Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Bài giảng pháp luật Đại cương eg04 Đại học mở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.09 MB, 142 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BÀI 1 </b>

<b>KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC </b>

<b>Bài 1 bao gồm các nội dung: </b>

I- Khái niệm Nhà nước II- Bản chất của Nhà nước III- Chức năng của Nhà nước IV- Bộ máy Nhà nước Việt Nam V- Nhà nước trong hệ thống chính trị

<b>Mục tiêu bài học: </b>

Giúp người học nắm được những kiến thức chung, cơ bản và cốt lõi về nhà nước như khái niệm, bản chất, vai trò, chức năng… của nhà nước làm cơ sở giúp người học có thể nhận thức được những vấn đề cơ bản về nhà nước nói chung và Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng.

<b>I. KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC 1. Định nghĩa Nhà nước </b>

Trong xã hội có giai cấp, ngồi Nhà nước cịn có nhiều tổ chức khác như các đảng phái chính trị, cơng đồn, đồn thanh niên... Nhà nước khác với các tổ chức trên ở những đặc trưng riêng của nó. Dựa vào các đặc trưng của Nhà nước có thể định nghĩa về Nhà nước như sau:

<i><b>Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của tồn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội<small>1</small>. </b></i>

Mặc dù chỉ là một trong số các tổ chức của xã hội, song Nhà nước có một số ưu thế mà các tổ chức khác khơng có, được thể hiện qua các đặc trưng của Nhà nước.

<small>1</small><i><small> Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội – 2016, tr. </small></i>

<small>25. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>2. Đặc trưng của Nhà nước </b>

<i><b>a. Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội. </b></i>

- Nhà nước là một trong các tổ chức của xã hội nhưng có quyền quản lý xã hội. Để quản lý xã hội, Nhà nước phải có quyền lực. Quyền lực Nhà nước là khả năng và sức mạnh của Nhà nước có thể bắt các tổ chức và cá nhân trong xã hội phải phục tùng ý chí của nó.

- Quyền lực Nhà nước tồn tại trong mối quan hệ giữa Nhà nước với các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trong mối quan hệ này, Nhà nước là chủ thể của quyền lực, các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội là đối tượng của quyền lực ấy, họ phải phục tùng ý chí của Nhà nước.

- Quyền lực Nhà nước cũng tồn tại trong mối quan hệ giữa Nhà nước với các thành viên cũng như các cơ quan của nó, trong đó thành viên phải phục tùng tổ chức, cấp dưới phải phục tùng cấp trên.

- Quyền lực Nhà nước có tác động bao trùm lên toàn xã hội, tới mọi tổ chức, cá nhân, mọi khu vực lãnh thổ và các lĩnh vực cơ bản của đời sống: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục…

- Để quản lý xã hội, Nhà nước có một lớp người tách ra khỏi lao động sản xuất để chuyên thực thi quyền lực Nhà nước, họ tham gia vào bộ máy Nhà nước để làm hình thành nên một hệ thống các cơ quan Nhà nước từ trung ương tới địa phương, trong đó có các cơ quan bạo lực, cưỡng chế như quân đội, cảnh sát, tòa án…

<i><b> Quyền lực và bộ máy chuyên thực thi quyền lực đó thì trong xã hội chỉ một </b></i>

mình Nhà nước có nên quyền lực Nhà nước là đặc biệt, nhờ có quyền lực và bộ máy chuyên thực thi quyền lực đó mà Nhà nước có thể điều hành và quản lý xã hội, thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội, phục vụ và bảo vệ lợi ích chung của tồn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i><b> b. Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ. </b></i>

Mỗi quốc gia đều được cấu thành bởi ba yếu tố cơ bản là lãnh thổ, dân cư và nhà nước. Do vậy, dân cư sinh sống trong phạm vi lãnh thổ của một nhà nước chủ yếu là cơng dân của nhà nước đó. Tuy nhiên, trong thời đại tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay thì sinh sống trong lãnh thổ của một quốc gia ngồi cơng dân cịn có người nước ngồi và người không quốc tịch. Song dù là công dân hay người nước ngồi, người khơng quốc tịch, khi đã cư trú và làm ăn sinh sống trong lãnh thổ của nhà nước nào thì đều phải chịu sự quản lý của nhà nước đó. Nếu như các tổ chức xã hội khác tập hợp và quản lý dân cư theo mục đích, chính kiến, lý tưởng, nghề nghiệp, độ tuổi hoặc giới tính… thì nhà nước ln lấy việc quản lý dân cư theo lãnh thổ làm điểm xuất phát. Người dân không phân biệt huyết thống, dân tộc, giới tính... cứ sống trên một khu vực lãnh thổ nhất định thì chịu sự quản lý của một nhà nước nhất định và do vậy, họ thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước ở nơi mà họ cư trú.

Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư trong phạm vi lãnh thổ quốc gia của mình cũng theo địa bàn cư trú của họ hay theo các đơn vị hành chính – lãnh thổ. Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính - lãnh thổ và quản lý tồn bộ dân cư của mình theo từng khu vực đó, vì thế, nhà nước là tổ chức có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất trong quốc gia.

<i><b>c. Nhà nước nắm giữ và thực thi chủ quyền quốc gia </b></i>

Chủ quyền quốc gia là khái niệm dùng để chỉ quyền quyết định tối cao của quốc gia trong quan hệ đối nội và quyền độc lập tự quyết của quốc gia trong quan hệ đối ngoại.

Hiến pháp của đa số các nước trên thế giới đều tuyên bố chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân, nhưng nhân dân uỷ quyền cho Nhà nước thực hiện nên Nhà nước là đại diện chính thức cho tồn quốc gia, dân tộc trong các quan hệ đối nội và đối ngoại. Trong quan hệ đối nội thì quy định của Nhà nước có giá trị bắt buộc phải

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan; Nhà nước có thể cho phép các tổ chức xã hội khác được thành lập và hoạt động hoặc Nhà nước công nhận sự tồn tại và hoạt động hợp pháp của các tổ chức xã hội khác. Trong quan hệ đối ngoại, Nhà nước có tồn quyền xác định và thực hiện các đường lối, chính sách đối ngoại của mình. Các tổ chức khác chỉ được tham gia vào những quan hệ đối ngoại mà Nhà nước cho phép.

<i><b>d. Nhà nước ban hành pháp luật và dùng pháp luật làm công cụ quản lý xã hội. Nhà nước ban hành pháp luật, tức là hệ thống các quy tắc xử sự chung có giá </b></i>

trị bắt buộc phải tơn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.

Nhà nước bảo đảm cho pháp luật được thực hiện bằng nhiều biện pháp: tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục, tổ chức thực hiện, động viên, khen thưởng, áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước, do đó, pháp luật được triển khai và thực hiện một cách rộng rãi trong toàn xã hội.

Nhà nước dùng pháp luật để quản lý xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của Nhà nước và pháp luật là một trong những phương tiện quản lý có hiệu quả nhất của Nhà nước.

<i><b>e. Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế. </b></i>

Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân buộc phải nộp cho Nhà nước theo qui định của pháp luật. Nhà nước là một bộ máy được tách ra khỏi lao động sản xuất trực tiếp để chuyên thực hiện chức năng quản lý xã hội nên nó phải được ni dưỡng từ nguồn thuế do dân cư đóng góp, khơng có thuế bộ máy Nhà nước không thể tồn tại được và thuế ln là quốc sách của mọi Nhà nước. Thuế cịn là nguồn của cải quan trọng phục vụ cho việc phát triển các mặt của đời sống. Ngoài thuế, Nhà nước cịn có quyền phát hành tiền, cơng trái, vì thế, Nhà nước có lực lượng vật chất to lớn,

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

khơng chỉ có thể trang trải cho các hoạt động của nó, những hoạt động cơ bản của xã

<i><b>hội, mà cịn có thể hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động cho một số tổ chức khác. </b></i>

<b>II. BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC</b>

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì quá trình hình thành Nhà nước là quá trình phát triển của xã hội loài người về kinh tế cũng như về tổ chức xã hội. Nhà nước ra đời do sự tác động của hai nguyên nhân: kinh tế và xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự ra đời của nền kinh tế sản xuất và trao đổi, với nhiều ngành nghề sản xuất khác nhau (nền sản xuất hàng hóa) thay thế cho nền kinh tế tự nhiên (tự cấp và tự túc); đồng thời dẫn đến sự ra đời của chế độ tư hữu tài sản để thay thế cho chế độ công hữu nguyên

<i><b>thủy của thị tộc – bộ lạc. Đó là nguyên nhân kinh tế dẫn đến sự ra đời của Nhà nước. Còn </b></i>

<i><b>nguyên nhân xã hội dẫn đến sự ra đời của Nhà nước chính là sự phân hoá con người trong </b></i>

xã hội thành người giàu và người nghèo, thành chủ nô, người tự do và nơ lệ, thành người bóc lột và người bị bóc lột…, tức là xã hội hình thành các tầng lớp, giai cấp hoặc lực lượng có khả năng kinh tế và địa vị xã hội khác biệt nhau, mâu thuẫn và đấu tranh với nhau. Trong xã hội dần dần xuất hiện một lớp người tách ra từ xã hội, tách ra khỏi lao động sản xuất để chuyên thực thi quyền lực như các thủ lĩnh, quân đội, cảnh sát… quyền lực xã hội của thị tộc đã chuyển hoá dần thành quyền lực của Nhà nước và Nhà nước đã từng bước hình thành.

<i><b>Như vậy, xét về bản chất, Nhà nước là một hiện tượng xã hội ln thể hiện tính xã </b></i>

<i><b>hội và tính giai cấp. Sở dĩ Nhà nước có hai thuộc tính đó là vì những lý do sau: </b></i>

+ Nhà nước xuất hiện vừa do nhu cầu điều hành và quản lý xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích chung của tồn xã hội vừa do nhu cầu bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống trị, địa vị lãnh đạo của giai cấp thống trị hoặc lực lượng cầm quyền.

+ Nhà nước là một tổ chức trong xã hội và là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại và phát triển trong lịng xã hội lồi người ở những giai đoạn lịch sử nhất định, giai đoạn có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp, đồng thời Nhà nước có sứ mệnh điều hành và quản lý xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

+ Nhà nước là một hình thức tổ chức của xã hội có giai cấp, nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội.

<i><b>1. Biểu hiện tính xã hội của Nhà nước </b></i>

<i>Tính xã hội của Nhà nước thể hiện ở chỗ: Nhà nước là bộ máy để tổ chức và </i>

<i>quản lý xã hội, nhằm thiết lập, giữ gìn trật tự và sự ổn định của xã hội, bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng, vì sự phát triển của xã hội. </i>

- Bất cứ xã hội nào muốn tồn tại và phát triển được cũng phải có trật tự và sự ổn định tương đối, tức là phải được tổ chức và quản lý chặt chẽ, nếu khơng thì xã hội sẽ hỗn loạn. Xã hội nào cũng có hàng loạt các vấn đề mang tính chất chung của tồn xã hội: sản xuất, thiên tai, địch họa, trật tự an toàn xã hội… Để giải quyết các vấn đề chung đó cần có một tổ chức thay mặt xã hội, nhân danh xã hội để tổ chức, tập hợp, quản lý tồn xã hội, tổ chức đó phải thiết lập quyền lực chung (quyền lực cơng) của tồn xã hội. Tổ chức đó chính là Nhà nước.

- Trước khi có Nhà nước, các công việc chung của xã hội do thị tộc, bộ lạc giải quyết. Khi Nhà nước xuất hiện thì trách nhiệm đó thuộc về Nhà nước. Nhà nước phải thay mặt xã hội, đứng ra tổ chức dân cư, giải quyết các vấn đề chung vì sự ổn định, sống cịn của cả xã hội chứ khơng phải của riêng giai cấp, lực lượng xã hội hay cá nhân nào.

- Nhà nước là đại diện chính thức của tồn xã hội nên ở mức độ này hay mức độ khác phải có trách nhiệm xác lập, thực hiện và bảo vệ các lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia, dân tộc và cơng dân của mình; phải tập hợp và huy động mọi tầng lớp trong xã hội vào việc thực hiện các nhiệm vụ chung để bảo vệ chủ quyền, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; duy trì trật tự xã hội và giải quyết các vấn đề phát sinh trong nước và quốc tế, tạo điều kiện cho các lĩnh vực hoạt động của xã hội được tiến hành bình thường, có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Nhà nước nhân danh và đại diện cho cả xã hội để quản lý xã hội, giải quyết các công việc chung của cả cộng đồng xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

- Nhà nước có nhiều hoạt động vì lợi ích của các giai cấp, lực lượng khác nhau trong xã hội, của cả cộng đồng như: xây dựng và phát triển giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơng trình phúc lợi xã hội: đường xá, cầu cống, trường học, bệnh viện…; tổ chức, điều hành và quản lý các dịch vụ công…

- Nhà nước là bộ máy cưỡng chế để bảo vệ công lý, công bằng xã hội, bảo vệ trật tự chung trong các lĩnh vực của đời sống xã hội như: bảo vệ trật tự an ninh, an toàn xã hội, bảo đảm trật tự an tồn giao thơng và thông tin liên lạc, bảo vệ môi trường sống…

- Nhà nước thay mặt xã hội thực thi chủ quyền quốc gia, phịng, chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc… Khơng những thế, Nhà nước cịn là cơng cụ để giữ gìn và phát triển những tài sản văn hố tinh thần chung của xã hội, những giá trị đạo đức, truyền thống và phong tục, tập quán phù hợp với ý chí của Nhà nước.

<i>Tóm lại, nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, nhân danh xã hội </i>

để quản lý xã hội và vì sự ổn định và phát triển của xã hội.

<i><b>2. Biểu hiện tính giai cấp của Nhà nước: </b></i>

<i>Tính giai cấp của Nhà nước thể hiện ở chỗ: Nhà nước là bộ máy chuyên chính </i>

<i>giai cấp tức là công cụ để thực hiện, củng cố và bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống trị của lực lượng hoặc giai cấp cầm quyền trong xã hội trên cả ba lĩnh vực: kinh tế, chính trị và tư tưởng. </i>

Sự thống trị xã hội thể hiện chủ yếu ở ba lĩnh vực: kinh tế, chính trị và tư tưởng trong đó lĩnh vực tiền đề và giữ vai trò quyết định là kinh tế. Thông thường, giai cấp hoặc lực lượng nắm quyền sở hữu phần lớn tư liệu sản xuất hoặc tài sản của xã hội sẽ trở thành lực lượng thống trị về kinh tế hay chủ thể của quyền lực kinh tế, có thể bắt các lực lượng khác phải phụ thuộc nó về mặt kinh tế hoặc bóc lột các lực lượng khác. Do vậy, sự thống trị về kinh tế tạo ra tiền đề, cơ sở cho sự thống trị giai cấp.

Tuy nhiên, quyền lực kinh tế không đủ khả năng duy trì sự thống trị vì lực lượng hay giai cấp bị thống trị ln tìm cách chống lại để thốt ra khỏi sự phụ thuộc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Vì thế, để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, lực lượng thống trị phải dùng bộ máy Nhà nước để trấn áp sự phản kháng, sự chống đối của các giai cấp, lực lượng khác và Nhà nước trở thành bộ máy cưỡng chế đặc biệt, thành công cụ để bảo vệ lợi ích kinh tế của lực lượng cầm quyền.

Nhà nước bảo vệ lợi ích kinh tế của lực lượng cầm quyền bằng cách dùng bộ máy bạo lực như quân đội, cảnh sát, toà án… để trấn áp sự phản kháng, chống đối của các lực lượng khác. Đồng thời, Nhà nước thể hiện ý chí của mình mà trước tiên là ý chí của lực lượng cầm quyền thành pháp luật, thành các quy định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện trong xã hội, bắt cả xã hội phải phục tùng ý chí của nó. Vì thế, Nhà nước chính là công cụ nằm trong tay lực lượng cầm quyền để bảo vệ lợi ích kinh tế và thực hiện sự thống trị về chính trị trong xã hội.

Sự thống trị của lực lượng cầm quyền, sự tồn tại của Nhà nước chỉ lâu dài, chắc chắn khi có sự phục tùng tự giác của các lực lượng khác. Vì thế, Nhà nước tổ chức, quản lý và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ sở văn hóa, giáo dục; dùng các phương tiện và cơ sở đó tác động đến đời sống tinh thần của toàn xã hội, nhằm làm cho hệ tư tưởng của giai cấp thống trị giữ địa vị thống trị trong xã hội và nhằm tạo ra sự phục tùng tự giác của các giai cấp, lực lượng khác đối với quyền thống trị của lực lượng cầm quyền, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, Nhà nước trở thành công cụ xác lập và bảo vệ hệ tư tưởng thống trị trong xã hội.

Như vậy, Nhà nước là công cụ, là bộ máy đặc biệt nằm trong tay lực lượng cầm quyền để bảo vệ lợi ích kinh tế, để thực hiện sự thống trị về chính trị và thực hiện sự tác động về tư tưởng của lực lượng này đối với toàn xã hội.

<i><b>Tóm lại, tính xã hội và tính giai cấp là thuộc tính chung thể hiện bản chất của </b></i>

tất cả các Nhà nước, song, do sự thay đổi, sự khác biệt trong cơ sở kinh tế - xã hội giữa các Nhà nước nên các Nhà nước khác nhau sẽ khác nhau ở những biểu hiện cụ thể của tính xã hội, tính giai cấp, ở mức độ thể hiện và mối tương quan giữa hai thuộc tính này.

Chẳng hạn, Nhà nước phong kiến Việt Nam là bộ máy chuyên chính của giai cấp

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

địa chủ, quý tộc phong kiến và là bộ máy để thiết lập, giữ gìn trật tự xã hội phong kiến. Tính giai cấp của Nhà nước phong kiến Việt Nam thể hiện cơng khai và rõ rệt, cịn tính xã hội thì thể hiện tương đối mờ nhạt và hạn chế. Nhà nước Việt Nam hiện nay là bộ máy chuyên chính vơ sản, bảo vệ lợi ích của đa số nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng và là công cụ quản lý xã hội, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta tập trung vào phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội để ngày càng nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.

Biểu hiện tính xã hội và tính giai cấp của Nhà nước thường tỉ lệ nghịch với nhau, phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội thì tính xã hội của Nhà nước có xu hướng thể hiện ngày càng sâu sắc, rộng rãi và rõ rệt hơn, tính giai cấp của Nhà nước thể hiện ngày càng mờ nhạt hơn .

<b>III. CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC 1. Khái niệm chức năng của Nhà nước </b>

Có nhiều quan niệm về chức năng của Nhà nước. Xuất phát từ quan niệm thông

<i>thường về từ “chức năng” trong tiếng Việt “là hoạt động, vai trò, tác dụng của một người, một tổ chức hoặc một cái gì đó”</i><small>2</small><i><b>, có thể hiểu chức năng của Nhà nước là những mặt hoạt </b></i>

<i><b>động cơ bản của Nhà nước phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ của Nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó</b><small>3</small>. </i>

Định nghĩa trên cho thấy, nói đến chức năng Nhà nước là nói đến những hoạt động của Nhà nước để thực hiện những cơng việc mà Nhà nước phải làm, đó là tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội. Những cơng việc đó gắn liền với Nhà nước mà không một thực thể nào trong xã hội có thể làm thay Nhà nước, đồng thời, Nhà nước có đủ khả năng để làm. Nói cách khác, chức năng Nhà nước là khái niệm

<small>2</small><i><small> Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2002, tr. 191. </small></i>

<small>3</small><i><small> Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, sđd, tr. 74. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

dùng để chỉ những hoạt động, phần việc quan trọng của riêng Nhà nước mà chỉ Nhà nước mới có đủ khả năng, điều kiện để thực hiện những hoạt động đó. Do vậy, có thể hiểu, chức năng Nhà nước là những phương diện, loại hoạt động cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trước Nhà nước. Đó là những mặt hoạt động, hướng hoạt động chủ yếu của Nhà nước, phát sinh từ bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ, vai trò và điều kiện tồn tại của Nhà nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.

Chức năng của Nhà nước luôn phản ánh bản chất của Nhà nước hay do bản chất của Nhà nước quyết định. Ví dụ, với bản chất là bộ máy chuyên chính của giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến và bộ máy quản lý xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự của xã hội phong kiến nên chức năng đàn áp và nô dịch nông dân bằng quân sự và về tư tưởng, tiến hành chiến tranh xâm lược nước khác khi có điều kiện… là các chức năng khơng thể thiếu của các Nhà nước phong kiến. Còn với bản chất là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và là bộ máy chun chính vơ sản, các chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật… là chức năng không thể thiếu đối với các Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Chức năng của Nhà nước còn phụ thuộc vào nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước.

<i><b>Giữa chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt, </b></i>

vừa có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhiệm vụ của Nhà nước là những cơng việc đặt ra địi hỏi Nhà nước phải giải quyết theo những mục tiêu đã định sẵn. Nhà nước có hai loại nhiệm vụ là loại nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài và loại nhiệm vụ trước mắt, cấp bách. Nhiệm vụ chiến lược, lâu dài là những vấn đề Nhà nước phải giải quyết trong suốt chặng đường phát triển của đất nước. Loại nhiệm vụ này được thực hiện thông qua các chức năng của Nhà nước nên có vai trị quyết định đối với việc xác định và thực hiện chức năng Nhà nước, đồng thời, chức năng của Nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với nhiệm vụ chiến lược của Nhà nước. Ví dụ, trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tất cả các chức

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

năng của Nhà nước ta đều được xác định và thực hiện nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này. Nhiệm vụ trước mắt, cấp bách là những công việc mà Nhà nước phải giải quyết trong ngắn hạn, ngay lập tức để thực hiện một chức năng nào đó của Nhà nước, do vậy, loại nhiệm vụ này có phạm vi hẹp hơn so với chức năng Nhà nước, được xác định nhằm thực hiện chức năng và do chức năng quyết định. Ví dụ, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật môi trường của các doanh hiện nay được xác định và thực hiện nhằm thực hiện chức năng quản lý môi trường của Nhà nước.

Giữa chức năng và vai trò của Nhà nước cũng vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt. Chức năng của Nhà nước thường nói tới việc Nhà nước được sinh ra để làm gì, cịn vai trị của Nhà nước thường đề cập đến cơng dụng, tác dụng của Nhà nước. Trong trường hợp này, chức năng và vai trị của Nhà nước có ý nghĩa gần như tương tự nhau. Tuy nhiên, ngoài ý nghĩa trên, vai trò của Nhà nước còn được sử dụng để nói về tầm quan trọng của Nhà nước (chẳng hạn vai trò của Nhà nước đối với xã hội).

Chức năng của Nhà nước chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:

+ Điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ phát triển của nó. Thực tế cho thấy, Nhà nước phải làm gì, làm như thế nào, điều đó phụ thuộc rất lớn vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước, do đó, các Nhà nước khác nhau có thể có chức năng khác nhau. Ví dụ, chức năng của Nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây khác với chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Trong một Nhà nước cụ thể, trong các giai đoạn phát triển khác nhau, số lượng chức năng, tầm quan trọng của mỗi chức năng, nội dung, cách thức thực hiện từng chức năng cũng có thể khác nhau. Ví dụ, trước năm 1986, quản lý, bảo vệ môi trường chưa phải là chức năng của Nhà nước ta nhưng hiện nay nó trở thành chức năng có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu của Nhà nước. Hoặc, thiết lập và phát triển các mối quan hệ ngoại giao, hữu nghị và hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế là chức năng không thể thiếu của các Nhà nước đương đại…

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

+ Chức năng của Nhà nước còn phụ thuộc vào bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ của Nhà nước và hoàn cảnh quốc tế. Điều này đã được phân tích ở trên.

Một Nhà nước thường có nhiều chức năng và các chức năng đó có liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện chức năng này thường có ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng khác. Chẳng hạn, Nhà nước chỉ có thể thực hiện tốt việc tổ chức và quản lý kinh tế khi thực hiện tốt hoạt động bảo vệ tổ quốc; tương tự như vậy, các hoạt động về mặt xã hội như phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bảo trợ xã hội… chỉ có thể thực hiện tốt khi thực hiện có hiệu quả hoạt động tổ chức và quản lý kinh tế.

<b>2. Các phương thức (hình thức và phương pháp) thực hiện chức năng của Nhà nước </b>

Để thực hiện chức năng của mình, địi hỏi Nhà nước phải sử dụng các hình thức khác nhau, trong đó có các hình thức cơ bản (hình thức mang tính pháp lý) là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật.

Muốn tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội, thiết lập trật tự xã hội, Nhà nước phải tiến hành xây dựng pháp luật để hướng dẫn cách xử sự cho mọi người, xác định rõ những việc được làm, không được làm, phải làm cho các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội nhất định để làm cho các quan hệ đó phát triển theo chiều hướng Nhà nước mong muốn. Ví dụ, muốn thiết lập trật tự an tồn giao thơng đường bộ, Nhà nước phải ban hành luật giao thông đường bộ để hướng dẫn cách tham gia giao thông đường bộ cho tất cả mọi người và xe; để bảo đảm sự ổn định của gia đình, Nhà nước phải ban hành luật hơn nhân và gia đình để hướng dẫn cách xử sự của các thành viên trong gia đình với nhau… Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, hệ thống pháp luật được từng bước hình thành và hồn thiện.

Pháp luật sau khi được ban hành thường khơng thể tự đi vào đời sống, có nhiều quy định mà các cá nhân, tổ chức trong xã hội khơng tự thực hiện được, do đó, Nhà nước phải tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm tổ chức cho các chủ thể trong xã hội thực hiện các qui định trong pháp luật, chẳng hạn, Nhà nước tiến hành phổ biến

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

pháp luật cho người dân, giải thích, tuyên truyền, động viên, khuyến khích tính tích cực của họ, cung cấp nhân lực vật lực, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các qui định của pháp luật… Có như vậy, những mong muốn, yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước thể hiện trong pháp luật mới có thể được thực hiện một cách có hiệu quả.

Trong quá trình thực hiện pháp luật, vì những lý do khác nhau, việc vi phạm pháp luật là khó tránh khỏi. Khi đó, Nhà nước phải bảo vệ pháp luật bằng cách thực hiện các hoạt động nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý những người vi phạm pháp luật, giáo dục cải tạo họ cũng như răn đe những người khác, phòng ngừa sự vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm tính tơn nghiêm của pháp luật, bảo đảm các yêu cầu của Nhà nước được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác.

Ngồi ra cịn có các hình thức ít hoặc khơng mang tính pháp lý như: những biện pháp tổ chức - xã hội trực tiếp (tổ chức các cuộc hội thảo, mít tinh, biểu tình của quần chúng, các phong trào thi đua...), những hoạt động tác nghiệp vật chất - kỹ thuật: đánh máy, văn thư, lưu trữ, in ấn...; những hoạt động mang tính quyền lực pháp lý như hoạt động thi hành các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước: bắt buộc chữa bệnh, giải phóng mặt bằng...

Phương pháp thực hiện chức năng của Nhà nước gồm có hai phương pháp chủ yếu là thuyết phục và cưỡng chế. Thuyết phục là dùng lời nói để thuyết trình, giảng giải, chứng minh, phân tích… nhằm tạo ra sự phục tùng tự giác của đối tượng thuyết phục (hoặc đối tượng quản lý) đối với chủ thể thuyết phục (hoặc chủ thể quản lý). Cưỡng chế là bắt buộc bằng bạo lực một tổ chức hoặc một cá nhân phải làm hay khơng được làm một việc gì đó, hoặc phải gánh chịu sự thiệt hại về nhân thân, về tự do hoặc về tài sản… đã được quy định trong pháp luật. Ngồi hai phương pháp trên cịn có các phương pháp khác như các phương pháp tổ chức, kinh tế, hành chính, thanh tra, kiểm tra...

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>3. Phân loại chức năng của Nhà nước </b>

Có nhiều cách phân loại chức năng của Nhà nước nhưng thông thường, căn cứ vào

<i>phạm vi hoạt động của Nhà nước có thể chia chức năng Nhà nước thành hai loại. Một là các </i>

chức năng đối nội: là những hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong nội bộ đất nước. Ví dụ, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ

<i>thuật của Nhà nước ta hiện nay là các chức năng đối nội. Hai là các chức năng đối ngoại: là </i>

những hoạt động cơ bản của Nhà nước thể hiện mối quan hệ giữa nó với các quốc gia, dân tộc khác. Ví dụ, các chức năng bảo vệ Tổ quốc, thiết lập các mối quan hệ ngoại giao, hữu nghị và hợp tác quốc tế của Nhà nước ta là các chức năng đối ngoại.

Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của Nhà nước có quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, các hoạt động đối ngoại được thực hiện đúng đắn, phù hợp sẽ giúp cho hoạt động đối nội hiệu quả hơn và ngược lại, ví dụ: hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ giúp cho các doanh nghiệp trong nước có thêm nguồn vốn, thị trường, cơng nghệ…để phát triển sản xuất, từ đó Nhà nước sẽ thực hiện thành cơng các chính sách phát triển kinh tế.

Ngoài ra, nếu căn cứ vào các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước thì có thể chia chức năng của Nhà nước thành các loại như: chức năng kinh tế nhằm tổ chức, điều tiết, quản lý nền kinh tế của đất nước; chức năng xã hội nhằm giải quyết những vấn đề chung vì sự phát triển của xã hội: phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ công…; chức năng trấn áp nhằm bảo vệ địa vị và quyền thống trị của giai cấp thống trị, giữ vững an ninh chính trị; chức năng bảo vệ đất nước, chống xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước; chức năng thiết lập các mối quan hệ ngoại giao, hữu nghị và hợp tác quốc tế; chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược là chức năng đặc trưng của các Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản giai đoạn chủ nghĩa đế quốc trở về trước, được thực hiện nhằm xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ, bóc lột nhân dân cũng như áp đặt sự nô dịch đối với các dân tộc khác; chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>IV. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY </b>

<b>1. Định nghĩa bộ máy Nhà nước </b>

<i>Bộ máy Nhà nước là hệ thống các cơ quan Nhà nước từ trung ương tới địa phương, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung nhất định tạo thành một cơ chế để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. </i>

<b>2. Phân loại các cơ quan trong bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay </b>

Bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay bao gồm hệ thống cơ quan Nhà nước và có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau.

Căn cứ vào cấu trúc hành chính lãnh thổ và phạm vi thẩm quyền thì có thể chia bộ máy Nhà nước ta thành hai loại cơ quan là các cơ quan Nhà nước ở Trung ương (Quốc hội, Chính phủ…) và các cơ quan Nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân…).

Căn cứ vào chức năng, thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước, có thể chia bộ máy Nhà nước ta thành các loại cơ quan sau:

- Các cơ quan quyền lực Nhà nước (còn được gọi là các cơ quan đại biểu, đại diện hoặc dân cử), bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Đây là những cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do cử tri cả nước hoặc từng địa phương trực tiếp bầu ra thông qua tổng tuyển cử với nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Các cơ quan này có thể bầu ra, kiểm tra và giám sát hoạt động của một số cơ quan Nhà nước khác.

- Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, đại diện chính thức cho Nhà nước trong các quan hệ đối nội, đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội và có thể bị Quốc hội bãi miễn.

- Các cơ quan quản lý Nhà nước (còn được gọi là các cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước), bao gồm Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp. Đây là những cơ quan có chức năng trực tiếp quản lý các lĩnh vực hoạt động cơ bản của đời sống. Chính phủ do Quốc hội bầu ra, Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra nên phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

- Các cơ quan Tòa án: bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân các địa phương và Tòa án quân sự các cấp. Đây là những cơ quan có chức năng xét xử tất cả các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và các vụ tranh chấp khác xảy ra trong xã hội. Hệ thống các cơ quan này được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014.

- Các cơ quan kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân các địa phương và Viện kiểm sát quân sự các cấp, là những cơ quan có chức năng thực hành quyền cơng tố và kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hệ thống các cơ quan này được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014.

Ngoài các loại cơ quan trên, trong bộ máy Nhà nước ta hiện nay cịn có hai thiết chế hiến định là Hội đồng bầu cử quốc gia và Tổng Kiểm toán Nhà nước.

<b>V. NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY </b>

Hệ thống chính trị của một quốc gia gồm nhiều tổ chức và giữa các tổ chức đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ở nước ta, hệ thống chính trị gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động hợp pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Nhà nước có vị trí, vai trị rất quan trọng. Xét về vị trí thì Nhà nước ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị, là nơi hội tụ của đời sống chính trị - xã hội. Nhà nước có quan hệ với tất cả các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Các tổ chức khác trong hệ thống chính trị giữ vai trị hỗ trợ Nhà nước trong việc thực hiện các chức năng quản lý xã hội. Xét về vai trị thì Nhà nước giữ vai trị đặc biệt quan trọng mang tính quyết định trong hệ thống chính trị. Nhà nước quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển của hệ thống chính trị; quyết định bản chất, đặc trưng, vai trị của hệ thống chính trị. Nhà nước chi phối tất cả các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, cho phép thành lập, công nhận sự tồn tại và hoạt động hợp pháp hoặc xóa bỏ một thành tố nào đó trong hệ thống chính trị. Nhà nước điều hoà các mối quan hệ giữa các lực lượng chính trị trong xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Nhà nước có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị là vì:

- Nhà nước là tổ chức có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất. Nhà nước quản lý mọi cá nhân, tổ chức, mọi vùng, miền lãnh thổ và các lĩnh vực hoạt động cơ bản trong xã hội nên hoạt động của Nhà nước tác động bao trùm lên toàn bộ xã hội, tới mọi tổ chức và cá nhân, mọi miền lãnh thổ và mọi lĩnh vực cơ bản của đời sống, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, giáo dục…

- Nhà nước có một hệ thống cơ quan đại diện từ trung ương tới địa phương là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Trong các cơ quan đó có bộ phận hoạt động thường xuyên là Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Thường trực Hội đồng nhân dân luôn sẵn sàng đáp ứng tốt nhất việc thực hiện quyền lực của nhân dân.

Nhà nước là tổ chức có sức mạnh lớn nhất trong hệ thống chính trị bảo đảm cho việc thực hiện quyền lực nhân dân, bởi vì:

- Nhà nước có một hệ thống cơ quan quản lý và cưỡng chế từ trung ương tới địa phương, gồm Chính phủ, Ủy ban nhân dân, Quân đội, Cảnh sát, Tòa án… bảo đảm cho việc thực hiện quyền lực Nhà nước và bảo vệ quyền lực của nhân dân.

- Nhà nước có hệ thống pháp luật là công cụ hữu hiệu để quản lý và duy trì trật tự xã hội, đảm bảo lợi ích của tất cả cá nhân, tổ chức trong xã hội.

- Nhà nước đại diện chính thức cho tồn xã hội thực hiện chủ quyền quốc gia nên có đủ khả năng huy động mọi tiềm lực trong nước, mọi sự trợ giúp và hợp tác quốc tế vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, để có thể đáp ứng tốt nhất cho việc thực hiện quyền lực nhân dân.

- Nhà nước có quyền phát hành tiền, quyền thu thuế và là chủ sở hữu toàn bộ tài nguyên thiên nhiên nên Nhà nước có sức mạnh vật chất to lớn, không chỉ đảm bảo cho các hoạt động của Nhà nước và của xã hội mà còn hỗ trợ phần lớn kinh phí hoạt động cho các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<b>CÂU HỎI ÔN TẬP </b>

<b>Câu 1. Quyền lực Nhà nước do đâu mà có? </b>

<b>Câu 2. Quyền lực Nhà nước được thực hiện như thế nào? </b>

<b>Câu 3. Tại sao trong bộ máy Nhà nước cần có các công cụ trấn áp như Cảnh sát, </b>

Quân đội, Tòa án, nhà tù...?

<b>Câu 4. Tại sao Nhà nước được nắm giữ và thực hiện chủ quyền quốc gia? Câu 5. Tại sao Nhà nước cần ban hành pháp luật? </b>

<b>Câu 6. Tại sao Nhà nước cần thu các loại thuế? Câu 7. Nhà nước ra đời do các nguyên nhân nào? Câu 8. Tại sao Nhà nước lại có tính xã hội? Câu 9. Tại sao Nhà nước lại có tính giai cấp? </b>

<b>Câu 9. Tính giai cấp của Nhà nước có mâu thuẫn với tính xã hội của Nhà nước </b>

không? Tại sao?

<b>Câu 10. Chức năng đối nội của Nhà nước là gì? Câu 11. Chức năng đối ngoại của Nhà nước là gì? Câu 12. Bộ máy của Nhà nước là gì? </b>

<b>Câu 13. Trong bộ máy Nhà nước Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà </b>

nước hay cơ quan quản lý Nhà nước?

<b>Câu 14. Trong bộ máy Nhà nước Việt Nam, Quốc hội và Chính phủ có mối quan hệ </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

<i>1. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2002. </i>

<i>2. TS. Nguyễn Thị Hồi (Chủ biên), Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội - 2009. </i>

<i>3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. </i>

9. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014,

10. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014,

11. Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2015

12. Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015

<i><b>Chúc Anh/ chị học tốt! </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<b>BÀI 2 </b>

<b>KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT </b>

<b>Bài 2 gồm các nội dung sau: </b>

I- Khái niệm pháp luật II- Sự ra đời của pháp luật III- Bản chất của pháp luật IV- Vai trị của pháp luật

V- Hình thức và nguồn của pháp luật

VI - Các loại văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam hiện nay

<b>Mục tiêu bài học: </b>

Giúp người học nắm được những kiến thức chung, cơ bản và cốt lõi về pháp luật như khái niệm, lịch sử hình thành, bản chất, vai trị, hình thức… của pháp luật nói chung và pháp luật Việt Nam hiện nay nói riêng.

<b>I. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT 1. Định nghĩa pháp luật </b>

“Pháp luật” là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong xã hội, tuy nhiên, trong đời sống thực tiễn và trong khoa học có nhiều cách định nghĩa về pháp luật dưới các góc độ khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay phổ biến nhất là quan niệm về pháp luật trên cơ sở của học

<i>thuyết Mác – Lênin. Theo đó, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội. </i>

Trong xã hội, ngồi pháp luật cịn có nhiều loại quy phạm khác như phong tục tập quán, quy tắc đạo đức, quy định của các tổ chức xã hội, tín điều tơn giáo... Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để Nhà nước quản lý, điều tiết xã hội nhằm thiết lập một trật tự xã hội theo ý chí của lực lượng cầm quyền.

<b>2. Các đặc trưng của pháp luật </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<i> Đăc trưng (thuộc tính) của pháp luật là những dấu hiệu riêng có của pháp luật để phân biệt pháp luật với các loại quy phạm xã hội khác. </i>

Những đặc trưng của pháp luật thể hiện ưu thế riêng của pháp luật so với các loại quy tắc điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Đó là:

<i>- Pháp luật có tính quyền lực Nhà nước </i>

Trong số các loại quy phạm xã hội thì chỉ pháp luật mới được hình thành bằng con đường Nhà nước, tức là do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và cũng chỉ có pháp luật mới được Nhà nước bảo đảm thực hiện, vì thế, pháp luật ln thể hiện ý chí của Nhà nước. Nhà nước là chủ thể duy nhất trong xã hội có quyền ban hành pháp luật để quản lý xã hội. Bằng nhiều cách thức khác nhau, Nhà nước trực tiếp ban hành hoặc thừa nhận các quy tắc sẵn có trong xã hội và xây dựng nên hệ thống pháp luật. Thời kỳ các Nhà nước sơ khai, pháp luật ra đời chủ yếu từ các quy tắc, tập quán có sẵn trong xã hội, được Nhà nước thừa nhận và nâng lên thành các quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc cao hơn. Ở các Nhà nước hiện đại, hệ thống pháp luật do những cơ quan chuyên trách ban hành (Quốc hội, Nghị viện) nên ngày càng được hoàn thiện cả về nội dung và hình thức, được sắp xếp theo một trật tự về giá trị pháp lý, để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Trong khi đó, các loại quy phạm xã hội khác được hình thành bởi các nhóm người trong phạm vi hẹp (như các tín điều tơn giáo, quy chế của tổ chức, đoàn thể) hoặc do nhiều thế hệ truyền lại (như đạo đức, tập qn) nên khơng có tính hệ thống, chuẩn xác về nội dung và hình thức thể hiện.

Khi được Nhà nước ban hành và sử dụng làm công cụ chính yếu để quản lý xã hội, pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực Nhà nước, từ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục, động viên, khen thưởng, tổ chức thực hiện cho đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Khác với pháp luật, các loại quy tắc xã hội khác thơng thường tính bắt buộc không cao, chủ yếu được bảo đảm thực hiện bởi thói quen và sự tự giác của các chủ thể; biện pháp xử lý đối với hành vi trái quy tắc xã hội cũng chỉ mang tính răn đe, cảnh báo, lên án bởi cộng đồng và dư luận xã hội nhằm tác động đến lương tâm, tự trọng của các chủ thể.

<i><b>- Pháp luật có tính quy phạm phổ biến </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

“Quy phạm” theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là khn mẫu, chuẩn mực hay mực thước. Các quy định của pháp luật chính là những khn mẫu, chuẩn mực định hướng cho hành vi, hướng dẫn cách xử sự cho mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, các tổ chức và cá nhân trong xã hội sẽ biết mình được làm gì, khơng được làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở vào một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ, căn cứ vào quy định của Luật Giao thông đường bộ, người tham gia giao thông sẽ biết mình được làm gì, khơng được làm gì, phải làm gì khi tham gia giao thơng trên đường bộ. Cụ thể, căn cứ vào khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ năm 2008, người tham gia

<i>giao thông biết mình cần phải “đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ”. Pháp luật phải được tôn </i>

trọng và thực hiện thường xuyên, trên toàn lãnh thổ, không ngoại trừ bất cứ tổ chức, cá nhân, khu vực lãnh thổ nào.

<i>- Pháp luật có tính hệ thống và tính thống nhất </i>

Bản thân pháp luật là một hệ thống quy tắc xử sự chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nhiều lĩnh vực: hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, đất đai... Mặc dù điều chỉnh nhiều loại quan hệ xã hội, song giữa các quy phạm pháp luật có mối quan hệ qua lại với nhau để tạo nên một thể thống nhất là hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật có tính thống nhất được hiểu là một hệ thống pháp luật trong đó tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất và chặt chẽ với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, ngành luật và được thể hiện trong các hình thức pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật chủ yếu được thể hiện trong một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy định.

Tính thống nhất được đặt ra đối với cả hệ thống pháp luật cũng như đối với từng văn bản quy phạm pháp luật và từng quy phạm pháp luật.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm nhiều loại văn bản khác nhau theo thứ bậc hiệu lực pháp lý. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật đặt ra yêu cầu văn bản có hiệu lực pháp lý thấp phải phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn; quy phạm pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành phải phù hợp với quy phạm pháp luật do cơ quan cấp trên ban hành và đều phải phù hợp với quy định của Hiến pháp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Như vậy, tính thống nhất của hệ thống pháp luật địi hỏi nội dung chính sách trong tồn hệ thống pháp luật, trong các văn bản quy phạm pháp luật và các quy phạm pháp luật phải nhất quán, phù hợp, không mâu thuẫn, chồng chéo với nhau.

<i>- Pháp luật có tính xác định về hình thức </i>

Phong tục tập qn, đạo đức khơng có tính xác định về mặt hình thức vì chúng tồn tại dưới dạng bất thành văn, thường lưu truyền từ đời này sang đời khác theo hình thức truyền miệng. Trái lại, pháp luật ln có tính xác định về mặt hình thức, bởi vì, pháp luật thường được thể hiện trong những hình thức nhất định, có thể là tập qn pháp, tiền lệ pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật lại có những hình thức cụ thể như Hiến pháp, luật, nghị định, nghị quyết... Mỗi loại văn bản do những cơ quan có thẩm quyền ban hành theo những trình tự, thủ tục nhất định được quy định chặt chẽ trong luật.

<b>II. SỰ RA ĐỜI CỦA PHÁP LUẬT </b>

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước, những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Nhà nước cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có Nhà nước

<i>nên cũng chưa có pháp luật, tuy nhiên xã hội bấy giờ đã có các quy phạm xã hội hay các quy tắc xử sự tồn tại dưới dạng phong tục tập quán, đạo đức, các tín điều tơn giáo để định hướng </i>

và hướng dẫn cho xử sự của mọi người.

Khi Nhà nước xuất hiện, để quản lý xã hội có giai cấp, Nhà nước phải ban hành pháp luật. Pháp luật được Nhà nước ban hành thông qua các cách thức sau:

<i>- Nhà nước thừa nhận các quy tắc xử sự đã tồn tại trong xã hội dưới dạng phong tục </i>

tập qn, đạo đức, tín điều tơn giáo... phù hợp với ý chí của Nhà nước để nâng lên thành pháp luật, tức là thành các quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Ví dụ, Nhà nước ta thừa nhận phong tục ăn Tết Nguyên đán, phong tục Giỗ Tổ Hùng Vương… và ghi nhận trong quy định tại khoản 1 Điều 115 Bộ luật Lao động năm 2012 cho phép người lao động được nghỉ làm việc 05 ngày để ăn Tết cổ truyền và 01 ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.

- <i>Nhà nước thừa nhận các quyết định, các lập luận, các nguyên tắc hoặc các giải thích </i>

pháp luật do cơ quan xét xử (Tòa án hay Trọng tài) đưa ra khi giải quyết các vụ việc thực tế làm mẫu để các cơ quan xét xử vận dụng khi giải quyết các vụ việc có nội dung tương tự khác

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

xảy ra sau đó. Ví dụ, quyết định (hoặc lập luận, giải thích pháp luật, các nguyên tắc) do Tòa án tối cao đưa ra khi xét xử một vụ tranh chấp đất đai hoặc tranh chấp thương mại… được Nhà nước thừa nhận làm mẫu để các Tòa án vận dụng khi giải quyết các vụ tranh chấp đất đai, tranh chấp thương mại… có những tình tiết tương tự xảy ra sau đó.

<i>- Nhà nước đặt ra các quy phạm hay quy định mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội </i>

mới xuất hiện hoặc để thay thế các quy tắc cũ khi chúng khơng phù hợp với ý chí của Nhà nước, không phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Ví dụ, thời gian qua, Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành nhiều luật và bộ luật: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân…; Nhà nước đã ban hành Chỉ thị số 406/CT-TTg ngày 08/8/1994 về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo để xóa bỏ tập quán sản xuất pháo và đốt pháo gây nhiều thiệt hại cho xã hội. Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 thì ghi nhận: “Trong trường hợp pháp luật khơng quy định và các bên khơng có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng”.

<b>III. BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT </b>

Pháp luật ra đời và tồn tại gắn liền với Nhà nước, vì vậy, cũng giống như Nhà nước, xét về bản chất, pháp luật là hiện tượng xã hội luôn thể hiện tính xã hội và tính giai cấp. Đây là những thuộc tính cơ bản, quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của pháp luật.

Tính xã hội của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp luật không chỉ thể hiện ý chí của lực lượng cầm quyền mà cịn thể hiện ý chí chung của tồn xã hội và nhằm bảo vệ lợi ích chung của tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Chỉ trên cơ sở đó, pháp luật mới có thể điều hòa các mâu thuẫn, xung đột trong xã hội, giữ cho xã hội ổn định, trật tự và phát triển. Thêm vào đó, trong đời sống của mỗi cộng đồng, do đòi hỏi của quan hệ giao tiếp giữa mọi người tất yếu sẽ hình thành các thói quen, các quy tắc, các chuẩn mực ứng xử có tính chất chân lý, thể hiện ý chí chung của các thành viên trong cộng đồng, được sự chấp thuận và tuân thủ tự giác của cả cộng đồng xã hội. Những quy tắc, chuẩn mực này khi được Nhà nước nâng lên thành luật thì sẽ thể hiện ý chí chung của cả cộng đồng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Tính xã hội của pháp luật còn thể hiện ở chỗ pháp luật là công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập, củng cố và bảo vệ trật tự chung trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo vệ lợi ích chung của tồn quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển chung của tồn xã hội. Pháp luật là công cụ bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ những cơng trình và những giá trị văn hoá, tinh thần chung của cộng đồng, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo vệ con người và mơi trường sống... Ví dụ: mặc dù mang tính chất giai cấp phong kiến nhưng Bộ

<i>luật Hồng Đức (hay cịn gọi Quốc triều hình luật; Lê Triều hình luật) lại chứa đựng nhiều </i>

yếu tố tiến bộ với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới, của nơ tì, người cô quả, tàn tật … Nhiều quy định của Bộ luật tập trung bảo vệ người dân chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại. Đặc biệt, Bộ luật này cịn có một số quy định bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, điều đó phản ánh truyền thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm gốc”.

Bên cạnh tính xã hội, tính giai cấp cũng là thuộc tính khơng thể thiếu của pháp luật. Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ: Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là công cụ điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng trong xã hội theo hướng bảo vệ lợi ích, bảo vệ quyền và địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền. Nói cách khác, pháp luật là ý chí của lực lượng cầm quyền được nâng lên thành luật. Ví dụ, pháp luật của Việt Nam hiện nay là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam nhằm bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được triển khai và thực hiện trong tồn xã hội, hướng tới mục đích bảo vệ quyền lợi cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động và các

<i>lực lượng tiến bộ khác. </i>

<i>Tóm lại: Tính xã hội và tính giai cấp là thuộc tính chung của pháp luật, tuy nhiên </i>

pháp luật của các Nhà nước khác nhau sẽ khác nhau ở những biểu hiện cụ thể và tương quan giữa mức độ thể hiện của hai thuộc tính này. Chẳng hạn, pháp luật phong kiến Việt Nam là sự thể hiện ý chí của giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến, nhằm bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống trị của lực lượng này; đồng thời điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội phong kiến. Do vậy, tính giai cấp của pháp luật phong kiến thể hiện rất công khai và rõ rệt, cịn tính xã hội của nó thể hiện một cách mờ nhạt và hạn chế. Pháp luật của Nhà nước ta hiện nay là sự thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

những người lao động khác, là sự thể chế hố đường lối, chính sách của Đảng cộng sản nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội của thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, tính xã hội của pháp luật nước ta hiện nay được thể hiện rất rộng rãi và vượt trội hơn nhiều so với tính giai cấp.

<b>IV. VAI TRỊ CỦA PHÁP LUẬT </b>

Vai trò của pháp luật được hiểu là tác dụng tích cực của pháp luật, biểu hiện ở một số nội dung:

<b>1. Vai trò của pháp luật đối với xã hội </b>

<i><b>a. Pháp luật điều tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ xã hội </b></i>

- Pháp luật không sinh ra quan hệ xã hội nhưng là phương tiện không thể thiếu và hiện nay là cơng cụ có hiệu quả nhất để điều tiết và định hướng cho sự phát triển của các quan hệ xã hội, thông qua việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho chủ thể tham gia quan hệ xã hội, các biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Pháp luật tạo ra hành lang pháp lý, khuôn khổ cho các quan hệ xã hội vận hành. Nhờ có pháp luật, các thành viên trong xã hội nắm bắt được những hành vi nào là hợp pháp, được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn cấm để từ đó có cách ứng xử phù hợp khi ở vào một tình huống cụ thể.

- Pháp luật củng cố và tăng cường các xu hướng phát triển tích cực của các quan hệ xã hội, ngăn ngừa, loại bỏ những xu hướng phát triển tiêu cực, đảm bảo sự phát triển của xã hội phù hợp với qui luật khách quan (ví dụ, quan hệ sở hữu, sự tích tụ, tập trung ruộng đất).

+ Pháp luật ghi nhận sự tồn tại của các quan hệ xã hội phù hợp với mục đích, định hướng của Nhà nước, tạo lập mơi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển và bảo vệ sự tồn tại của những quan hệ xã hội đó.

+ Pháp luật hạn chế và loại bỏ những quan hệ xã hội lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của đời sống, trái với mục đích, định hướng của Nhà nước.

- Vai trò của pháp luật càng được thể hiện rõ khi có sự thay đổi lớn trong đời sống xã hội. Sau mỗi cuộc cách mạng, cải cách xã hội, những yếu tố mới được xác lập thường gặp phải sự chống đối, sức ỳ và lực cản từ nhiều phía, ngược lại, những yếu tố lạc hậu, lỗi thời, khơng cịn phù hợp nhưng chưa hoàn toàn mất hẳn.

<i>Trong những điều kiện đó, “Luật pháp được xem như một phương thức hữu hiệu để </i>

<i>điều tiết các trạng thái xã hội và các quan hệ nảy sinh từ chính các biến đổi xã hội quan trọng đó”</i>

<i><small>1</small></i>

. Bằng pháp luật, những yếu tố mới, tích cực, tiến bộ sẽ được khẳng định, nhờ đó sự tồn tại của chúng trở nên chính thức và chắc chắn, không thể đảo ngược (việc thiết lập chính quyền mới, cải cách thủ tục hành chính… ).

<small>1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội – 2016, tr. 268. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<i><b>b. Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội </b></i>

- Trật tự an ninh, an toàn xã hội là trạng thái của đời sống xã hội, trong đó tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc gia được giữ vững và con người được yên ổn trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động, học tập, nghỉ ngơi, tính mạng, sức khỏe, tài sản, bí mật đời tư, danh dự, uy tín… không bị xâm hại. An ninh chủ yếu được thể hiện trong lĩnh vực chính trị, an toàn xã hội được thể hiện trên nhiều mặt: an toàn trong sản xuất, trong giao thông, trong sinh hoạt hàng ngày, an toàn trong các giao dịch xã hội…

- Pháp luật hướng dẫn cách xử sự cho mọi người khi tham gia các quan hệ xã hội theo chiều hướng nhằm tạo lập an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quy định những tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật để bảo đảm sự an toàn cho mọi người trong các lĩnh vực lao động, sản xuất, tiêu dùng, chế biến, sử dụng thực phẩm…

- Pháp luật cấm những hành vi gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và quy định các biện pháp trừng phạt đối với những chủ thể có hành vi đó, qua đó mà bảo đảm được trật tự, an ninh, an toàn xã hội.

<i><b>c. Pháp luật là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong xã hội </b></i>

Trong xã hội, tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể là điều không thể tránh khỏi: tranh chấp giữa các doanh nghiệp, giữa người mua và người bán, giữa các thành viên trong một gia đình… Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội chính là các chuẩn mực, cơ sở để giải quyết tranh chấp đó.

- Pháp luật quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết các tranh chấp đó nhằm bảo đảm cho tranh chấp được giải quyết một các cơng bằng, vừa thấu tình, vừa đạt lý, bảo đảm tính cơng minh của pháp luật.

<i><b>d. Pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người, bảo đảm dân chủ, bình đẳng, cơng bằng và tiến bộ xã hội </b></i>

- Quyền con người là khả năng của con người được tự do lựa chọn hành động, tự do lựa chọn cách thức và mức độ thể hiện thái độ cũng như hành động theo ý mình, khơng bị hạn chế, ràng buộc, cấm đốn một cách vơ lý. Ngày nay, quyền con người đã trở thành một giá trị chung được toàn thế giới công nhận. Chỉ pháp luật đương đại mới có vai trị này. Cụ thể: pháp luật đương đại vừa thừa nhận quyền con người trong các lĩnh vực khác nhau, vừa quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền con người. Pháp luật còn cấm những hành vi xâm hại tới quyền con người và quy định các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với các chủ thể có hành vi đó, qua đó bảo vệ quyền con người.

- Pháp luật của các Nhà nước hiện đại có vai trị to lớn trong việc bảo đảm dân chủ, bình đẳng, cơng bằng và tiến bộ xã hội:

+ Pháp luật qui định quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, đảm bảo cho nhân dân tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước, qui định trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân…

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

+ Pháp luật chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên sự khác biệt về nguồn gốc xuất thân, chủng tộc, màu da, giới tính, dân tộc, tơn giáo, quan điểm chính trị, tài sản…

+ Pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người. + Pháp luật bảo đảm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các giai tầng xã hội, nhất là những người ở vị thế xã hội yếu hơn.

+ Thơng qua pháp luật, người có cơng thì được thưởng, kẻ có tội phải bị trừng phạt; cơng càng lớn, thưởng càng lớn, tội càng lớn, phạt càng nặng.

+ Pháp luật là công cụ quan trọng để ghi nhận và bảo vệ cái mới, tích cực, tiến bộ, thúc đẩy xã hội phát triển, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của con người ngày càng được nâng cao, có điều kiện phát huy tài năng, phát triển toàn diện, các giá trị con người ngày càng được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ.

<i><b>đ. Pháp luật đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội </b></i>

Theo quy luật tất yếu, xã hội luôn phát triển không ngừng. Tuy nhiên, khác với các giai đoạn trước, yêu cầu phát triển đối với xã hội đương đại và tương lai khơng phải là “tăng trưởng nóng” mà phải là bền vững trên cả ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và mơi trường; đảm bảo có thể đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không phương hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.

Vai trò của pháp luật trong lĩnh vực này thể hiện qua việc pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội theo chiều hướng vừa bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm công bằng, tiến bộ và sự ổn định xã hội, vừa bảo vệ và cải thiện mơi trường.

<i><b>e.Vai trị giáo dục của pháp luật </b></i>

- Để điều chỉnh hành vi con người, pháp luật phải tác động lên ý thức của họ. Thơng qua đó, pháp luật góp phần nâng cao nhận thức, định hướng tư tưởng và làm thay đổi hành vi của các chủ thể trong xã hội.

- Pháp luật vừa là cơ sở, vừa là động lực, vừa là mục đích của nhận thức pháp luật. Với tính chất cơng khai của mình, một khi pháp luật đã được công bố, bắt buộc các thành viên trong xã hội phải nắm bắt được chúng.

- Chính yêu cầu của đời sống buộc con người phải có những tri thức nhất định về pháp luật. Đồng thời nhờ tham gia vào đời sống mà con người dần dần tích lũy được các tri thức pháp luật.

- Pháp luật giữ vai trò định hướng tư tưởng cho các thành viên trong xã hội. Pháp luật là cơ sở hình thành ý thức tuân thủ pháp luật, thái độ tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, pháp luật thúc đẩy việc hình thành thói quen suy nghĩ và hành động hợp pháp.

- Pháp luật giáo dục ý thức cơng dân, làm hình thành ở mỗi người ý thức về trách nhiệm, bổn phận của cá nhân đối với cộng đồng, công dân đối với đất nước.

- Pháp luật định hướng hành vi của con người. Thông qua các qui định trong pháp luật, các chủ thể biết được quyền, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của mình, từ đó có cơ sở để lựa chọn và thực hiện hành vi một cách phù hợp. Pháp luật tạo cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

mỗi chủ thể khả năng sử dụng những quyền đã được pháp luật qui định để phục vụ lợi ích của mình, nhưng đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ tương ứng để tôn trọng và bảo đảm quyền, lợi ích của chủ thể khác.

- Bằng việc qui định các biện pháp cưỡng chế, pháp luật tạo ra một “chướng ngại vật” có sức cản mạnh mẽ đối với những vi phạm pháp luật. Bằng việc qui định những hình thức khen thưởng, pháp luật khuyến khích các chủ thể tích cực, chủ động, tự giác thực hiện những hành vi hợp pháp.

<b>2. Vai trò của pháp luật đối với lực lượng cầm quyền </b>

<i><b>a. Pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của lực lượng cầm quyền </b></i>

Bằng pháp luật, các quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của lực lượng cầm quyền nhanh chóng được truyền bá rộng rãi, cơng khai trên tồn xã hội. Thơng qua pháp luật, các lực lượng cầm quyền áp đặt chủ trương, đường lối của mình đối với tồn xã hội, bắt toàn thể xã hội phải phục tùng và thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, đường lối, chính sách do lực lượng đó đề ra. Nhờ có pháp luật, chủ trương đường lối chính sách của lực lượng cầm quyền mới dễ dàng đi vào đời sống, trở thành hiện thực trong đời sống.

<i><b>b. Pháp luật là vũ khí chính trị của lực lượng cầm quyền để chống lại sự phản kháng chống đối trong xã hội </b></i>

Pháp luật cấm các hành vi chống phá chính quyền, âm mưu lật đổ chính quyền, coi đó là một trong những loại tội phạm nguy hiểm nhất, bị trừng trị nghiêm khắc nhất và quy định các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với các chủ thể thực hiện các hành vi đó. Pháp luật ngăn cản việc truyền bá cũng như hạn chế sự ảnh hưởng của các hệ tư tưởng đối lập.

<b>3. Vai trò của pháp luật đối với Nhà nước </b>

<i><b>a. Pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tồn tại của Nhà nước </b></i>

Pháp luật hợp pháp hóa sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, tạo ra cho chính quyền một sự “chính danh”, tạo ra thế và lực cho Nhà nước, tạo cho Nhà nước tư cách và khả năng quản lý và điều hành xã hội, đồng thời góp phần ngăn cản các âm mưu chính biến.

<i><b>b. Pháp luật là công cụ bảo vệ Nhà nước, bảo đảm an toàn cho các nhân viên Nhà nước </b></i>

Pháp luật là công cụ sắc bén để Nhà nước tự bảo vệ mình, ngăn chặn các hành vi chống đối chính quyền, làm suy giảm uy tín và sức mạnh của chính quyền.

<i><b>c. Pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước </b></i>

+ Pháp luật quy định các loại cơ quan Nhà nước; trình tự thành lập, cơ cấu tổ chức của từng loại, từng cấp và từng cơ quan; thẩm quyền chia tách, sát nhập các cơ quan Nhà nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

+ Pháp luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức và phương pháp hoạt động của từng loại, từng cấp và từng cơ quan Nhà nước, mối quan hệ giữa các cấp cơ quan Nhà nước, giữa các cơ quan trong cùng một cấp, giữa các bộ phận cấu thành và giữa các nhân viên trong một cơ quan Nhà nước với nhau.

<i><b>d. Pháp luật là cơ sở để xây dựng đội ngũ nhân viên Nhà nước “vừa hồng, vừa chuyên” </b></i>

- Pháp luật quy định tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các ứng viên được lựa chọn vào các cơ quan Nhà nước.

- Pháp luật xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi nhân viên Nhà nước, những phẩm chất đạo đức cần phải có, nhờ đó, mỗi người ý thức được nghĩa vụ, bổn phận của mình, xác định được những việc mình được làm, phải làm, nên làm,

<i><b>những phẩm chất đạo đức mình cần tu dưỡng để đáp ứng yêu cầu của công việc… đ. Pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho sự giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước, kiểm soát quyền lực Nhà nước </b></i>

Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan và nhân viên Nhà nước là cơ sở để đánh giá xem các cơ quan Nhà nước có thực hiện đúng, hồn thành chức trách, nhiệm vụ của mình hay khơng. Ngồi ra, pháp luật còn quy định cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực Nhà nước tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động này.

<i><b>e. Pháp luật là công cụ để Nhà nước tổ chức và quản lý mọi mặt của đời sống xã hội </b></i>

Để quản lý xã hội, có nhiều cơng cụ khác nhau như pháp luật, đạo đức, phong tục, tập qn, tín điều tơn giáo, qui định của các cộng đồng dân cư, của các tổ chức xã hội….

Với những ưu thế vượt trội như tính quyền lực Nhà nước, tính xác định về hình thức, tính qui phạm phổ biến…, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách nhanh chóng, đồng bộ, có hiệu quả và rộng khắp trên qui mơ cả nước.

<b>4. Vai trị của pháp luật đối với các công cụ khác điều chỉnh quan hệ xã hội </b>

Pháp luật có thể góp phần củng cố, phát huy vai trò, tác dụng thực tế của các quan niệm, quy tắc đạo đức, phong tục tập qn hoặc tín điều tơn giáo khi chúng phù hợp với ý chí của Nhà nước và được thừa nhận trong pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng có thể góp phần loại trừ, thanh tốn dần các quan niệm, quy tắc đạo đức, phong tục tập quán hoặc tín điều tơn giáo trái với ý chí của Nhà nước.

<b>V. HÌNH THỨC VÀ NGUỒN CỦA PHÁP LUẬT 1. Khái niệm hình thức và nguồn của pháp luật </b>

<i><b>a. Khái niệm hình thức của pháp luật là cách thức thể hiện ý chí của Nhà nước, tức </b></i>

<i>là cách thức mà Nhà nước sử dụng để thể hiện ý chí của mình thành pháp luật. Pháp luật có </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

ba hình thức cơ bản là tập quán pháp, tiền lệ pháp (hay án lệ) và văn bản quy phạm pháp luật.

<i><b>b. Khái niệm nguồn của pháp luật là tất cả các hình thức (yếu tố) chứa đựng hoặc </b></i>

cung cấp căn cứ pháp lý cho hoạt động của cơ quan Nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền cũng như các chủ thể khác trong xã hội.

Pháp luật cũng có ba loại nguồn cơ bản là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, hình thức và nguồn của pháp luật là hai khái niệm vừa có điểm tương đồng vừa có điểm khác biệt. Điểm tương đồng là ở chỗ cả hình thức lẫn nguồn của pháp luật đều có chung ba loại cơ bản là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong khoa học cũng như trong thực tiễn, thuật ngữ nguồn pháp luật được sử dụng phổ biến hơn, thuật ngữ nguồn pháp luật được sử dụng thường xun, cịn thuật ngữ hình thức pháp luật rất hiếm khi được sử dụng.

<b>2. Các hình thức (các loại nguồn) cơ bản của pháp luật </b>

<i><b>a. Tập quán pháp </b></i>

Tập quán pháp là các quy tắc xử sự đã tồn tại trong xã hội dưới dạng phong tục tập quán, đạo đức, các tín điều tơn giáo nhưng phù hợp với ý chí của Nhà nước nên được Nhà nước thừa nhận thành pháp luật. Theo khoản 2 Điều 26 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu khơng có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán...”. Như vậy, tập quán xác định họ cho con ở nước ta đã trở thành tập quán pháp.

<i><b>b. Tiền lệ pháp hay án lệ </b></i>

Tiền lệ pháp hay án lệ là các quyết định hoặc lập luận hoặc nguyên tắc hoặc sự giải thích pháp luật do cơ quan xét xử (Tòa án hoặc Trọng tài) đưa ra khi giải quyết một vụ việc thực tế cụ thể nào đó được Nhà nước thừa nhận làm mẫu hoặc làm cơ sở để các cơ quan xét xử dựa vào đó mà giải quyết các vụ việc khác xảy ra về sau có nội dung hoặc tình tiết tương tự. Ví dụ, các án lệ được Chánh án Tịa án nhân dân tối cao nước ta công bố đã được thừa nhận làm mẫu cho các Tòa án khác dùng làm cơ sở để giải quyết các vụ án có nội dung hoặc tình tiết tương tự.

<i><b>c. Văn bản quy phạm pháp luật </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy định, trong đó có các quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện hay các quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội theo mục đích của Nhà nước.

Văn bản quy phạm pháp luật có các đặc điểm cơ bản sau:

<small>- </small> Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các cơ quan Nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành pháp luật ban hành theo một trình tự thủ tục nhất định. Ví dụ, ở Việt Nam hiện nay, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định cụ thể về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ…

- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện hay là các quy phạm pháp luật. Ví dụ, quyết định của Ủy ban nhân dân một địa phương nào đó quy định về các biện pháp vệ sinh phịng dịch ở địa phương mình thì đó là văn bản quy phạm pháp luật, còn cũng là quyết định của chính Ủy ban nhân dân đó nhưng về việc trao quyền sử dụng một diện tích đất nhất định cho một công ty hay một cá nhân nào đó thì khơng phải là văn bản quy phạm pháp luật.

- Văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống và được thực hiện trong mọi trường hợp khi có các sự kiện pháp lý tương ứng với nó xảy ra cho đến khi nó hết hiệu lực. Ví dụ, Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 được thực hiện từ ngày 01/01/2001 và hết hiệu lực từ ngày 01/01/2015 - khi Luật Hơn nhân và Gia đình mới ban hành năm 2014 thay thế và bắt đầu có hiệu lực.

- Tên gọi, nội dung, trình tự và thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định cụ thể trong pháp luật. Ví dụ, ở Việt Nam, tên gọi, nội dung, trình tự và thủ tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015...

Ở Việt Nam hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật là hình thức cơ bản, chủ yếu song khơng phải là hình thức duy nhất của pháp luật vì cịn có các tập qn pháp và án lệ. Tuy nhiên, việc áp dụng tập quán pháp và án lệ chỉ được thực hiện khi văn bản quy phạm pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

luật chưa có quy định và việc áp dụng khơng trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hiện hành.

<b>d. Các loại nguồn khác của pháp luật </b>

- Điều ước quốc tế;

- Các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội;

- Các tư tưởng,quan điểm, học thuyết chính trị - pháp lý; - Luật công bằng, lẽ phải…;

- Tín điều tơn giáo;

- Đường lối, chính sách, mục tiêu chính trị của lực lượng cầm quyền; - Hợp đồng…

<b>VI. CÁC LOẠI VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY </b>

Căn cứ vào giá trị pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật, có thể chia văn bản quy phạm pháp luật thành hai loại là: văn bản luật và văn bản dưới luật.

<b>2. Văn bản dưới luật </b>

Văn bản dưới luật bao gồm các loại sau:

- Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đồn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước.

- Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

- Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

- Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước.

- Thơng tư liên tịch giữa Chánh án Tịa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

<i>- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. </i>

- Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

- Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.

<i>- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện. </i>

- Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

<i>- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã. </i>

- Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã. -

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<b>CÂU HỎI ƠN TẬP</b>

<b>Câu 1. Pháp luật là gì? </b>

<b>Câu 2. Nhà nước ban hành pháp luật thông qua các cách thức nào? Câu 3. Tại sao Nhà nước phải đảm bảo cho pháp luật được thực hiện? Câu 4. Tại sao nói pháp luật có tính quy phạm phổ biến? </b>

<b>Câu 5. Hiểu thế nào là tính thống nhất của hệ thống pháp luật? Câu 6. Tại sao nói pháp luật có tính xác định về hình thức? </b>

<b>Câu 7. Chỉ ra một phong tục, tập quán mà Nhà nước Việt Nam sử dụng pháp luật để </b>

<b>can thiệp xóa bỏ? </b>

<b>Câu 8. Tại sao pháp luật mang tính giai cấp? Câu 9. Tại sao pháp luật mang tính xã hội? </b>

<b>Câu 10. Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, tính giai cấp hay tính xã hội là thuộc </b>

tính vượt trội?

<b>Câu 11. Vai trò của pháp luật đối với xã hội được thể hiện như thế nào? </b>

<b>Câu 12. Vai trò của pháp luật đối với Nhà nước Việt Nam hiện nay được thể hiện </b>

như thế nào?

<b>Câu 13. Vai trò của pháp luật đối với Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện như </b>

<b>thế nào? </b>

<b>Câu 14. Vai trò của pháp luật đối các loại quy phạm xã hội khác điều chỉnh quan hệ </b>

xã hội ở Việt Nam được thể hiện như thế nào?

<b>Câu 15. Ở Việt Nam hiện nay ngồi Hiến pháp ra cịn có những văn bản quy phạm </b>

pháp luật nào nữa?

<b>Câu 16. Ở địa phương các cơ quan Nhà nước nào có thẩm quyền ban hành văn bản </b>

quy phạm pháp luật? Mỗi cơ quan đó được ban hành những loại văn bản quy phạm pháp luật nào?

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

1. Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ.

<i>2. Viện Ngơn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2002. </i>

<i>3. TS. Nguyễn Thị Hồi (Chủ biên), Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay – </i>

<i>một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội - 2009. </i>

<i>4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và </i>

<i>pháp luật. Nxb. Tư pháp, Hà Nội - 2017. </i>

<i>5. PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi (Chủ biên), Những nội dung căn bản của môn học </i>

<i>Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010. </i>

<i>6. PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi, Hướng dẫn ôn tập môn học Lý luận Nhà nước và </i>

<i>pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010. </i>

7.

<i>PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi, Hướng dẫn ôn và thi môn Lý luận chung về Nhà </i>

<i>nước và pháp luật (dành cho sinh viên chuyên luật văn bằng </i>

<i>1 và văn bằng 2), Nxb. Tư </i>

pháp, Hà Nội - 2018.

8. Các văn bản quy phạm pháp luật: - Hiến pháp năm 2013

- Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020

- Bộ luật dân sự năm 2015

<i><b>Chúc Anh/ chị học tốt! </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<b>BÀI 3. QUY PHẠM PHÁP LUẬT, QUAN HỆ PHÁP LUẬT, MỘT SỐ NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG </b>

<b>PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY </b>

<b>Nội dung: </b>

I- Quy phạm pháp luật II- Quan hệ pháp luật

III- Một số ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay

<b>Mục tiêu của bài học </b>

- Giúp người học hiểu được khái niệm, đặc điểm của quy phạm pháp luật; phân biệt được sự khác nhau giữa quy phạm pháp luật với quy phạm xã hội khác; phân biệt được các bộ phận của quy phạm pháp luật cũng như cách thức thể hiện quy phạm pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật.

- Nội dung của chương cũng hướng đến việc giúp người học hiểu được khái niệm, đặc điểm của quan hệ pháp luật; các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật và các căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể.

- Giúp người học hiểu được khái quát đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và các chế định cơ bản của một số ngành luật (lĩnh vực pháp luật) trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.

<b>I. QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1. Khái niệm quy phạm pháp luật </b>

<i>1.1. Định nghĩa quy phạm pháp luật </i>

Con người sống trong một cộng đồng xã hội nhất định, vì vậy nhu cầu cần có các quy tắc xử sự để điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội hướng đến việc bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân trong xã hội. Khi chưa có Nhà nước, các quy phạm xã hội đóng vai trị quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người. Khi

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Nhà nước ra đời, Nhà nước phải ban hành hệ thống các quy phạm pháp luật để quản lý xã hội. Quy phạm pháp luật chính là quy tắc xử sự định hướng cho nhận thức và hướng dẫn cách xử sự hay các hành vi của cá nhân, tổ chức trong xã hội theo hướng nhằm đảm bảo một

<i>trật tự xã hội nhất định. Do đó: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung hay chuẩn mực chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của Nhà nước. </i>

<i>1.2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật </i>

<i>* Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội nên nó có tất cả các đặc điểm của quy phạm xã hội. Đó là: </i>

- Quy phạm pháp luật là khuôn mẫu, chuẩn mực để định hướng và hướng dẫn cách xử sự cho mọi người trong xã hội. Bất kỳ ai khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã được dự liệu trong quy phạm pháp luật đều phải xử sự theo những cách thức đã được nêu ra. Quy phạm pháp luật là quy tắc được đặt ra không phải cho một cá nhân hay một tổ chức cụ thể đã được xác định mà là quy tắc chung cho tất cả các tổ chức và cá nhân tham gia vào quan hệ xã hội do nó điều chỉnh.

Ví dụ, khoản 1 Điều 132 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về Tội không cứu giúp

<i>người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng như sau: “Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà khơng cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo khơng giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”. Theo quy định này, bất kỳ người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, có điều kiện cứu giúp thì đều </i>

phải thực hiện hành vi cứu giúp. Chẳng hạn một người đang đi đường nhìn thấy một người sắp chết đuối bên hồ thì phải tìm cách cứu giúp, nếu bơi giỏi thì có thể tự cứu, nếu bơi yếu hoặc khơng biết bơi thì phải đi gọi người tới cứu; hoặc một người đang điều khiển xe mô tô, xe ô tô đi qua nơi vừa xảy ra tai nạn, thấy người bị thương nguy hiểm đến tính mạng thì phải đưa người bị thương đến bệnh viện gần nhất để cấp cứu. Với những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và có điều kiện cứu giúp mà không thực hiện hành vi cứu giúp để cho người gặp nạn bị chết thì đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

- Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người. Căn cứ vào quy phạm pháp luật có thể xác định được hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào là trái pháp luật, hoạt động nào mang tính pháp lý và hoạt động nào khơng mang tính pháp lý.

Ví dụ, cùng là hành vi tước đoạt tính mạng của người khác, nhưng nếu là hành vi của cán bộ chuyên môn do cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu chỉ định để thực hiện việc thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc theo lệnh của Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình thì đó là hành vi hợp pháp. Nhưng nếu là hành vi của một người vì muốn tước đoạt tính mạng của người khác mà tiêm thuốc độc làm người đó chết thì hành vi đó là hành vi bất hợp pháp (hành vi này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người).

- Quy phạm pháp luật được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống cho đến khi nó bị sửa đổi, thay thế hoặc bãi bỏ. Vì quy phạm pháp luật là những quy tắc, khuôn mẫu chung định hướng và hướng dẫn cho xử sự, hoạt động của các cá nhân, tổ chức trong xã hội nên nó được thực hiện nhiều lần. Tuy nhiên, do xã hội luôn vận động và phát triển nên một số quy phạm pháp luật dần dần khơng cịn phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội, vì thế, các quy định đó sẽ bị sửa đổi, thay thế hoặc bãi bỏ. Khi một quy phạm pháp luật bị sửa đổi, bị thay thế hoặc bãi bỏ thì nó sẽ hết hiệu lực pháp lý và các cá nhân, tổ chức trong xã hội không cần phải thực hiện nữa.

Ngồi các đặc điểm chung nói trên, quy phạm pháp luật cịn có một số đặc điểm riêng như sau:

<i>* Quy phạm pháp luật luôn thể hiện ý chí của Nhà nước. </i>

Khác với các loại quy phạm xã hội khác, quy phạm pháp luật chỉ được hình thành bằng con đường Nhà nước (Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền ban hành pháp luật), do vậy, quy phạm pháp luật ln thể hiện ý chí của Nhà nước.

<i>* Nội dung của quy phạm pháp luật thường thể hiện hai mặt: cho phép và bắt buộc, tức là nó quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do nó điều chỉnh. Quy phạm pháp luật được ban hành là để điều chỉnh quan hệ xã hội, làm </i>

cho quan hệ đó phát triển theo chiều hướng Nhà nước mong muốn. Vì thế, quy phạm pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

luật thường xác định cách xử sự hay quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội nhất định. Ví dụ, khoản 5 Điều 4 Luật Giao thông đường bộ năm 2008

<i>quy định: “Người tham gia giao thơng phải có ý thức tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thơng, giữ gìn an tồn cho mình và cho người khác. Chủ phương tiện và người điều khiển phương tiện phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc bảo đảm an toàn của phương tiện tham gia giao thông đường bộ”. Quy định này đã xác định cụ thể nghĩa vụ pháp </i>

lý cho người tham gia giao thông, chủ phương tiện và người điều khiển phương tiện, đồng thời xác định quyền của Nhà nước được yêu cầu các chủ thể trên phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đó.

<i>1.3. Phân loại quy phạm pháp luật </i>

Quy phạm pháp luật có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau dựa vào các tiêu chí phân loại khác nhau. Cụ thể:

- Nếu căn cứ vào nội dung và vai trò của quy phạm pháp luật thì có thể chia quy phạm pháp luật thành: quy phạm điều chỉnh, quy phạm bảo vệ, quy phạm định nghĩa, quy phạm xung đột.

- Nếu căn cứ vào đối tượng và phương pháp điều chỉnh của pháp luật thì có thể chia quy phạm pháp luật thành các loại tương ứng với các ngành luật, ví dụ: quy phạm pháp luật hiến pháp, quy phạm pháp luật dân sự…

- Nếu căn cứ vào nội dung phần quy định của quy phạm pháp luật thì có thể chia chúng thành các loại quy phạm dứt khoát, quy phạm tùy nghi và quy phạm hướng dẫn.

- Nếu căn cứ vào yêu cầu của Nhà nước đối với các chủ thể được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật thì có thể chia chúng thành các loại quy phạm cho phép, quy phạm bắt buộc và quy phạm cấm đoán.

<b>2. Cơ cấu của quy phạm pháp luật </b>

Nói đến cơ cấu của quy phạm pháp luật là nói đến các bộ phận hợp thành quy phạm pháp luật. Theo quan điểm truyền thống trong khoa học pháp lý Việt Nam thì quy phạm pháp luật thông thường gồm ba bộ phận cấu thành là: giả định, quy định và chế tài. Tuy nhiên, trong thực tế thì cơ cấu của các quy phạm pháp luật phụ thuộc vào từng loại quy phạm. Phần sau đây sẽ đề cập đến cơ cấu của một số loại quy phạm pháp luật.

</div>

×