Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.52 MB, 196 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>Hà Nội - 2016</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>Chuyên ngành: Chính trị học</small>
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA THEO QUYÉT NGHỊ
CUA HOI DONG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN
Người hướng dẫn khoa học Chủ tịch Hội đồng đánh giá
<small>Luận án Tiên sĩ</small>
PGS.TS. Hoàng Khắc Nam GS. Vũ Dương Ninh
<small>Hà Nội - 2016</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệunêu trong luận an là trung thực. Các kết luận của luận an chưa từng được canhân hoặc tô chức nào công bồ trong bát cứ cơng trình nào khác</small>
<small>nghiên cứu và hồn thành cơng trình này.</small>
<small>Trong q trình xây dựng và hoan hồn thành cơng trình này, tơi đã</small>
<small>Hưng, GS. NGND. Vũ Duong Ninh, GS.TS. NGƯT. Phùng Hữu Phú, GS.</small>
<small>Bảo Trung.</small>
<small>hoản thành luận án này.</small>
<small>cánh bên tôi trong suôt thời gian vừa qua.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>MỤC LỤC</small>
<small>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên CỨU... ...- ¿5 + ‡*+**+*eE£+eeeeeeeseeeress 3</small>
<small>4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên CỨU ... 5 55555 s+++++++£>++ 45. Đóng góp của Luận án ...- - óc + kg ng ngệc 7</small>
<small>1.1. Tình hình nghiên cứu trong và ngoai nƯỚC...- -. 5 5555 sssss 91.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong NUGC ...- 5 5+5 s++£+*e£+ex++ 91.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngOải...-..-- ---+++s«++ss++s>+sss+ 13</small>
<small>2.4.2. Giới quan liÊU...---- 2-22 ¿+ £+EE£EEE£EEtEEEEEEEEEEEEEErErrkrrkrrrreee 482.4.3. Các tướng lĩnh quân đỘi...- .. - + 55 + * + *+vvEeseereeereeerrree 502.4.4. Giới doanh nhân...- -- - - --- G5 1313221111111 11111851111 ree 52</small>
<small>3.1.2. Các loại hình doanh nhân Thai Lan hiện đạI1...---- ---- 633.2. Những hoạt động và ảnh hưởng chính trị của doanh nhân... 683.2.1. Hoạt động trong các đảng phái...-- --- ¿5555 + s+ss+ecsseereesss 68</small>
<small>3.2.3. Hoạt động trong chính phủ ...- ¿5+ *+++eeeeerseerseees 75</small>
<small>3.4.1. Vai tro tich CUC ae ...-. 88</small>
<small>3.4.2. Val trO th@U CUC GẼP£ANẬIaaaiaÝŸ44Õ4. 90</small>
<small>Ji 0600.0011177. ...a.. 94</small>
<small>4.2. Những hoạt động va ảnh hưởng chính tri cua Thaksin Shinawatra ... 994.2.1. Hoạt động dang phái...- - --- c3 ‡*+kE+veEEeeereeerereerrreree 1004.2.2. Tham gia tran CỬ... ..-- - c6 E111 1 91 91v vn net 106</small>
<small>4.3.1. Thực hiện các chính sách gây tranh cãi...---‹---+s+ 122</small>
4500979015 ... 148DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
DEN LUẬN AN ... + tt HH. rrrrrree 151
TÀI LIEU THAM KHẢO...-- 5+ 5+t te tk g1 re 152
<small>000692... ... 159</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Tên tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt
<small>AIS Advanced Info Service Công ty Dịch vụ Thông tin</small>
<small>BBC Bangkok Bank of Commerce Ngân hàng Thương mại Bangkok</small>
BECL | Bangkok Expressway Consortium | Công ty TNHH đường cao tốc
CEO Chief Executive Officer Tổng giám đốc điều hành
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phâm quốc nội
JPPCC_ | Joint Public-Private Consultative | Ủy ban Tu van hợp tác công tư
<small>PPP People Power Party Đảng Sức mạnh nhân dân</small>
<small>TOT Telecom of Thailand Cong ty dién thoai Thai Lan</small>
<small>TRT Thai Rak Thai Dang Người Thái yêu người Thai</small>
UDD United Front of Democracy Mặt tran dân chu thống nhất chồng
<small>Against Dictatorship độc tài</small>
DANH MỤC BANG
Bảng 2.1: Các đảng phái dan đầu trong các cuộc bau cử Hạ nghị viện... 42
Bảng 2.2: Chính quyền đa đảng của Thái Lan...--- 22 2 s5x+£s+s++£zzxcsez 43Bang 3.1: Số liệu về nghị sĩ quốc hội chuyên sang đảng phái khác... 71
Bang 3.2: Nguyên nhân hình thành và kết thúc của các chính phủ Thái Lan ... 85
Bảng 4.1: So sánh số lượng cơ sở và đảng viên các đảng phái ...-...- 105
Bảng 4.2: Số ghế và tỷ lệ phiếu bầu trong cuộc bau cử năm 2001...- 113
Bảng 4.3: Danh mục các dự án cơ sở hạ tầng dự kiến triển khai trong giai đoạn
cầm quyền của Thủ tướng Thaksin...- 2 2 2 ®+E£+E£+EE£EE£EEtEEt£EzzEzrxrrxerxee 119Bảng 4.4: Tổng hợp hoạt động của giới doanh nhân va Thaksin Shinawatra
trong nền chính trị Thái Lan...-- 2-2-2 S+E£2E£+EE+EE£EE££EE2EE+EE+EEeEEzEEzEeerxerxee 139
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính trị học là một ngành học mới ở nước ta trong khi chính trị thế giới lại
càng mới mẻ hơn nữa. Nhiều vấn đề chính trị quốc gia, đặc biệt là chính trị nội tại
mỗi quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có Thái Lan, cần được nghiên
cứu một cách thâu đáo dé góp phan mở rộng tri thức cũng như có cách nhìn khách
quan khoa học về khu vực.
Thái Lan, một quốc gia láng giềng, có lịch sử quan hệ ngoại giao đầy thăngtrầm với Việt Nam. Hai nước hiện nay đều là thành viên của ngôi nhà chung Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Năm 2013, hai nước cũng đã nhất trí thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược với 5 trụ cột chính gồm quan hệ chính trị; hợp tácquốc phịng và an ninh; kinh tế; xã hội-văn hóa; hợp tác khu vực và quốc tế. Trong
bối cảnh đó, việc tìm hiểu một cách tồn diện về đất nước, con người, trong đó có
nền chính trị của Thái Lan là điều vô cùng cần thiết. Bởi vì hiểu biết rõ về các đặcđiểm của nền chính trị của một quốc gia góp phần tạo nền tảng cơ bản để hiểu vềnhau hơn và giúp hai nước tiến tới hợp tác lâu dai và bền vững.
Mặc dù nhìn từ bên ngồi, Thái Lan được coi là đất nước thanh bình, đấtnước của những nụ cười, song ở bên trong, nhất là trong bản chất chính trị của quốcgia này, nó lại mang một bộ mặt hồn tồn khác. Kê từ cuộc chính biến năm 1932cho đến nay, nên chính trị ln ln có sự đan xen, đấu tranh va cùng ton tại giữacác giai cấp và đại diện tầng lớp xã hội khác nhau. Mỗi biến động lớn về chính trị
của quốc gia này đều có sự xuất hiện và tham gia của các thế lực khác nhau từ quân
<small>đội, cảnh sát, giới quan lại, lực lượng bảo hoàng và sau này là giới doanh nhân. Sự</small>
bất ơn về chính trị của quốc gia này cho đến nay vẫn được nhiều nhà nghiên cứu
<small>nhìn nhận và đánh giá dưới các lăng kính khác nhau, thậm chí tương phản nhau.</small>
Chính vì vậy, việc hệ thống hóa lại lịch sử vẫn đề, chỉ ra các nguyên nhân căn bảncủa những bat ồn, phát hiện tính quy luật, sự lặp lại trong q trình vận động của hệthống chính tri Thái Lan hiện đại là việc làm cần thiết dé có sự hiểu biết đúng đắn
<small>và tồn diện hơn.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>Trong các lực lượng chính trị tại Thái Lan, giới tướng lĩnh quân đội thường</small>
được nhắc đến nhiều hơn cả. Đây là lực lượng truyền thống từng lãnh đạo độc tơnnền chính trị Thái Lan suốt một thời gian dai, họ dường như là tác nhân tao ra nhiềubat ồn chính trị nhất cho Thái Lan và hiện nay, họ vẫn đang nam quyén sau cudc
đảo chính năm 2014. Tuy vậy, bên cạnh sự nổi trội của các tướng lĩnh quân đội
<small>cũng như sau này là các chính khách dân sự trên chính trường Thái Lan, cịn có một</small>
lực lượng khác, tuy mới nổi nhưng lại đóng vai trị rất quan trọng trong nền chính
trị của Thái Lan hiện đại. Đó là cộng đồng các doanh nhân. Trong chế độ độc tài
quân sự, doanh nhân Thái Lan chỉ đơn thuần hoạt động kinh tế, bị động về chính trị.Khi nền dân chủ Thái Lan được hình thành, giới doanh nhân trở thành lực lượngchủ đạo nắm quyền chính trị. Từ thân phận những người chịu bảo trợ, phải cung
<small>phụng cho giới tướng lĩnh quân đội lãnh đạo, doanh nhân Thái Lan vụt trưởng thành</small>
về chính trị, họ trở thành một chủ thé quan trọng trong nền dân chủ tuyên cử và là
những năm đầu của thế kỷ 21. Như vậy là, việc tìm hiểu, phân tích dé từ đó đánhgiá đúng mức vai trò của giới doanh nhân sẽ góp phần quan trọng trong việc kiếngiải những chuyền biến chính trị Thái Lan trong giai đoạn vừa qua cũng như dự báobiến động chính trị của Thái Lan trong thời gian tới.
Việc làm rõ vai trò của giới doanh nhân trong đời sống chính trị Thái Lankhơng phải là nhiệm vụ dé dàng. Chính trường Thái Lan trong giai đoạn đó có rấtnhiều doanh nhân tham gia chính tri, họ có động cơ khác nhau, tac động khác nhauvà mức độ thành công cũng khác nhau. Dé giải quyết van đề này, một trong những
cách tiếp cận phô biến là lựa chọn được một nhân vật chính trị làm trường hợp điển
hình. Nhân vật đó vừa phải là doanh nhân đồng thời là chính khách. Người đó vừamang những đặc điểm chung nhất về bản chất, động cơ của giới doanh nhân khitham gia chính trị vừa cũng có những anh hưởng lớn hon tới nền chính trị Thái Lan.
Chúng tơi nhận thấy, có thể chọn Thaksin Shinawatra là nhân vật chính trị điển
hình, thé hiện được gần như day đủ vai trị của giới doanh nhân nói chung trong nềnchính trị Thái Lan. Thaksin Shinawatra vốn là một tỷ phú viễn thông; ông trực tiếp
sáng lập và xây dựng thành công một đảng phái lớn mạnh và là một trong số không
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">nhiều doanh nhân trở thành thủ tướng chính phủ. Cuộc đời hoạt động chính trị củaThaksin Shinawatra dù khơng dài song đã trải qua gần như đầy đủ các mối quan hệ
<small>giữa đảng phái và nhóm lợi ích, giữa lợi ích cử tri và lợi ích của các trùm tài phiệt,</small>
giữa lợi ích quốc gia và lợi ích gia đình, giữa q trình chỉ đạo tập trung và vấn đề
<small>dân chủ hóa chính trị. Với thực tiễn như vậy, việc chon Thaksin Shinawatra làmtrường hợp đặc thù cho giới doanh nhân Thái Lan sé làm cho bức tranh toàn cảnh</small>
doanh nhân Thái tham gia chính trị thêm sống động hơn, sắc nét hơn và đặc biệt,
với hình ảnh người thật, việc thật sẽ làm cho những nhận định về vai trò của doanh
nhân trong nên chính trị Thái Lan có sức thuyết phục hơn.
Với những lý do như trên, chúng tôi chon chủ đề: “Vai trị của giới doanhnhân trong nền chính trị Thái Lan hiện đại: Trường hợp của cựu Thủ tướng
Thaksin Shinawatra” là đề tài nghiên cứu của luận án.
<small>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</small>
<small>2.1. Mục đích: Luận án trình bày và làm sáng tỏ vai trị tích cực và tiêu cực</small>
của giới doanh nhân trong nên chính trị Thái Lan hiện đại với việc nghiên cứu chủyếu trường hợp Thaksin Shinawatra. Việc nhiên cứu vai trò của giới doanh nhânchủ yếu thông qua các hoạt động trong các đảng phái, trong các cuộc bầu cử và
<small>trong các chính phủ liên minh.</small>
<small>2.2. Nhiệm vụ</small>
Một là, dựng lại bức tranh tổng thể về tiến trình chuyển đổi chính trị TháiLan ké từ sau năm 1932, phân tích những đặc điểm cơ bản trong nền chính trị TháiLan, bao gồm hệ thống chính trị Thái Lan, đảng phái và các vấn đề về bầu cử.
Hai là, phân tích các lực lượng tham gia vào tiến trình chính trị Thái Lan và
mỗi tương quan giữa các lực lượng chính trị này.
Ba là, phân tích sự nỗi lên của giới doanh nhân Thái Lan trong nền chính trị
gồm thông qua những hoạt động trong các đảng phái chính trị', q trình bầu cử, và<small>“Đảng phái chính trị” được hiểu trong Luận án này là những tổ chức chính trị được pháp luật Thái Lancơng nhận, là tập hợp của các lực lượng chính trị hoặc giai cấp với mục đích đấu tranh với các lực lượng</small>
<small>chính trị khác nhăm giành, giữ, sử dụng quyên lực nhà nước.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">chính quyền trung ương, từ đó rút ra những đánh giá tơng thể về vai trị tích cực,tiêu cực của họ trong nên chính trị Thái Lan.
Bốn là, chọn Thaksin Shinawatra, Thủ tướng Thái Lan giai đoạn 2001
-2006, làm trường hợp nghiên cứu điển hình trong số các doanh nhân Thái Lan tham
gia hoạt động động chính trị. Trên cơ sở đó, tìm ra những đặc điểm tương đồng vàkhác biệt giữa Thaksin Shinawatra với giới doanh nhân Thái Lan nói chung dé củng
có các nhận định về vai trò của giới giới doanh nhân Thái Lan trong nền chính trị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu chung là giới doanh nhân Thái Lan và sự tham giacủa họ trong nền chính trị cấp trung ương.
- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là cựu Thủ tướng Thái Lan Thaksin
<small>4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu4.1. Cơ sở lý luận:</small>
Luận án nghiên cứu chủ đề này dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa<small>duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin. Luận án cũng</small>dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin về vai trò và sự phát triển các hình
thái kinh tế xã hội, về quan hệ giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc cũng nhưcác lý luận khác về nhà nước, lý luận về mối quan hệ kinh tế - chính trị giữa cácgiai cấp trong xã hội. Các cơ sở lý luận này chính là nền tang dé tìm hiểu về bối
cảnh và sự biến đổi chính trị ở Thái Lan, thiết chế va sự vận hành của nền chính trị
Thái Lan, mối quan hệ qua lại giữa giới chính trị, giới doanh nhân và các bộ phận
<small>khác trong các hoạt động chính trị ở Thái Lan.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Ngồi ra, để có thé phân tích một cách thấu đáo và nhiều chiều các khía cạnh
học giả phương Tây, cụ thé như sau:
- Lý thuyết về tinh hoa - quyền lực của Wright Mills: Theo đó, quyền lựcchính trị được tập hợp thơng qua ba thiết chế kinh tế, chính trị và quân sự. Các thiếtchế này có khả năng chi phối các thiết chế khác trong xã hội thông qua ba hình thái
cưỡng chế (qn sự), thống trị (chính trị) và thao túng (kinh tế). Luận án sử dụng lý
thuyết này nhằm phân tích vai trị của các lực lượng chính trị Thái Lan gồm các
<small>tướng lĩnh quân đội, giới quan liêu và đặc biệt là giới doanh nhân. Từ đó chỉ ra</small>
rằng, giới tỉnh hoa Thái Lan đã giữ các quyền lực thống trị, cưỡng chế và thao túngkể từ sau cuộc chính biến năm 1932 cho đến nay.
- Lý thuyết về chuyên đổi dân chủ của Dankwart Rustow. Lý thuyết này xác
nhận sự tồn tại của các nhóm tinh hoa trong xã hội và khẳng định chúng có ảnhhưởng quyết định đến sự chuyển đổi dân chủ. Theo Rustow, việc chuyền đổi dan
chủ của một quốc gia là sự tranh giành và giằng co về quyền lực giữa các nhóm tỉnhhoa qua ba giai đoạn chính gồm chuẩn bị, chuyên đổi và củng cố dân chủ. Lý thuyếtvề chuyển đồi dân chủ được sử dụng trong Luận án góp phan chỉ rõ sự chuyền đổicủa nền chính trị Thái Lan từ nền độc tài quân sự sang chế độ dân chủ cũng như sự
thắng thế của giới doanh nhân trong nền dân chủ đó.
<small>4.2. Phương pháp nghiên cứu:</small>
<small>Do luận án là một cơng trình nghiên cứu chính trị cho nên chúng tôi thực</small>
hiện nhiều phương pháp nghiên cứu chung trong khoa học xã hội và nhân văn cũng
<small>như các phương pháp riêng trong ngành chính trị học:</small>
<small>- Các phương pháp lịch sử: Luận án đã sử dụng phương pháp lịch đại và</small>
đồng đại để xem xét, trình bày một cách trung thực tiễn trình chính trị Thái Lanhiện đại, đặc biệt là ké từ sau cuộc Chính biến năm 1932. Các phương pháp nghiên
cứu xem xét chính trị Thái Lan một tiến trình liên tục trong mối liên hệ lịch sử vớinhiều nhân tố và tác động khác nhau của đời sống đất nước Thái Lan. Ngoài ra,phương pháp này cũng được sử dụng dé chỉ rõ điều kiện, quá trình hình thành vàphát triển của giới doanh nhân Thái Lan cũng như những tác động của họ đối với
<small>nên chính tri nước này.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">- Phương pháp logic: Dé tìm ra bản chất, khuynh hướng tất yếu và sự vậnđộng của trong tiến trình lịch sử Thái Lan cũng như sự phát triển và vai trị của giớidoanh nhân trong nền chính trị, luận án cũng kết hợp sử dụng phương pháp lich sửvới phương pháp logic. Phương pháp này giúp hình thành các luận điểm dé kháiquát, lý giải và đánh giá, từ đó đưa ra các kết luận về tiến trình chính trị Thái Lan vàvai trò của giới doanh nhân trong nén chính trị đó
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận án phân tích đặc điểm kinh tế - xãhội, chế độ chính trị, văn hóa chính trị, quyền lực chính tri cũng như các diễn biến
trong đời sống chính trị và từ đó tổng hợp lại để hình thành các nhận định mangtính quy luật về đời sống chính trị cũng như những đặc trưng của nền chính trị
<small>Thái Lan.</small>
- Phương pháp so sánh: Phương pháp nay được sử dụng dé làm rõ đặc điểmcủa nền chính trị Thái Lan qua các thời kỳ lịch sử cũng như giúp tìm ra những điểmxuyên suốt và những điểm biến đổi. Tương tự như vậy, phương pháp so sánh cũngđược áp dụng vào trường hợp doanh nhân Thái Lan dé giúp thay được làm rõ thêmnhững đặc điểm biến đổi và xuyên suốt cũng như có thé thay được vị trí, vai trị
tăng hay giảm của doanh nhân trong nên chính trị Thái Lan.
- Phương pháp phân tích hệ thống - cấu trúc: Luận án coi nền chính trị TháiLan như một hệ thống với cau trúc quyền lực bên trong như phương thức tơ chứccủa hệ thống. Từ đó, luận án tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa hệ thống chính tri và
cau trúc quyên lực chính trị ở Thái Lan với giới doanh nhân Thái Lan với tư cách là
một phan tử trong hệ thống. Đồng thời, phương pháp nay cịn giúp luận án tìm ra
các tác động ràng buộc cũng như những “kẽ hở” từ hệ thống và cấu trúc này tới
<small>hoạt động của giới doanh nhân trên chính trường Thái Lan.</small>
- Phương pháp case-study: Luận án lấy nhân vật chính trị ThaksinShinawatra làm trường hợp điển hình dé nghiên cứu và phân tích sâu nhằm làm rõ
hơn vai trò, đặc điểm và tác động của giới doanh nhân trong nên chính trị Thái Lan.Từ đó, đưa ra những so sánh tương đồng và khác biệt dé kiêm chứng và khắc họa rõ
<small>nét cho vai trò của giới doanh nhân nói chung trong nên chính trị Thái Lan.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">- Phương pháp phân tích quyền lực: Coi quyền lực như vấn đề trung tâm củanền chính trị, luận án đã phân tích quyền lực như động cơ, lợi ích của các bộ phậntrong nền chính trị Thái Lan cũng như cấu trúc quyền lực của hệ thống chính trị đó.Qua đó, luận án cũng làm rõ những đặc điểm trong cấu trúc quyền lực như sự phân
chia, đối trọng và kiềm chế quyền lực ở Thái Lan qua các thời kỳ. Phương pháp này
cũng được sử dung dé làm rõ những đặc thù trong động cơ quyên lực, lợi ích chínhtrị và kinh tế cũng như cách thức hoạt động chính tri của giới doanh nhân Thái Lan.
- Phương pháp thống kê để tập hợp các số liệu, như: các chính quyền đa
đảng, số liệu về nghị sĩ quốc hội, các đảng phái, cơ sở đảng và đảng viên, SỐ phiếuvà tỷ lệ phiếu bầu cho mỗi đảng phái trong các cuộc bầu cử, ... Các số liệu trên
được tập hợp thành bảng biểu, giúp đem lại các nhìn khái qt và hỗ trợ cho phân
<small>tích định lượng trong luận án.</small>
<small>5. Đóng góp của Luận án</small>
Luận án trình bày một cách hệ thống về nền chính trị Thái Lan hiện đại từsau chính biến năm 1932 đến năm 2006, trong đó làm rõ q trính chuyền biến théchế chính trị từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến, từ chế
độ độc tài sang chế độ dân chủ và các biến động chính trị xảy ra xung quanh các
q trình chun đổi đó.
Luận án cũng phân tích vai trị của các tang lớp xã hội trong tiến trình chuyểnđổi chính trị của Thái Lan, trong đó trình bày va phân tích một cách hệ thống về quátrình xuất thân, phát triển của giới doanh nhân Thái Lan, nhấn mạnh mối quan hệ
<small>tương tác giữa giới doanh nhân với giới chính tri gia, giữa giới doanh nhân với cáclực lượng chính trị khác và giữa hoạt động kinh doanh với hoạt động chính trị.</small>
6. Ý nghĩa của Luận án
6.1. Về ly luận:
- Làm rõ những đặc điểm căn bản về nền chính trị nội tại của Thái Lan.
- Đóng góp về mặt lý luận trong nghiên cứu chính trị Thái Lan khi chứng
minh được rằng, ngồi việc đóng vai trị tích cực trong nền chính trị nói chung, giới
doanh nhân đã góp phần làm suy thoái nền dân chủ tuyên cử của Thái Lan và là một
<small>trong những tác nhân chính đưa nên chính tri này rơi vào bat ơn.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">7. Bố cục của Luận án
Ngoài phần lời cam đoan, lời cảm ơn, mục lục, danh mục các từ viết tắt,
danh mục các bảng, mở đầu, kết luận, danh mục các cơng trình khoa học của tác giả
<small>liên quan đên luận án và phụ lục, Luận án được chia làm 04 chương.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Chương 1: TONG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU<small>1.1. Tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước</small>
<small>1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước</small>
Từ nhiều thập niên trở lại đây, Thái Lan trở thành đối tượng thu hút các học
<small>giả trong nước nghiên cứu ở những lĩnh vực lớn như lịch sử, chính tri và văn hóa va</small>
nên kinh tế của các nước trong khu vực được đây mạnh hơn nhằm so sánh và rút ra
những bài học kinh nghiệm cho quá trình quản lý và phát triển kinh tế nước ta.Trong số đó, Thái Lan, một quốc gia tương đối thành công trong công cuộc pháttriển kinh tế hướng về xuất khẩu, nổi lên như một đối tượng nghiên cứu có sức thuhút mạnh mẽ. Căn cứ vào thực trạng nghiên cứu Thái Lan ở trong nước, có thể tạm
1.1.1.1. Về lịch sử - chính trị Thái Lan
Rất nhiều học giả trong nước đã nghiên cứu một cách có hệ thống về lịch sửcủa Thái Lan. Tiêu biểu như các cuốn: “Thai Lan, một số nét về tình hình kinh tế xãhội chính trị lịch sử” (1988) của Nguyễn Khắc Viện; “Lịch sử Thái Lan” (1994) của
<small>Vũ Dương Ninh; và “Lịch sử Thái Lan” (1998) của Phạm Nguyên Long và Nguyễn</small>
Tương Lai (chủ biên). Đây là ba cuốn sách cung cấp những thông tin cơ bản về đấtnước, con người, nền văn hóa cũng như q trình lịch sử và phát triển kinh tế - xã
hội của Thái Lan từ thời tiền sử và cho đến hiện đại. Trong các tác pham nay, cactac gia đã dành nhiều công sức dé trình bày những chuyền biến của nền chính trị.Các kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa lớn, giúp tiếp cận, khai thác và phục dựng
bối cảnh của nền chính trị Thái Lan.
Không chỉ dừng lại ở nghiên cứu lịch sử đơn thuần, nhiều học giả đã đi sâunghiên cứu Thái Lan theo chuyên đề về chính trị. Ở đây, tơi trình bày một số cơngtrình nghiên cứu về chính trị theo diễn trình lịch sử Thái Lan.
Trước tiên, dé tìm hiểu ý nghĩa của cuộc chính biến năm 1932 và những tác
động của nó đến nền chính trị Thái Lan hiện tại, có thé tham khảo Luận án Tiến sĩlịch sử “Cách mạng năm 1932 ở Xiêm (Thái Lan): Tính chất và ý nghĩa lịch sử” của
<small>Kim Ngọc Thu Trang (Học viện Khoa học xã hội - 2013). Luận án này đã khái quát</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">tiền đề, diễn biến, kết quả của cuộc cách mạng 1932 ở Xiêm; đồng thời phân tích,
làm rõ tính chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng này; so sánh, đối chiếu với các cuộccách mạng tư sản ở châu Âu trong những thế kỉ trước, từ đó rút ra những đặc điểm
1932 tại Xiêm là một “cuộc cách mạng” vì nó đã thay thế chế độ quân chủ chuyênchế bang chế độ quân chủ lập hiến, tạo điều kiện cho việc tiễn hành các cải cáchtheo hướng tư sản, mở ra một thời kỳ phát triển mới của Xiêm.
Viết về những biến động chính trị của Thái Lan trong thập kỷ 1970, trong bàiviết “Nhìn lại cuộc nổi dậy của sinh viên Thái Lan tháng 10-1973” (Tạp chí Nghiêncứu Đơng Nam Á, số 3 - 1994), Lê Hùng Nam đã tìm hiểu về truyền thống đấutranh của sinh viên Thái Lan trong thập niên 1970. Nhờ mối liên hệ chặt chẽ và sựgiúp đỡ của nhiều tầng lớp nhân dân, sinh viên trở thành lực lượng hùng hậu, gópphần quyết định trong việc lật đồ chế độ độc tai Thanom Kittikachon năm 1973.
Nền chính trị Thái Lan tiếp tục được các tác giả Việt Nam quan tâm nghiên
cứu từ khi Thủ tướng Thaksin Shinawatra lên nắm quyền. Qua những luận án hoặcbài viết ở đưới các góc độ khác nhau, chân dung Thủ tướng Thaksin Shinawatracũng như những ảnh hưởng của ông trong thời gian cầm quyền và sau khi chínhquyền của ơng bị lật đỗ được khắc họa tương đối rõ nét.
Phan ánh vai trò trong quan hệ đối ngoại của Thaksin qua bai viết: “Quan hệThái Lan - Trung Quốc dưới thời cầm quyền của Thủ tướng Thaksin Shinawatra
(2001-9/2006)” (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 12 - 2011), Đinh Hữu Thiện
đã trình bày vắn tắt về những chính sách ngoại giao lớn của Thaksin, đặc biệt là
Liên quan đến việc Thủ tướng Thaksin bị qn đội đảo chính lật đơ, Văn
<small>Ngọc Thanh và Dam Thi Dao có bài phân tích “Cuộc đảo chính ngày 19 thang 9</small>
năm 2006 ở Thái Lan” (Tạp chí Nghiên cứu Đơng Nam Á, số 01 - 2008). Các tácgiả cho rằng, đảo chính bắt nguồn từ phong cách lãnh đạo của Thủ tướng Thaksinvà đây đơn thuần chỉ là sự thay đôi ở một bộ phận thượng tầng kiến trúc và thé hiện
“bước phát triển tiếp theo của nền dân chủ Thái Lan”. Căn nguyên của cuộc đảo
chính cũng được tác giả Mạnh Kim phân tích một cách sâu sắc hơn trong bài
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">“Chính trường Thái Lan: Nồi súp de đã nỗi” (Tuổi trẻ cuối tuần, 23/9/2006). Tácgiả cho rằng Việc Thaksin bị lật đồ có nguyên nhân quan trọng từ các phi vụ làm ănbat minh của ông trước và trong khi nắm quyền thủ tướng. Đó là phản ứng tat yếumột khi niềm tin bị lợi dụng vì nó dựa trên thủ đoạn mi dân và tham nhũng.
Nghiên cứu về tác động của việc Thủ tướng Thaksin bị lật đồ và cuộc khủng
hoảng chính trị tại Thái Lan diễn ra sau đó, trong bài viết “Tác động của khủnghoảng chính trị Thái Lan đến Việt Nam” (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4 -
2011), Nguyễn Ngọc Lan cho rằng cuộc khủng hoảng chính trị của Thái Lan có thé
nói được bắt đầu từ một cuộc đảo chính do giới quân sự tiễn hành nhằm lật đồ cựuThủ tướng Thaksin Shinawatra năm 2006, tiếp theo đó là những cuộc biểu tình, bạoloạn gay gắt giữa phe áo đỏ (phe ủng hộ Thaksin) và phe áo vàng (phe ủng hộHoàng gia) dưới thời Thủ tướng Abhisit Vejajiva. Tình hình chính trị bất ôn này đãgây tác động tiêu cực không chỉ đối với bản thân nước Thái mà cịn có ảnh hưởngkhông nhỏ đến khu vực và các nước láng giéng, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy,những tác động này chỉ mang tính chất gián tiếp dưới dạng những bài học, kinh
nghiệm quý báu để từ đó giúp chính phủ Việt Nam sáng suốt hơn trong việc lựa<small>chọn những chính sách hợp lý, tương ứng với hồn cảnh trong nước và xu hướng</small>chung của khu vực và thế giới.
Đề tổng hợp một thập kỷ đầy sôi động của nền chính trị Thái Lan đương đại,
Nguyễn Phương Bình có bài “Chính trường Thái Lan thập niên đầu thé kỷ 21” (Tap
chí Nghiên cứu Quốc tế Số 2 - 2010). Bài viết này tập trung phân tích sự nỗi lên vàthời gian cầm quyền của Thủ tướng Thaksin Shinawatra, những chính sách lớn khinăm quyền ơng đã ban hành cùng các hệ lụy kèm theo. Tác giả cũng đề cập tươngđối chi tiết những biến động chính trị liên tiếp ké từ sau khi Thủ tướng Thaksin bịquân đội lật đồ và kết luận: Cuộc khủng hoảng chính trị ở Thái Lan vẫn chưa có hồi
kết và đường như khó đi đến một giải pháp tồn diện vì những căn nguyên sâu xa từ
lịch sử và từ chính hệ thống chính trị của quốc gia này.
Như vậy, mặc dù đã có nhiều cơng trình được các nhà khoa học trong nước
cơng bố song chưa có cơng trình nào trình bày một cách tồn diện về nền chính trị
Thái Lan, nhất là chính trị hiện đại với các nghiên cứu về hệ thống chính trị, đảng
<small>II</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">phái, bầu cử hay các lực lượng chính trị. Nếu như nhìn Thái Lan trong bối cảnh một
quốc gia láng giềng của Việt Nam cũng như trong Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam
A (ASEAN) thì có thé thấy đây là một hạn chế cần phải được bổ sung hoàn chỉnh.
1.1.1.2. Về kinh tế Thái Lan
Đề tìm hiểu về nền chính trị của một quốc gia, không thé không nhắc đến cáctài liệu nghiên cứu về con đường phát triển kinh tế của quốc gia đó cũng như nhữngthực trạng, triển vọng và thách thức của nó. Những tai liệu này góp phan quan trọng
dé minh định chính sách của các chính quyền cũng như những nhân tổ tương tác tới
hoạt động của một hệ thống chính trị.
Kê từ cuối những năm 1980 cho đến năm 1997, con đường phát triển củaThái Lan trở thành đối tượng nghiên cứu thu hút sự quan tâm lớn của các học giảtrong nước. Có thể thấy điều này qua các tác phâm: “Chính sách cơng nghiệp hóacủa Thái Lan - những kinh nghiệm quý cho các nước đang phát triển” (1989) của
<small>Nguyễn Thu Mỹ; “Thái Lan: Cuộc hành trình tới câu lạc bộ các nước cơng nghiệp</small>
mới” (1992) của Nguyễn Thu Mỹ và Đặng Bích Hà; “Con đường phát triển của một
số nước Châu Á, Thái Bình Dương” (1996) của Dương Phú Hiệp; “Kinh tế Thái
Lan - một số chính sách cơng nghiệp hóa hướng về xuất khẩu trong ba thập niên
cuối thé kỷ 20” (2009) của Trương Duy Hòa. Những tác phẩm này đã đề cập tương
đối toàn diện sự phát triển của nền kinh tế Thái Lan từ thập kỷ 1960, đặc biệt là khi
quốc gia này chuyền đổi từ nền kinh tế cơng nghiệp hóa hướng nội - thay thế nhập
khẩu sang nền kinh tế cơng nghiệp hóa hướng ngoại - hướng về xuất khẩu. Các tácgiả đều có chung nhận định, trải qua một chặng đường dài và liên tục, nhờ tuân thủđúng các kế hoạch phát triển kinh tế nên kinh tế Thái Lan vẫn tăng trưởng đều vàcao bất chấp các biến động chính trị lớn, giúp Thái Lan có một diện mạo hồn tồnmới trong khu vực và trở thành một nước công nghiệp mới trên thế giới.
Trong giai đoạn Thủ tướng Thaksin lên nắm quyền, các chính sách kinh tế
của chính phủ cũng được học giả Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Có thé ké đến
Luận án tiến sĩ kinh tế: “Chính sách phát triển kinh tế của Thái Lan dưới thời Thủ
<small>tướng Thaksin Shinawatra” của Nguyễn Ngọc Lan (Học viện Khoa học xã hội 2013). Công trình này nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc lựa chọn các</small>
<small>-12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">chính sách phát triển kinh tế của Thái Lan dưới thời Thủ tướng Thaksin Shinawatra.Khơng chỉ có vậy, tác giả Nguyễn Ngọc Lan đã đi sâu vào một lĩnh vực cụ thể trongcác chính sách của Thủ tướng Thaksin qua bài: “Các chính sách chống đói nghèocủa Thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra” (Tạp chí Nghiên cứu Đơng Nam Á,
số 2 - 2014). Bài viết này trình bày một cách khái quát những biện pháp Thủ tướng<small>Thaksin Shinawatra và Dang Người Thái yêu người Thái (Thai Rak Thai - TRT)</small>
đưa ra từ khi tranh cử đến khi thực hành nhằm giúp cải tạo khu vực nơng thơn. Mặc
dù các chính sách này đều có những mặt mạnh và hạn chế, chúng đã có những tác
động khơng nhỏ tới q trình phát triển kinh tế của Thái Lan nói chung và đời sống
<small>của những người dân nghẻo nói riêng.</small>
Tiếp cận nghiên cứu kinh tế Thái Lan ở một khía cạnh khác, trong tác phâm
“Vai trò người Hoa trong nên kinh tế các nước Đơng Nam A”, tac giả Trần Khánh
đã phân tích tương đối tồn diện q trình phát triển của người Hoa từ khi mới nhập
cư cho đến trở thành một thành phần trong cộng đồng các dân tộc Thái Lan. Tác giả
cũng chỉ ra những đặc điểm cơ bản giúp người Thái gốc Hoa phát triển trở thànhcộng đồng doanh nhân đông đảo nhất của Thái Lan và tránh được sự kỳ thị như
từng thấy ở các quốc gia khác ở Đơng Nam Á.<small>1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi</small>
Trong điều kiện hạn chế về ngơn ngữ, tơi khơng có cơ hội được tiếp cận vớicác cơng trình khoa học nghiên cứu về chính trị Thái Lan bang tiếng Thái. Việcnghiên cứu được thực hiện chủ yếu qua các cơng trình tiếng Anh của các tác giả
<small>nước ngồi, trong đó có các tác gia Thái Lan.</small>
Việc nghiên cứu về nền chính trị Thái Lan, đã được tiến hành rất quy mô vànhiều chiều bởi nhiều học giả đến từ các quốc gia khác nhau. Năm 2006, GS.Michael H. Nelson đã tập hợp thư mục và cơng bố có gần 2.000 bài báo khoa học,
chuyên đề khoa học và sách chuyên khảo bằng tiếng Anh có liên quan trực tiếp và
gián tiếp đến chính trị Thái Lan hiện đại. Khơng chỉ xem xét chính trị Thái Lan quatiễn trình lịch sử, các tác giả còn tập trung nghiên cứu từng yếu tố cấu thành của nềnchính trị đó, từ hệ thống chính trị cho đến hoạt động của các đảng phái, từ vai trị của
<small>hồng gia, qn đội, doanh nhân cho đên sự nôi lên của các lực lượng dân sự và</small>
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">truyền thông. Các yếu tố khác như nền dân chủ, chế độ bầu cử cũng được đề cập với
những cơng trình nghiên cứu cơng phu, số liệu chỉ tiết và có sức thuyết phục cao.
Đặc biệt, khi giới doanh nhân tham gia tích cực vào đời sống chính trị TháiLan, nhiều tác giả đã chuyên tâm nghiên cứu về đối tượng này. Nội dung chủ yếu
được đề cập đến là hoạt động của đảng phái chính trị được doanh nhân hậu thuẫn
hoặc sáng lập; các chiến thuật, chiến dịch tranh cử, vận động tranh cử của doanh
<small>nhân - chính khách; hoạt động của các chính phủ có sự tham gia của doanh nhân;</small>các chính sách kinh tế - xã hội của chính phủ đối với việc phát triển cộng đồng
doanh nhân; mối quan hệ giữa doanh nhân và tiễn trình dân chủ hóa; sự liên kếtgiữa doanh nhân và các thế lực chính trị khác trong xã hội.
Cùng một mục tiêu nghiên cứu về đối tượng doanh nhân Thái Lan tham gia
chính trị và cụ thể là trường hợp Thaksin Shinawatra, có thể chia ra các nhóm đề
<small>tai, cơng trình khoa học có liên quan như sau:</small>1.1.2.1. Về lich sử Thai Lan
Năm 1981, tác giả John Girling cho xuất bản cuốn sách “Thai Lan: Xã hội va
<small>Chính tri” (Thailand: Society and politics, Cornell University Press, 1981). Day là</small>
một cơng trình nghiên cứu cơng phu, phản ánh Thai Lan qua góc nhìn lich sử. Cuốn
sách đặc biệt tập trung vào thời kỳ hỗn loạn giữa những năm 1970, khi Thái Lan lần
đầu tiên thực hiện nền chính trị dân chủ. Đáng lưu ý trong cuốn sách này là những
phân tích về sự ra đời và phát triển của các đảng phái chính trị và sự tham gia của
các doanh nhân (từ năm 1973 đến năm 1976).
Cuốn sách thứ hai đáng lưu ý là “Thái Lan: Một câu chuyện ngắn ” (Thailand:
A short story, Yale University Press, 2003) của cơ giáo sư David Wyatt. Dù có tiêu đề
khá khiêm tốn nhưng đây có thé được coi là một tác phẩm tương đối toàn diện vàtổng quát về lịch sử Thái Lan từ giai đoạn hình thành quốc gia cho đến những năm
cuối thập kỷ 1980, đặc biệt là giai đoạn chuyền đổi từ chế độ quân chủ chuyên chếsang quân chủ lập hiến với sự tham gia của các thé lực chính trị khác nhau.
Cũng viết về chủ đề trên, cuốn sách “Lịch sử Thái Lan” (History of
<small>Thailand, Chulalongkorn University, Bangkok, 2009) của Chris Baker và Pasuk</small>
Phongpaichit đã phân tích tương đối tồn diện sự chun biến của Thái Lan từ một
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">vương quốc của quan lại, quý tộc, thương nhân và nông dân sang một xã hội được
chia làm hai nửa với một nửa là phần lớn nông dân và nửa kia là các công dân thànhthị. Hai tác giả đã mô tả về một quốc gia đầy biến động trong giai đoạn kinh tế pháttriển bùng nỗ cũng như sự sôi nổi của các phong trào đại chúng.
Trước đó, chính hai nhà nghiên cứu trên đã cho xuất bản cuốn sách “TháiLan: Kinh tế và Chính tri” (Thailand: Economy and politics; Oxford UniversityPress, 2002). Cơng trình này cung cấp các dữ liệu và thông tin cùng với những kết
quả nghiên cứu rất tồn diện về hệ thống chính trị và kinh tế Thái Lan hiện đại. Hai
tác giả cũng phân tích sâu sắc những đổi mới trong chiến lược phát triển kinh tếcũng như chuyền đơi chính trị trong ba thập kỷ cuối của thé kỷ 20 và khang định vaitrò to lớn của các doanh nhân Thái Lan gốc Hoa trong sự thay đổi đó.
1.1.2.2. Về nên chính trị Thái Lan và sự tham gia của giới doanh nhân
Nền chính trị Thái Lan hiện đại, đặc biệt là giai đoạn “dân chủ tuyển cử” vớisự tham gia của giới doanh nhân trở thành chủ đề thu hút sự quan tâm của đơng đảohoc giả quốc tế. Nhiều tác giả đã có gắng lý giải bản chất nền chính trị Thái Langiai đoạn này này thơng qua việc tìm hiểu và đánh giá qua các chuyên đề khác nhaunhư dân chủ, hệ thống chính tri, lực lượng chính tri, vấn đề tổ chức bộ máy nhà
<small>nước cũng như vai trò của các địa phương.</small>
Đề cập sâu quá trình và hệ quả của việc doanh nhân tham gia chính trị, Anek
<small>Laothamatas trong bài “Kinh doanh và chính trị tại Thái Lan: Những mơ hình ảnhhưởng mới” (Business and politics in Thailand: New patterns of influence. Asian</small>
sách với tư cách cá nhân, và quan trọng hơn là với tư cách tập thể. Điều này, cùng
với các lợi thế khác, ví dụ như uy tín xã hội ngày càng cao, quyền quyết định về đầu
<small>tư và việc làm, cũng như sự tham gia trong các đảng phái, nghị viện và nội các, đã</small>
đưa giới doanh nhân trở thành một nhóm “phi quan liêu” sở hữu quyền lực chính trịđáng ké ở Thái Lan. Bên cạnh đó, các chính thé do doanh nhân dựng lên này khácvới “chinh thé quan liêu” trước kia khơng chỉ ở khía cạnh một hệ thống các dang cótính cạnh tranh, một hạ nghị viện do dân bầu và các cuộc bầu cử tự do, mà cịn thểhiện ở sự phân phối quyền lực chính trị.
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Từ đối tượng doanh nhân, Anek Laothamatas tiếp tục đi xa hơn khi khái quát
về chính trị Thái Lan qua cơng trình: “Số phận của hai nền dân chủ: những kháiniệm mâu thuẫn về bầu cử và dân chủ tại Thái Lan” được in trong cuốn sách “Chínhtrị bau cử tại Đơng Nam A” (The politics of elections in Southeast Asia, R. H.
manh của nền dân chủ Thái Lan bắt nguồn từ khoảng cách giàu nghèo cũng nhưquan hệ lợi ich của khu vực nông thôn so với khu vực thành thị. Đối với những
người ở vùng nông thôn, nền dân chủ như một phương tiện đạt được lợi ích trước
mắt từ các chính trị gia địa phương, trong khi tầng lớp trung lưu thành thị ở
tiêu, chương trình cụ thê. Tuy vậy, nền dân chủ Thái Lan thực sự trở thành nan đềkhi khu vực nông thơn ln có số cử tri lớn hơn và ln bầu chọn ra các chính trịgia phục vụ lợi ích trước mắt của họ, khiến đại điện của tầng lớp trung lưu thành thị
trong quốc hội chỉ là thiểu số. Điều này khiến cho một bộ phận không nhỏ tầng lớp
trung lưu chuyên sang thái độ ủng hộ cuộc đảo chính qn sự, coi đó như một cáchđể loại bỏ các chính trị gia tham nhũng. Tuy vậy, mong muốn của tầng lớp trunglưu lại hoàn toàn tương phản với ý chí của lực lượng qn đội vốn ln muốn thống
trị chính trường. Điều này đã gây ra một vịng luan quan và những xung đột trién
miên và khó gỡ trong nên chính trị Thái Lan.
Về chủ đề bầu cử trong chính trị của Thái Lan, Suchit Bunbongkarn đã cơng
bố bài viết “Bau cử và dân chủ hóa tại Thái Lan”, được in trong cuốn “Chính trịbau cử ở Đơng Nam A” (The politics of elections in Southeast Asia, Nelson,
<small>Michael H. (ed), Woodrow Wilson Center Press, New York, 2002). Tac gia cho</small>
rằng, quyền lực chính tri tại Thái Lan dang chuyên đổi từ lực lượng quan liêu sangcác ông trùm chính trị, từ chính trị quan liêu sang chính trị đảng phái. Trong đó, bầu
cử là một cơng cụ dé các lực lượng chính trị giành quyền lực thay cho đảo chínhquân sự trước kia. Tuy Hiến pháp (1997) quy định bầu cử tự do song trên thực tế,
cử tri khơng có quyền lực và ảnh hưởng lớn thơng qua các cuộc bầu cử. Thông qua
hệ thống đỡ đầu, các lãnh đạo địa phương, các lãnh đạo đảng phái, các trùm tài
phiệt đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả bầu cử. Tình trạng mua bán, đánh tráo
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">người làm giàu bất hợp pháp tại địa phương cũng có cơ hội trở thành các nghị sĩ
hoặc bộ trưởng và từ vị trí đó, họ lại tiếp tục kiếm tiền nhiều hơn nữa.
Đề cập đến vai trò của doanh nhân trong đảng phái của nền chính trị Thái Lan,Siripan Nogsuan Sawasdee, trong cuốn sách “Đảng phái chính trị Thái Lan trong kỷ<small>nguyên cải cách” (Thai political parties in the age of reform, Institute of public</small>
policy studies, Bangkok, 2006), đã phủ nhận sự phát triển của các đảng phái Thai Lantheo mơ hình của phương Tây. Siripan cho rằng, trong suốt hai thập kỷ 1980 và 1990,các đảng phái chính trị đã phát triển qua hai giai đoạn chính với sự tham gia tích cựccủa giới doanh nhân. Đầu tiên là làn sóng tiến vào chính trường của các doanh nhân -chính tri gia khu vực nơng thơn va sau đó là sự thống trị của các trùm tư bản hoạt
động kinh doanh cấp quốc gia. Từ đó, tác giả đi đến kết luận rằng đảng phái chính trị
đang chuyên sang giai đoạn phát triển thứ ba với đặc trưng là ảnh hưởng của các đảngphái lớn ngày càng rõ rệt và do các trùm tư bản điều hành.
Như vậy, mặc dù cách tiếp cận và phân tích có thé khác nhau nhưng các bài
viết sử dụng ngơn ngữ tiếng Anh đều có những nhận định quan trọng về doanh nhân
Thái Lan trong nền chính trị Thái Lan như sau:
Một là, doanh nhân Thái Lan đã có một q trình hình thành và phát triểnnhanh chóng, song hành với sự phát triển của kinh tế Thái Lan từ thập niên 1970
cho đến nửa đầu thập niên 1990.
Hai là, doanh nhân đã góp phan quan trọng làm thay đổi cấu trúc chính trị
của Thái Lan. Từ vi trí là “vai phụ” trên đấu trường chính tri, họ đã vươn lên thànhthế lực chính. Bằng sự hậu thuẫn lớn cho các đảng phái dân sự, họ đã góp phần
quan trọng đây lui các thế lực quân đội và tầng lớp quan liêu khỏi chính trường Thái
Lan vào năm 1988 và mở ra thời kỳ nam quyền chính trị thơng qua tuyên cử tự do.
<small>Ba là, khi tham gia vào các hoạt động chính trị, doanh nhân chưa chứng tỏđược vai trị cua minh đơi với q trình dân chủ hóa tại Thái Lan.</small>
<small>? “Chính trị rơ thịt” là thuật ngữ được sử dụng chỉ việc các chính trị gia dùng ngân sách nhà để mua</small>
<small>chuộc cử tri thông qua nhiêu cách thức khác nhau trong khu vực bâu cử của mình.</small>
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">1.1.2.3. Vé Thủ tướng Thaksin Shinawatra
Sau khi Đảng TRT của Thaksin Shinawatra giành thắng lợi trong cuộc bầucử năm 2001, tác giả James Ockey, trong bài viết “Thay đổi và tiếp diễn trong hệthống đảng phái của Thái Lan” (Change and continuity in the Thai political party
system, Asian Survey, 43, 2003), cho rang cuộc bau cử nghị viện năm 2001 được tổ
chức theo Hiến pháp mới, bên cạnh những thay đổi về cương lĩnh chính sách, việcxây dựng liên minh và nguồn bảo trợ, các đảng phái cịn có “sự kế thừa” quan trọng
cách thức tranh cử từ các chính quyền trước đây.
Khi Thaksin Shinawatra lên nắm quyền thủ tướng, đã có khơng ít nghỉ ngờthậm chi bi quan về viễn cảnh nền dân chủ của Thái Lan sẽ bị kéo thụt lùi. Trongbài viết “Nền dân chủ lâm nguy: Thaksin của Thái Lan dang ve van chế độ độc
<small>tài” (Democracy endangered: Thailand s Thaksin flirts with dictatorship, Current</small>
History, 2003), Kurlantzick Joshua canh bao rang kế từ khi năm quyền lực,
Thaksin đã tăng cường kiểm soát quốc hội, xã hội dân sự, bộ máy nhà nước, quân
đội và truyền thông. Trong khi không ngừng củng cố quyền lực, ông ta cũng liêntục đàn áp tự do dân sự và cuối cùng là việc Thái Lan có thé bị đây vào quỹ đạogiống như Singapore, một quốc gia với nền dân chủ bề nổi do hệ thống một đảng
<small>thao túng.</small>
Bước sang năm 2004, khi những chính sách và sự điều hành của chính phủThaksin đã có những hiệu quả rõ rệt nhưng cũng gây ra nhiều tranh cãi, đã có rấtnhiều bài viết, nghiên cứu về những điểm mạnh, điểm yếu của Thủ tướng Thaksin.
Đánh giá về năng lực điều hành chính phủ, tính hiệu quả trong ban hành
<small>chính sách, trong bai báo khoa học “Chủ nghĩa Thaksin hóa chính trị Thai Lan”</small>
<small>(Thailand: Politicized Thaksinization, Southeast Asian Affairs, 2004), Chookiat</small>
Panaspornprasit cho rằng chiến lược chính trị của Chính phủ Thaksin va nhữngsáng kiến mới trong giai đoạn đầu cầm quyền của Thaksin đã nhận được sự khenngợi và khâm phục trong đa số xã hội Thái Lan. Con đường đến đỉnh cao quyền lựccủa Thaksin có thé là kết quả của cả các nhân tổ khả biến của tình huống va cấu
trúc, của vơ hình và hữu hình. Các nhân tố này cũng bao gồm sự yếu kém của phe
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Trong cuốn sách “Thaksin: Việc kinh doanh chính trị tại Thái Lan” (Thaksin:
<small>The business of politics in Thailand, Silkworm Books, Chiang Mai, 2004), hai tac</small>
giả Pasuk Phongpaichit va Christopher Baker đã nghiên cứu kha bài bản về ThaksinShinawatra như là một nhà điều hành kinh tế hiệu quả và một chính trị gia có hiểu
biết. Việc hai tác giả áp dụng phương pháp phân tích lịch sử về chủ nghĩa tư bản
khu vực và mối quan hệ của nó với nền kinh tế - chính trị nỗi trội của Bangkok đãtạo ra cái nhìn khá sâu sắc từ khi Thaksin nắm quyền Thủ tướng cho đến hết năm
2004. Mặc dù Pasuk và Baker đã đưa ra những kết luận ban đầu về cách Thaksin
khớp nối một cách hợp lý các chính sách kinh tế với các vấn đề xã hội khác nhausong hai tác giả cũng tỏ ra bi quan khi cho rằng còn rat lâu nữa, Thaksin mới trởthành đồng minh của người nghèo trong cuộc đấu tranh giành quyền dân chủ vìThaksin là người đã sử dụng nhiều mối quan hệ của gia đình dé kiếm lời thơng qua
các đặc quyền của chính phủ.
lập chính trị”, được in trong cuốn “Chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa cải cách ở
Đông Nam A” (Populism and reformism in Southeast Asia: The threat and promise<small>of new politics, Yale University Council on Southeast Asia Studies Monograph</small>
Series, 2005), van hai tac giả Pasuk Phongpaichit va Christopher Baker đã dé cậpviệc Thaksin sử dụng chu nghĩa dân túy trong đường lối chính tri của minh. Hai tácgiả kết luận rằng chương trình dân túy của Thaksin Shinawatra là một sự thỏa hiệp
mà các doanh nghiệp lớn đã chuẩn bị từ trước và thực hiện nhằm kiểm sốt nhà
nước với mục đích chính là quản lý tác động của các yếu tơ tiêu cực của tồn cầuhóa. Khơng chỉ vậy, Chủ nghĩa dân túy được Thaksin liên tục điều chỉnh và bổ
sung thành một chương trình nghị sự đầy tham vọng là tạo ra những chính phủ ơnđịnh hơn với thủ tướng có quyền lực lớn hơn. Trong đó ưu tiên là tháo đỡ hệ thống<small>3 Chủ nghĩa dan tuy là một thuật ngữ trong chính tri học được coi là tập hợp những tluận điệu và hoạt độngchính trị đại điện cho nguyện vọng và nhu cầu của người dân bình thường trước các nhóm tỉnh hoa trong mộtnền chính trị nhất định. Thơng thường, các chính trị gia đi theo chủ nghĩa dân túy trong mỗi cuộc tranh cửthường đánh vào tâm lý lo sợ bị gạt sang một bên của cử tri tầng lớp thấp của xã hội để qua đó kiếm được sựủng hộ. Cho đến nay, tùy theo mỗi nền chính trị khác nhau, các chính trị gia theo chủ nghĩa dân túy có các</small>
<small>cách tiếp cận cử tri và vận dụng chủ nghĩa dân túy khác nhau nhằm tuyệt đối hóa số phiếu bầu của họ quamỗi cuộc bầu cử dân chủ.</small>
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">chính trị hiện thời, ngăn chặn ảnh hưởng của báo chí, các tổ chức dan sự trong hoạtđộng chính trị và xây dựng hình ảnh người lãnh đạo “tài đức vẹn toàn” với sự thuần
<small>phục của dân chúng.</small>
Xuất bản cùng năm với cơng trình trên, Duncan McCargo và Ukrist
Pathamanand, trong cuốn sách “Thaksin hóa Thái Lan” (The Thaksinization of
<small>Thailand, NIAS, Copenhagen, 2005) đã phân tích những hoạt động chính tri trong</small>
nhiệm kỳ Thủ tướng đầu tiên của Thaksin Shinawatra. Hai tác giả nhiều lần nhắn
mạnh việc phát triển mơ hình mạng lưới quyền lực chính tri của Thaksin hoặc là sự
“Thaksin hóa” nền chính trị Thái Lan, trong đó đặc biệt là cải cách qn đội và báochí. Mơ hình mới này đặt Thaksin ở vị trí tối cao và bao gồm nhiều lực lượng khácnhau đóng vai trị như những liên minh phụ thuộc của mạng lưới; thu hút nhiều khuvực kinh tế như các phương tiện truyền thông giải trí và các doanh nghiệp viễn
<small>thơng, cũng như các chính trị gia dựa vào nông thôn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ</small>
Cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra cũng có những chia sẻ trực tiếp vớingười đọc và cung cấp những thông tin quan trọng về giai đoạn ông còn nắm quyên.Những nội dung này được kế lại chi tiết trong cuốn sách của Tom Plate “Đối thoại
với Thaksin - Lưu vong và giải thốt: Ơng trùm dân túy Thái bộc bạch đời mình”
(Lê Thùy Giang dịch, 2013). Trong cuốn sách, tác giả Tom Plate đã phác họa trựcdiện hình ảnh Thủ tướng Thaksin Shinawatra qua chính những hồi ức của ơng khi
<small>cịn đương nhiệm. Đó là hình ảnh một Thủ tướng luôn mong mỏi xây dựng một xã</small>
hội Thái Lan hiện đại hơn, đặc biệt là bién đổi cuộc sống của hàng triệu hộ nghèoThái Lan tới một cái đích tốt đẹp hơn. Với quan điểm Thái Lan khơng thé giàu có
<small>khi người nghèo vẫn nghèo, Thaksin đã thi hành các chính sách có lợi cho khu vực</small>
nông thôn như một cách dé thực hiện các cam kết khi vận động tranh cử.
Tuy nhiên, Thaksin cũng không ngần ngại thú nhận với tác giả những áp lực
sau này, bao gồm cả các thách thức về quyền lực và quyền hạn, khiến ông bắt đầu
dựa vào pháp quyền nhiều hơn, sử dụng “nắm đấm sắt” đối với các vẫn đề chính trịvà xã hội Thái Lan và đã gây ra nhiều hiệu ứng xấu. Ngoài ra, sự điều hành quyếtliệt, không khoan nhượng và trực tiếp động chạm tới lợi ích của các thế lực chính trị
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">khác khiến ơng có rất nhiều kẻ thù, đặc biệt là từ quân đội và giới quan liêu. Thêm
quân sự năm 2006 và bị buộc phải sống lưu vong từ đó mà khơng biết đến ngày về
có quốc.
Có thê thấy, khi nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp của Thaksin Shinawatra,
các tác giả nước ngoài đã làm rõ một cách tương đối những vấn đề cơ bản như:
Thứ nhất, Thaksin Shinawatra trở thành đại diện cho các doanh nhân lớn
thâu tóm và sử dụng quyền lực nhà nước của Thái Lan ngay từ những năm đầu tiên
của Thế kỷ 21.
Thứ hai, Thaksin Shinawatra đã góp phần làm thay đổi tư duy về đảng phái
<small>chính tri của Thái Lan, tao ra một cách thức thực hành chính tri mới mẻ hon với các</small>
<small>chính tri gia và đảng phái trước kia.</small>
Thứ ba, Thaksin đã thé hiện là một thủ tướng mạnh mẽ với cách điều hànhmang tính mệnh lệnh và hối thúc trong khi sẵn sàng đối đầu với giới nghiên cứu cũngnhư báo chí. Điều này gợi những ấn tượng khơng tốt về việc xuất hiện một nhà độctài mới trong nền chính trị dân chủ của Thái Lan và báo hiệu cho thấy nguy cơ nềndân chủ Thái Lan đang thụt lùi đưới sự cầm quyền của Thaksin và Đảng TRT.
1.2. Những kế thừa từ các cơng trình nghiên cứu đã xuất bản
Một là, phương pháp luận nghiên cứu tổng quan về một nền chính trị và cáclực lượng chính trị trong quốc gia đó; những vấn đề lý luận về chun đổi chính trị,q trình hình thành, phát triển và suy tàn của các lực lượng chính trị Thái Lan.
Hai là, quá trình lực lượng doanh nhân phát triển và trở thành một thế lực
chủ yếu trong nên chính trị Thái Lan hiện đại.
<small>Ba la, quá trình hoạt động kinh doanh và tham gia chính trị của Thaksin</small>
<small>Shinawatra giai đoạn trước khi thành lập Đảng TRT năm 1998 cũng như việc ơng</small>
áp dụng thành cơng các chính sách kinh tế - xã hội khi nắm thủ tướng.1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Ngoài những vấn đề luận án kế thừa, còn một số nội dung nghiên cứu vềdoanh nhân Thái Lan chỉ dừng lại ở mức gợi mở ban đầu hoặc chưa được đề cập
<small>một cách tồn diện va cân có sự nghiên cứu bơ sung.</small>
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Đối với lực lượng doanh nhân Thái Lan, những nội dung sau đây cần đượclàm sáng tỏ hơn. Cụ thé như sau:
Một là, những đặc điểm riêng biệt của loại hình doanh nhân và tác động củahọ đến nền chính trị Thái Lan như thế nao va mức độ ra sao. Cụ thé ở đây là vai trò
của doanh nhân gốc Hoa, doanh nhân cấp địa phương và doanh nhân cấp quốc gia
Hai là, trong mỗi quan hệ với giới doanh nhân, các đảng phái chính trị đã
<small>quan hệ, đảng phái chính trị Thái Lan được xây dựng va ngày càng hoàn thiện hon</small>
Ba là, từ việc phân tích việc bồ trí nhân sự trong nội các va những hoạt độngmang tính chất lợi ích cục bộ của các chính phủ liên minh, có thé đánh giá như thếnào về chủ nghĩa thân hữu và cao hơn nữa là “nền chính trị tiền bạc” tại Thái Lan.
tại của họ là gì, mâu thuẫn giữa họ với các lực lượng chính trị truyền thống khác tập
trung ở những điểm nào và giải quyết những mâu thuẫn đó được thực hiện ra sao?
Đối với trường hợp cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra, cần tập trung nghiên
cứu những van dé cơ bản nào nào dé minh chứng ông là trường hợp đặc thù cho<small>giới doanh nhân Thai Lan tham gia chính tri.</small>
Một là, Thaksin Shinawatra tiếp thu những bài học nào của giới doanh nhân
<small>nói chung khi hoạt động chính trị và thực hiện chúng ra sao.</small>
<small>Hai là, những phương pháp, cách thức hoạt động được coi là mới mẻ va sáng</small>
<small>tạo trong q trình tham gia chính trị của Thaksin Shinawatra so với cách thức hoạt</small>
<small>động của các doanh nhân - chính tri gia trước đây.</small>
<small>Ba là, những mâu thuẫn căn bản giữa Thủ tướng Thaksin Shinawatra, đảng</small>
TRT với các đối thủ chính trị khác và những khuyết điểm và hạn chế trong quá trình
điều hành đã dẫn đến sự tốn hại về uy tín cũng như thất bại về chính trị của thủ
<small>tướng Thaksin Shinawatra.</small>
<small>22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Chương 2: KHÁI QUÁT VE NEN CHÍNH TRI THÁI LAN HIỆN ĐẠI
2.1. Tiến trình chính trị Thái Lan (1932 - 2014)
Ké từ cuộc chính biến năm 1932 đánh dấu sự sụp dé của nền quân chủ
chuyên chế và sự ra đời nền quân chủ lập hiến cho đến nay (2016), Thái Lan trảiqua rất nhiều biến động về chính trị. Khi nhìn lại, chúng ta khơng khỏi lúng túng vì
diễn biến của nó dường như khơng đi theo những quỹ đạo nhất định. Ví dụ như:Một cuộc đảo chính quân sự xảy ra đột ngột giữa lúc nền dân chủ tưởng như đi vào
ồn định nhất; một cuộc bau cử được đánh giá là dân chủ khách quan nhưng an sâutrong đó là nạn mua bán phiếu bầu; Thái Lan trước cuộc đảo chính tháng 5 năm2014 vốn được đánh giá là có nền chính trị tương đối dân chủ nhưng thực tế lại
đang bị giới tư bản tài phiệt và địa phương thao túng; quốc gia này tuy đang duy trì
chế độ quân chủ lập hiến song quốc vương đơi khi lại có quyền lực vượt qua khỏi
khn khơ của các hién pháp dân chủ, wv...
Mặc dù có những biến động trái nhiều như vậy song nếu căn cứ vào đặc
điểm và bối cảnh của mỗi giai đoạn, có thê thấy, lịch sử chính trị hiện đại Thái Lan
đã và đang trải qua hai giai đoạn khác nhau. Đó là nền chính trị “chính thể quanliêu” và nền chính trị “dan chủ tuyển cử”. “Chính thé quan liêu” vốn là thuật ngữ do
Fred Riggs sử dụng từ năm 1966 [64, tr.11-131] dé mô tả khái quát về thể chế chính
trị Thái Lan, trong đó quyền lực được hình thành trên cơ sở kết hợp giữa lực lượngquân đội và giới quan lai (bureaucrats). Cịn “nền chính trị dân chủ tuyển cử”(electoral democracy), là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi hơn ở nhiều quốc gia dânchủ, nó mang một số đặc điểm như: Quyền lực chính trị được tập hợp, hình thành,hoặc thay đổi thơng qua hình thức bau cử, có tính chất cạnh tranh giữa các đảng
<small>phái chính trị và được thực hiện thông qua các hoạt động nghị trường. Xen giữa hai</small>
giai đoạn trên, nên chính trị Thái Lan vẫn có những khoảng thời gian thỏa hiệp giữa
<small>các lực lượng chính trị khác nhau.</small>
2.1.1. Chính thể quan liêu (1932 - 1978)
2.1.1.1. Con đường tới quyên lực của giới tướng lĩnh quân sự
<small>Trước năm 1932, Thái Lan, còn gọi là nước Xiêm, vẫn giữ vững được độc</small>
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">dân phương Tây. Nước Xiêm vẫn duy trì nền chính trị quân chủ chuyên chế vớiquyên lực thuộc về Vương triều Chakri. Quyền lực tối cao của nhà nước tập trung
hoàn toàn trong tay nhà vua theo nguyên tắc thế tập. Mặc dù từ thời vuaChulalongkorn (1868 - 1910), Vương triều Chakri đã có những cải tổ quan trọng vềchính trị, đặc biệt là trong tô chức bộ máy nhà nước, song những thể chế căn bản
của một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vẫn khơng có nhiều thay đồi.
Cho đến những thập niên đầu thế kỷ 20, khu vực châu A đã có nhiều chuyên
biến quan trọng. Quá trình xâm lược, khai thác thuộc địa của thực dân phương Tây
đã ảnh hưởng đến sự chuyển đổi chính trị của các nước châu A. Một số quốc gia đã
bắt kịp với thời đại khi từ bỏ cấu trúc chính trị - xã hội xưa cũ dé học tập va đi theomơ hình chính trị đang thịnh hành của phương Tây. Tiêu biểu là Nhật Bản, quốc gia
đã tiễn hành cuộc cải cách toàn diện dưới thời vua Minh Tri dé trở thành một quốc
sản tiến hành cuộc cách mạng Tân Hợi lật đồ chế độ quân chủ phong kiến hangngàn năm và thành lập chính phủ Dân quốc. Những ảnh hưởng về chính trị củaphương Tây cùng với những biến động chính trị của Nhật Bản, Trung Quốc cũng đã
tác động đến tư duy của khơng ít nhân sĩ tiễn bộ cũng như một bộ phận quan lại
trong Vương triều Chakri. Họ nhìn thấy sự thay đổi mơ hình chính trị là tất yếu déđưa nước Xiêm không bị tụt hậu cũng như phát triển hùng cường như Nhật Bản.
Những cá nhân có cùng tư tưởng đó dần tập hợp nhau trong một hội kín
chính tri và đặt tên nó là “Đảng Nhân dân” (Khana Ratsadon). Tổ chức này kết nạpcác quan chức cấp cao, sĩ quan quân đội trung cấp từng đi du học tại các nước Anh,
<small>Pháp và Đức. Đảng Nhân dân ngay từ khi được thành lập đã chia ra hai nhóm rõ rệt</small>
là dân sự (do Pridi Banomyong đứng dau) gồm các quan chức dân sự làm việc trong
<small>các cơ quan hành chính và quân sự (do Phahol Phonphayuhasena làm thủ lĩnh) bao</small>
gồm các sĩ quan quân đội và cảnh sát. Cả hai nhóm trong Đảng đều thống nhất quan
điểm cần phải thay đơi nền chính trị Xiêm theo mơ hình các nền qn chủ lập hiếncủa châu Âu.
Đến năm 1932, tình hình thé giới có nhiều chuyền biến. Cuộc khủng hoảngkinh tế thế giới bắt đầu từ năm 1929 đã tác động không chỉ đến các quốc gia châu
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">Âu mà cả những nước Đơng Nam Á. Ở Xiêm, tình cảnh sản xuất ngày càng trì trệ
do lương thực làm ra, khống sản khai thác lên không xuất khâu được trong khi nhucầu chi tiêu của nhà nước ngày càng nhiều. Trước tình hình đó, Vua Prajadhipok đãban hành nhiều biện pháp tăng thu ngân sách nhà nước, cắt giảm các khoản chỉ tiêucông, nhất là giảm chỉ tiêu cho quốc phịng. Các chính sách mới này đã ảnh hưởngtrực tiếp đến lợi ích của các tầng lớp quan lại và quân đội, làm cho mâu thuẫn giữahọ với hoàng gia ngày càng lớn dan.
Tận dụng tình hình chính trị, xã hội bế tắc và những phản ứng bất lực củavương triều trước cuộc khủng hoảng kinh tế, ngày 24 tháng 6 năm 1932, các sĩ quan
<small>quân đội trong Đảng Nhân dân đã huy động được một lực lượng quân đội khá lớn</small>
tiến hành cuộc đảo chính, tuyên bố lật đồ sự cai trị của đương kim hồng déPrajadhipok. Sau cuộc đảo chính, tháng 12 năm 1932, hiến pháp mới được banhành. Theo đó, quyền lực tối cao thuộc về nhân dân, quốc vương là người thừa hành
trực tiếp trên cơ sở sự chấp thuận và thỉnh thị của các cơ quan nhà nước bên dưới
bao gồm Đại hội nhân dân (Quốc hội), Hội đồng nhà nước (Chính phủ) và Tịa án.Sau sự kiện này, quyền lực chính tri từ tang lớp quý tộc được chia sẻ cho các quanchức cao cấp “Tây học” và các sĩ quan quân đội. Bản hiến pháp này đã đánh dấu sựchuyên mình của nước Xiêm từ nền quân chủ chuyên chế sang nền quân chủ lậphiến. Quốc vương Prajadhipok vẫn giữ được ngai vàng nhưng thực quyên chính trị
của ơng đã bị tước bỏ. Như vậy, về bản chất, cuộc chính biến 1932 là sự thay đơi có
tính cách mạng trong nền chính trị Thái Lan. Đây là thành quả hoạt động của mộtbộ phận quan lại có tư tưởng tiễn bộ chứ khơng phải là nỗ lực cách mang của giai
cấp tư sản cấp tiến hay quần chúng nhân dân lao động. Cuộc chính biến thành cơng
vì những người đứng đầu đã sử dung cơng cụ bạo lực của chính nhà nước dé chiếm
đoạt quyền lực tối cao của quốc vương.
Được tô chức bài bản, thống nhất trong hành động và với uy tín chính trị hiện
có, các sĩ quan qn đội chính thức xác lập vai trò lãnh đạo sau khi họ lật đồ Thủ
<small>tướng Manopakorn Nititada vào tháng 6 năm 1933. Dai ta Phahol trở thành thủ tướng</small>
của 5 nội các từ đó cho đến tháng 9 năm 1938. Ông dần tập trung quyền lực tuyệt đối
vào tay mình, mở đầu giai đoạn quân đội thống lĩnh nền chính trị Thái Lan.
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">Năm 1938, sau khi bất lực trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế quốc gia,
<small>Thủ tướng Phahol buộc phải từ chức và Phibul Songkhram, một tướng lĩnh quân đội</small>
khác trở thành thủ tướng. Tháng 5 năm 1939, Tướng Phibul quyết định đổi tên nướcXiêm thành Thái Lan. Giai đoạn Phibul cầm quyền từ 1938 đến 1944 đánh dấu thờikỳ giới lãnh đạo quân đội kết hợp với tầng lớp quan liêu nắm quyền lực chính trị.Các hoạt động của đất nước thông qua các sắc lệnh và mệnh lệnh. Thủ tướng Chínhphủ năm quyền lực chính trị cao nhất, Quốc hội dù không bị giải tán nhưng hoạt
động chỉ mang tính hình thức. Dưới sự cố vấn của Luang Vichid Vadhakarn, chính
phủ thực thi học thuyết “Đại Thái” [6, tr.65]. Theo đó, tinh thần dân tộc được dé
<small>cao, các chính sách bài Hoa được ban hành và các doanh nghiệp của người Thái bản</small>địa được khuyến khích. Trong lĩnh vực đối ngoại, chính phủ ký hiệp ước liên minh
quân sự với Nhật Bản và chống lại lực lượng đồng minh. Các tướng lĩnh Thái Lancoi chế độ quân phiệt Nhật Ban là một hình mẫu mà Thái Lan có thé học tập và
<small>thành cơng.</small>
2.1.1.2. Thứ nghiệm dân chủ thất bại và sự nổi lên của chế độ độc tài qn sự
Mặc dù có tập trung tồn bộ quyền lực song chính phủ Phibul cũng khơng
tồn tại được lâu. Tháng 7 năm 1945, Chiến tranh thé giới thứ hai đi vào hồi kết.Tại mặt trận Thái Bình Dương, Nhật Bản, đồng minh trụ cột của Thái Lan thuatrận liên tiếp trên các khu vực họ chiếm đóng. Điều này tác động gián tiếp khiếnChính phủ Phibul thân Nhật sụp đồ. Khuang Aphaiwong, một thành viên cũ củanhóm dân sự trong Đảng Nhân dân trước kia, được bổ nhiệm làm thủ tướng tạmquyên. Với sự thay đổi nay, xu hướng dân chủ hóa trong đời sống chính trị Thái
<small>Lan được hình thành.</small>
Từ tháng 8 năm 1945 đến thang 10 năm 1947, hiến pháp mới (1946) đượcban hành tạo nền móng cho một nhà nước dân chủ. Hiến pháp này cho phép thànhlập các đảng phái chính trị và thực hiện tổng tuyên cử tự do. Tuy vậy, thử nghiệm
trên sớm đi vào bề tắc. Trong một thời gian ngắn, có đến 5 đời thủ tướng khác nhau<small>(Khuang Aphaiwong, Tawee Punyaketu, Seni Pramoj, Pridi Banomyong và Thawal</small>
<small>bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa các phe nhóm dan sự trong Quốc hội va từ sự bề tắc</small>
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">của chính phủ trong giải quyết các van dé kinh tế, xã hội. Điều này tạo cơ hội dé
quân đội quay lại nắm quyền. Tháng 4 năm 1948, tướng quân đội PhinChoonhawan ép Thủ tướng Khuang từ chức. Vậy là nền dân chủ sơ khai của TháiLan thất bại, chính thể quan liêu được tái lập khi Phibul Songkhram quay trở lại
<small>giữa cương vi thủ tướng.</small>
Giai đoạn cầm quyền lần thứ hai của Phibul diễn ra trong bối cảnh thực dan
cũ lần lượt rút khỏi các thuộc địa ở Đông Nam Á và Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện chiếnlược toàn cầu “ngăn chặn” sự lây lan của chủ nghĩa cộng sản trong đó có các nước
Đơng Dương. Nhận thức được vai trò ngày càng lớn của Hoa Kỳ tại châu Á - TháiBình Dương, Chính phủ Phibul day mạnh chính sách ngoại giao thân Hoa Ky dénhận được những gói tài trợ phát triển kinh tế và quân sự lớn. Khi các dự án lớnđược đầu tư vào Thái Lan cũng là lúc tập đoàn lãnh đạo bắt đầu chia rẽ về lợi ích.
<small>Nội các chính phủ Phibul chia thành hai nhóm riêng biệt: Nhóm gia đình RaJakru</small>do tướng Phin Choonhavan đứng đầu và nhóm Sisao Deves của tướng cảnh sát Sarit<small>Thanarat. Thang 9 năm 1957, với sự ủng hộ của các đảng phải dân sự và giới doanh</small>
nhân nhà nước, tướng Sarit tiến hành cuộc đảo chính lật đồ Chính phủ Phibul đồng
<small>thời gat bỏ nhóm Rajakru ra khỏi các hoạt động chính tri.</small>
Tháng 10 năm 1958, tướng Sarit tuyên bố tiến hành cuộc đảo chính thê chế,
xóa bỏ tồn bộ mơ hình nhà nước trước kia và thay băng một nền độc tài quân sự.Theo đó, Hiến pháp 1952 bị xóa bỏ, lệnh thiết quân luật được ban bố, các đảng pháichính trị bị cắm hoạt động. Nhóm đảo chính cũng ban hành hiến pháp mới (1959)dé tập trung hầu hết quyền lực cho thủ tướng chính phủ. Trong khi đó, Hồng gia
vốn đã suy giảm vai trị ở các chính quyền trước - được khơi phục địa vị chính trị.
Quốc vương Bhumibol Adulyadej được tôn xưng là biểu tượng cao nhất của quốcgia, là người có quyền lãnh đạo cao nhất nhưng quốc vương trao quyền đó chotướng Sarit Thanarat để điều hành tồn diện đất nước. Từ sau cuộc đảo chính, Thái
Lan chuyên hắn Sang chế độ độc tài toan diện. Mặc dù Tướng Sarit đột ngột qua đời
vào tháng 12 năm 1963, song khơng vì thế mà chế độ này sụp đồ. Quyền lực chính
trị được chuyển giao cho cho Phó Thủ tướng Thanom Kittikachorrn. Viên tướng
này tự chỉ định mình làm thủ tướng năm 1969 và tiếp tục duy trì nền độc tài.
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Trong thời gian cẦm quyền, ngồi việc thực thi chính sách bóp nghẹt các
<small>phản kháng chính trị, hai nhà độc tai Sarit và Thanom cũng tập trung xây dựng</small>
chiến lược phát triển kinh tế và xã hội. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm củachính quyền Sarit là thực hiện chiến lược cơng nghiệp hóa thay thế nhập khâu.Chiến lược này thực sự làm cho nên kinh tế Thái Lan có sự tăng trưởng mạnh mẽ vàồn định trong suốt thập niên 1960. Cùng với sự phát triển của kinh tế, nhu cầu vềnguồn nhân lực phục vụ cho q trình đơ thị hóa, cho các khu công nghiệp và các
ngành dịch vụ đã dẫn đến việc thành lập và phát triển các trường đại học và cao
đăng, nhiều ngành nghề kinh doanh ra đời và phát đạt làm cho cộng đồng doanhnghiệp ngay càng lớn mạnh đặc biệt, tầng lớp trung lưu, tiểu tư sản, học sinh, sinh
<small>viên cũng tăng theo.</small>
Từ sự lớn mạnh về số lượng, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản mới đã có nhữngbiến đổi về chất lượng và mức độ liên kết. Nhu cầu hình thành các tô chức, hiệp hộinghề nghiệp ngày càng mạnh mẽ. Từ đó, nhận thức về chính trị của các tầng lớpnày có sự chun biến. Các hoạt động biểu tình, tuần hành, thỉnh thị ý kiến đượcnhen nhóm dan. Ban đầu là các cuộc tập trung, biểu tình hợp pháp như tuần hànhphản đối phán quyết của Tòa án Quốc tế vì Cơng lý cơng nhận đền Preah Vihear
thuộc Campuchia vào năm 1962 hay xuống đường tây chay hàng hóa Nhật Bản, kêu
gọi dùng hàng Thái Lan. Sau này, những cuộc biểu tình dần chuyền sang chỉ tríchviệc điều hành nền kinh tế, tình trạng tham những và gia đình trị trong chính phủ.Đặc biệt, ngày càng có những tiếng nói mạnh mẽ địi hỏi chính quyền mở rộngquyền tự do dân chủ, tự do báo chi, tự đo kinh doanh và thực hiện cam kết ban hành
lại hiến pháp dân chủ. Nịng cốt của các phong trào bày tỏ chính kiến là lực lượngsinh viên vốn tập trung ngày càng lớn ở các đơ thị. Y thức chính trị, óc phản kháng
trong giới sinh viên ngày càng tăng thì sự đàn áp của chính quyền ngày càng quyếtliệt. Mâu thuẫn đối kháng giữa hai bên trở nên gay gắt vào tháng 10 năm 1973, khi
các lực lượng dân chủ đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình ram rộ tại Bangkok dé địi
chính quyền thả người bị bắt vì hoạt động chống chính phủ. Biểu tình sau đó dần
chun hướng sang xung đột bạo lực khi quân đội cùng với cảnh sát tổ chức đàn áp
mạnh mẽ. Đỉnh điểm của xung đột diễn ra vào sáng 15 tháng 10 năm 1973 khi cảnh
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">sát được lệnh bắn đạn thật vào đoản người biểu tình khiến hàng trăm người bị chết
và hàng trăm người khác bị thương [65, tr.56]. Sự kiện này gây chấn động tồn bộhệ thống chính trị đến mức Quốc vương Bhumibol phải có chỉ dụ hàm ý can thiệp,gián tiếp buộc Thủ tướng Thanom từ chức, mở đầu cho sự sup đồ nhanh chóng của
chính quyền độc tài quân sự. Quyền lực chính trị được chun giao cho một chính
phủ lâm thời có tính chất ơn hịa.
Như vậy, chính thé quan liéu da thong trị nền chính trị Thái Lan trong hơn
40 năm cho dù có sự gián đoạn nhất định. Chính thể này thực sự đã làm lu mờ hình
ảnh một quốc gia có nên quân chủ lập hiến kiểu mẫu. Anek Laothamatas cho rằng“Chính thé quan liêu của Thái Lan hoạt động giữa các tang lớp hoặc nhóm xã hội
dễ bị điều khiển, trì trệ và để quyền quyết định lọt vào tay của một nhóm nhỏ quan
chức tinh hoa” [8, tr.451]. Cụ thé hơn, đó là nền chính trị khi “các viên tướng sửdụng sức mạnh quân sự và trọng pháo như một loại quyên lực của chính phủ dé
chong lại những người dám thách thức ho [55, tr.29]. Sự sụp đỗ của thé chế này
như một tất yếu của lịch sử khi các lực lượng xã hội mới như tầng lớp trung lưu, tưsản mới trỗi day mạnh mẽ và đòi hỏi quyền lợi chính trị của mình và mở ra một tiến
<small>trình chính trị mới của Thái Lan.</small>
2.1.2. Nền chính trị “bán dân chú” (1978 - 1988)2.1.2.1. Thất bại lần thứ hai của nên dân chủ
Sau biến cố năm 1973, nền dân chủ được hồi sinh. Mơ hình một quốc gia
dân chủ được xây dựng và cụ thể hóa qua bản Hiến pháp mới (1974). Tuy nhiên,bản Hiến pháp này có tính chất q cấp tiến, khơng phù hợp với bối cảnh một đất
nước vừa thoát ra khỏi chế độ độc tài. Các lực lượng chính trị cũ dù thất bại nhưng
vẫn cịn có ảnh hưởng to lớn trong khi các lực lượng mới nổi tuy có nhiều tiềmnăng song kinh nghiệm thực hành chính tri cịn hạn chế. Đặc điểm nay đã làm taidiễn kịch bản chính trị như từng xảy ra những năm 1945 - 1947. Cụ thể là, sau cuộc
tổng tuyển cử tháng 01 năm 1975, Dang Dân chủ (Prachathipat) giành được số ghế
lớn nhất trong hạ nghị viện và được quyền thành lập chính phủ liên minh. Nhưng
<small>mâu thuẫn của một chính phủ đa đảng sớm bùng phát vì sự tranh giành các vị trí</small>
trong nội các cũng như các đảng phái cầm quyền bất đồng về đường lối hoạt động.
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">Trong khi đó, các đảng phái đối lập lại triệt để sử dụng quyền bỏ phiếu bất tínnhiệm nhằm phế truất chính phủ. Vì vậy, trong vịng ba năm (1973-1976), lần lượtnội các của các Thủ tướng Sanya Dharmasakti, Seni Pramoj, Kukrit Pramoj rồi lại
Seni Pramoj được dựng lên rồi sup dé.
<small>Không chi mâu thuẫn từ bên trong, chính phủ, các lực lượng dân sự, dang</small>
phái và phong trào sinh viên còn phải đối mặt với sự kích động, chống phá của các
thành các cuộc xung đột bạo lực lên tới đỉnh điểm vào tháng 10 năm 1976 khi cácnhóm cánh hữu tan cơng và truy sát các sinh viên ủng hộ dân chủ tại trường Dai họcThammasat. Cuộc tấn công này khiến cho hàng chục người chết, hàng trăm người
bị thương, chủ yếu là sinh viên. Nó đã gây ra khủng hoảng chính trị nghiêm trọng<small>và buộc Thủ tướng Seni Pramoj phải từ chức. Ngay sau đó, các tướng lĩnh quân đội</small>chớp thời cơ tiến hành đảo chính, tun bố xóa bỏ Hiến pháp 1974, xây dựng Hiến
pháp lâm thời 1977, giải tán Quốc hội và cam các đảng phái chính trị hoạt động.
<small>Nhóm đảo chính chọn chính trị gia bảo hồng Thanin Kraivichien làm Thủ</small>
tướng. Lên cầm quyền, Thủ tướng Thanin cho thực thi rất nhiều chính sách tran áp
dân chủ như bắt giam hàng ngàn sinh viên, truy bức hàng ngàn người ủng hộ dân
chủ khác và khiến cho hàng chục ngàn người dau tranh ở thành thị phải bỏ trốn về
<small>vùng núi, vùng nông thôn và gia nhập Đảng Cộng sản Thái Lan. Những chính sách</small>
này đã làm cho tình hình Thái Lan thêm rối ren [29, tr.215-19].2.1.2.2. Thỏa hiệp chính trị và sự ổn định của chỉnh phủ Prem
Tháng 10 năm 1976, nhận thay đường lối chính trị cực đoan của Thanin sẽdẫn đến việc chia rẽ đất nước, một nhóm sĩ quan quân đội trung cấp tự xưng là các“Tướng trẻ” (Young Turks) đã tổ chức đảo chính lật đồ chính phủ Thanin. Nhómnày thành lập Hội đồng Chính sách quốc gia và định ra một hướng đi khác nhằmhuy động sự ủng hộ của các đảng phái chính trị cũng như duy trì quyền lực hiện cócủa mình. Đó là đưa hoạt động chính trị cởi mở hơn, tiễn hành hịa giải giữa các phenhóm vốn xung đột với nhau suốt từ đầu những năm 1970, đồng thời giảm bớtnhững căng thang cũng như bat an trong xã hội. Tuy nhiên, điều cốt yếu là quan độivẫn tiếp tục năm giữ quyền lực lãnh đạo. Điều đó được cụ thể hóa băng việc tướng
<small>Kriangsak Chamanan được lựa chọn làm thủ tướng vào tháng 11 năm 1977.</small>
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Dé tạo cơ sở pháp lý giải quyết khủng hoảng chính trị diễn ra trién miên, các
lực lượng chính trị đã tập hợp lại và cùng xây dựng một bản hiến pháp mới. Đâyđược coi là thỏa hiệp tam thời giữa các tướng lĩnh quân đội và tang lớp quan liêu cũvới các đảng phái chính trị và các lực lượng dân sự. Hiến pháp 1978 vừa tạo điềukiện cho q trình chuyền tiếp ơn định vừa dành thời gian cho các hoạt động dangphái được khôi phục. Chai-anan Samudavanija gọi đây là đặc trưng của một nềnchính trị “bán dân chủ ơn định” [21, tr.102]. Theo đó, hạ nghị viện được hình thành
thủ tướng lựa chọn. về quan hệ qua lại giữa hạ nghị viện và chính phủ, các hạ nghịsĩ phải chấp thuận cho một cá nhân trong giới quan liêu, đứng ngoài các đảng phái,
giữ cương vị thủ tướng. Đổi lại, thủ tướng phải thành lập nội các với thành viên là
đại diện các đảng thang cử có chan trong hạ nghị viện. Trên tinh thần đó, sau cuộcbầu cử tháng 4 năm 1979, tướng Kriangsak tiếp tục giữ chức Thủ tướng chính phủ.
Đến tháng 2 năm 1980, Thủ tướng Kriangsak buộc phải từ chức trước cácsức ép từ suy thoái kinh tế và sự thiếu tin tưởng của các đồng minh dân sự. Theonhư thỏa ước trước kia, các tướng lĩnh quân đội và các đảng phái thống nhất bầuchọn Đại tướng Prem Tinsulanonda, đương kim Bộ trưởng Quốc phịng làm thủ
tướng. Đơi lai, tân thủ tướng tiếp tục cam kết xây dựng nội các trên cơ sở tham gia
của các đảng phái lớn. Trong nội các mới, Thủ tướng Prem đã có cách sắp xếp khá
hợp lý để vừa bảo đảm quyền lực của mình, đồng thời kiểm soát và kiềm chế được
<small>hoạt động của các thành viên từ các đảng phái.</small>
Trong suốt 08 năm cầm quyền tiếp theo (1981-1988), Thủ tướng Prem đã cố
gang cân bang các mối quan hệ dé duy trì quyền lực của minh. Bang cách gắn chặt
<small>với Hồng gia, ơng tranh thủ được sự ủng hộ của giới quan liêu và các chính tri gia</small>
bảo hồng: bằng cách phân bé đồng đều vị trí trong nội các, ơng giữ được uy tín vớicác đảng phái chính trị. Trong việc điều hòa mối quan hệ giữa hai lực lượng cũ và
mới, Thủ tướng Prem sử dụng lực lượng này để kiềm chế lực lượng kia, ơng tận
dụng sự đề phịng lẫn nhau của hai lực lượng mới và cũ để duy trì vai trị cá nhânlãnh đạo khơng thé thiếu của mình. Chính vì vay, Prem đã đứng trên đỉnh cao quyền
<small>lực suôt một thời gian dài. No lực điêu hành dat nước của ông, với năm lân cải tô</small>
<small>31</small>
</div>