuyết tật học theo phương thức giáo dục hoà nhập, nếu khả năng của học sinh có thể đáp ứng được yêu cầu chương trình giáo dục chung thì được đánh giá như đối với học sinh bình thường nhưng có giảm nhẹ yêu cầu về kết quả học tập. Những môn học hoặc hoạt động giáo dục mà học sinh khơng có khả năng đáp ứng u cầu chung thì được đánh giá theo yêu cầu của kế hoạch giáo dục cá nhân”.
<i><b>1.3.3. Chính sách Bảo trợ </b></i>
Nghị định số 67/2007/NĐ−CP của Chính phủ về chính sách trợ giúp các thân chủ bảo trợ xã hội và Nghị định số 13 năm 2010 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ−CP của Chính phủ quy định mức trợ cấp xã hội hằng tháng cho người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, RLTT đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm; quy định về cấp thẻ bảo hiểm y tế, về chế độ mai táng phí và các chế độ trợ giúp khác.
Thơng tư 04/2011/TT−BLĐTBXH ngày 25 tháng 2 năm 2011 quy định rõ và đầy đủ tiêu chuẩn chăm sóc tại các cơ sở bảo trợ xã hội bao gồm đối tượng và phạm vi áp dụng, quy trình tiếp nhận và chăm sóc đối tượng, các tiêu chuẩn gồm y tế, dinh dưỡng, giáo dục, học nghề, văn hoá – thể thao,... Điều đặc biệt trong Thơng tư này đó là quy trình tiếp nhận và chăm sóc đối tượng đã tiến gần tới quy trình quản lý trường hợp trong CTXH. Như vậy, có thể nói rằng hoạt động tại các trung tâm bảo trợ xã hội đang dần trở nên chuyên nghiệp. Quyết định số 1215/2011/QĐ−TTg ngày 22 tháng 7 năm 2011 ra đời trong bối cảnh ngày 22 tháng 7 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ duyệt Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người có vấn đề tâm thần, người rối nhiễu tâm trí giai đoạn 2011 – 2020. Quy định nhằm xây dựng kế hoạch thực hiện Đề án 1215; quy hoạch phát triển hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc và phục hồi chức năng chongười tâm thần và người rối
<small>29 </small>
nhiễu tâm trí; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người có vấn đề tâm thần, người rối nhiễu tâm trí; xây dựng mơ hình cơ sở phịng và trị liệu rối nhiễu tâm trí; truyền thơng, nâng cao nhận thức về trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và tồn xã hội về chăm sóc và phục hồi chức năng cho đối tượng.
Thông tư liên tịch số 115/2012/TTLT−BTC−BLĐTBXH ngày 18 tháng 7 năm 2012 quy định chi tiết nguồn kinh phí, nội dung và mức chỉ thực hiện các hoạt động của Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người có vấn đề tâm thần, người rối nhiễu tâm trí giai đoạn 2011 − 2020.
Quyết định 1364/QĐ−LĐTBXH ngày 02 tháng 10 năm 2012 phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc và phục hồi chức năng cho người có vấn đề tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2012 – 2020 với những nội dung chủ yếu như quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu và nội dung, giải pháp phát triển mạng lưới. Đặc biệt là lộ trình được quy định cụ thể cho hai giai đoạn là 2011 – 2015 và 2016 – 2020. Nghị định số 136/2013/NĐ−CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 so với Nghị định 67/2007/NĐ−CP, Nghị định 136 có nhiều thay đổi rất tích cực như nhấn mạnh chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng; trợ giúp xã hội đột xuất; hỗ trợ nhận chăm sóc, ni dưỡng tại cộng đồng và chăm sóc, ni dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội và nhà xã hội.
<i><b>1.3.4. Một số luật pháp, chính sách khác </b></i>
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 quy định cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng khuyết tật hoặc mất năng lực hành vi dân sự... và con cái có nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ, đặc biệt khi ốm đau, già yếu, khuyết tật. Luật cũng đồng thời quy định một số quyền quản lý tài sản đối với con/cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
Pháp lệnh Giám định tư pháp 2004 quy định về việc thành lập trung tâm giám định pháp y tâm thần.
Như vậy có thể thấy, tuy chưa có luật riêng cho chăm sóc SKTT, sự xuất hiện liên tục các thơng tư, nghị định liên quan tới chăm sóc SKTT trong các chính sách và các luật của
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><small>30 </small>
các lĩnh vực liên quan như y tế, xã hội đã chứng tỏ mối quan tâm của Chính phủ Việt Nam trong chăm sóc SKTT đối với mọi cơng dân thuộc các nhóm khác nhau. Các thơng tư nghị định cũng đã chỉ ra sự quan tâm của Nhà nước đối với những cá nhân làm việc trong lĩnh vực này. Đồng thời, các nghị định, thông tư cũng đã chỉ ra những cách tiếp cận mới đối với việc phòng ngừa, can thiệp và phục hồi chức năng trong chăm sóc SKTT, đó là nhận thức về sự vào cuộc của toàn xã hội và đặc biệt lĩnh vực CTXH. Điều đó cũng khẳng định vai trị của nghề CTXH trong chăm sóc SKTT của người dân.