Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Luận văn thạc sĩ Văn học: Hà Nội trong tản văn Đỗ Phấn và tạp văn Nguyễn Việt Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.99 MB, 85 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐẠI HỌC QUỐC GIAHÀNỘ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

<small>PHẠM THỊ MAI THANH NGỌC</small>

VA TAP VAN NGUYEN VIET HA

LUAN VAN THAC SI VAN HOC

<small>Hà Nội-2022</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

ĐẠI HỌC QUỐC GIAHÀNỘ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

<small>PHẠM THỊ MAI THANH NGỌC</small>

VA TAP VAN NGUYEN VIET HA

<small>Luan van Thac si chuyén nganh Van hoc Viét Nam</small>

Mã s6:8229030.04

Người hướng dẫn khoa hoc: TS. Nguyễn Thi Năm Hoàng

<small>Hà Nội-2022</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp với đề tài Hà Nội trong tản vănĐỗ Phan và tạp văn Nguyễn Việt Hà là cơng trình nghiên cứu thực sự của cá

nhân tôi được sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Năm Hồng.

Những van đề trình bày trong Luận văn chưa từng được công bố dưới bat cứ

<small>hình thức nào trước khi trình, bảo vệ Luận văn.</small>

Một lần nữa, tôi xin khẳng định về lời trung thực của lời cam đoan trên.

<small>Hà Nội, ngày tháng năm 2022</small>

<small>Phạm Thị Mai Thanh Ngọc</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

LOI CAM ON

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo khoa Vănhọc - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà

Nội đã dạy dỗ, bồi dap cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong quá trình học

<small>tập cũng như cho tơi những góp ý quan trọng trong q trình hồn thành luận</small>

Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới cô giáo — TS. Nguyễn Thị

Năm Hoàng, cán bộ hướng dẫn, người đã trực tiếp giúp đỡ, chỉ bảo cho tôilựa chọn đề tài, hướng giải quyết vấn đề, cung cấp những tài liệu quý báu vàđộng viên tinh than dé tơi hồn thành luận văn nay.

Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên tôi trong suốt

<small>thời gian qua.</small>

<small>Hà Nội, ngày tháng năm 2022</small>

<small>Phạm Thị Mai Thanh Ngọc</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>MỤC LỤC</small>

MỞ ĐẦU ... 5<... 077130972130 E97244 E77941 E2941prkdeporee 31. Lí do chọn đề tài ...s-s-scs°csecsecssEssEssEssEssesserserserserserssrssrssrse 3

2. Lịch sử vấn đỀ...ecscs©cs©csexseEseEse©seEssEssekstksetserserserserserssrsee 5

3. Đối tượng, phạm vi nghiên €ứu...----e-s-sssssessessesssesessessesee 8

<small>4. Mục đích, ý nghĩa mghién CỨU...- <5 5< «s5 5< 9s S5 99 959995895989 9</small>

<small>5. Phương pháp nghiÊn CỨU... << 5< 5 S5 9 99 96 8 9 8996898958 9</small>

6. Cấu trúc luận văn...-s- s2 se s©sss£EseEsessEssEsersesseseesersesse 10Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIEN CUA DE TÀI ... 12

<small>1.1. Những đặc trưng cơ bản của tan văn và tạp văn...--« 12</small>

<small>l.I.Ï. TAN VĂH... SƠ SH. HH ng 9, 12</small>

<small>1.I.2. Tạ VĂH... c0 HH KH 9 V0 15</small>

1.2. Đề tài Hà Nội trong các tác phẩm ký đương đại...--..- 17

1.3. Sw nghiệp văn học của Đỗ Phan và Nguyễn Việt Hà... 23

<small>1.3.1. Đô Phan và các tập tan văn Di chơi bờ hồ, Ngồi lê đôi mach</small>

<small>VỚI Hà HNỘI... s- cọ HH TH HH TH TH TH HH TH Hi TH Hi Hi Hi Hi nh 23</small>

1.3.2. Nguyễn Việt Hà và các tập tạp văn Con giai phố cổ, Dan bà

HỐH TH coessessessessessessssssessessessessessssssssssssssssssessesscsacssssassasssessscsssssesseeseess 26

Chương 2: HÀ NỘI TỪ CAC CHIEU KÍCH KHONG, THỜI GIAN... 3()

TRONG TAC PHAM CUA DO PHAN VÀ NGUYEN VIỆT HÀ... 302.1. Vé dep và bản sac Ha Nội nhìn từ cảnh quan, khơng gian trong tanvăn Đỗ Phấn...- << < kẻ 3E S2 SE se ềveSeSeSesesesesesese 30

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>2.1.1. Cảnh quan Ha Nội qua không gian thực tại va không gian tam</small>

2.1.2. Bản sắc văn hố của người Hà Nội qua khơng gian ẩm thực,

2.2. Sự chuyển động của lịch sử và văn hoá Hà Nội trong tạp văn

NQuyén 14/00: ...).)... 48

2.2.1. Hà Nội nhìn trong mach vận động từ quá khứ đến hiện tai... 48

<small>2.2.2. Niêm tin và lôi sông của thị dân — những hang so trong sự vậnđộng CUA AO ẨÏHj... c G5 << <5. Họ... TH... TH T1 06 53</small>

Chương 3: NGHỆ THUAT THE HIEN DE TÀI HÀ NỘI ... 57

CUA DO PHÁN VÀ NGUYEN VIET HÀ...---5- 5° s2 s2 sssses 573.1. Ngơi kế và điểm nhìn ...--s-s<s°s<ssssssessessessesserssessesses 57

3.1.1. Ngơi kỂ...cce<ceeSeecrecrerrerrerrrrrereerere 57

3.1.2. Điểm nhìm...--ecceeccecreerrerreererreerreee 59

<small>3.2. Ngơn ngĩữ...c Go . ọ Họ cọ 9.0.0 000.0009.089 90 60</small>

3.2.1. Ngôn ngữ mang sắc thái hội hoạ, giàu chất thơ... 61

<small>3.2.2. Ngôn ngữ da dạng, phong phú, thơng tuc ...«--<« 65</small>

<small>3.3. Giọng điệu...d (G5 sọ... Họ 00900990 68</small>

<small>3.3.1. Giọng điệu hồi nidm fFÍF fÌHÌH... << <s<<s se 69</small>

3.3.2. Giọng điệu trào lộng, giễu NNGi.c.scsecsecsecrecesresseereersessessessersees 72

4510007. Ð"ö-&À... 75

TÀI LIEU THAM KHAO ...- 5° 5° << 5° se s£ssess£se=sesseseesessesse 78

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

MỞ DAU

1. Lí do chọn đề tài

Hà Nội là thủ đô ngàn năm văn hiến, là mảnh đất chứa đựng tình yêu, niềmtự hào của người dân Việt Nam. Cả vẻ đẹp trang nghiêm, cơ kính, lãng mạn củamột thành phố mang bé dày truyền thống văn hoá, lịch sử của dân tộc, lẫn vẻ hiện

đại của một đô thị đang trên đà phát triển và hội nhập đều là những nét hấp dẫn,

quyến rũ của Hà Nội đối với người dân và du khách khi tới nơi đây. Chính vì lẽ đómà Hà Nội trở thành nguồn cảm hứng bắt tận trong văn chương nghệ thuật.

Trong văn học Việt Nam hiện đại, mảnh đất kinh kì đã từng di vào trang văn

của biết bao nhà văn tiêu biểu như Tơ Hồi, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, VũBằng,... Và hiện nay, Hà Nội van là dé tài làm nên những sắc màu riêng cho văn

chương Nguyễn Trương Quý, Trung Sỹ, Uông Triéu,...Méi tác phẩm, mỗi giọng

<small>văn lại giúp cho độc giả hình dung được những dáng hình, những hơi thở khác</small>

nhau của mảnh đất cổ kính này. Và nhắc tới đề tài Hà Nội trong văn chương,không thể không ké tới hai nhà văn “ruột thịt” của Hà Nội: Đỗ Phan va NguyễnViệt Hà. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, Đỗ Phan và Nguyễn Việt Hà yêu Hà Nội từnhành cây, cọng lá, một góc phố nhỏ cho đến lối sống, nếp nghĩ, phong tục tậpquán.... Và tình yêu ấy được phản ánh sắc nét trong các tác phẩm của hai nhà văn.

Không chi bằng các thể loại hư cấu như tiểu thuyết, truyện ngắn, thông quadung lượng cực hạn của tản văn và tạp văn, Đỗ Phấn và Nguyễn Việt Hà đã dẫndắt chúng ta lang thang trong chiều kích của khơng gian văn hoá Hà Nội lẫn thời

gian từ lịch sử đến thời gian hiện tại và tương lai. Được sống và chứng kiến sựthay đôi của con người và cảnh quan Hà Nội qua không - thời gian, các tác giả có

cái nhìn sâu sắc, chân thực và tái hiện thành công được những chỉ tiết nhỏ, những

con người, cuộc sống bình di đời thường một cách đẹp dé và thơ mộng như mộtbức tranh day sắc màu. Thông qua các tác pham của Đỗ Phan và Nguyễn Việt Hà,

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<small>độc gia cịn được dam mình vào sự chuyên động của Hà Nội, hiêu được ý thức va</small>

<small>niêm tin thị dân của người Hà Nội cũng như những điêu mà trải qua bao thăng</small>

tram biến đổi vẫn khơng mat đi của Hà Nội theo những góc nhìn và lối viết đầy

tinh tế.

Cả hai nhà văn đều cùng sáng tác nhiều thể loại văn chương khác nhau, tuy

<small>nhiên trong giới hạn của luận văn này, chúng tôi lựa chọn tập trung khai thác vào</small>

thé ký. Thể ký là nơi mà những trải nghiệm vốn sống, suy tư về địa danh và con

người cụ thể sẽ được các tác giả bộc lộ một cách trực tiếp và chân thành. Nếunhững tiểu thuyết, truyện ngắn là hư cấu và đó chính là một cách dé nhà văn có thểtiếp cận thành phố của mình qua những câu chuyện mà họ tưởng tượng ra, thì ở thểký, quan sát, suy ngẫm của nha văn về Hà Nội được thé hiện qua người thật, việcthật, tâm tư trực tiếp của bản thân trước cảnh quan, mơi trường, văn hố của Hà

Tản văn và tạp văn đều là những thể loại ký — thé loại có ưu thế viết về

người thật, việc thật, có giá tri tư liệu, có tính thời sự và có ưu thế trong việc diễntả trực tiếp tâm tư, suy ngẫm của người viết. Tản văn và tạp văn có những điểm

giao thoa, tương đồng và những điểm phân biệt với nhau. Chính vì thế, trong luậnvăn chúng tơi đặt hai thé loại này cạnh nhau dé có thé thay được rõ nét chung va

những đặc sắc riêng của từng tác phâm và ở từng nhà văn trong việc lựa chọn từng

thể loại đó.

Đỗ Phan và Nguyễn Việt Hà mỗi người có một cách viết riêng, một cáchviết khiến bat kì độc giả nào cũng có thé hình dung ra một Hà Nội của thé ki XXI

với sự vận động cả trong thời gian lẫn không gian, ồn ào đơng đúc, chật chội

nhưng cũng trầm tĩnh, kín đáo và tinh tế. Trong hệ thống sáng tác của hai nhà văn,nếu nghiên cứu một số tác phẩm tan văn va tạp văn viết về Hà Nội chúng ta sẽ thay

được nha văn đã thé hiện được những quan sát, ghi chép, hồi tưởng và suy nghĩ về

<small>Hà Nội. Tat nhiên, với đặc thù của tản văn và tạp văn, môi người lại có những thê</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>mạnh khác nhau và có những đặc trưng khác nhau trong sáng tác của mình. Chính</small>

vì thé, chúng tơi muốn đặt các tác phẩm phi hư cấu của hai nhà văn cạnh nhau dé

phân tích, so sánh và chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt của các tác phâm,tác giả khi cùng viết về đề tài Hà Nội.

Đây chính là lí do khiến cho chúng tơi lựa chọn đề tài Hà Nội qua tản văn

Đỗ Phan và tap văn Nguyễn Việt Hà dé triển khai luận văn.

2. Lịch sử vấn đề

Trong văn học Việt Nam đương đại, văn chương viết về Hà Nội đã nhận

được sự quan tâm của giới nghiên cứu. Đã có một số cơng trình, bài viết, luận vănlay bộ phận văn chương này làm đối tượng nghiên cứu ở các cấp độ quan tâm khác

Tháng 8/2010 trong bài nghiên cứu Thang Long trong thơ xưa, Lê Thu Yếnđã cho chúng ta thấy cái nhìn tổng quan về Thăng Long trong thơ xưa và khangđịnh Thăng Long — Hà Nội là một đề tài rộng lớn từ văn học dân gian đến văn học

đô thị của người viết từ sáng tác truyện ngắn trong việc áp sát thực tế đời sống trên

tiễn trình đổi mới văn học Việt Nam đương đại. Từ đó, tác giả hướng sự quan tâm

<small>đên những vân dé cua con người, cá nhân; không chi ở sự tái hiện những trang thái</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

đời sống, trạng thái nhân thế mà còn là sự nhận thức, lí giải hiện thực, phân tích và

chiêm nghiệm đời sống của con người đô thị.

Các tác giả, tác pham cụ thé trong văn học đô thị cũng đã được dé cập, phântích trong nhiều cơng trình nghiên cứu ở những quy mô khác nhau về văn học

<small>đương đại nói chung.</small>

Bên cạnh đó, chúng tơi nhận thấy đã có một số cơng trình nghiên cứu cụ thể

về các tản văn của Đỗ Phấn và Nguyễn Việt Hà. Chăng hạn, một số cơng trình

nghiên cứu trong nhà trường cũng góp phần lớn vào việc nghiên cứu chuyên sâu về

đề tài Hà Nội và hai tác giả này theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau.

Năm 2014, Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Kim Oanh nghiên cứu về đềtài Tap văn Nguyễn Việt Hà từ góc độ thể loại tác giả đã làm sáng tỏ thêm diện

mạo của thể loại tạp văn trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn cũng như phân biệt

được phong cách sáng tác riêng, nét độc đáo trong văn phong của Nguyễn Việt Hà

<small>so với những nhà văn khác.</small>

Với đề tài Hình tượng tác giả trong tạp văn Nguyễn Việt Hà (2014), Luận

<small>văn Thạc sĩ của Tạ Anh Ngọc tại Đại học Sư phạm Hà Nội cũng đã giới thiệu được</small>

một số vấn đề lí thuyết về tạp văn, hình tượng tác giả, nhu cầu khẳng định kinh

nghiệm cá nhân của người viết trong văn xuôi đương đại Việt Nam. Tác giả đi sâuvào nghiên cứu về hình tượng tác giả qua cảm quan đô thị và qua giọng điệu, cách

tổ chức ngôn từ.

Đề tài Luận văn Thạc sĩ của Trần Quang Vinh năm 2015 tại trường Đại học

Vinh mang tên Hà Nội trong tản văn của Đỗ Phan (Qua tập Hà Nội thì khơng cótuyết). Trong nghiên cứu, tác giả chỉ ra được những sáng tạo của nhà văn đối với

đề tài Hà Nội đồng thời làm rõ những hiệu quả của những thủ pháp, biện pháp

nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng để xây dựng hình tượng Hà Nội trong tản văn.

Năm 2015, Luận văn Thạc sĩ của Lê Ngọc Hà với đề tài Đó thi hiện đại

<small>trong tan văn của các nhà văn Hà Nội (qua sáng tác cua Nguyên Việt Hà, Đô</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Phan, Nguyễn Trương Quy) tác giả đã phân tích được nét văn hố đặc trưng của

Hà Nội và sự chuyền động đô thị Hà Nội. Trong luận văn này, đề tài có sự khác

biệt đối với đề tài mà chúng tôi triển khai. Đề tài luận văn của Lê Ngọc Hà là một

cái nhìn khái quát chung của ba nhà văn (Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phan, Nguyễn

Trương Quý) và nó chủ yếu là cái nhìn chung chung về ba đối tượng. Trong luận

văn của chúng tôi, chỉ chọn hai nhà văn Đỗ Phấn và Nguyễn Việt Hà để có sự so

sánh đi sâu vào phân tích các vấn đề về đề tài Hà Nội.

Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Nga (2015) tại Đại học Sư phạm Hà Nội với

đề tài Tan văn viết về Hà Nội của Đỗ Phan cũng khái lược về cơ sở hình thành đềtài Hà Nội và tản văn viết về Hà Nội trong sự nghiệp của Đỗ Phan. Phân tích bứctranh Hà Nơi qua những nét vẽ ngơn từ của hoạ sĩ và qua đó thấy được sự tiếp nốicủa các thế hệ nhà văn trong việc gìn giữ, bảo tồn những nét đẹp của thủ đô HàNội nói riêng và các giá trị truyền thống của dân tộc nói chung.

<small>Luận văn Thạc sĩ của Phạm Minh Thu (2015) tại Đại học Sư phạm Hà Nội</small>

với đề tài Từ ngữ biểu hiện con người trong tạp văn Nguyễn Việt Hà đã Hệ thơng

hóa một số vấn đề cơ bản về lý thuyết ngữ nghĩa học. Cụ thể hóa các khái niệm,van dé và áp dụng lý thuyết ngữ nghĩa học vào nghiên cứu một sự kiện ngôn ngữ

tiếng Việt. Làm rõ đặc điểm và hiệu qua giao tiếp của từ ngữ biểu hiện con ngườitrong tạp văn Nguyễn Việt Hà. Trên cơ sở đó đưa ra những luận giải về quan niệm

<small>con người, những giá trị mới, phong cách tạp văn Nguyễn Việt Hà dưới ánh sáng</small>

của lý thuyết ngữ nghĩa học.

Năm 2016, Luận văn Thạc sĩ của Quách Thị Hải Yến với đề tài Hà Nộitrong tiéu thuyết của Nguyễn Việt Hà cũng đã nhận diện, mô tả trạng thái đời sống

Hà Nội được tái hiện qua các tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, sự đổi thay của Hà

Nội từ cuối thé ki XX đến những năm đầu thé kỉ XXI qua ba cuốn tiểu thuyết củaNguyễn Việt Hà. Từ đó, khảo sát và nhận diện ra những dấu ấn của đời sống đô thịtrong nghệ thuật viết truyện của tác giả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Luận văn Thạc sĩ tại Đại học Sư phạm Hà Nội của Nguyễn Hồng Trang

(2018) với dé tài Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà từ góc nhìn văn hố cũng tong quan

cơ sở lý luận và thực tiễn về khơng gian văn hố và thế giới nghệ thuật trong tiểuthuyết Nguyễn Việt Hà. Tác giả luận văn phân tích được những nét mới ở phương

diện văn hố, có cái nhìn sâu hơn về giá tri tác phẩm, qua đó thay được một phần

cá tính sáng tạo Nguyễn Việt Hà.

Sáng tác của một số cây bút nữ viết về đô thị, về Hà Nội cũng đã được quan

tâm nghiên cứu. Mới đây, năm 2019 có luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Thắm

với đề tài Truyện ngắn nữ về dé tài đô thị - khảo sát qua truyện ngắn Nguyễn ThịThu Huệ và DiLi. Luận văn đã phân tích những van dé của đơ thị đương đại trongtruyện ngắn của hai nữ nhà văn, trong đó phần nhiều là những sáng tác về Hà Nội,đồng thời chỉ ra những đặc sắc nghệ thuật của các tác giả khi biéu hiện dé tài này.

Như vậy, theo khảo sát của chúng tơi, mặc dù đã có những bài viết phân tíchĐỗ Phan và Nguyễn Việt Hà về đề tài Hà Nội trên các khía cạnh khác nhau nhưng

chưa có một cơng trình nghiên cứu chun sâu nảo đi vào khai thác đề tài Hà Nội

qua tản văn Đỗ Phan và tạp văn Nguyễn Việt Hà mà chỉ có một số cơng trình

nghiên cứu có liên quan, làm tiền đề cho chúng tôi thực hiện và phát triển đề tài.

3. Đối tượng, phạm vỉ nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, khái quát về đề tài

Hà Nội trong tản văn của tác giả Đỗ Phần và tạp văn của tác giả Nguyễn Việt Hàdé tìm hiểu, nghiên cứu về sự thé hiện dé tài Hà Nội của hai tác giả này cả về nội

dung và hình thức. Cụ thể, vẻ đẹp và bản sắc Hà Nội nhìn qua khơng gian và sựvận động về văn hoá, lịch sử qua thời gian của Hà Nội cùng những đặc điểm trongnghệ thuật văn chương của hai nhà văn như ngơi kể, điểm nhìn, ngơn ngữ, giọngđiệu sẽ được chúng tơi phân tích qua các tác phẩm được khảo sát.

Phạm vi nghiên cứu: Qua việc khảo sát các tác phẩm chúng tôi nhận thấy

<small>hai nhà văn cùng viết về Hà Nội nhưng mỗi người vừa có những điểm giao thoa và</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

vừa có những điểm đặc sắc riêng. Trong luận văn nảy, chúng tôi tập trung làm rõđiểm đặc sắc của hai nhà văn qua bốn tác phẩm: Ngồi lé đôi mach với Hà Nội, Đi

chơi Bờ Hồ của Đỗ Phan và Con giai phố cổ, Dan bà uống rượu của Nguyễn ViệtHà. Đây là những tác phẩm tiêu biểu của từng tác giả ở thé loại và dé tài mà chúng

tôi lựa chọn. Ngoài ra, một số tác phẩm khác của hai nhà văn hoặc của các nhà vănkhác cũng sẽ được liên hệ khi cần thiết.

<small>4. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu</small>

Khi khảo sát các tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Đỗ Phấn và Nguyễn ViệtHà có lượng bạn đọc đông đảo, chúng tôi nhận thấy: chủ đề Hà Nội là một chủ đềtiêu biểu và có ý nghĩa sâu sắc. Cho nên trong quá trình khai thác và phân tích cáctác phẩm cũng như đặc điềm sáng tác của tác giả chúng tơi sẽ hướng đến các mục

<small>đích sau:</small>

Khái quát về đề tài Hà Nội trong văn học Việt Nam đương đại; nêu được

những van dé lý thuyết về thé loại và những đặc trưng cơ bản của tản văn và tap

văn, sự nghiệp văn học của Đỗ Phan và Nguyễn Việt Ha; phân tích sự thé hiện HàNội từ các chiều kích khơng, thời gian thơng qua những bức tranh về Hà Nội, sự

chuyên động của Hà Nội, ý thức và niềm tin thị dân của người Hà Nội và nhữngđiều mà trải qua bao thăng trầm biến đổi van không hề mat đi; làm rõ được dấu ấn

nghệ thuật văn chương của mỗi tác giả.

<small>Với ý nghĩa như vậy, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cho những độc</small>

giả quan tâm đến hai tác phâm và văn học đơ thị nói chung.

<small>5. Phương pháp nghiên cứu</small>

Dé thực hiện nghiên cứu dé tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên

<small>cứu sau đây:</small>

Trước hết, phương pháp tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hố giúp chúng tôi

<small>đặt các tác phâm của hai nhà văn vào bơi cảnh văn hố đương đại của Hà Nội nói</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

riêng, Việt Nam nói chung dé thay được sự thé hiện các giá trị văn hoá Hà Nộitrong hai tác phẩm.

Bên cạnh đó, chúng tơi sử dụng phương pháp tiếp cận Thi pháp hoc dé phântích đặc sắc các tác phẩm dựa trên văn bản nghệ thuật, đặc biệt là về không gian và

<small>thời gian nghệ thuật.</small>

Phương pháp tiếp cận từ lý thuyết Tự sự học cũng được chúng tơi vận dụngdé phân tích dấu ấn nghệ thuật văn chương của từng nhà văn trong việc thé hiện dé

tài Hà Nội trên các phương diện: ngôi kể, điểm nhìn, ngơn ngữ, giọng điệu.

Chúng tơi vận dụng linh hoạt các thao tác khoa học sau đây dé thực hiện

<small>luận văn:</small>

Thao tác thong kê, phân tích, tổng hợp tài liệu giúp chúng tơi khảo sát, tìmhiểu và phân tích các luận điểm, luận cứ trọng tâm của dé tài. Thống kê và tổnghợp các tài liệu có liên quan đến đề tài như sách, báo, các bài viết nghiên cứu. Trên

cơ sở đó, chúng tơi sử dụng phương pháp phân tích ở chương 2 và 3 dé làm rõ cáckhía cạnh của Hà Nội qua tan văn của Đỗ Phan và tạp văn của Nguyễn Việt Hà.

Thao tác so sánh được sử dụng dé làm sáng rõ bản chất các vấn đề cần đượcnghiên cứu trong các tác phẩm dé tim ra những điểm tương đồng, riêng biệt trong

tản văn, tạp văn viết về Hà Nội của từng tác giả, cũng như so sánh với các tác giả

<small>khác có liên quan.</small>

<small>Các phương pháp nghiên cứu, thao tác khoa học này khơng tách rời nhau mà</small>

hài hịa với nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình tìm hiểu về Hà Nội trong các

tan văn, tạp văn tiêu biểu của Đỗ Phan và Nguyễn Việt Hà nói riêng và cụ thé hơn

<small>là trong văn học Việt Nam đương đại.</small>

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tài liệu tham khảo, phần Nội

dung gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Chương 2: Hà Nội từ các chiều kích khơng, thời gian trong tác phẩm của Đỗ Phan

và Nguyễn Việt Hà.

Chương 3: Nghệ thuật thé hiện dé tài Hà Nội của Đỗ Phan và Nguyễn Việt Hà.

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIEN CUA DE TÀI

<small>1.1. Những đặc trưng cơ bản của tan văn và tạp văn</small>

Trong văn xuôi, bên cạnh tiểu thuyết, các thé loại ky văn học có một tam

quan trọng đặc biệt. Ký là thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản

ánh hiện thực ở thế trực tiếp, ở những nét sinh động và tươi mới nhất. Tác pham kývừa có khả năng đáp ứng được những yêu cầu bức thiết của thời đại, đồng thời vẫngiữ được tiếng nói vang xa sâu sắc của nghệ thuật.

Bao gồm nhiều thể loại khác nhau như ký sự, phóng sự, tuỳ bút, tản văn, tạpvăn,... nên tính chất cơ động của ký còn được thể hiện ở chỗ ký có khả năng bám

sát cuộc sống, phản ánh linh hoạt hiện thực bang nhiéu dang thức khác nhau [3;

Tản văn và tạp văn là những thé loại của ki. Hai tiêu loại nay vừa có những

đặc trưng chung của thé kí nhưng đồng thời cũng có những nét riêng và thế mạnh

<small>riêng của mình.</small>

<small>1.1.1. Tản văn</small>

Từ trước tới nay, các thê loại trong văn học đương đại phong phú và đa dạng

<small>cho nên việc phân chia các loại hình sáng tác chỉ là một quan niệm theo quy ước</small>

lỏng lẻo, khơng thật sự rõ ràng. Có thể thấy, tản văn thường xuất hiện trong các tập

tạp văn, tuỳ bút, có khi lại ở các tập bút kí, tiêu luận... Tản văn là thé loại văn họcnăng động, mang tính thời sự vì vậy nó có thé kịp thời nắm bắt và phản ánh nhữngvan đề nổi cộm lên trong đời sông xã hội hiện đại. Tất cả những điều nhỏ nhặt, lặtvặt nếu gom góp lại cũng đủ tạo nên một tản văn hồn chỉnh.

Nói về tản văn, Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: Tản văn là một loạivăn xi ngăn gọn, súc tích. Thể loại có thể là trữ tình, tự sự, nghị luận hay miêu

tả. Phương pháp khắc hoạ nhân vật chủ yếu thé hiện mọi điều trong đời sống hiện

thực, không bắt buộc phải có cốt truyện mà chủ yếu là tái hiện được nét đặc trưng

<small>12</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

của các yếu tô phản ánh hiện thực xã hội, nhằm bộc lộ tình cảm, cảm xúc của tác

<small>giả [23; tr. 246].</small>

Lê Trà My trong bài viết Một cách nhìn về tản văn hiện đại có chia sẻ: Tanvăn là thé loại văn xi ngắn gọn, khơng địi hỏi một cốt truyện hồn chỉnh, sáng

tạo mà chỉ cần cấu tứ tác phẩm được triển khai dựa trên một vài tín hiệu thâm mĩ

như hình ảnh, chỉ tiết hoặc một hiện tượng trong đời song cu thé.

Có rất nhiều các quan điểm xoay quanh khái niệm về tan văn tuy nhiên tat cảcác quan niệm trên có điểm chung rằng: Tan văn một thé loại mang tính chất đờisơng, kéo chúng ta tới gần với hiện thực đang diễn ra và thơng qua đó tái hiện bứctranh đương đại ấy trong một khn khơ.

Điểm nhìn và cách lí giải sự kiện của tác giả là then chốt của tác phẩm. Kếtcau tác phẩm chủ yếu dựa trên sự liên kết logic các sự kiện, nhân vật, hình anh, chitiết với nhau nhằm bộc lộ tính chất của tản văn là nghệ thuật biểu hiện dùng nhữngtín hiệu đó dé bộc lộ chủ thé. Do vậy, quan hệ giữa các chi tiết thường là quan hệ

liên tưởng nhờ sự tưởng tượng phóng túng, bay bổng của nhà văn tạo nên ý tưởng

độc đáo cho tác phẩm. Những điều tưởng như tản mạn, ngẫu hứng kiểu “trà dư tửu

hậu” lại được kết nối tạo thành một câu chuyện hấp dẫn. Tuy nhiên, không phải ai

cũng viết hay, cũng truyền tải được câu chuyện đó đến độc gia. Tan văn có thé coilà thé loại có vẻ dễ viết nhưng khó hay, dé bị lan man, kể lễ dai dịng. Chính vì

vậy, muốn viết được những tản văn hay địi hỏi trình độ người viết phải tạo ra mộttrình tự, cau tứ mang tính nghệ thuật cao.

Ở mỗi thể loại văn học khác nhau, tác giả sẽ có sự bộc lộ về cái tôi nghệ sĩkhác nhau do đó tạo nên những nét riêng biệt, đặc trưng riêng vốn có của tác giả. Ở

truyện ngắn, tiểu thuyết, thơng qua hình tượng, tính cách của nhân vật là sự thể

hiện an giấu của cái tôi của nhà văn. Cái tơi đó được bộc lộ rõ ràng hơn trongnhững tác phẩm thơ. Nhưng sự bộc lộ trực tiếp cái “tôi” rõ ràng nhất chính là trong

<small>tan văn, ở đó tác gia tan văn đã trực tiêp bày tỏ những quan điêm, ý kiên của minh</small>

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

mà không giấu mình, khuất lắp sau một hình tượng nhân vật nào cả. Cái “tơi” của

tác giả chính là đặc điểm nỗi bật, đồng thời cũng dé so sánh tản văn với các thể

loại văn học khác. Qua tác phẩm của họ, bạn đọc thấy ngay được tâm tư của tácgiả. Thơng qua tản văn ta có thé thấy được rõ nét về tính cách của tác giả. Có thé

nói tản văn có thé dễ viết nhưng cũng tương đối khó viết đối với từng tác giả, bởitản văn chính là sự bộc lộ cái “tôi”, là sự độc thoại nội tâm, đấu tranh tâm lý haycũng là sự trò chuyện với chính bản thân tác giả. Đối với những người có lỗi sống

khép kín, ít muốn bộc lộ bản thân có lẽ tản văn sẽ khơng thích hợp với họ. Dựa

trên nguyên tắc tự biểu hiện, người viết tan văn thường có xu hướng lấy ngay

chính cuộc sống của mình ra làm chất liệu dé xây dựng tác phẩm. Do đó, sức mạnh

của tản văn trước hết là nhân cách, bản lĩnh, tầm tư tưởng, cách nhìn, cách cảm vàsự uyên bác của người cầm bút. Đỗ Phấn cũng như vậy, thông qua tản văn ngườiđọc như thấy tác giả đang phác hoạ bức tranh về cuộc sống của chính mình một

<small>cách rõ nét, chân thực qua từng trang văn.</small>

Về giọng điệu, tản văn được coi là thê loại ngẫu hứng nên giọng điệu thường

như đang tâm sự, thủ thỉ, bộc bạch nỗi niềm của tác giả. Tản văn thích hợp với sựsuy nghĩ, trầm tư, chiêm nghiệm qua từng câu chữ. Tâm tình, thủ thi nhưng chứa

đựng day triết lí sâu sắc.

Từ sau 1986, văn học bước vào thời kì đổi mới, tản văn mới bat đầu bước

vào giai đoạn “lên ngơi”. Tản văn lúc đó đã có chỗ đứng trong đời sống văn học

đương đại. Năm 2005, nhà văn Đỗ Chu đã nhận được giải thưởng văn học của Hội

nhà văn Việt Nam với tác phâm Tản mạn trước đèn, tản văn nở rộ trong thời kì đó:Tan mạn trước đèn (Đỗ Chu), Nhân trường hợp chị thỏ bông (Thảo Hảo), Ngau

hứng sáng, trưa, chiêu, tối (Ta Duy Anh), Ngày mai của những ngày mai (Nguyễn

Ngọc Tư)... Ưu điểm của tản văn chính là ngắn gọn, súc tích, giàu cảm xúc. Chínhvì thé nó thu hút được người đọc trong cuộc sống hối hả thời hiện đại nay. Tản văn

dần trở thành một thể loại văn học phổ biến, dễ tiếp cận và hoà nhập một cách dễ

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

dàng với đời sống con người. Chính vì lẽ đó, nó thu hút được đơng đảo đội ngũsáng tác.Trong thời đại cơng nghệ hố, hiện đại hố, bat kì ai cũng có thé viết tan

văn trên mạng cá nhân của mình. Từ dân chuyên văn đến dân khơng chun đều cóthể thoả sức sáng tác tản văn. Nhiều tác giả đã nhận được “trái ngọt” từ thể loại tản

<small>văn như Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Th, Trung Sỹ, ng</small>

Triều, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Truong Quy,...Tan văn như một mảnh đất mau

<small>mỡ cho giới tác giả văn chương thoả sức thử sức. Ngay cả những cây bút trẻ cũng</small>

chọn tản văn như một thê loại chính để khắng định tên tuổi của mình như: Hamlet

Trương, Iris Cao, Nguyễn Ngọc Thạch, Phan Ý Yên, Can Vân Khánh...Thê loại

<small>tản văn còn thu hút cả những người không thuộc ngành văn chương như: nhà sử</small>

học Cao Huy Thuần, nhà khảo cô học Nguyễn Thị Hậu, họa sỹ Phan Cam Thuong,

nhac sy Duong Thụ, đạo diễn điện ảnh Việt Linh... đều là những cây bút tan văn

rất độc đáo. Tuy nhiên, tản văn là thé văn dé viết nhưng khó hay.

Đề đạt được thành tựu từ thể loại tản văn, các nhà văn cũng phải lao độnghăng say, không ngừng nghỉ. Ngày nay, với dung lượng về tác phẩm và số lượng

người đọc, sáng tác đạt tới mức đỉnh cao đã chứng minh cho tầm quan trọng củatản văn trong đời sống văn học đương đại. Tản văn có lẽ chính là nơi ni dưỡng

tâm hồn, giúp con người hiện đại trở nên xúc cảm hơn.

Ở Việt Nam, thé loại tạp văn, tản văn được hình thành khá sớm và ngày nay

<small>đang nhận được sự quan tâm của độc giả. Không chỉ tản văn mà tạp văn cũng đã</small>

có tần suất xuất hiện tương đối cao và có sự thường xuyên hơn trên các ấn phẩm,

tờ báo, tạp chí văn học. Có rất nhiều nhà văn gây được an tượng mạnh qua thé loại

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<small>tạp văn như: Nguyễn Khải, Đỗ Chu, Tạ Duy Anh, Nguyễn Ngọc Tư. Đặc biệt,</small>

Nguyễn Việt Hà với các tuyên tập: Dan bà uống rượu, Nhà văn thì chơi với ai,

Mặt của đàn ông, Con giai phố cổ với số lượng bài viết khá lớn cung cấp cho

người đọc cái nhìn mới đa diện, nhiều chiều về con người và cuộc song.

Giống với tản văn, tạp văn cũng có độ dài vừa phải, tương đối ngắn gon, xúc

tích nhưng lại khơng kém phần lắng đọng, sâu lắng. Trong tạp văn, người đọc thấy

được những hình ảnh, bức tranh sống động về cuộc sống, về con người nhưng lại

an chứa những vấn đề lớn mang tính chính trị xã hội. Người ta gọi tạp văn là “viện

bảo tàng của cuộc sơng” chính vì đề tài tạp văn vơ cùng phong phú đa dạng hầunhư đề cập đến mọi vấn đề trong xã hội. Đề tài nổi bật của tản văn không thểkhông nhắc đến đề tài về văn hóa, phát triển và giáo dục. Thông qua tạp văn, cáctác giả cho người đọc hình dung được hoạt cảnh đang là vấn đề nóng, gây nhứcnhối của xã hội Việt Nam. Đặc điểm nổi bật của tạp văn là tinh thời sự, chính luận;các tác gia đã dựa vào đó dé thé hiện, bộc lộ ý kiến của bản thân về van dé dang

nói tới, bài trừ hoặc khen ngợi đều rõ ràng, cơng khai. Văn học chính là sự thể hiện

quan điểm bản thân. Văn học là quá trình khiến cho chúng ta nhìn, ngẫm được

những triết lí nhân sinh về cuộc đời, xã hội thông qua tư tưởng của tác giả. Tạp vănlà cách tiếp cận được những vấn đề trong cuộc sống một cách cụ thể, trực tiếp vànhanh gọn hơn so với những thể loại khác.

Tạp văn miêu tả nhân vật như hiện thực trong cuộc sống, mọi thứ hiển hiện

lên một cách chân thực nhất nhưng cũng trang trọng, hài hước, thú vị.

Đặt trong tương quan so sánh tạp văn với các thê loại khác sẽ thấy được nétđặc trưng của thé loại này. Trước tiên là sự khác nhau về đặc trưng ngôn ngữ vàphản ánh hiện thực của các thể loại. Ở thé loại truyện ngắn và tiêu thuyết, có nhânvật điển hình, thơng qua hình tượng nhân vật điển hình tác giả chuyền tải những ý

<small>nghĩa sâu xa. Tuy nhiên tạp văn, nhân vật thường là những người bình thường</small>

trong đời sống, những suy nghĩ, thái độ được bộc lộ một cách thăng than, rõ ràng

<small>16</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

chứ không phải ân ý như truyện ngắn. Đặc biệt, tạp văn thường khơng có cốt

truyện, nếu có cũng vơ cùng mờ nhạt. Chủ yếu tạp văn được xây dựng theo lối kết

<small>câu — liên tưởng.</small>

Tạp văn là thể loại tự do ngay từ trong cảm xúc đến đề tài, là nơi thé hiện rõ

nhất quan điểm của tác giả về các van đề xã hội. Ở tản văn ta thấy được sự tự do về

giọng điệu, về hình thức thể hiện hay cảm xúc, quan điểm của tác giả nhưng không

kém phần chân thực, thực tế về cuộc sống. Nhà văn Nguyễn Việt Hà quan niệmviết tạp văn không dựa trên câu chuyện cụ thể mà là cách dẫn dắt câu chữ phải “bahoa bốc phét” sao cho hấp dẫn.

Như vậy, tản văn và tap văn đều là những tiêu loại của thé kí nhưng cả hailại có những nét tương đồng, riêng biệt với nhau. Nếu tản văn là một mạch liêntưởng phong phú, nhiều chất thơ, chất trữ tình và bay bồng hơn thì tạp văn lạimang tính chất hỗn hợp và thiên về chất tự sự nhiều hơn.

1.2. Đề tài Hà Nội trong các tác phẩm ký đương dai

Hà Nội đã đi vào văn học từ thời trung đại đến thé ki XX và luôn là đốitượng phản ánh, niềm cảm hứng sáng tác của rất nhiều nhà văn, nhà thơ. Trước

năm 1975 đã có rất nhiều những sáng tác về Hà Nội từ việc giới thiệu về sản vật,phong cảnh, đặc sắc văn hố của Hà Nội, sự gắn bó tình cảm của nhà văn với Hà

Nội rồi ngay cả sự đồng hành, cô vũ cho Hà Nội trong những năm tháng khốc liệt

của chiến tranh. Sau khi chiến tranh kết thúc, Hà Nội vẫn là miền đất của vănchương, của nghệ thuật với rất nhiều các sáng tác khác nhau. Mặc dù các tác giảnày khác nhau về thế hệ, thời kì văn học và cách tiếp cận với Hà Nội nhưng chung

quy lại họ đều là những kẻ si tình với mảnh đất này, họ dồn hết tình yêu, tâm huyết

của minh dé nhìn ngắm, khắc hoạ, chau chuốt nó qua từng câu từng chữ.

Trong những năm gần đây, có nhiều tác giả đã sử dụng thể loại phi hư cấu

để khai thác về đề tài Hà Nội. Bên cạnh những sáng tác như tiểu thuyết, truyệnngắn thì trong văn chương ta thấy xuất hiện hàng loạt các tác pham truyện phi hu

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

câu viết về Hà Nội từ những góc nhìn khác nhau, từ những giọng điệu khác nhau,

từ những cách thức triển khai và kết cầu tác phẩm khác nhau.

Có người thê hiện rất đương đại về những gì đang diễn ra của Hà Nội, cónhững người là những dịng hồi ức về lịch sử Hà Nội, có những người là nỗi nhớ,hình dung về Hà Nội trong quá khứ, thay đổi theo chiều vận động của thời gian.

Có rất nhiều tác phẩm văn học viết về thành phố ngàn năm văn hiến này đã đi vàolòng độc giả, vậy nhưng mỗi tác phẩm đều phác hoạ cho chúng ta thấy “những” Hà

Nội rất khác nhau. Duy chỉ có một điểm chung nhất ta có thê thấy qua những trang

sách này, dù là tản văn, dù là bút ký, hay là những trang tiểu thuyết, truyện ngắnviết về Hà Nội đều chan chứa một tình yêu rất đỗi chân thành và sâu đậm củangười viết đối với cảnh quan và con người Hà Nội.

Hà Nội - mảnh đất nghìn năm văn hiến, tụ hội tinh hoa là nơi khơi nguồn

cảm hứng cho biết bao cây đại thụ của nên văn học Việt Nam hiện đại như ThạchLam, Tơ Hồi, Nguyễn Tn, Vũ Băng, Băng Sơn.... Không biết bao nhiêu trang

sách, bài thơ đường như chỉ dé nói về một nhân vật duy nhất là Hà Nội.

Manh đất Hà Thành qua văn chương của Thạch Lam không chi đẹp vớinhững con phố cô: Hàng Dao, Hang Nhuộm, Hang Bac, Hàng Khay ma con người

Hà Nội cũng được hiện lên với lối sống giản đơn, bình dị, nhã nhặn, không màumè, phô trương. Với dung lượng chỉ khoảng bảy mươi trang, Hà Nội ba sáu phố

phường của Thạch Lam với những cảm xúc sâu lắng, giọng văn tâm tình ơng đãkhiến cho độc giả hình dung rõ nét khuôn mặt của một Hà Nội hiện đại, phồn hoa

nhưng vẫn giữ được sự cổ kính, tơn nghiêm.

Thương nhớ mười hai của Vũ Bang thé hiện tình yêu tha thiết của tác giả đốivới mảnh đất kinh kì đầy mộng mơ. Điểm nổi bật của tác phẩm chính là nhữngcảnh vật, món ăn, tinh thần con người Hà Nội suốt mười hai tháng. Tháng nàocũng có những nét đặc trưng riêng biệt khiến cho Vũ Bằng vừa nhớ mà vừathương. Nỗi nhớ Hà Nội của Vũ Băng khiến độc giả có thé liên tưởng tới câu tho:

<small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn” của Chế Lan Viên. Ở nơi

đất khách quê người nhưng lòng lại yêu, lại thương, lại nhớ về vẻ đẹp rất riêng của

q hương mình. Có nhiều đoạn văn khi đọc đến khiến con người ta cảm thấy quáđỗi thân thuộc, từng mảnh kí ức tuổi thơ cứ thé mà ùa về trong tâm trí khiến ngườita phải thon thức, nhớ nhung. Và trên cả những phong cảnh dep dé hay nền âmthực phong phú thì mục đích lớn nhất cuối cùng của Vũ Bằng lại thấp thống một

tình u sâu sắc đành cho người vợ nhỏ đảm đang, tần tảo và hy sinh. Thương nhớ

mười hai còn là niềm an ủi, là nỗi lòng của những người con phải rời xa quê

hương. Không hồ danh là “Người trở về từ cõi mộng mơ”, Vũ Bằng đặc tả một Hà

Nội bình di nhưng lại đẹp đến nao lòng.

Trong văn học đương đại Việt Nam, tương ứng với sự thay đổi của lịch sử

và đời sống xã hội, văn học có những thay đổi hết sức căn bản. Cảm hứng sử thi đã

dần nhường chỗ cho cái nhìn thế sự - đời tư. Đây là giai đoạn tản văn, tạp văn xuất

hiện nhiều và đều đặn trên báo chí. Với dung lượng ngắn gọn, loại văn này phù

hợp với đời sống hiện đại, nó như một phút suy tư về cuộc sống của nhà văn.Trong nền văn học nước nhà, có rất nhiều thế hệ nhà văn đã gửi tình yêu và niềmtự hào về Thăng Long - Hà Nội qua những trang ký, tản văn tài hoa và tỉnh tế của

Và đến những năm gan đây, mảnh đất cơ kính này vẫn vô cùng “đắt giá”

trong văn chương khiến cho các nhà văn mải mê đi đào sâu, khai thác ở các thểloại mới như tan văn và tạp văn tiêu biểu là các nhà văn Uông Triều, Trung Sỹ,

Nguyễn Trương Quý, Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Ha...

Trong tản văn Hà Nội, mũ rơm và tem phiếu, Hà Nội qua cái nhìn, cách nghĩ

của nhà văn Trung Sỹ không lấp lánh hoa lệ hay lãng mạn tình tứ mà là điện mạocủa Hà Nội từ chiến tranh vắt sang thời hậu chiến với những cơ cực, lầm than. Đólà một Hà Nội những ngày giải phóng mọi người lại được trở về với mảnh đất chơn

<small>rau cat ron của mình trong niêm hân hoan, nhưng trong sâu thăm môi người cũng</small>

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

day ray những lo toan cho công cuộc xây dựng lại đời sống cũ. Chưa được bao lâu,

những người con của Hà Nội lại phải dắt díu nhau trở về nơi sơ tán hòng tránh

bom đạn giặc Mỹ băn phá. Hình ảnh và những câu chuyện liên quan đến mũ rơm,tem phiếu cứ song hành theo mạch kê, lúc thì ngây thơ như một đứa trẻ, hóm hinh,vui tươi, khi thì đầy ngậm ngùi, từng trải như một người đàn ông Hà Nội đã đi qua

chiến tranh trở về. Có người lưu giữ ký ức bằng những khung hình, có người cấtgiữ kỷ niệm bằng những thước phim, hay có người lại dùng lời ca, tiếng hát để

ngăn khơng để những hoài niệm xa xăm bị thời gian phủ lên những lớp bụi mờ.

Với Trung Sỹ, cũng như các văn nhân, thi sĩ tự cơ chí kim, họ cũng có những cáchcất trữ kỉ niệm rất riêng. Đó là đều cùng sử dụng ngịi bút, gói gọn trọn vẹn nhữngnăm tháng đã qua, ấp ươm ti man vô vàn những suy tư, hoài niệm, để rồi gửi gamvào đời những trang văn, trang thơ thắm vị thời gian, đẫm hương kỷ niệm. Ở HàNội, mũ rơm và tem phiếu, Trung Sỹ đã cùng ta sông dậy ký ức của một Hà Nộibao cấp một thời, cùng đi qua những cơ cực, lầm than trong đạn bom thời chiến và

cả những hạnh phúc rất đỗi bình dị thời bình. Trung Sỹ nâng niu từng mau ký ức,

rồi khéo léo đan dệt chúng thành những câu chuyện, những trang văn day chân

thực song cũng khơng kém phan hóm hinh. Đó là câu chuyện về một người con HàNội, là cậu 4m của cả hiệu thuốc lào trứ danh, ăn no mặc ấm, buộc phải cắt dat,chia nhà, chịu cảnh bat tiện do khóc dé cười; là câu chuyện về những ngày bom rơi

đạn né, về những người thủ đô buộc phải khăn gói rời nhà, bỏ phố tới những miền

quê, những vùng trung du xa xôi, lặng vắng: là câu chuyện về những người u xem

cháu như con ruột, về người chú có máu nghệ sĩ song khơng gặp thời, về người cơvì bất 6n mà phải cất gót theo chồng về miền biên viễn không biết ngày trở lại.

Tiếng bom đã dứt, tiếng đạn đã ngưng, tác giả lại kế cho ta thêm nhiều câu chuyện

về đất nước những năm bao cấp, về những chiếc phiếu tem quyên lực, về nhữnglần xếp hàng dài dằng đặc trước những cửa hàng mậu dịch, những bát cơm độn mỳ

<small>khô khôc, lac đác vai miéng rau dưa muôi mặn gọi là... Chỉ đôi ba dòng bút,</small>

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

nhưng Trung Sỹ đã khái lược được nhịp chảy của cả dong sông đời, khắc họa trọnvẹn chân dung cả một con người trưởng thành trong chiến trận. Dường như những

biến cé lich sử cũng gây nên những tác động không nhỏ đến con người tác giả, bồiđắp nên những nét tính cách đẹp dé trong ơng, đồng thời gieo vào tâm trí ngườithiếu niên thủ đô năm nào vô vàn những trăn trở, suy tư về cuộc đời, con người

trong bao tháng ngày đất nước day biến động.

Không chỉ là những người con sinh ra và lớn lên ở Hà Nội mới có thé viết vàcảm nhận về Hà Nội một cách sâu sắc, gan bó với Hà Nội nhiều năm, ng Triềucũng dành cho mảnh đất này một thứ tình cảm vơ cùng đặc biệt. Trăm năm đờingười so với ngàn năm của chốn kinh kỳ quả thật rất ngắn ngủi.. Bởi thế, Hà Nộicó một vẻ đẹp rất riêng, mộc mạc nhưng phang phat nét kiêu sa, lộng lẫy. Bộ đôitản văn Hà Nội - quán xá phố phường và Hà Nội - dấu xưa, phố cũ của Uông Triềuđã khắc họa một cách tinh tế vẻ đẹp của thành phố này.

Dạo quanh phố xá, tác giả chỉ cho độc giả những quán ăn ngon, nơi nào mới

chuẩn vị. Trong cái ngõ nhỏ mà người ta vẫn chạt xe vụt qua hằng ngày, lại có một

quán bún riêu rất ngon. Từ cốc trà đá uống trên hè đến ly cà phê nhâm nhỉ trongbiệt thự Pháp, tất cả đều tạo nên phong vị riêng của Hà Nội. Thành phố này lắm

lúc khiến người ta bực bội vì khói bụi, tắc đường, nhưng nếu ai đã u thì lưuluyến mãi khơng rời.

Từ ngõ nhỏ đến phố lớn Hà Nội cất giữ biết bao câu chuyện thú vị. Uông

Triều thủ thi với người đọc những câu chuyện của mảnh đất ngàn năm tuổi. Con

người cả đời chỉ sống với một cái tên. Nhưng chỉ hơn trăm năm, có con phố đã đổitên đến mấy lần. Mỗi tên gọi lại gắn với một thời kỳ lịch sử, kéo theo đó là baothăng trầm biến động. Dõi theo trang viết của tác giả, người đọc hiểu hơn về“những người muôn năm cũ” ấy.

Là một người ham đọc và am hiểu về lịch sử, văn hóa, bức chân dung của

<small>“mọt sách” Uông Triêu được thê hiện qua hai tập tản văn thú vị và độc đáo vê Hà</small>

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Nội. Uông Triều vừa kể, vừa tả, vừa thuyết minh dé làm tái hiện lên một Hà Nộivừa dun dáng, cơ kính vừa thâm trầm, hiện đại. Qua những trang văn của ng

triều ta có thé thay cái khói bụi ngập ngụa khơng gian, cái ồn ào đinh tai vang lênkhắp phó, cũng có thé lắng lòng lại dé cảm nhận hương hoa ban, hoa sữa, hương

của thức ăn ngảo ngạt quyện hồ trong gió mát. Dù bất cứ cung bậc, hình ảnh, âmthanh nào ng Triều cũng đều dành cho Hà Nội những tình cảm say sưa nhất.Bởi Hà Nội đã “hop hồn” nhà văn như cách một cô gái yêu kiều khiến chàng trai si

tình phải đắm say, đã mang đến cho nhà văn nhiều cung bậc cảm xúc. Từ sự tị mị,thích thú khi tìm thấy một quán ăn ngon đến chút bồi hồi khi ngắm căn biệt thựhon trăm năm tuổi.

Tiếp nối mạch cảm hứng viết về Thăng Long — Hà Nội nghìn năm văn hiến,

Đỗ Phan và Nguyễn Việt Hà đã trải lịng mình về Hà Nội với nhiều trăn trở, suy tư

trong các tập tan văn như Negdi lê đôi mách với Hà Nội, Đi chơi Bờ Hồ va Con giaipho cổ, Đàn bà uống rượu... Các sáng tac của hai tác giả không đơn thuần là ngợi

ca thủ đô ngàn năm văn hiến với những nét trang nhã, thanh lịch mà cịn có cả nỗi

niềm băn khoăn trước sự cịn mat của các giá tri văn hóa, về đời sống nhân tình thếthái giữa lịng thủ đơ, về muôn mặt của đời sống đang diễn ra trên mảnh đất thân

yêu này. Tóm lại là về cả vấn đề cảnh quan và linh hồn của Hà Nội. Đọc tản văncủa Đỗ Phan và tạp văn của Nguyễn Việt Hà ta vẫn nhận ra một Hà Nội với vẻ đẹp

thâm trầm, sâu lắng của ngói nâu tường cũ, sự duyên dáng mộng mơ của nhữngnhững hàng cây, của tiếng ve xáo động những trưa hè...và hơn cả là một tình yêu

chân thành tha thiết của người con với quê hương thủ đô. Nét đặc trưng làm nênphong cách riêng của tan văn Đỗ Phan và Nguyễn Việt Hà chính là sự pha trộn hai

mảng màu sáng - tối, một Hà Nội xưa và nay. Khi viết về những kí ức của Hà Nội

cách đây vài chục năm với tất cả sự bình n, êm đềm, thơ mộng đó là nhữngmảng màu tươi sáng, đẹp đẽ nhất. Còn đối lập với nó là những sắc màu u xám đến

<small>tái tê khi các tác giả vẽ lại tât cả sự nhộm nhoạm, bừa bãi, thô kệch của Hà Nội</small>

<small>22</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

hôm nay. Thành phố êm đềm khi xưa dường như đã bị cơn lốc đơ thị hóa nuốt

chửng khơng thương tiếc. Bức tranh Hà Nội đôi lúc được vẽ bằng những gam màu

đặc sắc nhất, có khi lại thủ thỉ tâm tình như tiếng nói của trái tim, nhưng cũng cókhi các tác giả mặc cho sự bực tức, gan gong của mình phơ phang trên trang giấy.Một bức tranh như vậy khó có thể đưa ra lời nhận xét chỉ biết rằng từng câu, tững

chữ đều chất chứa những suy tư về sự đổi thay của Hà Nội.

Nhiều nhà văn vẫn đang viết về Hà Nội. Nếu Hà Nội trong văn của Đỗ Phấnvà Nguyễn Việt Hà đậm màu sắc thị dân thì ng Triều lại đem tới cái nhìn đầy tịmị, háo hức về thành phố này. Một bên là người con của đất kinh kỳ viết về quê

hương. Một bên là người lữ khách viết về mảnh đất mà mình yêu quý. Hai vẻ đẹp

ay đều mang tới cho người đọc những xúc cảm riêng về Hà Nội.

Nói tóm lại, Hà Nội là một đề tài hấp dẫn đối với văn chương đương đạiViệt Nam. Mỗi nhà văn đều có thể khám phá mảnh đất này ở một góc độ khácnhau nhưng đều tốt lên được tình u thương, lịng tự hào xen lẫn một chút hồi

<small>niệm, tiêc nuôi dành cho con người và cảnh quan Hà Nội.</small>

1.3. Sự nghiệp văn học của Đỗ Phấn và Nguyễn Việt Hà

1.3.1. Đỗ Phan và các tập tản văn Di chơi bờ hỗ, Ngôi lê đôi mach với Hà

Đỗ Phan xuất thân là một họa sĩ nhưng có gia tai văn học đáng nề dù mớichính thức viết được khoảng 10 năm. Vài năm trở lại đây ông liên tiếp cho ra đời

nhiều tác phẩm văn học, cuốn nào ít nhiều cũng dé lại dư âm trong lịng độc giả.

Nhìn những đứa con tinh thần của nhà văn lần lượt ra đời mới thấy được sức sángtạo dồi dào của ơng. Và như ơng nói, ơng khơng viết gì khác ngồi Hà Nội. Dau có

viết về một vùng q nao đó, một xứ sở xa xơi nào đó, thì Đỗ Phan vẫn nhìn, nhậnxét và cảm nhận hiện thực ay bang con mắt và tâm thé của một người Hà Nội. Hà

<small>Nội trong kí ức, tâm tưởng, trong con mặt hiện thực tỉnh táo và hoài niệm, mong</small>

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

nhớ, xót xa của riêng ơng. Một Đỗ Phấn viết về Hà Nội với tất cả tình yêu và

những phiền muộn, buồn bã u hồi. Thơng qua các tác pham văn chương, Đỗ Phan

tái hiện cho độc giả một bức tranh đa sắc màu, chân thực về cuộc sống Hà Nội xưavà nay. Hà Nội trong các sáng tác của ơng vừa có nét quen thuộc, gần gũi lại vừacó những nét riêng trong cách nhìn, cách cảm của một văn sĩ, họa sĩ. Nếu tiểu

thuyết và truyện ngắn là các mảng màu, những hình khối lớn lao tạo nên diện mạoHà Nội, thì cái làm nên sự tỉnh tế, sống động, chân thực về đất và người Hà Nội lại

<small>là những bài tản văn.</small>

Đố Phần sinh năm 1956 tại Hà Nội, xuất thân trong một gia đình có truyền

thống văn chương, ông nội ông từng lều chõng đi thi cùng cụ Ngô Tất Tố, bố ôngtừng là Tổng biên tập nhà xuất bản Thanh Niên năm 1959 đến 1964. Năm 1980

ông tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà Nội và trở thành giảng viên chuyên ngành Mỹ

thuật tại Khoa Kiến trúc, Đại học Xây dựng Hà Nội (1980 - 1989). Về mảng hội

hoạ, ông đã tổ chức khoảng 20 cuộc triển lãm cá nhân từ năm 1990-2002 và đạtđược những giải thưởng lớn như Huy chương bạc Triển lãm mĩ thuật tồn quốc.

Tự nhận xét về mình, Đỗ Phấn đã nói "Tơi trót mang tình đầu “tay ba” với

<small>văn chương và hội họa. Nhưng hội họa chọn tôi trước. Đã yên lòng với hội họa.</small>

Bây giờ đến lượt văn chương chọn hành tơi". Ơng coi hội hoạ là “nghề”, cịn văn

<small>chương có lẽ là “nghiệp”.</small>

Ơng được giới văn nghệ sĩ biết đến trước tiên vì nghề vẽ bìa sách của mình.

Nhưng nói về nghiệp viết lách, ơng thừa nhận thật ra mình cầm bút viết văn trướckhi vẽ. Đỗ Phan viết văn chỉ dành riêng cho mình, khơng nghĩ đến việc in ấn. Đếnnăm 2005, ông mới quyết tâm dồn sức vào văn chương. Ông là tác giả của nhiều

tác phẩm đa dạng về thé loại: truyện ngắn, tiểu thuyết và tản văn. Một số tậptruyện tiêu biểu: Kiến di dang kiến (2009), Thác hoa (2010).... Về tiêu thuyết có

Vang mặt (2010), Chay qua bóng tối, Rừng người (2011), Gan như là sông, Conmat rong (2013), Dang dặc những triển sông mưa (2014). Đặc biệt mảng tản văn

<small>24</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

ơng có các tập: Chuyện vãn trước gương (2005), Ông ngoại hay cười (2011),Phượng ơi (2012), Hà Nội thì khơng có tuyết (2013), năm 2018 Tu sách Ha Nội

trong mắt một người của NXB Trẻ đã mở đầu với 4 cuén tan văn của họa sĩ - nhàvăn Đỗ Phan: Bang quo một thời Hà Nội, Di chơi Bờ Hồ, Ngẫm ngợi pho phường,

Ngôi lê đôi mách với Hà Nội và mới nhất là tản văn Hà Nội chút bụi trên vai người(2020). Rẽ ngang vào văn chương, nhưng Đỗ Phan lại sớm xác định cho mình mộtmảng đề tài, đó là Hà Nội. Và ơng cũng tự nhận, trong may chục dau sách đã viết,

<small>thật ra chỉ là một cn sách thơi. Cn sách đó có tên là “Hà Nội”.</small>

Đỗ Phan là một trong số những cây viết lâu năm và nặng tình với kinh thành

Hà Nội. Các sáng tác viết về Hà Nội của Đỗ Phấn dường như là bảo tàng văn học

của sự chuyên động về Hà Nội. Chon đề tài về Hà Nội, Đỗ Phan có sự thuận lợi, vìHà Nội là nơi ông sinh ra, gắn bó, có nhiều trải nghiệm, ông cũng phải trải quanhững năm tháng tuôi thơ vất vả của thời kì kinh tế bao cấp. Nhưng có thê đó cũng

là một cuộc thử thách sống cịn vì Hà Nội đã được quá nhiều người “cày xới”.

Nhưng không vi thé mà Đỗ Phan nản. Thậm chí, ơng viết hăng say, và cịn nhận ra,khang định Hà Nội có q nhiều thứ dé viết: Hà Nội là một cái ao làng rất lớn, là

sự giằng co giữa ý thức truyền thống và đổi mới và khiến cho khơng ít người cảm

thấy lạc lõng giữa nơi mình đang sinh sống.

Đỗ Phấn là một nhà văn vô cùng nhạy cảm trước những vấn đề của xã hội,chính vì thé qua thé loại tản văn tác giả như muốn trải lịng mình, trao đối thông tin

với độc giả về những van đề đang xảy ra trong đời sông hàng ngày. Không chỉ dôidào về sức viết, Đỗ Phấn còn là một cây bút có tài phát hiện ra những chuyện

khơng bình thường đẳng sau những việc tưởng chừng như rất bình thường của

cuộc sống và có những kiến giải “sắc lem”. Những chuyện nhỏ nhặt trong cuộcsống đời thường như chuyện phố hàng Than ngày xưa bán than, phố Hàng Vôi bánvôi nhưng bây giờ khơng cịn ai bán vơi và than ở những con phố này nữa cũngđược tác giả dé ý tới. Ơng lí giải sự thay đổi này chính là vì cuộc sống trở nên hiện

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

đại cho nên những con phố cổ cũng phải thay đổi “cốt cách” của nó cho phù hợp

với thời thế. Những chuyện vơ cùng bình thường ấy khi được Đỗ Phấn lí giải lại

khiến cho người đọc vỡ ra một sự hiểu biết nào đó và họ bị chinh phục hồn tồn.

Dé viết được một cuốn tản văn khơng phải là chuyện khó nhưng dé trở thànhngười viết tản văn hay lại là điều khơng hề dễ dàng. Nó địi hỏi nhà văn phải có sự

am hiểu khá sâu sắc về đời sống văn hố tinh thần, phải có bộ óc tư duy nhạy bénvà cá tính phải mạnh mẽ. Đọc tản văn của Đỗ Phấn có thể nhận ra dấu ấn của

người nghệ sĩ tài hoa, thông minh, sắc sao này in đậm trong từng câu, từng chữ.

Những vụn vặt phố phường Hà Nội đặc biệt được nhà văn thể hiện trong hai tậptan văn Ngồi lê đôi mach với Hà Nội và Di chơi bờ hồ đã cho độc giả thay được sựphức tạp của hiện thực đời sống, con người phải đối diện với rất nhiều thay đổi décó thê bắt kịp với thời đại. Dưới cái nhìn một cách đa điện, nhiều chiều về cuộcsống và khả năng quan sát tinh tế đã khiến cho Dé Phan tạo ra được những nétriêng trong các tản văn của mình. Mỗi trang viết của ơng đầy ắp thơng tin, mỗi câu

chuyện như những khảo cứu nhỏ của tác giả về Hà Nội. Ở đó có phố Hà Nội, có

<small>phở Hà Nội, có người Hà Nội trong dịng chảy của xã hội hiện đại. Thông qua</small>

những tản văn của Đỗ Phấn, độc giả sẽ phải trăn trở, suy tư về quá khứ và hiện tại

của Hà Nội. Còn đối với Đỗ Phan, Hà Nội mãi mãi là một dé tài khơng bao giờ cũ,khơng bao giờ hết bởi vì tình yêu Hà Nội trong lòng tác giả rất đặc biệt.

1.3.2. Nguyễn Việt Hà và các tập tạp văn Con giai phố cỗ, Đàn bà uống

Nguyễn Việt Hà từng được người đọc, giới nghiên cứu biết đến là một nhàvăn viết tiêu thuyết, truyện ngắn thành công với lối tư duy mới. Ong còn được xemnhư là một hiện tượng văn học nôi bật, trong việc cách tân, đôi mới tư duy tiểuthuyết. Là một cây bút có trách nhiệm, tâm huyết với nghề, nên ngay từ khi cambút, nhà văn ln chú trọng ý thức nghề nghiệp của mình, ln trau đồi tích lũy

kiến thức trong suốt q trình sáng tạo. Ngày nay, khi các phương tiện thông tin

<small>26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

đại chúng phát triển mạnh mẽ thì trình độ nhận thức và ý thức thâm mỹ của người

đọc được nâng cao, khiến cho các nhà văn phải luôn nỗ lực đáp ứng thị hiếu của

quan chúng độc giả, dé ghi dau ấn cho mình, cho tác phẩm một cách khác biệt, cónhư thé tên tuổi, tác phẩm nhà văn mới sống được, mới đáng quý. Nguyễn Việt Hà

còn khẳng định: “Viết văn với tôi là một đam mê”.

Nguyễn Việt Hà sinh năm 1962 tại Hà Nội, là một trong những gương mặt

tiêu biểu của nền văn học Việt Nam đương dai. Các tác phẩm của ông da dạng vềthê loại: tiểu thuyết Cơ hội của Chúa (1999), Khải huyền muộn (2003); tập truyệnngắn Cửa rơi (2004); tạp văn Nhà văn thì chơi với ai (2005), Mặt cua đàn ông

(2008), Dan bà uống rượu (2010), Con giai phố cổ (2013),... Tất cả đều gây đượctiếng vang trong giới văn hoc và nhận được sự ủng hộ từ độc giả, một số tác phẩmđã được dịch sang tiếng nước ngoài.

Trong các tác phâm của Nguyễn Việt Hà, nhất là trong hai tập tạp văn Congiai phố cổ và Đàn bà uống rượu, Hà Nội hiện lên rõ nét đặc biệt qua con người

Hà Nội. Những nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Việt Hà chủ yếu là những

người thân thuộc xung quanh chúng ta. Đó là những đàn ơng, đàn bà, thiếu nữ,diễn viên, văn sĩ, thầy giáo,... Với lối viết và cách xây dựng nhân vật độc đáo, tác

giả đã cho nhân vật được sống thật với bản thân mình thơng qua những dịng hồiức xen lẫn hiện tại, giữa thực và ảo, giữa những điều họ ước mơ, khát khao. Từ đó

rút ra được bộ mặt của một đô thị hiện đại nhưng đầy sự thay đôi nghịch lí. Nhà

<small>văn đặt nhân vật dưới đa dạng góc nhìn.</small>

Chính ở thể loại tạp văn người đọc thưởng thức được khả năng của NguyễnViệt Hà qua sự thông minh, di dom đặc trưng dé ai cũng nhận ra được vô số triết lí

đặc sệt tinh thần đường phố Hà Nội và ngay cả khi cần phải chứng minh hiến văn

của mình. Nếu địi hỏi phải chứng minh về những thứ mình viết, Nguyễn Việt Hàcó dẫn chứng cụ thê về những chuyện Đông Tây kim cổ cho tới những chuyện mới

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Qua tản văn của Nguyễn Việt Hà, Hà Nội hiện lên vô cùng đặc sắc, thơmộng. Tuy bây giờ nó xơ bổ, ngột ngạt khi người tứ xứ dé về, cái khí thái củangười Hà Nội cũng dần nhạt phai theo năm tháng nhưng qua ngòi bút sắc sảo vàhai hước của Nguyễn Việt Hà cái chất Tràng An vẫn nồng đượm phang phat không

giống bất cứ nơi nào để rồi ta lại nhớ, ở gần lại rưng rưng. Tạp văn Nguyễn Việt

Hà cung cấp cho ta cái nhìn đa điện nhiều chiều của cuộc sống. Một lần nữa cho ta

thấy sự phức tạp ngôn ngang của hiện thực đời sống, con người phải đối diện bao

<small>khó khăn, được đi vào văn học như những thước phim tỉ mi.</small>

Tiểu kết chương 1

Hà Nội là đề tài mà được giới nghệ sĩ văn chương quan tâm. Màu sắc củachốn ngàn năm văn hiến luôn đậm nét, tươi mới trong những trang văn với đầy đủcung bậc sắc thái, được thể hiện qua nhiều thé loại và đặc biệt qua những trang tảnvăn của Đỗ Phần và tạp văn của Nguyễn Việt Hà. Trải qua 1000 năm lịch sử, HàNội có sự thay đổi từ cảnh quan đến con người nhưng những cái “chất” của Hà Nội

vẫn luôn được giữ gìn, bảo lưu qua nhiều thế hệ.

Tản văn và tạp văn là các thê loại gần gũi với cuộc sống hàng ngày, súc tíchdễ đọc đối với tất cả các độc giả. Xét về mặt câu chữ, cả hai thể loại này đều có

dung lượng ngắn, được viết với giọng điệu tâm tình, thu thi, thé hiện được tư tưởngtình cảm của người viết một cách trực tiếp và có thể dễ dàng tiếp cận người đọctrên phương điện cảm xúc cũng như nhu cầu thông tin. Mặc dù cả hai đều là tiêu

loại của thể ký nhưng tản văn và tạp văn lại có những đặc sắc riêng của mình. Tản

văn thường là mạch liên tưởng phong phú với giọng điệu, ngơn từ giàu chất thơ,trữ tình và bay bồng hơn. Bên cạnh đó tạp văn lại thiên về chất tự sự nhiều hơn,

luôn bày tỏ, thể hiện rõ người thật, việc thật.

Hà Nội thay đôi theo đà của sự phát triển xã hội khiến cho cái nhìn của mỗinhà văn đương đại có những nhận định khách quan, riêng biệt khi khai thác đề tàiHà Nội. Cùng với tản văn và tạp văn, Đỗ Phấn và Nguyễn Việt Hà đã thực sự có

<small>28</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

những dấu ấn, đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam đương đại. Đặc

biệt, qua việc tìm hiểu và phân tích ta sẽ thấy rõ được những mảng không gian Hà

Nội trong tan văn Đỗ Phan và những nhịp điệu thời gian Hà Nội trong tap văn

<small>Nguyễn Việt Hà.</small>

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Chương 2: HA NỘI TỪ CÁC CHIEU KÍCH KHƠNG, THỜI GIANTRONG TÁC PHẨM CỦA ĐỖ PHÁN VÀ NGUYÊN VIỆT HÀ

Không gian và thời gian nghệ thuật khơng chỉ là một phương diện thuần t

<small>hình thức, đó còn là những khái niệm mang giá tri tư tưởng, văn hố. Đặc biệt nhìn</small>

từ phương điện văn hố, khơng gian và thời gian trong các tác phẩm sẽ giúp độcgiả hiểu và cảm nhận rõ hơn cách mà các nhà văn trình điện đời sống theo một cảm

quan riêng, dưới sự chi phối của một thế giới quan, nhân sinh quan nhất định. Từ

đó, phản ánh được các đặc điểm văn hoá, nếp nghĩ, nếp sống của một cộng đồng

nơi nhà văn thuộc về hoặc muốn tái hiện.

2.1. Vẻ đẹp và ban sắc Hà Nội nhìn từ cảnh quan, khơng gian trong tanvăn Đỗ Phan

Nếu văn chương tìm tới cái đẹp của câu chữ, của câu chuyện, của ý nghĩa

cuộc song, nhân văn cua cuộc sống thì hội hoạ cũng vậy, cái đẹp vẫn là đích đếncuối cùng của nó. Đối với nhà văn Đỗ Phấn, hội hoạ được bắt đầu trước vì ơng

được học vẽ từ bé và tốt nghiệp trường Mỹ thuật Hà Nội cho nên có thể trong qtrình viết sẽ gặp khó khăn vì tác giả không được đào tạo chuyên ngành về văn học.

Nhưng tác giả cũng chia sẻ răng “Chính vì tay ngang tự học cho nên đến năm 50

tuôi tôi mới in cuốn sách đầu tiên. Và đầy mặc cảm bat thành. Nhưng tơi cũng cócái may mắn là được sinh ra trong một gia đình nhiều đời chữ nghĩa nên việc tiếpcận với văn chương khơng có khó khăn gì lớn lắm. Hon thế, ban của bồ tôi là

những bác Nguyễn Bính, Nguyễn Tn, Kim Lân, Tơ Hoai,...thinh thoảng qua nha

chơi nên tôi cũng nghe lỏm được khối chuyện”. Thông qua những tác phẩm tảnvăn, cụ thé là những tản văn viết về Hà Nội như Di chơi bờ hồ và Ngơi lê đơi mách

với Hà Nội, độc giả có thé tưởng tượng được bức tranh, linh hồn Hà Nội một cách

rõ nét, đầy màu sắc và thơ mộng qua nhiều chiều hướng, không gian khác nhauqua những ngôn từ giản di mà đầy sức thuyết phục của nhà văn Đỗ Phan.

<small>30</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>2.1.1. Cảnh quan Hà Nội qua không gian thực tại va không gian tâm tưởng</small>

Hà Nội là đề tài được giới văn chương, nghệ sĩ đặc biệt quan tâm đến. Chén

kinh kì như một bức tranh tuyệt đẹp đủ các cung bậc sắc thái dưới ngòi bút của cáctác giả.Tất cả vạn vật của “miền đất nhớ nhung” ấy, từ con người đến cảnh quan

đều được tác giả tô vẽ lên một cách đặc sắc nhất.

Đỗ Phan đã tái hiện lại một hình ảnh vơ cùng quen thuộc với ai được sinh ra

và lớn lên ở Hà Nội ở thế kỉ trước. Đó là khơng gian sống của Hà Nội xưa, nbình và cổ kính. “Ngắm bức ảnh người Pháp chụp hồi cuối thé ki XIX vẫn thaycon đường đất nhỏ đi qua tháp Hoà Phong chia đơi hồ Hồn Kiếm. Lúc ấy hồ

Hồn Kiếm vẫn còn là hai hồ Tả Vọng và Hữu Vọng. Giờ thì hồ Hữu Vọng đã

thành những khu phố sầm uất bên phía đường Đinh Tiên Hồng. Hà Nội mat đi hồchứa nước tự nhiên đầu tiên như thế. Và lần lượt hồ nước tự nhiên khác cũng nhỏdần hoặc biến mat” (Rừng người biển nước) [39; tr.268]. Những liên tưởng về quákhứ cũng nhanh chóng đây người ta trở về với hiện tại để chứng kiến sự đối lập

<small>của không gian Hà Nội trước sự tác động không ngừng của thời gian và con người.</small>

Tất cả những nét thô sơ, giản dị qua bao thăng trầm lịch sử đang bị chun hố

băng những khu nhà cao tầng, khu đơ thị hào nhống, tráng lệ. Khơng gian của đơ

thị hiện đại đã khiến thành phố thay màu áo cũ, màu gạch ngói cũ kĩ, màu của bức

tường xám phủ day rêu phong đã được thay thế bang màu sắc lấp lánh đến chói

mắt của ánh điện đường. Cho dù có tiếc nuối cái vẻ đẹp cổ xưa cũ kĩ thì con ngườivẫn phải chấp nhận sự thay đôi của xã hội hiện đại, mọi vật đang không ngừng vận

động, không ngừng thay đổi. Loại trừ, xoá bỏ cái cũ dé tiến tới cái hiện đại, phát

triển hơn. Có chăng, cái sự cơ kính, rêu phong đó chỉ cịn lưu giữ trong tâm trí củanhững thế hệ cũ và những thế hệ giao thời nhưng khơng hắn nó bị mat đi hay mai

một. Hình ảnh, ngơn từ về sự cơ kính ấy vẫn luôn được lưu truyền từ thế hệ nàysang thế hệ khác qua ngôn từ hoặc văn bản. Tất cả mọi điều đẹp dé đều đượcnhững người con nặng lòng với Hà Nội tái hiện lại bằng cách này hay cách khác.

<small>31</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Đôi lúc tác giả dừng lại dé tưởng nhớ về những điều cũ kĩ trong miền kí ứcxa xơi của mình, nhưng cũng nhanh chóng phải bừng tỉnh đề trở về thực tại. Đô thị

<small>hiện đại như một bức tranh lãng mạn với sự hài hồ trong hình ảnh, đường nét,</small>

màu sắc và âm thanh giữa lịng thủ đơ. “Tháng Chạp sương mù, Hà Nội lâng lâng

trong cái rét ngọt cuối đông. Phố phường đã rực rỡ biên hiệu hàng Tết. Màn sươngtrên mặt hồ Hồn Kiếm vừa đủ độ nhu mì vẫn phảng phất lộ ra dáng hình nhữngdãy nhà, hàng cây phía bên kia. Những hàng cây bàng đã bắt đầu vàng lịm sắc lá.

Những cây vông nem dưới chân Tháp Bút đã trút voi lá xanh 16 ra mớ cành rối ritnhư sợi len trong r6 đàn. Hàng liễu non phía đầu đường Hàng Khay chap chon nhưcó như khơng huyền ảo im lim đứng” (Tháng Chap sương mù) [38; tr.132]. Dam

<small>mình giữa khơng gian n bình, trong lành của thiên nhiên “dường như không ai</small>

muốn thêm vào phố phường những ồn ào không cần thiết. Người và xe bỗng chậmrãi quanh hồ dù chỉ trước đó ít phút cịn nháo nhào trên những cửa ô” (Tháng Chạp

<small>sương mù) [38; tr.132]. Khi tâm trạng con người trở nên thoải mái, không gian,</small>

cảnh vật xung quanh cũng mang một màu sắc tươi sáng hơn “Cây cầu Long Biên

cũ kĩ trầm mặc như vừa được thay áo mới. Khung thép han rỉ khuất lắp trong mànsương bang lang như tâm áo choàng lên những vết thương thời chiến tranh. Hàng

hoa sắt hai bên thành cầu đọng những giọt sương trong suốt lung linh như chuỗingọc” (Tháng Chap sương mù) [38;132]. Giữa Hà Nội tap nap, ồn ào hơm nay vẫngiữ gìn được những khơng gian như vậy thật đáng quý và trân trọng biết bao.

Bằng con mắt quan sát tỉ mỉ của người họa sĩ và bằng trái tim nhạy cảm của

một nhà văn, Đỗ Phan đã cho người đọc có cơ hội được chiêm ngưỡng, thưởng

<small>thức bức tranh Hà Nội sinh động, tươi mới hịa cùng với bức tranh thiên nhiên trữ</small>

tình và bức tranh sinh hoạt của phố phường đa sắc màu. Đặc biệt, trong tản văn củaĐỗ Phan, Hà Nội hiện lên qua những biéu tượng đặc trưng: Cầu Long Biên, Chung

<small>cư, Bờ Ho, Chợ Giời,....và vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Ha Nội qua bon mùa:</small>

<small>32</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Tháng Chap sương mù, Gió mùa Đơng Bắc, Mưa Hà Nội, ....hay cả bức tranh HàNội ngày Tết và tiếng tàu leng keng cũng được nhà văn tái hiện một cách độc đáo.

Những bức tranh về Hà Nội được tái hiện qua ngôn ngữ văn học không

<small>những sinh động mà còn làm lay động độc giả. Thưởng thức bức tranh Hà Nội</small>

được vẽ bằng ngôn từ sẽ làm người đọc thấy thú vị hơn so với thưởng thức quanhững bức ảnh, bức tranh bat động. Qua sáng tác của Đỗ Phan người đọc khôngchỉ được sông lại với Hà Nội xưa mà còn cảm nhận được sự thay đổi của Hà Nội

qua không gian, cảm nhận thấy hơi thở cuộc sống đang diễn ra từng ngày.

Đỗ Phan viết về Hà Nội dưới góc nhìn của một người đã gắn bó với nó rat

lâu và thực sự hiểu Hà Nội. Những chuyện như “tán phét lê la” từ chuyện quá khứ

rồi hiện tại, và truyền thống, lại dân số, cả những sinh hoạt. Trong những sáng tác

của mình, Đỗ Phan đã đến với mọi không gian Hà Nội dé cho độc giả thấy được

những chuyên biến rõ nét trong cảnh quan và nếp sống đô thị của Hà Nội hôm nay.Tất cả đều là những thứ vô cùng quen thuộc, đơn giản nhưng đã bị thay đôi

rất nhiều. Chang hạn, thay vì “tiếng chổi tre ré rà trên lối đi lát gạch” có thé dễdàng nghe thấy “tiếng chối nho nhỏ trong muôn vàn hỗn độn phố phường kéo đến

già nửa đêm về sáng” thì bây giờ chỉ cịn là “tiếng kẻng vang lên” thông báo cho

bà con ra đồ rác trên “chiếc xe tải chuyên dụng” (Ban với rác) [39, tr.148]. Ngayca Cầu Long Biên — nhân chứng lich sử chứng kiến những cuộc chiến tranh và

những thay da đổi thịt của Hà Nội cũng khiến người Hà Nội lo lắng liệu nó cóđược bảo tồn như một di sản kiến trúc văn hố hiện đại khơng hay lại có kết cục

giống như ụ nổi Vinalines. “ Chợ Giời ngày nay vẫn ở chỗ cũ nhưng tinh chất đã

<small>khác. Không phải là những món hàng kim khí, điện máy cả mới và cũ nữa mà hàng</small>

hoá chất cao như núi từ các mặt nhà phố lan ra hết vỉa hè. Những thương gia thành

<small>đạt trở thành những ông chu lớn của từng mặt hàng chuyên biệt” (Chợ Gioi) [39,</small>

tr.162]. Đến cả cái tên “ Chợ Giời” ban đầu thé hiện đúng như nơi nó hoạt động“khơng mái che, khơng cả hàng qn cố định” thì bây giờ đã có “ những dãy sap

<small>33</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

bán hàng cô định có mái che lợp lá và giấy dầu”. Chuyện ở chung cư cũng thế.

Nếu ngày xưa “chung cư” như một khu tập thể, mọi người sử dụng nhà vệ sinh

chung, phịng tắm cơng cộng và tham gia nhiều sinh hoạt tập thể. Cịn bây giờ thì“những building hai chục tầng mọc lên nhan nhản khắp Hà Nội và những vùngngoại vi”. Đặc biệt, khơng ai gọi đó là những khu nhà tập thê nữa bởi vì diện tíchrộng khoảng 20 mét vng, có thang máy va ham dé xe,... (Cung cu) [39, tr.166].

Nghĩ đến Ha Nội là người ta phải nghĩ ngay đến những via hè lát gach đỏ quy củngày xưa do người Pháp để lại. Người nhập cư ào ạt ké từ giữa thập kỉ 90 đến nay

đã góp phan tạo ra nạn nhân mãn. Dân số tăng lên đặt ra van đề ngày càng cấp thiết

về giao thông đô thị, lượng xe cơ giới tràn ngập, các khu chung cư quanh thànhphố mọc lên như nam. “ Via hè với chức năng dành cho người đi bộ đã mat từ lâurồi, nó mat vào những cửa hang bày hang hoá tràn ra, mất vào chỗ dựng xe máy(Cuối năm, nhớ và quên về văn hoá sống) (38, tr.29].

Hà Nội là nơi tập trung nhiều di tích lịch sử văn hố có tuổi đời cao vào loại

nhất nước. Tuổi cao đi liền với hư hỏng và xuống cấp là lẽ bình thường. Có những

cơng trình, di tích lịch sử đã bị tu sửa khơng cịn giữ được những nét truyền thống,lâu đời và riêng biệt của nó nữa. Bởi cuộc song hiện dai hơn, con người cũng phải

đổi mới những thứ xung quanh minh. Chang hạn như câu chuyện đền di tích làngĐường Lâm với ngơi chùa Mia nổi tiếng đời Lê, dân làng đã làm đơn xin trả lại

<small>danh hiệu di tích lịch sử văn hố bởi nó gây khó khăn cho họ trong việc khơng cịn</small>

được tự ý sửa chữa ngơi nhà mình đang ở, họ khơng thể sống mãi trong ngơi nhà

dot nát chỉ vì muốn giữ gìn văn hố cổ truyền.

Văn hố sống ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống cho nên ngườiHà Nội đang phải gánh chịu khá nhiều những phiền tối. Khơng có cách nào khác,Hà Nội phải đổi thay. Đồi thay liên tục để làm mới chính mình cho phù hợp với sựphát triển và xu thé thời đại (Cuối năm, nhớ và quên về văn hoá song) [39, tr.31].

<small>34</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Đỗ Phan đã sống và gắn bó với mảnh đất Hà Nội hơn nửa đời người nên

những thứ ông viết đều là dựa trên những trải nghiệm của chính bản thân mình. Có

lẽ, thời đại mà tác giả sinh ra và lớn lên vào những năm 50, 60 của thế kỉ trước nóvan cịn dấu ấn của Hà Nội cũ, nề nếp quy củ và chỉnh té. Tuy nhiên mảnh dat này

ngày càng trở nên lạ lẫm với ơng. Dù là q hương của chính mình nhưng trước sự

thay đôi của xã hội phát triển, mọi thứ đều biến đổi khiến ông đôi lúc không nhậnra được vẻ thân quen của Hà Nội. Một Hà Nội vừa quen lại vừa lạ. Thành phố

được mở rộng hơn, các làng xóm xưa kia đều là thành thị, những tòa nhà cao tầng,

những khu trung tâm thương mại sam uất. Cảnh vật, con người, cuộc song, moi thứ

đều đổi thay: via hè, hàng cây,... Thay vào đó là giao thơng, phố xá ngày một đơng

đúc, chật chội, khơng khí bị ơ nhiễm nặng, rác thải xả bừa bãi. Chính vì vậy, trong

các tác phâm viết về Hà Nội của Đỗ Phan, tác giả đều cô gắng tái hiện lại phần nàoday của một quá khứ rất gần và Hà Nội nó đã từng là như thế, từng được như thé,đã từng là một nơi chốn đẹp đẽ, khiêm nhường đến như thế. Rõ ràng Hà Nội là một

thành phố đây tri thức chứ không phải đơn thuần là buôn bán như Sài Gòn hay làbến bãi như Hải Phòng mà nó cũng khơng bàng hồng đến mức như Huế.

Những vụn vặt phố phường Hà Nội được thé hiện qua những tản văn ngắn

nhiều ngẫm ngợi với một giọng văn khi hồ hởi, lúc chua chát, hài hước dé lại tronglòng người đọc nhiều suy tư về quá khứ và hiện tại. Những câu chuyện có liên

tưởng về những thời kì khác nhau của một thành phố có nhiều biến động về cơ cấudân sé, về tác phong sinh hoạt, về truyền thống và hiện tại đan xen làm nên một cái

nhìn khái quát về một Hà Nội mà ta đang sống.

Độc giả khơng khó để nhận ra một chút nuối tiếc về một Hà Nội thời quá

<small>vãng với những hàng cây, những con đường, những mái nhà êm ả nay đã khơng</small>

cịn nữa. Thay vao đó là một xơ bồ áo cơm, một cuộc sống đầy đủ hơn về vật chấtnhưng lại nghèo nan đi khá nhiều về tâm hồn. Dễ dang tìm thấy trong tác phẩm của

<small>35</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Đỗ Phần những sinh hoạt, món ăn và vật dụng của Hà Nội một thời thanh lịch chưa

Có thé nói khơng q rằng tản văn của Đỗ Phan đã làm nên một bảo tàngsống về Hà Nội một thời bao cấp vat va thiếu thốn cho đến thời mở cửa phát triển

bung ra. Từ một Hà Nội gồm những ngơi làng lớn n bình, vỉa hè nền đất đầy cỏ

xanh, giao thông chủ yếu bằng xe đạp và tàu điện thành một thành phố Hà Nội sôiđộng với những tịa nhà cao ngất, bạt ngàn xe máy ơ tơ. Trong cái bảo tàng khơng

lồ đó, có thé tìm thay rất nhiều “hiện vật” mà ngày nay thé hệ 8x hay 9x chỉ có thểnghe kể và đọc trong sách báo, xem trong những tranh ảnh, phim tài liệu. Ví như

bia hơi Cổ Tân lay nắp ham cá nhân mới đúc chưa khô làm bàn, nước giải khát

“si-rô” là món quả ao ước của trẻ con thời đó, món “chè đỗ đen đá” là món ưa thích và

pho biến với mọi người. Rồi thì đào ham, hỗ ở thành phố. Những khoanh bê tônglàm ham trở thành khoanh thành giếng thời Hà Nội thiếu nước sạch. Rồi chuyện về

loại cá biển cắt 6 tem phiếu, chè chén via hè đồng giá 5 xu...

Hà Nội đang không ngừng phát triển và thay đổi. Phố chuyền nghề. Mọi thứcũng thay đổi theo. Có những thứ chỉ cịn trong hồi niệm như vịi nước cơng

<small>36</small>

</div>

×