MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để cho nền kinh tế phát triển, việc xác định cơ cấu kinh tế nói chung
và cơ cấu kinh tế công nghiệp nói riêng là một vấn đề cực kỳ quan trọng, mà
mọi quốc gia đều quan tâm, kể cả các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Ở
Việt Nam, chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp được Nhà nước đặc biệt
quan tâm và coi đó là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội và là một trong những nội dung quan trọng của công nghiệp hóa, hiện
đại hoá nền kinh tế quốc dân.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp nhanh, đúng hướng sẽ là một
quá trình chuyển đổi căn bản, từ sử dụng sức lao động thủ công là chủ yếu
sang sử dụng lao động bằng máy móc với công nghệ hiện đại, phương pháp
sản xuất tiên tiến, nhằm tạo ra năng suất lao động cao hơn hẳn với lao động
thủ công. Nó cho phép khai thác mọi nguồn lực, tạo ra sự gắn bó giữa công
nghiệp với nông nghiệp và dịch vụ; đồng thời nâng cao khả năng hợp tác phát
triển với bên ngoài, thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng
tiến bộ, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và bảo vệ môi trường sinh thái.
Ngược lại, nếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp chậm, không đúng
hướng sẽ không phát huy được lợi thế so sánh từng vùng của địa phương, cản
trở quá trình phát triển của công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác.
Trong những năm đổi mới kinh tế vừa qua, nhìn tổng quát, cơ cấu
kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế công nghiệp nói riêng đã có sự chuyển
dịch đúng hướng quan trọng; tuy nhiên, vẫn còn có nhiều mặt yếu kém chưa
đáp ứng kịp với tình hình phát triển chung của khu vực.
Đồng Nai là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp. Công
nghiệp Đồng Nai đã được hình thành từ trước khi thống nhất đất nước và
ngày nay được xác định là một trọng điểm tứ giác phát triển kinh tế phía Nam
(TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tầu). Trong
những năm đổi mới, cơ cấu kinh tế công nghiệp Đồng Nai tuy đã có sự
chuyển dịch nhanh, theo hướng tích cực tiến bộ, song để khắc phục những
yếu kém do lịch sử để lại và phát huy vai trò một trọng điểm trong phát triển
kinh tế phía Nam, còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. Đó là: vấn đề
vốn; công nghệ; lao động; thị trường; trình độ quản lý và vấn đề quy hoạch
xây dựng các khu công nghiệp tập trung v.v... Bảo đảm phát huy tối đa nguồn
lực và lợi thế so sánh của địa phương, tranh thủ những thành tựu mới về khoa
học - công nghệ. Do đó việc nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế công
nghiệp, tìm ra phương hướng giải pháp phát triển nhanh, đúng hướng là một
vấn đề cấp bách có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Vì vậy tôi chọn đề tài:
"Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Đồng Nai" cho luận án khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình ở trong nước và nước ngoài nghiên cứu vấn đề
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp
nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Điển hình là: tác phẩm "Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành và phát triển một số ngành mũi nhọn ở Việt Nam" do
PGS.TS Đỗ Hoài Nam chủ biên; "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân" do GS.TS Ngô Đình
Giao chủ biên; "Công nghiệp hóa Việt Nam trong thời đại Châu Á - Thái
Bình Dương" của GS.TS Trần Văn Thọ; "Quá trình phát triển công nghiệp ở
Việt Nam - Triển vọng công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước" do GS.TS
Phạm Xuân Nam chủ biên; "Một số vấn đề chiến lược công nghiệp hóa và lý
thuyết phát triển" do TS. Đỗ Đức Định chủ biên v.v... Ngoài ra, còn nhiều bài
báo, tạp chí, luận án đề cập tới vấn đề công nghiệp hóa và xu hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Những tác phẩm đó đã tiếp cận vấn đề trên
phạm vi cả nước dưới nhiều góc độ khác nhau. Còn đối với Đồng Nai thì
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ thống sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp của một tỉnh có nhiều tiềm năng thế mạnh về
phát triển công nghiệp. Từ lý luận và thực tiễn, luận án tiếp thu, kế thừa lý
luận chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp, những kinh nghiệm xây dựng
công nghiệp của một số nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp của
Việt Nam, trên những mặt thành công và chưa thành công những năm trước
đây. Trên cơ sở đó, luận án đi sâu nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế công
nghiệp ở Đồng Nai.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích
Trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận, thực tiễn về cơ cấu kinh tế
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp, từ đặc điểm, thực trạng, mâu
thuẫn đặt ra và nguyên nhân của công nghiệp Đồng Nai, tác giả đã luận giải
sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp thời gian qua và chỉ
ra xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp của Đồng Nai trong thời
gian tới, nhằm góp thêm căn cứ khoa học cho các cơ quan trong việc hoạch
định các chủ trương, chính sách đối với công nghiệp cả nước nó chung và ở
Đồng Nai nói riêng, trong điều kiện kinh tế thị trường, trước xu thế mở cửa,
đổi mới, hội nhập với kinh tế quốc tế và khu vực.
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản và quan điểm của
Đảng, một số học thuyết về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm
cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu nội dung chính của đề tài.
- Nghiên cứu những kinh nghiệm công nghiệp hóa của một số nước xã
hội chủ nghĩa trước kia, một số nước Đông Á và Đông Nam Á trong việc hình
thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp, trên cơ sở đó vận dụng vào
việc phát triển công nghiệp của Đồng Nai.
- Phân tích những đặc điểm, thực trạng, những thành tựu đã đạt được
và những vấn đề mới nảy sinh của công nghiệp Đồng Nai trong những năm
vừa qua. Trên cơ sở đó rút ra những vấn đề có tính quy luật trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp, đồng thời chỉ rõ những hạn chế
nguyên nhân làm cản trở quá trình phát triển kinh tế công nghiệp ở Đồng Nai.
- Dự báo phương hướng, đề xuất những kiến nghị và giải pháp chủ
yếu để thúc đẩy nhanh có hiệu quả quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế công
nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai, trên cơ sở khoa
học theo hướng tiến bộ, trong thập niên đầu của thế kỷ XXI.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng
Đề tài nghiên cứu chủ yếu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai. Bằng sự phân tích
của kinh tế chính trị, làm sáng tỏ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp
biểu hiện trên các mặt: (cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu phành phần kinh tế
trong công nghiệp, cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp, cơ cấu lao động...).
Trong mối quan hệ với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (TP Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu), từ đó rút ra những vấn đề có
tính quy luật của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp đến năm 2010 ở
Đồng Nai.
4.2. Phạm vi
Luận án tập trung nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế công
nghiệp trên địa bàn Đồng Nai qua các thời kỳ, nhất là trong thời kỳ đổi mới từ
năm 1986 - 2000). Trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét chung và những xu
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp trong thập kỷ tới của Đồng Nai.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về cơ cấu kinh tế và
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp. Ngoài ra, luận án còn sử dụng
những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học, các tác phẩm trong và
ngoài nước có nội dung gần với đề tài về cơ cấu kinh tế; chuyển dịch cơ cấu
kinh tế công nghiệp và chiến lược phát triển kinh tế, để làm cơ sở lý luận cho
việc nghiên cứu của luận án.
5.2. Phương pháp
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống: phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp trừu tượng hóa
khoa học, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp phân tích thống kê,
so sánh. Ngoài ra luận án còn sử dụng phương pháp điều tra tại thực địa, để
tìm ra số liệu sát hợp với đề tài. Để giúp cho nghiên cứu, luận án đã sử dụng
hai nguồn tài liệu chính, đó là:
- Tài liệu gốc bao gồm: nguồn Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê
Đồng Nai; Nghị quyết của Đại hội tỉnh đảng bộ qua các thời kỳ; những báo
cáo của Ủy ban Nhân dân tỉnh, của các sở ban ngành trong tỉnh. Đây là những
tài liệu có tính pháp lý và tin cậy, từ những tài liệu này để so sánh giữa các
thời kỳ, trên cơ sở đó tìm ra xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp
có tính quy luật ở Đồng Nai.
- Tài liệu tham khảo: Đó là những bài báo, tạp chí, những sách tham
khảo trong và ngoài nước, nhằm bổ sung, hoàn thiện cập nhật tư liệu và số
liệu cho luận án.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Thông qua trình bày một cách có hệ thống lý luận về cơ cấu kinh tế
công nghiệp, luận án làm sáng tỏ thêm những nhân tố tác động đến xu hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp và đưa ra cơ chế thực hiện xu hướng
chuyển dịch cơ cấu đó.
- Trên cơ sở hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp các nguồn tài liệu, tác
giả luận án làm nổi bật sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế công
nghiệp trong thời gian qua. Đồng thời chỉ ra những mâu thuẫn và nguyên
nhân làm cản trở sự phát triển công nghiệp ở Đồng Nai.
- Dự báo phương hướng và xu hướng chuyển dịch có tính quy luật của
cơ cấu kinh tế công nghiệp ở Đồng Nai trong thập niên tới ở một vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, đề xuất những giải pháp có khả năng thực thi, nhằm
đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Đồng
Nai.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị và danh mục tài liệu tham
khảo, luận án gồm 3 chương, 11 tiết, 155 trang, 24 biểu mẫu và 1 sơ đồ quy
hoạch khu công nghiệp của tỉnh Đồng Nai.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ CÔNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. CƠ CẤU KINH TẾ CÔNG NGHIỆP VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN CƠ CẤU KINH TẾ CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
* Khái niệm cơ cấu kinh tế
Phát triển kinh tế ổn định và bền vững luôn là mục tiêu của tất cả mọi
quốc gia. Muốn vậy phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó cần xác định
rõ mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng lãnh thổ và các thành phần kinh
tế trong nền kinh tế quốc dân. Các mối quan hệ này phải được thể hiện cả về
mặt số lượng cũng như mặt chất lượng, sao cho phù hợp với điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi quốc gia và mỗi vùng kinh tế nhất định,
trong những giai đoạn nhất định. Như vậy, khái niệm cơ cấu kinh tế là một
phạm trù kinh tế rất rộng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng và
thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Để tìm
hiểu khái niệm cơ cấu kinh tế, trước hết ta hiểu thuật ngữ "cơ cấu".
Thuật ngữ "cơ cấu" hay "cấu trúc" có nguồn gốc ban đầu từ chữ latinh
"Structure". Ban đầu "cơ cấu" được sử dụng trong kiến trúc, trong sinh vật
học dùng để chỉ cách tổ chức, điều chỉnh các tế bào động, thực vật. Sau đó
khái niệm "cơ cấu" được sử dụng trong nhiều ngành khoa học, trong đó có
các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân quốc dân [74]. Cơ cấu còn được
khái quát là sự sắp xếp và tổ chức các phần tử tạo thành một chỉnh thể, một hệ
thống phức hợp, xét về biểu thị những đặc tính lâu dài (cơ cấu của nền kinh
tế; cơ cấu Nhà nước). Như vậy, cơ cấu được sử dụng khá phổ biến để chỉ cấu
trúc của một đối tượng bao gồm các bộ phận hợp thành trong mối tương quan
tỷ lệ về lượng và những liên kết bên trong giữa các bộ phận đó.
Từ khái niệm "cơ cấu" vận dụng vào đối tượng là nền kinh tế quốc dân,
ta có thuật ngữ "cơ cấu kinh tế ". Hiện nay có nhiều định nghĩa về cơ cấu kinh tế.
Định nghĩa 1: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ
chủ yếu cả về chất và lượng giữa các bộ phận hợp thành. Những bộ
phận này gắn bó hữu cơ với nhau, tác động phụ thuộc lẫn nhau làm
điều kiện cho nhau cùng phát triển trong một thời gian và không
gian nhất định [33].
Định nghĩa 2: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ về
chất lượng và số lượng, tương đối ổn định của các bộ phận kinh tế
trong điều kiện thời gian và không gian nhất định nhằm đạt hiệu
quả kinh tế cao [53].
Định nghĩa 3: Cơ cấu kinh tế là tổng thể hệ thống kinh tế
bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau trong những không gian và thời gian nhất định, trong
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định; nó được thể hiện cả về
mặt định tính và định lượng, cả về mặt số lượng và chất lượng, phù
hợp với mục tiêu được xác định của nển kinh tế [78].
Định nghĩa trên không có gì khác nhau đáng kể, chúng đều có một điểm
chung là: cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành theo những tỷ lệ về
chất lượng và số lượng tương đối ổn định trong điều kiện thời gian và không
gian nhất định nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Song các định nghĩa đó
còn hết sức chung chưa chỉ rõ các bộ phận hợp thành đó là gì và trên các các
cấp độ khác nhau như thế nào. Để cụ thể hóa hơn nữa chúng tôi cho rằng:
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế thể hiện mối quan hệ hữu cơ
giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân, là một thế trận kinh tế
thể hiện mối quan hệ nội tại giữa các ngành, các lĩnh vực, các vùng lãnh thổ,
các thành phần kinh tế sao cho các nguồn lực sản xuất kết hợp chặt chẽ, hợp
lý với nhau vừa đảm bảo yêu cầu trước mắt vừa tạo thế cho nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển ổn định, bền vững.
Như vậy, các bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế có thể được xem xét
dưới góc độ khác nhau sao cho hợp lý, do đó hình thành nên những thế trận
kinh tế khác nhau tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Đại hội lần thứ IX của
Đảng xác định: "Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hoá là nhiệm vụ
trung tâm" [26]. Mặt khác,
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải đảm bảo xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập về đường lối,
chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh: có mức tích lũy
ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có
sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số
ngành công nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa
học công nghệ; giữ vững ổn định kinh tế - tài chính vĩ mô; đảm bảo
an ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, môi trường [26].
Cơ cấu kinh tế không chỉ là một thế trận kinh tế đảm bảo kết hợp chặt
chẽ ba yếu tố cơ bản của sản xuất là sức lao động, đối tượng lao động và tư
liệu lao động (nếu không chỉ là những yếu tố tiềm thế của sản xuất như Mác
nói), nhằm khai thác tiềm năng của sản xuất mà còn phản ánh sự phân chia tỷ
lệ về lượng mà còn biểu hiện khác nhau về chất của một nền kinh tế. Một nền
kinh tế trong đó công nghiệp chiếm tỷ trọng cao hơn nông nghiệp, dịch vụ cao
hơn công nghiệp và nông nghiệp cộng lại thường là nền kinh tế có năng suất
và thu nhập bình quân đầu người cao hơn một nền kinh tế có tỷ trọng công
nghiệp thấp hơn. Mức độ liên kết kinh tế giữa các bộ phận cũng là một tiêu
chuẩn đánh giá trình độ phát triển của một nền kinh tế. Trong nền kinh tế tự
cung tự cấp mối liên hệ kinh tế theo ngành và vùng yếu hơn so với nền kinh tế
thị trường [75]. Cơ cấu kinh tế được xem xét trên các mặt sau:
Cơ cấu kinh tế theo ngành, lĩnh vực cho biết tỷ trọng của từng ngành,
lĩnh vực tham gia vào cơ cấu kinh tế và mối quan hệ liên ngành giữa chúng là
những thông tin kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng. Số lượng các ngành chuyên
môn hóa và tỷ trọng của chúng trong cơ cấu kinh tế, hàm lượng công nghệ
cao cùng những mối quan hệ liên ngành của chúng là những tiêu chuẩn quan
trọng đánh giá trình độ phát triển của một nền kinh tế. Còn lĩnh vực là: lĩnh vực
nông nghiệp bao gồm các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản. Lĩnh vực công
nghiệp bao gồm các ngành khai thác mỏ, ngành chế biến, điện, ga, nước và
ngành xây dựng... Lĩnh vực dịch vụ bao gồn các ngành như thương mại, giao
thông vận tải, bưu điện, khách sạn nhà hàng, tài chính, tín dụng, y tế, giáo dục
và bảo hiểm...
Cơ cấu vùng kinh tế: Sự phân công lao động xã hội theo ngành diễn
ra trên những vùng lãnh thổ nhất định. Mỗi vùng là một bộ phận hợp thành
của nền kinh tế, nhằm bố trí các ngành sản xuất trên các vùng lãnh thổ sao
cho thích hợp để khai thác tiềm năng, thế mạnh của mỗi vùng, đồng thời làm
cho các vùng hỗ trợ bổ sung cho nhau theo nhu cầu của thị trường. Mối liên
kết kinh tế giữa các vùng cũng thể hiện trình độ phát triển của nền kinh tế
trong một quốc gia.
Cơ cấu thành phần kinh tế: Được xác định vị trí, vai trò của từng
thành phần kinh tế để đề ra chính sách phù hợp với chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội trong từng giai đoạn cụ thể, nhằm giải phóng và huy động mọi lực
lượng sản xuất vào việc phát triển kinh tế.
Cơ cấu kinh tế - tổ chức cũng là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và nâng cao hiệu quả kinh tế, nếu có một cơ cấu kinh tế thích hợp sẽ làm cho
chế độ sở hữu được thực hiện về kinh tế, làm cho lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất gắn bó, tác động qua lại với nhau, thúc đẩy kinh tế phát triển và
ngược lại, tùy theo trình độ của lực lượng sản xuất và theo yêu cầu hiệu quả
kinh tế mà các đơn vị có những hình thức tổ chức khác nhau. Đây là bài học
quý báu về hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế - tổ chức hợp lý.
Sau đây là những đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế.
Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế được cấu thành bởi các bộ phận có mối quan
hệ hữu cơ với nhau và được xem xét trên hai mặt: mặt kinh tế kỹ thuật và mặt
kinh tế - xã hội.
Thứ hai: Các bộ phận trong cơ cấu kinh tế phải có quan hệ hữu cơ, tác
động qua lại làm tiền đề và hỗ trợ cho nhau phát triển như một quá trình tiến
hóa tự nhiên. Ngược lại, nếu các bộ phận ấy sắp xếp không đồng bộ, thì chẳng
khác nào như ốc vít và bù loong không ăn khớp với nhau thậm chí còn triệt
tiêu nhau, kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Thứ ba: Cơ cấu kinh tế mang tính chất khách quan. Một cơ cấu kinh tế
hợp lý được hình thành, phát triển phù hợp với các quy luật, vận động khách
quan của nền kinh tế. Con người thông qua quy luật khách quan tìm ra
phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả nhất. Ngoài ra, cơ cấu kinh
tế còn được hình thành được dựa trên các lợi thế so sánh để tạo ra sự chuyển
biến tích cực, chủ động, nhanh chóng, hiệu quả cho nền kinh tế. Chính đặc
trưng này bác bỏ thái độ chủ quan, duy ý chí khi tiến hành chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Nếu không con người sẽ phải trả giá cho sự thiếu hiểu biết đó.
Thứ tư: Cơ cấu kinh tế luôn đảm bảo mối quan hệ cân đối và đồng bộ
giữa các bộ phận kinh tế nằm trong một tổng thể bao gồm hệ thống lớn, hệ
thống vừa, hệ thống nhỏ gắn bó chặt chẽ với nhau. Song cơ cấu kinh tế không
cố định mà luôn trong trạng thái vận động và chuyển dịch theo một xu hướng
nhất định, cùng với sự biến đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội và sự tiến bộ
của khoa học - công nghệ. Mặt khác, cơ cấu kinh tế cũng phải tương đối ổn
định, không thể thường xuyên bị phá vỡ. Nếu các quan hệ tỷ lệ giữa các bộ
phận thường xuyên bị phá vỡ sẽ tạo nên tình hình lực lượng sản xuất bị kìm
hãm, quan hệ sản xuất không được củng cố.
Thứ năm: Cơ cấu kinh tế có nhiều bộ phận kinh tế khác nhau và có sự
ưu tiên khác nhau, đầu tư khác nhau, cả về vốn, công nghệ và chính sách... Sự
tồn tại của bộ phận kinh tế then chốt, mũi nhọn là xuất phát từ nguyên tắc của
lợi thế so sánh với bộ phận kinh tế khác để đạt hiệu quả kinh tế cao. Việc
phân tán vốn đầu tư ra các bộ phận kinh tế là không đạt hiệu quả kinh tế. Mặt
khác tập trung quá mức vốn đầu tư cho một bộ phận kinh tế gây nên tình
trạng mất cân đối của cơ cấu kinh tế.
Thứ sáu: Đó là một cơ cấu kinh tế mở, khi xác định cơ cấu kinh tế của
một nước không thể không xem xét trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài.
Sự phân công lao động và hợp tác quốc tế, sự thâm nhập về kinh tế giữa các
nước với nhau nói lên tính đa dạng và tính quốc tế của cơ cấu kinh tế. Nếu
xây dựng một cơ cấu kinh tế khép kín, đóng cửa sẽ không tránh khỏi, lạc điệu,
lạc lõng lạc hậu. Phải là một cơ cấu kinh tế mở, tham gia vào sự phân công
lao động hợp tác quốc tế; vừa hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, vừa
bảo vệ được độc lập tự chủ.
Thứ bảy: Cơ cấu kinh tế còn phải thể hiện được những mối quan hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa các vùng lãnh thổ, giữa các
thành phần kinh tế và giữa các ngành kinh tế. Các quan hệ đó thể hiện nội lực
của một nền kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về lượng cũng như về
chất. Cơ cấu kinh tế hợp lý phải nhằm đạt được những yêu cầu sau:
- Sử dụng tốt hơn lợi thế quốc gia, ngành, vùng.
- Khai thác tối đa các tiềm năng.
- Góp phần vào việc phát triển và ổn định nền kinh tế - xã hội.
- Kết hợp kinh tế trong nước, trong vùng với bên ngoài.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm cho kinh tế tăng trưởng và tạo ra
nhiều việc làm mới [43].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình thay đổi cấu trúc nội bộ
ngành, quy mô, vị trí và mối quan hệ giữa chúng. Quá trình đó phát triển từ
giản đơn đến phức tạp, theo từng nấc thang phát triển của lực lượng sản xuất
và phân công lao động xã hội. Do đó không thể một sớm một chiều xây dựng
xong một cơ cấu kinh tế hợp lý, mà đó là một quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ hiệu quả kinh tế thấp
sang hiệu quả kinh tế cao theo những yêu cầu khách quan của sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay
chậm còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố con người có ý nghĩa
quyết định. Bởi vì con người là chủ thể định ra các giải pháp, cơ chế chính
sách và cơ chế quản lý thích ứng, để định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đúng hướng. Do đó cần khắc phục mọi sự nóng vội hoặc bảo thủ
trì trệ, mà phải trên cơ sở nhận thức, nắm bắt các quy luật vận động khách
quan, để tác động theo đúng mục tiêu đã được hoạch định [55].
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình thay đổi và tích
lũy về lượng đến một mức độ nhất định dẫn đến thay đổi về chất, làm cho cơ
cấu kinh tế cũ chuyển thành cơ cấu kinh tế mới.
1.1.2. Khái niệm cơ cấu kinh tế công nghiệp
Cơ cấu kinh tế công nghiệp là một phạm trù kinh tế bao gồm các
ngành công nghiệp. Các ngành công nghiệp hợp thành hệ thống công nghiệp
được phân loại theo nhiều phương pháp khác nhau: Có thể phân loại thành
các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất (CNA) và các ngành công
nghiệp sản xuất tư liệu tiêu dùng (CNB); hoặc phân loại thành nhóm các
ngành công nghiệp như: công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế
biến. Trong cơ cấu ngành lại được hình thành các phân ngành theo chuyên
môn hóa, chẳng hạn như ngành khai khoáng, ngành luyện kim màu, ngành
luyện kim đen, ngành công nghiệp dệt và ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm. Mặt khác căn cứ vào tính chất giống nhau hoặc về công dụng cụ thể
của sản phẩm sản xuất ra, hoặc về phương pháp công nghệ và thiết bị máy
móc, hoặc nguyên liệu chế biến, công nghiệp được phân thành các ngành
chuyên môn (rộng và hẹp) [80].
Ngành chuyên môn rộng là ngành công nghiệp mang tầm bao quát
rộng cung cấp sản phẩm cho ngành chuyên môn hóa hẹp như: điện năng, công
nghiệp nguyên liệu, công nghiệp hóa chất...
Ngành chuyên môn hóa hẹp là do sự phát triển của phân công lao
động xã hội, từ những ngành chuyên môn hóa rộng hình thành và phát triển
nhiều ngành công nghiệp chuyên môn hóa hẹp hơn, như cơ khí nông nghiệp,
cơ khí giao thông vận tải, cơ khí dệt, cơ khí chính xác... Số lượng, trình độ và
tính chất phát triển của các ngành công nghiệp chuyên môn hóa hẹp phản ánh
trình độ, tính chất phát triển của nền kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng
của mỗi nước.
Như vậy: Cơ cấu kinh tế công nghiệp là một tổng thể các mối quan hệ
kinh tế, các bộ phận kinh tế trong khu vực công nghiệp, có mối quan hệ hữu
cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng và mặt chất là một thế
trận kinh tế thể hiện mối quan hệ nội tại giữa các ngành chuyên môn hóa
được bố trí hợp lý về không gian và thời gian, phát huy được lợi thế so sánh
tạo ra thế và lực cho nền kinh tế quốc dân tăng trưởng và phát triển ổn định,
bền vững.
Cơ cấu kinh tế công nghiệp thường được xem xét trên các mặt chủ yếu
sau:
Một là: Cơ cấu ngành kinh tế - kỹ thuật là sự sắp xếp và tổ chức các
bộ phận hợp thành của ngành kinh tế kỹ thuật theo những quan hệ tỷ lệ nhất
định. Hiện nay, có nhiều cách phân loại thông thường chia ra: các ngành có
kỹ thuật cao như kỹ thuật điện tử, sinh học, vật liệu xây dựng mới, năng
lượng mới, thông tin quang học; các ngành truyền thống như chế tạo máy,
luyện kim đen, luyện kim màu, dệt...
Hai là: Cơ cấu thành phần kinh tế, phản ánh sự tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh, của các thành phần kinh tế. Việc xác định cơ cấu các
thành phần kinh tế một cách hợp lý, cho phép phối hợp các yếu tố của quá
trình sản xuất (lao động, đất đai, cơ sở vật chất - kỹ thuật...) một cách tốt nhất
nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Ba là: Cơ cấu công nghệ là tổng thể các mối quan hệ giữa các bộ phận
hợp thành gắn với vị trí, trình độ kỹ thuật công nghệ, quy mô, tỷ trọng tương
ứng với từng bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận gắn với điều
kiện, không gian và thời gian trong từng giai đoạn phát triển nhất định nhằm đạt
được mục tiêu kinh tế đã được hoạch định. Công nghệ là điều kiện cơ bản cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp. được hiểu rộng hơn nhiều so với
cách hiểu trước kia. Công nghệ không chỉ là phương tiện, thiết bị do con
người sáng tạo ra mà còn là các bí quyết, biến các nguồn lực sẵn có thành sản
phẩm [7].
Bốn là: Cơ cấu vùng lãnh thổ là sự xác định cơ cấu kinh tế công
nghiệp trên vùng lãnh thổ của đất nước và xây dựng những căn cứ để xác định
địa điểm các doanh nghiệp công nghiệp cho phù hợp, sử dụng có hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên và nhân lực của từng vùng lãnh thổ. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế vùng lãnh thổ phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của
vùng đó, từ vùng kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp, sang vùng kinh tế
sản xuất hàng hóa, hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế vùng theo hướng ngày càng đi sâu chuyên môn hóa và tập
trung hóa, hình thành những vùng kinh tế trọng điểm, những khu công nghiệp
tập trung có kỹ thuật tiên tiến để sản xuất hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao,
khai thác một cách đầy đủ mọi tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn và sức
lao động của vùng. Mặt khác cần kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế vùng
với củng cố quốc phòng - an ninh.
Năm là: Cơ cấu tái sản xuất công nghiệp là quá trình tái sản xuất ra
một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội, tức là quá trình tạo ra sản phẩm công
nghiệp cho xã hội bao gồm: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, trong đó tư
liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động giữ vai trò chủ đạo. Cơ cấu tái sản
xuất là điều kiện tồn tại và phát triển của mọi hình thái xã hội. Nó được thể
hiện trên ba mặt sau:
- Tái sản xuất của cải vật chất là điều kiện tiên quyết nhất.
- Tái sản xuất lực lượng lao động được biểu hiện không ngừng tăng
lên về số lượng, chất lượng lao động.
- Tái sản xuất quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên ba
mối quan hệ cơ bản: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ về tổ chức
quản lý; quan hệ về phân phối sản phẩm). Mặt khác, cơ cấu tái sản xuất công
nghiệp phải thực hiện tốt trong bốn khâu (sản xuất - phân phối - trao đổi và
tiêu dùng), đảm bảo cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa đầu vào và đầu ra.
Từ những vấn đề cơ bản của cơ cấu kinh tế công nghiệp nói trên, cơ cấu kinh
tế công nghiệp có đặc trưng cơ bản sau:
Đặc trưng cơ bản cơ cấu kinh tế công nghiệp.
Ngoài những đặc trưng của cơ cấu kinh tế nói chung (trang 15, 16 của
luận án), cơ cấu kinh tế công nghiệp còn có những điểm riêng như sau:
- Cơ cấu kinh tế công nghiệp có mối liên hệ giữa các ngành công
nghiệp chuyên môn hóa hợp thành, ngày càng tinh vi, phức tạp và chặt chẽ,
bởi chuyên môn hoá ngày càng cao, phân công lao động ngày càng sâu. Sản
phẩm đầu ra của ngành này là đầu vào của ngành khác. Trong điều kiện kinh
tế thị trường, mối quan hệ cân đối đó phải được thông qua quan hệ kinh tế
"mở", xuất để nhập, nhằm thực hiện cân đối trong sự phát triển. Tính đa dạng
phong phú và tính quốc tế của cơ cấu kinh tế thể hiện rõ nét, nổi bật ở cơ cấu
kinh tế công nghiệp.
- Cơ cấu kinh tế công nghiệp ở trong trạng thái vận động và biến đổi
mạnh và nhanh hơn nhiều so với các ngành khác, nhất là cơ cấu kinh tế nông
nghiệp. Trong giai đoạn cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ,
giai đoạn bùng nổ thông tin và nhất là công nghệ cao, việc xuất hiện các
ngành công nghiệp mới mũi nhọn đã làm dịch chuyển mạnh cơ cấu kinh tế,
tạo ra sự phát triển nhảy vọt trong lực lượng sản xuất và thay đổi cách tổ chức
quản lý.
- Cơ cấu kinh tế công nghiệp có quan hệ hữu cơ với các ngành khác và
giữ vị trí quan trọng, góp phần định hướng cho việc phát triển nền kinh tế
quốc dân. Vì vậy cơ cấu kinh tế công nghiệp là một nội dung quan trọng của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế công nghiệp hợp lý sẽ
tận dụng và phát huy được các nguồn lực của đất nước, đáp ứng tốt mọi nhu
cầu với chi phí ít nhất là phương tiện quan trọng để thực hiện có hiệu quả các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Nếu bố trí cơ cấu kinh tế công nghiệp sai,
không tuân thủ yêu cầu quy luật khách quan thì sẽ không có cơ sở để giải
quyết các vấn đề trọng yếu để phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
công nghiệp
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế công nghiệp
nói riêng, đều tuân thủ những xu hướng chung. Song không có nghĩa là giống
nhau đối với mọi vùng kinh tế, mà nó còn chịu sự tác động của các điều kiện
tự nhiên và kinh tế - xã hội. Các nhân tố đó gắn bó với nhau tạo thành một hệ
thống, chúng có thể thúc đẩy quá trình đó theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
Vì vậy khi xác định cơ cấu kinh tế công nghiệp cần phân tích các nhóm nhân
tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó [80].
Một là: Nhóm nhân tố tự nhiên bao gồm: vị trí địa lý, địa hình tài
nguyên thiên nhiên khoáng sản, nước, rừng, hệ sinh thái... Nhóm này có ý
nghĩa quan trọng trong việc hình thành chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp.
Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố của tự nhiên mà con người có
thể sử dụng, khai thác và chế biến để tạo ra sản phẩm vật chất. Nó là yếu tố
rất quan trọng quyết định đến cơ cấu sản xuất, mức độ chuyên môn hóa và sự
phân bố lực lượng sản xuất.
Tài nguyên khoáng sản, nguồn nước và tài nguyên động thực vật đã
ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển cơ cấu ngành công nghiệp. Bởi vì
theo C. Mác: "Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm
hữu lấy những đối tượng của tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất
định và thông qua hình thái đó" [46]. Với trình độ phát triển cao của lực
lượng sản xuất, con người tăng quyền lực của mình với tự nhiên, nhưng
không thể tách rời điều kiện tự nhiên. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú, dồi dào được đưa vào khai thác, sử dụng có hiệu quả sẽ tác động mạnh
mẽ và trực tiếp đến cơ cấu kinh tế công nghiệp và sự phát triển của nó. Mặt
khác tiến bộ khoa học - kỹ thuật vừa cho phép phát huy những thuận lợi của
tài nguyên thiên nhiên vừa khắc phục những hạn chế của điều kiện tài nguyên
thiên nhiên ảnh hưởng tới cơ cấu công nghiệp.
Xu hướng đặc trưng của nó là tiết kiệm đến mức tối đa tất cả các
nguồn của cải (tài nguyên thiên nhiên, môi trường, sức lực con người, trí
tuệ..), đề cao chất lượng, hiệu quả và tôn trọng nhân cách sáng tạo của con
người [86]. Có thể sản xuất vật liệu nhân tạo, tổng hợp thay thế vật liệu tự
nhiên, nhờ vậy đã làm phong phú các mặt hàng công nghiệp, tạo điều kiện
cho công nghiệp phát triển nhanh, bền vững. Song trong quá trình hình thành
cơ cấu sản xuất công nghiệp, con người phải biết tôn trọng quy luật phát triển
tự nhiên, đồng thời phải tái tạo và làm phong phú môi trường tự nhiên. Đối
với những tài nguyên không có khả năng tái sinh thì cần có kế hoạch khai
thác đảm bảo phát triển kinh tế công nghiệp trước mắt và lâu dài. Đối với
những tài nguyên có khả năng tái sinh thông qua lao động của con người thì
cần có kế hoạch kết hợp giữa khai thác, bảo vệ và phát triển. Đối với những
tài nguyên tái sinh vô hạn trong thiên nhiên như các nguồn năng lượng mặt
trời, sức gió, thủy triều,... cần có phương pháp nghiên cứu đưa vào sử dụng.
Ngoài ra, chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp chịu sự tác động rất
lớnvào vị trí địa lý, khí hậu, tự nhiên, thời tiết. Vì nhóm này có tác động lớn
tới việc hình thành các ngành công nghiệp, đặc biệt là những ngành công
nghiệp chế biến vì nhóm này phụ thuộc vào nguyên liệu của những vùng
chuyên canh. Mặt khác vị trí địa lý còn tạo điều kiện thuận lợi về cảng sông,
cảng biển, đường giao thông có điều kiện mở rộng giao lưu hàng hóa với các
vùng xung quanh và quốc tế.
Hai là: Nhóm nhân tố kinh tế - kỹ thuật.
Nhân tố vốn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, đặc biệt là chuyển
dịch cơ cấu công nghiệp, đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn. Có hai nguồn vốn cơ
bản, đó là vốn trong nước và vốn nước ngoài. Tích tụ và tập trung vốn trong
nước là nhân tố quyết định thành công của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế công
nghiệp: Nó như chìa khóa để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế quốc dân. Vốn có tầm quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
công nghiệp như máu trong cơ thể con người, do đó cần phải đẩy mạnh quá
trình tích tụ và tập trung vốn, đặc biệt là vốn trong nước [38]. Vốn nước ngoài
là rất quan trọng nhất là trong thời kỳ đầu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
công nghiệp, có hai loại:
Thứ nhất: Vốn đầu tư gián tiếp (ODA) là các khoản viện trợ, cho vay
ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức của liên hiệp quốc, các tổ chức phi
chính phủ v.v... Nguồn vốn này thường được tập trung vào ngân sách chính
phủ dùng để đầu tư hoặc cho vay, các khoản viện trợ thường dưới dạng máy
móc, thiết bị, công trình, chuyên gia.
Thứ hai: Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) là những khoản đầu tư do các
hãng nước ngoài trực tiếp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Họ trực tiếp quản
lý sản xuất kinh doanh, trực tiếp chịu lỗ, lãi. FDI không vay nên không lo trả
nợ. Đó là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng giúp quá trình chuyển giao công
nghệ, đào tạo kỹ thuật, tìm thị trường tiêu thụ hàng hóa, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nói chung và cơ cấu công nghiệp nói riêng theo hướng sản xuất hàng
hóa, cơ khí hóa, hiện đại hoá, tham gia vào sự phân công lao động quốc tế và
có sản phẩm cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Để xây dựng được những cơ sở công nghiệp hiện đại, kỹ thuật công
nghệ cao, tạo ra nhiều mặt hàng chủ lực có sức cạnh tranh mạnh, tạo sức bật
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá hoá đất nước, thì nhất thiết phải
cần đến nguồn vốn đầu tư lớn. Kinh nghiệm nhiều nước công nghiệp đã cho
ta bài học đó, nhưng sẽ không đầy đủ nếu không nhấn mạnh đến hiệu quả sử
dụng vốn, hiệu quả đầu tư và cơ chế quản lý vốn tốt [41], thì cũng như "tiền
vào nhà khó như gió vào nhà trống" mà thôi.
Nhân tố thị trường: Thị trường vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sản xuất nói chung và của chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp nói riêng.
Cần xuất phát từ nhu cầu thị trường để xác định cơ cấu mặt hàng, cơ cấu
ngành thích hợp, bảo đảm sự gắn bó giữa sản xuất và thị trường để nâng cao
hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Ví dụ: Do nhu cầu đòi hỏi phát triển của
lực luợng sản xuất trong nông nghiệp, nên đã tạo ra thị trường trong nước rất
lớn cho công nghiệp. Công nghiệp phải phát triển những ngành, những mặt
hàng theo quy mô thích hợp với trình độ của sản xuất trong xã hội, hợp với thị
hiếu và sức mua của người dân. Chẳng hạn, phát triển máy cơ khí nhỏ trang bị
cho gia đình, phát triển mạng lưới công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy, hải
sản kết hợp sơ chế, với tinh chế sản xuất hàng tiêu dùng trao đổi với nông
dân, phát triển gia công xuất khẩu, tận dụng lao động thừa ở nông thôn. Nếu
áp dụng một cách máy móc, hình thức, chủ quan duy ý chí bất chấp nhu cầu
của thị trường trong bố trí cơ cấu công nghiệp sẽ gây ra tác hại to lớn và lâu
dài cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp và nền kinh tế. Thị trường có
tác động rất lớn đến việc hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế công nghiệp.
Thông qua quan hệ cung cầu trên thị trường mà trong đó giá cả là tín hiệu
thúc đẩy hoặc ngăn cản chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp. Vì vậy việc
tạo ra thị trường, mở rộng thị trường là điều kiện để thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế công nghiệp phát triển mạnh mẽ [77].
Nhóm khoa học - kỹ thuật và công nghệ: Khoa học và công nghệ
được xác định là động lực trực tiếp của chuyển dịch cơ cấu kinh tế công
nghiệp. Nó có ảnh hưởng sâu sắc tới sự hình thành và biến đổi của cơ cấu
kinh tế. C. Mác đã chỉ rõ: "Do tổ chức quá trình lao động và phát triển kỹ
thuật một cách mạnh mẽ làm đảo lộn toàn bộ cơ cấu kinh tế xã hội" [45].
Ngày nay, "cục diện thế giới đang trải qua những biến đổi nhanh chóng và sâu
sắc. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, đặc biệt là cách mạng thông tin, đang tạo ra sự biến đổi về chất chưa
từng có trong lực lượng sản xuất, đưa nhân loại từng bước quá độ sang một
trình độ văn minh mới - văn minh trí tuệ [61].
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã làm thay đổi các ngành kinh tế - kỹ
thuật, trong ngành công nghiệp đang diễn ra xu hướng sau một số ngành công
nghiệp mới đại diện cho kỹ thuật mới có tốc độ phát triển cao kích thích sự
phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân và thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, làm cho kiến thức của nhiều
ngành khoa học như: vật lý, hóa học, sinh học, vật liệu mới... như lực lượng
đi tiên phong trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp.
Khoa học - kỹ thuật đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế nói chung và cơ
cấu kinh tế công nghiệp nói riêng. Hiện nay đang có xu hướng chú trọng phát
triển các ngành nghề có kỹ thuật công nghệ cao, sử dụng ít lao động và đi vào
tự động hóa như: điện tử - bán dẫn, máy tính, viễn thông... Các công nghệ cao
tạo ra các sản phẩm mới, đặc biệt là sản phẩm phục vụ tinh thần và các sản
phẩm hoàn toàn mới được hình thành từ các ngành kinh tế mũi nhọn như:
Công nghệ thông tin là nhân lõi của cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, nó đã làm biến đổi về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là
thành phần chủ yếu trong sản phẩm. Công nghệ thông tin được bao gồm từ
phần cứng như chế tạo các mạch vi điện tử, các máy vi tính, máy siêu tính,
mạng máy tính, các dây chuyền sản xuất tự động hóa...
Công nghệ sinh học là bước đột phá vào thế giới đầy bí hiểm của sự
sống, đã tạo ra khả năng vô hạn cho việc sản xuất các sản phẩm phục vụ nhu
cầu con người từ lương thực, thực phẩm đến thuốc chữa bệnh và các vật liệu
cho công nghiệp nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Cùng
với công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và các công nghệ quan trọng
khác như: công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ
hàng không - vũ trụ... đã định dạng thế giới hiện đại. Nhờ có khoa học - công
nghệ phát triển cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghệ và cơ cấu công nghiệp thế
giới đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, làm cho sự tăng trưởng kinh tế
thế giới đạt tới mức chưa từng có.
Tiến bộ của khoa học - kỹ thuật một mặt tạo ra những nhu cầu mới,
mặt khác tạo ra khả năng mới để hình thành phát triển cơ cấu kinh tế công
nghiệp và thúc đẩy cơ cấu nhu cầu, hình thành những ngành sản xuất mới tạo
ra khả năng đáp ứng nhu cầu mới. Khoa học kỹ thuật phát triển càng cao thì
mối liên hệ giữa các ngành công nghiệp chuyên môn hóa ngày càng sâu sắc,
phức tạp có nhiều ngành hình thành và phát triển. Cuộc cách mạng khoa học
công nghệ có khả năng tạo ra sự thay đổi "cấu trúc sản xuất" của thế giới tương
lai, trong đó thế giới đang chuyển sang "xã hội liên kết kiểu nối mạng" [29].
Ở nước ta, đây là thời cơ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp, cần tận
dụng những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
nhất mà không tốn nhiều chi phí để tự phát triển. Do đó, tác động của khoa
học công nghệ sẽ làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp theo hướng
hiện đại và hiệu quả cao.
Hiện nay loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức và tri thức
ngày càng trở thành yếu tố quan trọng hơn cả vốn và lao động. Cơ cấu kinh tế
tri thức sẽ tác động mạnh mẽ đến thay đổi cơ cấu kinh tế công nghiệp như: tỷ
lệ giá trị gia tăng trong công nghiệp tăng lên cao nhanh chóng; sản xuất công
nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất và các khu công nghiệp phát
triển mạnh; công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực dịch
vụ, v.v...
Ba là: Nhóm chính trị - xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp là một quá trình diễn ra trong
những hoàn cảnh cụ thể và chịu sự tác động của môi trường chính trị - xã hội
nhất định. Được biểu hiện qua các thể chế nhà nước, các chính sách dân số,
lao động, tập quán xã hội, văn hóa bất thành văn và con người tác động đến
xu hướng, bước đi và tính chất của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói
chung và cơ cấu kinh tế công nghiệp nói riêng.
Nhân tố con người: Các quy luật kinh tế chỉ hoạt động và phát sinh tác
dụng thông qua sự hoạt động của con người và ngược lại sự hoạt động của
con người phải tuân thủ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan. Chính vì
vậy, con người có vai trò quyết định trong việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế công nghiệp. Con người đó phải được chuẩn bị tốt về kiến thức văn
hóa, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất
kinh doanh và về đạo đức phẩm chất cách mạng trong điều kiện kinh tế thị
trường. Trình độ văn hóa của một dân tộc là một nhân tố cơ bản để tạo ra các
yếu tố về chất lượng của lao động kỹ thuật và công nghệ, trình độ quản lý
v.v... do đó, có tác động mạnh mẽ đến cơ cấu kinh tế công nghiệp.
Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
phải coi việc giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát
triển. Trong tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Trung ương hai (khóa VIII) khi đề
cập tới sự tiến bộ của giáo dục đã đề cập tới văn bản mà UNESCO khẳng định:
Không có một sự tiến bộ và thành đạt nào có thể tách khỏi
sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục của quốc gia đó. Và
những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả
năng cần thiết để làm giáo dục một cách có hiệu quả thì số phận của
quốc gia đó xem như đã an bài và đó còn tồi tệ hơn cả sự phá sản [27].
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII cũng chỉ rõ "Giáo dục là quốc
sách hàng đầu"[27]. Giáo dục phải đào tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng bộ
bao gồm các lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học - kỹ
thuật, cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ kinh tế, công nhân kỹ thuật... Việc
xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được tiến
hành với tốc độ và quy mô thích hợp đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt trong kỷ nguyên văn minh
tin học ngày nay, nguồn nhân lực thực sự mạnh khi khai thác và sử dụng được
tiềm năng trí tuệ của nó. Nguồn lực con người cần phải đặc biệt nhấn mạnh
đến năng lực trí tuệ và tay nghề [59]. Do đó, việc đào tạo bồi dưỡng phải đi
đôi với bố trí sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo, phát huy đầy đủ
khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của họ để tạo ra năng suất
chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Môi trường chính trị - xã hội: Ngày nay, người ta thừa nhận môi trường
chính trị - xã hội là một nhân tố góp phần quyết định vào phát triển kinh tế
quốc dân nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp nói riêng.
Môi trường chính trị được thể hiện qua các mục tiêu chiến lược,
nguyên tắc tổ chức quản lý, luật pháp, các chế độ chính sách v.v... tạo điều
kiện cho việc đổi mới cơ cấu và công nghệ phù hợp với những điều kiện thực
tế nhằm tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển cao theo hướng tiến bộ.
Sự ổn định tình hình chính trị và môi trường trong nước là một yếu tố
hết sức quan trọng ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế
công nghiệp nói riêng. Tình hình chính trị ổn định gắn liền với những đổi mới
kinh tế của đất nước, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Trong văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường" [26].
Mặt khác coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất
lượng hợp tác với các nước ASEAN, cùng xây dựng Đông Nam Á thành một
khu vực hoà bình không có vũ khí hạt nhân, ổn định, hợp tác cùng phát triển.
Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập
dân tộc, các nước đang phát triển, thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát
triển và các tổ chức quốc tế. Tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và hợp tác ngày
càng rộng rãi trên thế giới.
Trên tinh thần đó, môi trường chính trị - xã hội hết sức quan trọng,
đặc biệt là vai trò của nhà nước trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế công
nghiệp và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhà nước không đơn
thuần là người trọng tài, người định hướng, người cầm cân nảy mực, mà còn
là người tác động trực tiếp tới quá trình kinh tế. Khi nhấn mạnh vai trò tất yếu
và hết sức quan trọng của nhà nước trong quản lý kinh tế, ta không chỉ khẳng