Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 12 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>c) Hạn chế sàn xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng”.</small>
<b><small>Tóm tắt: Bài</small></b> <i>viết phản tích về sức mạnhthị trường đáng kể và hành vihạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu tri tuệ. Qua đó, bàiviếtchỉ ranhững bấtcập trong việc đánh giá tính viphạm pháp luật cạnh tranh của một hành vi/thỏa thuậncụ thểliên quan đếnquyềnsở hữu trí tuệ trongpháp luật ViệtNam và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.</i>
<b><small>Abstract: The</small></b> <i>articleanalyzessubstantial market power and competitionrestrictions relatingto intellectual property rights. Thereby, itpointsoutshortcomingsin the legal assessment ofcertain acts/agreements in lightof Viet Nam’s competitionlawsandintellectual propertyrightsand makes proposalsfor legal improvement.</i>
<b><small>1. Đặt vấn đề</small></b>
Sức mạnh thị trường đáng kể
<i>(significant/substantialmarket power)</i> là một thuật ngữ mới được quy định tại khoản Ị 1 Điều 24 Luật Cạnh tranh năm 2018: Ị “<i>Doanh nghiệp được coi làcỏ vị trí thống</i>
<i>lĩnh thị trường nếucó sức mạnh thị trườngđáng kế hoặc cỏ thị phầntừ Ỉ0°/o trởlêntrênthị trường liên quan”.</i>
Do đó, việc xác định một chủ thể có đang sở hữu sức mạnh thị trường đáng kể hay không là căn cứ quan trọng để đánh giá xem hành vi của chủ thể đó có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không. Cụ thể, một chủ thể thực hiện các hành vi được liệt kê tại Điều 27 của Luật Cạnh tranh năm 2018 sẽ bị xem là đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nếu bản thân doanh nghiệp đó có sức mạnh thị trường đáng kể.
Có nhiều yếu tố để xem xét, đánh giá xem một doanh nghiệp có đang sở hữu sức mạnh thị trường đáng kể hay khơng, trong đó bao gồm cả quyền sở hữu, quyền sử đụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, một doanh nghiệp nếu nắm giữ các sáng chế cơ bàn hay các quyền sở hữu trí tuệ
được xem là điều kiện, cơ sở thiết yếu, cần thiết để gia nhập thị trường đối với một hoạt động sản xuất kinh doanh thì được xem là có sức mạnh thị trường đáng kể.
Cách tiếp cận này sẽ khơng khuyến khích được hoạt động đầu tư, sáng tạo tại Việt Nam. Bởi lẽ, khi một chủ thể bỏ vốn đầu tư để có được những kết quả nghiên cứu nổi bật, tạo lợi thế cạnh tranh trong quá trình gia nhập thị trường và phát triển kinh doanh, sản xuất thì có thể bị xem là đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh khi thực thi quyền của mình trên thực tế. Trong trường hợp này, với quy định hiện hành, việc chủ thể nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ cơ bản thực hiện hành vi từ chối chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ của mình cho chủ thể khác là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh1. Hay nói cách khác, hành vi từ chối chuyển giao quyền sờ hữu trí tuệ sẽ bị xem là hành vi vi phạm mặc nhiên theo quy định
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><i><b><small>NHÀ NƯỚC VÀ PHẢPLUẬTSÔ 3/2022</small></b></i>
của pháp luật cạnh tranh. Rõ ràng quy định như vậy là bất hợp lý, không xem xét đến yểu tố độc quyền hợp pháp của quyền sở hữu trí tuệ.
<b><small>2. Sức mạnh thị trường đáng kể dựa trên quyền sở hữu trí tuệ</small></b>
Mặc dù là một yếu tố quan trọng để đánh giá tính bất hợp pháp của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của chủ thể theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018, tuy nhiên, ngay trong quy định của luật cũng như các văn bản hướng dẫn, các chuyên gia không đưa ra một định nghĩa rõ ràng về sức mạnh thị trường đáng kể mà chỉ đưa ra các tiêu chí cần thiết nhằm xác định sức mạnh thị trường đáng kể.
Theo đó, sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp được xác định dựa vào một số yếu tố sau đây (khoản 1 Điều 26 Luật Cạnh tranh năm 2018):
<i>...đ) Lợithế vềcông nghệ, hạtầngkỹthuật;</i>
<i>e)Quyềnsở hữu, nắm giữ, tiếp cận cơ sở hạtầng;</i>
<i>g)Quyền sở hữu, quyền sử dụng đoitượng quyền sở hữu trí tuệ;...</i>
Các yếu tố trên được hướng dẫn cụ thể tại Điều 12 Nghị định số 35/2020/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh như sau:
<i>...đ) Lợithế vềcông nghệ, hạ tầng kỹthuật củadoanh nghiệp, nhỏmdoanh nghiệp được đánhgiả căn cứ vào ưu thế vềcông nghệ, hạ tầng kỹ thuậtcủa doanh nghiệp, nhỏm doanhnghiệp đang sở hữu hoặcsử dimg cho sản xuất, kinhdoanh so với đôi thủ cạnh tranh;</i>
<i>e) Quyền sở hữu,nắmgiữ, tiếp cận cơ sởhạ tầng được đảnh giá đểxác định ưuthếcủa doanh nghiệp, nhóm doanhnghiệp so với đôithủ cạnh tranh căncứ vàomức</i>
<i>độthiết yếu, khả năngtiếp cận cơ sở hạ tầng cho sản xuất, kinhdoanh hàng hóa,dịchvụ;</i>
<i>g)Quyền sởhữu,quyền sử dụng đổitượng quyền sở hữu trí tuệđượcđảnhgiảđế xácđịnhưu thếcủa doanhnghiệp, nhómdoanhnghiệp so với đốithủ cạnh tranh căncứ vào mứcđộ thiết yếu,khả năngtiếp cận đốitượngquyềnsờ hữu trítuệcủa doanh nghiệp trong hoạtđộng sản xuất, kinhdoanhhàng hóa, dịch vụ;...</i>
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nội hàm của thuật ngữ sức mạnh thị trường đáng kể. Tại Hoa Kỳ, theo quan điểm của Tòa án tối cao, sức mạnh thị trường đáng kể hay vị trí thống lĩnh là khả năng doanh nghiệp có sức mạnh để có thể tăng và duy trì mức giá sản phẩm hoặc dịch vụ của họ cao hon giá được xác định trong điều kiện thị trường cạnh tranh thông thường2. Tại Anh, Cơ quan thương mại công bằng (Office of Fair Trading - OFT) xác định: Một chủ thể kinh doanh trên thị trường khơng thể đạt được vị trí thống lĩnh trừ khi nó nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể3. Đồng thời theo cơ quan này, sức mạnh thị trường đáng kể hay thống lĩnh thị trường là khả năng có thể thu lợi nhuận từ việc tăng và duy trì mức giá cao hơn so với mức giá trên thị trường cạnh tranh hoặc từ việc hạn chế sản lượng hoặc chất lượng dưới mức của thị trường cạnh tranh. Còn theo Tổ chức Họp tác và phát triển kinh tế (OECD), sức mạnh thị trường đáng kể hay
<small>2 Thomas G. Krattenmaker, Robert H. Lande, Steven c. Salop, Monopoly</small><i><small> power and market power in Antitrust Law, Georgetown Law Journal, Vol. 76, </small></i>
<small>No. p. 241, 1987.</small>
<i><small>3 Office of Fair Trading, Market definition</small></i>
<i><small>understanding Competition law, lis</small></i>
<small>hing.service.gov.uk/govemment/uploads/system/upl oads/attachment_data/file/284423/oft403 .pdf, truycập ngày 03/12/2021.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">vị trí thống lĩnh là khả năng của chủ thể kinh doanh có thể tăng và duy trì giá cao hom giá được xác định trong điều kiện thị trường cạnh tranh thông thường hoặc từ việc kiểm soát sản lượng hay loại trừ cạnh :ranh để tăng giá4.
<small>4 Jeremy West, Identifying</small><i><small> dominance and its abuse, </small></i>
<small> df, !truy cập ngày 02/9/2021.</small>
<i><small>5 Phùng Văn Thành, Sức mạnh thị trường đáng kể từ lý thuyết kinh tế đến quy định của pháp luật cạnh tranh,</small></i><small> Bàn tin Cạnh tranh và người tiêu dùng, số 36/2012, tr. 22.</small>
<small>6 Phùng Văn Thành, Sức</small><i><small> mạnh thị trường đáng kế từ lý thuyết kinh tế đến quy định của pháp luật cạnh tranh,</small></i><small> Bản tin Cạnh tranh và người tiêu dùng, số 36/2012, tr. 23.</small>
Nói tóm lại, sức mạnh thị trường đáng Ỉể thường được hiểu là sức mạnh thị trường một mức độ mà doanh nghiệp nắm giữ nó hơng phải, hoặc ít phải đối mặt với áp lực éạnh tranh từ các đối thủ khác trên thị trường, hoặc ít chịu sức ép cho việc gia phập thị trường từ các đối thủ tiềm năng. Do đó, doanh nghiệp có thể hoạt động một cách độc lập, không chịu ràng buộc từ đối thủ cạnh tranh cũng như từ phía người tiêu cùng. Qua đó, giúp doanh nghiệp có khả năng gia tăng lợi nhuận từ việc tăng giá và duy trì mức giá cao hom giá đã được xác định trong thị trường cạnh tranh hoặc chất lượng dưới mức của thị trường cạnh tranh5.
Hiện nay, theo quan điểm của các nhà Ighiên cứu, đề hiểu một cách đầy đủ thì sức tiạnh thị trường đáng kể nên được xem xét dưới hai khía cạnh:
<i>(ỉ)Sứcmạnh về giả: Đó</i> là khả năng doanh nghiệp có khả năng tăng và duy trì mức giá cao hom giá thị trường hoặc hạn chế sản lượng, chất lượng thấp hom giá thị trường nhằm gia tăng lợi nhuận đạt được. Hay nói cách khác, trong trường hợp này, doanh nghiệp có sức mạnh thị trường có khả năng dễ dàng “trục lợi” khách hàng dựa trên sực mạnh, ưu thế của mình.
(2 <i>Sức mạnh loại trừ:</i> Là sức mạnh mà thơng qua đó, doanh nghiệp có khả năng vượt trội trên thị trường để có thể ngăn cản, kìm hãm; thậm chí loại trừ đối thủ cạnh tranh gia nhập vào thị trường, tác động đến cấu trúc cạnh tranh hiện có trên thị trường, từ đó có thể tăng giá.
Mục đích của pháp luật cạnh tranh là loại bỏ các hành vi hạn chế cạnh tranh nhằm xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Do đó, việc các chủ thể lạm dụng sức mạnh thị trường của mình để thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh cần được ngăn cấm nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan. Vậy nên, việc xác định liệu một doanh nghiệp cụ thể có đang nắm giữ sức mạnh thị trường hay khơng là một việc làm quan trọng nhằm đánh giá tính bất hợp pháp của các hành vi do chính doanh nghiệp đó thực hiện. Sức mạnh thị trường trước hết được biểu hiện thông qua thị phần, là yếu tố quan trọng mà cơ quan quản lý cạnh tranh cần xác định nhằm đánh giá sức mạnh thị trường đáng kể hoặc xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp6. Hay nói cách khác, việc nắm giữ quyền sở hữu, quyền sử dụng đói tượng quyền sở hữu trí tuệ không thể là căn cứ duy nhất để xác định sức mạnh thị trường của chủ thể ngay cả trong trường hợp quyền sở hữu trí tuệ đó là thiết yếu và khó có khả năng tiếp cận. Vì vậy, phần lạm dụng sáng chế trong Đạo luật Sáng chế (1988) của Hoa Kỳ sau đó đã bổ sung thêm quy định tại Điều 271, cụ thể:
<i>Điều 271(d)yêu cầu bị đơn phải chứngminh rằngngườiđượccấp bằngsáng chế cỏsức mạnh thịtrườngthayvìmặcnhiên</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><i><b><small>NHÀ NƯỞC VÀPHÁP LUẬT SÔ 3/2022</small></b></i>
<i>giả định rằng bằng sáng chế trao chochủsởhữusứcmạnh thịtrường như trước đổ1.</i>
<small>7 Thomas F. Cotter (2007), </small><i><small>Misuse,</small></i><small> Scholarship Repository University of Minnesota Law School, tr. 911.</small>
<small>8 4.V.F. Intellectual Property Issues, p. 92.9 Xem chú thích 1.</small>
<small>10 Mức thị phần được xác định dựa trên quy định tại khoản 3 Điều 24 Luật Cạnh tranh năm 2018.</small>
Thêm vào đó, hướng dẫn về Sở hữu trí tuệ của Bộ Tư pháp và ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng, <i>tàisảntrí tuệchỉlà một hìnhthức sở hữu và chủthêsở hữu các sáng chế có sức mạnh thị trườnghoặc độc quyềnchỉkhi họ kiểm soát một thị phần đángkểtrên thị trường liên quan6.</i>
Do vậy, nếu mặc nhiên cho rằng, việc sở hữu quyền sở hữu trí tuệ thiết yếu đã khiến cho chủ sở hữu có được sức mạnh thị trường đáng kể, mà không cần quan tâm đến yếu tố thị phần là quy định cứng nhắc, không phù hợp. Bởi lẽ, với quy định này, chỉ cần chủ thể đó từ chối chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ của mình cho chủ thể khác thì sẽ mặc nhiên bị xem là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh7 89 10. Điều này sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động đầu tư sáng tạo tại Việt Nam. Chúng ta cần phải thừa nhận rằng, việc nắm giữ đối tượng quyền sờ hữu trí tuệ và tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ là lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp chứ không mặc nhiên tạo nên sức mạnh thị trường đáng kể.
Vì lí do đó, theo tác giả, Luật Cạnh tranh năm 2018 và các văn bản hướng dẫn nhất thiết phải quy định rằng, yếu tố thị phần là một tiêu chí quan trọng, bắt buộc phải có bên cạnh sự cần thiết, quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ khi xác định sức mạnh thị trường đáng kể của chủ thể nắm giữ nó. Theo đó, chỉ trường hợp doanh nghiệp nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ cần thiết <i>có mức thịphầnít nhất từ 10% trởlên</i>
<i>trênthị trườngliền quanỉ(i thực hiện các hành vihạn chế cạnh tranhđược liệt kê tạiĐiều 27Luật Cạnh tranh năm 2018 mới bịxemlàchủ thể có sức mạnh thịtrường đáng kể </i>để tiếp tục thực hiện hoạt động điều tra, xem xét tính bất hợp pháp của các hành vi ấy theo nguyên tắc lập luận hợp lý; còn nếu mức thị phần thấp hơn mức này thì khơng cần thiết phải mở cuộc điều tra.
<b><small>3. Hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ</small></b>
<i><b><small>3.1. Tác động của quyền sở hữu trí tuệ đối với môi trường cạnh tranh</small></b></i>
Cạnh tranh là yếu tố quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển cùa doanh nghiệp. Có nhiều cách thức để các doanh nghiệp cạnh tranh lẫn nhau nhằm giành lấy các lợi thế cạnh tranh cho mình. Trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, các doanh nghiệp phải khai thác, tận dụng tối đa các nguồn lực hiện có để tạo ra sức mạnh tổng hợp, hướng tới phát triển ổn định và bền vững, tạo nên thương hiệu khác biệt... Đe tạo dựng được điều này, ứng dụng khoa học công nghệ rất quan trọng. Để tăng năng lực cạnh tranh phải tăng được năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Năng suất lao động và chất lượng sản phẩm phụ thuộc nhiều vào công nghệ và dây chuyền thiết bị đang sử dụng, nghĩa là yếu tố khoa học kỹ thuật.
Cùng với cách mạng công nghiệp 4.0 và thời đại của trí tuệ thơng minh, khoa học cơng nghệ nói chung và các phát minh, sáng chế nói riêng trở thành nhân tố quan trọng, tích cực thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp và phát triển kinh tế quốc gia.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><i><b><small>sứcMẠNHTHỊ TRƯỜNG...</small></b></i>
Tuy vậy, xuất phát từ bản chất đặc trưng cũng như lợi thế mà quyền sở hữu trí tuệ mang lại cho chù sở hữu, trong quá trình thực hiện quyền năng được pháp luật thừa nhận, chủ sở hữu có khuynh hướng lạm dụng cũng như kéo dài độc quyền sở hữu trí ptệ nhằm gia tăng lợi ích cho mình. Do đó, ừong mối tương quan với cấu trúc thị 1 rường, tính cạnh tranh của nền kinh tế, hoạt lộng thực thi quyền sở hữu trí tuệ ngồi tác lộng tích cực, cịn có ảnh hưởng tiêu cực tến môi trường cạnh tranh.
Trên thực tế, hoạt động thực thi quyền Sơ hữu trí tuệ trong nhiều trường hợp có thể dẫn đến tình trạng độc quyền, hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Bởi lẽ, bản chất của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là đảm bảo độc quyền của chủ sở hữu đối với tài sản trí tụệ. Vì thế, dù khơng phải là mục đích của Luật Sở hữu trí tuệ, nhưng hoạt động bảo hộ qluyền sở hữu trí tuệ ở những khía cạnh nhất định có khả năng ảnh hưởng đến sự tự do cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Tác động tiêu cực của quyền sở hưu trí tuệ có thể xuất phát từ:
<i>(1) Các quy địnhcủa pháp luật liênquanđến việc thừa nhận vàbảo vệ sựđộcquyềncủa nó</i>
Dưới góc độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tác động tiêu cực của quyền sở hữu trí tulệ đối với mơi trường cạnh tranh dựa trên chính các quy định của pháp luật có thể đựợc thể hiện trong những trường họp sau:
<i>(a) Quy định về cơ chế hết quyền đổivới quyền sở hữu trí tuệ</i>
Cơ chế hết quyền đối với quyền sở hữu trí tuệ được cả pháp luật quốc gia lẫn pháp luạt quốc tế ghi nhận vì đó là phương tiện cần thiết nhằm cân bằng quyền lợi giữa chủ sở hữu tài sản trí tuệ và người tiêu dùng, cộpg đồng nói chung. Cơ chế hết quyền đối VỚI tài sản trí tuệ quy định rằng, một khi mọt sản phẩm gắn với tài sản trí tuệ đã được
đưa vào lưu thơng bởi chính chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép, chủ sở hữu sẽ mất quyền kiểm soát và khai thác thương mại đối với sản phẩm mang tài sản trí tuệ đó. Cơ chế hết quyền có ba dạng phổ biến hiện nay được áp dụng trên thế giới:
- Cơ chế hết quyền quốc gia: Chủ sở hữu sẽ mất quyền kiểm soát và khai thác thương mại đối với sản phẩm gắn với tài sản trí tuệ đă được chính chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép đưa ra thị trường nội địa. Tuy nhiên, chủ sở hữu sẽ không mất quyền đối với các sản phẩm mang tài sản trí tuệ đã được đưa ra thị trường nước ngồi. Vậy nên, nếu một quốc gia áp dụng cơ chế này thì hoạt động nhập khẩu song songkhơng được chấp nhận.
11- Cơ chế hết quyền khu vực: Cơ chế này tương tự như cơ chế hết quyền quốc gia, tuy nhiên phạm vi địa lý mà chù sở hữu bị mất quyền kiểm soát và khai thác thương mại đối với sản phẩm mang tài sản trí tuệ là trong một khu vục bao gồm một số quốc gia nhất định (ví dụ như thị trường của Liên minh châu Âu). Nhập khẩu song song trong khu vực này cũng không được chấp nhận.
- Cơ chế hết quyền quốc tế: Cơ chế này ghi nhận rằng, chủ sở hữu quyền sẽ mất đi quyền kiểm soát và khai thác thương mại đổi với sản phẩm mang tài sản trí tuệ đã được chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép đưa ra thị trường trong nước hoặc nước
<i><small>11 Nhập khẩu song song là việc tổ chức, cá nhản nhập khẩu sản phẩm do chinh chủ sở hữu hoặc tổ chức, cá nhân được chuyến giao quyển sử dụng, kế cả chuyển giao quyền sử dụng theo quyết định bắt buộc, người có quyền sử dụng trước đối tượng sở hữu công nghiệp đã đưa ra thị trường trong nước hoặc nước ngoài một cách hợp pháp, mặc dù không được sự đồng ý của chủ thế quyền sở hữu công nghiệp.</small></i><small> Điều 18 Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điêu của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu cơng nghiệp.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><i><b><small>NHÀ NƯỚC VÀ PHẢP LUẬT SƠ 3/2022</small></b></i>
ngồi. Trong trường hợp này, nhập khẩu song song là hoàn toàn được phép.
Như vậy, mặc dù thuyết hết quyền đối với tài sản trí tuệ có xuất phát điểm nhằm hạn chế sự độc quyền thái quá của chủ sở hữu, gián tiếp bảo vệ quyền tự do cạnh tranh, nhưng vấn đề tác động đến môi trường cạnh tranh vẫn xuất hiện khi một quốc gia không áp dụng cơ chế hết quyền quốc tế, mà thay vào đó là cơ chế hết quyền quốc gia hoặc hết quyền khu vực.
<i>(b) Hạnchế cạnh tranhthông qua việc ngăn cảncác nghiền cứuphát triển tiếp theo</i>
Trên thực tế, Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành của Việt Nam có quy định bắt buộc phải chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho một người khác trong trường hợp người đó cần vận dụng sáng chế đang được bảo hộ (sáng chế cơ bản) để nghiên cứu tạo ra một sáng chế mới (sáng chế phụ thuộc). Tuy nhiên, trường hợp này chỉ có thể diễn ra nếu người tạo ra sáng chế phụ thuộc chứng minh được sáng chế của mình ‘7ạơ ra <i>mộtbướctiến quan trọngvề kỹthuậtso với sáng chế cơbản và có ýnghĩakinhtế lớn” </i>như yêu cầu của Điều 137 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành. Vấn đề là, nếu một người chỉ tạo ra được những sáng chế mới, mặc dù có cơ chế hoạt động khác với sáng chế cơ bản, có khả năng cạnh tranh ngang bằng hoặc thậm chí cao hơn (nếu như sáng chế mới có cùng kênh phân phối khai thác thương mại với sáng chế cơ bản), nhưng khơng mang tính đột phá và giá trị kinh tế lớn thì người đó khơng thể buộc chủ sở hữu sáng chế cơ bản chuyển giao quyền sử dụng sáng chế. Đây cũng là một yểu tố tăng độc quyền cho chủ sở hữu sáng chế và làm giảm tính cạnh tranh trên thị trường.
<i>(2) Hành vi lạm dụng quyền sở hữutrítuệcủachủ sởhữu</i>
Tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh của quyền sở hữu trí tuệ cịn có thể
xảy ra bởi ý chí chủ quan của chính chủ sở hữu thơng qua các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc các hành vi lạm dụng quyền sờ hữu trí tuệ gây hạn chế cạnh tranh.
Dưới góc độ điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh, việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu sẽ bị xem là vi phạm nếu rơi vào một trong 3 nhóm:
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh;- Lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền;
- Hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh.Tuy nhiên, liên quan đến sức mạnh thị trường đáng kể gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ dưới góc độ cạnh tranh là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền gây cản trở cạnh tranh; hay nói cách khác, là hành vi lạm dụng quyền của chủ sở hữu. Theo đó, chủ sờ hữu quyền sở hữu trí tuệ có hành vi cố gắng mở rộng việc khai thác vượt quá giới hạn được cho phép bởi pháp luật sở hữu trí tuệ và gây hạn chế cạnh tranh.
Đây không phải là việc làm dễ dàng, nó cần phải có các quy định rõ ràng, tạo căn cứ để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng khi có những vụ việc cụ thể diễn ra trên thực tế12 *.
<small>12 Herbert Hovenkamp (2005), IP And</small><i><small> AntitrustPolicy: A Brief Historical Overview,</small></i><small> University ofIowa Legal Studies Research Paper Number 05-31,tr. 3.</small>
<i><b><small>3.2. Xác định hành vi lạm dụng quyển sở hữu tri tuệ</small></b></i>
Việc xem xét nhằm chứng minh hành vi của chủ thể là kết quả của lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện dựa trên học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ (A misuse doctrine).
Được thừa nhận và phát triển bời Tòa án tại Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ XX, học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ được đề cập đến như một cách thức bảo vệ các bên bị cáo
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><i><b><small>sứcMẠNHTHỊ TRƯỜNG...</small></b></i>
3UỘC CÓ hành vi vi phạm độc quyền sáng chế khi họ chứng minh được chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ đã cố gắng mở rộng tính độc quyền của quyền sờ hữu trí tuệ vượt quá giới hạn cho phép của pháp luật và gây hạn chế cạnh tranh13. Dưới góc nhìn của Tịa án, học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ được xem như một công cụ chống lại các hành vi sử dụng quyền sở hữu trí tuệ gây hạn chế cạnh tranh14.
<small>16 Thomas F. Cotter (2007), Misuse, Scholarship Repository University of Minnesota Law School, tr. 905.</small>
<small>17 Daryl Lim - John Marshall Law School (2014), </small>
<i><small>Patent Misuse and Antitrust: Rebirth or False Dawn?, </small></i>
<small>Michigan Telecommunications and Technology Law Review, Volume 20 I Issue 2, tr. 314.</small>
Học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí uệ được hình thành và phát triển từ một loạt các quyết định của Tòa án tối cao tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ XX nhằm tra lời cho câu hỏi:
<i>'lLiệu chủ sởhữu quyền sở hữutri tuệ (bằng sáng chế) cóquyền thực thi bằng sángchếchốnglại những chủthểkhác hay không?”'5.</i>
Học thuyết này lần đầu tiên được đề cập vào năm 1917 trong vụ việc <i>Motion Picture Patents Co. V.Universal Film Mfg. Co.</i>
Công ty <i>Motion Picture Patents (MPP) </i>
là chủ thể được trao quyền khai thác các sáng chế liên quan đến máy ảnh và máy chiếu hình ành chuyển động (máy chiếu phim theo nguyên tắc chuyển động của các tấm ảnh). Công ty MPP cho phép công ty precision Machine Company (PMC) được sản xuất và bán máy móc chứa được sáng chế này, nhưng kèm theo điều kiện: <i>Tất cảcác mảyđược công ty PMC sản xuấtvà bản</i>
<small>1! Thomas F. Cotter (2007), Misuse, Scholarship Repository University of Minnesota Law School, tr. 902.</small>
<i><small>14 “Tại Hoa Kỳ, trong giai đoạn từ 1983-2008 có khoảng 300 vụ việc liên quan đên hạn chê cạnh tranh, nhưng chi có 21 vụ việc được Tòa án kết luận Ỉ lạm dụng quyền sớ hữu trí tuệ" theo Daryl Lim -</small></i>
<small>hn Marshall Law School (2014), Patent Misuse </small>
<i><small>id Antitrust: Rebirth or False Dawn?,Michigan </small></i>
<small>Telecommunications and Technology Law Review, ialume 20 I Issue 2, tr. 313.</small>
<small>Thomas F. Cotter (2006), The Procompetitive </small>
<i><small>terest in Intellectual Property Law, University of </small></i>
<small>innesota Law School, tr. 499. </small>
<i>phảikèmtheo một thông báo: Việc mua và bán mảy này chiđược phép sử dụtng đểchiếu các bức ảnh chuyên động là sản phâmcủa cácsáng chế đã đượcbảo hộ bởi vănbằng sổ 12.ĩ 92 và đượcchophépsử dụng bởiMPP.</i> Hay nói cách khác, MPP đã đặt ra yêu cầu máy chiếu phim này chi được phép sử dụng để chiếu các phim do phía MPP cho phép hoặc chỉ định16 17.
PMC đã sản xuất và bán một trong những máy được cấp bằng sáng chế cho chủ sở hữu của Playhouse Seventy-Second Street (một rạp hát trên đường 72 New York), kèm theo thông báo cần thiết như trên. Vào ngày 2/11/1914, công ty giải trí Prague (Prague) đã thuê rạp hát này và mua lại chiếc máy này như một phần thiết bị của rạp hát được cho thuê. Vào thời điểm đó, cơng ty sản xuất phim Universal (Universal) đã sản xuất hai bộ phim được cung cấp cho Prague. Prague đã sử dụng máy này để chiếu phim do công ty Universal sản xuất. MPP đã gửi thư phản đối, cáo buộc Prague vi phạm bằng sáng chế của mình, và sau đó kiện Universal, Prague, cũng như chủ sở hữu rạp hát. Tuy nhiên, phía cơng ty Universal đã phản bác yêu cầu của MPP với lập luận việc sừ dụng máy chứa đựng sáng chế không thề bị giới hạn bởi các điều khoản trong thông báo được dán trên máy bởi chủ sở hữu bằng sáng chế.
Tòa án đã bác bỏ yêu cầu của MPP với lập luận,- <i>Khôngthểsử dụngsảng chế trên công nghệmáy chiếu đế kiếm sốt việc mua bán phim. Ràng buộc nàynằm ngồiphạmvi của bằng sáng chế'1. </i>Phán quyết này đã
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><i><b><small>NHÀNƯỚCVÀ PHẢPLUẬTSĨ3/2022</small></b></i>
đặt nền móng cho học thuyết Lạm dụng (đầu tiên áp dụng đối với bằng sáng chế, sau đó mở rộng cho các đối tượng sở hữu trí tuệ khác) như một cách thiết lập “giới hạn” độc quyền đối với sáng chế của chủ sở hữu.
Tuy nhiên, phải đến năm 1942, thông qua phán quyết của vụ việc <i>Morton Salt Co. V. G.s. Suppiger Co.</i> thì Tịa án tối cao mới chính thức đưa ra tuyên bố liên quan đến các khía cạnh cụ thể của học thuyết này18.
<small>18 Daryl Lim - John Marshall Law School (2014), </small>
<i><small>Patent Misuse and Antitrust: Rebirth or False Dawn?, </small></i>
<small>Michigan Telecommunications and Technology Law Review, Volume 20 I Issue 2, tr. 315.</small>
<small>19Daryl Lim - John Marshall Law School (2014), </small>
<i><small>Patent Misuse and Antitrust: Rebirth or False Dawn?, </small></i>
<small>Michigan Telecommunications and Technology Law Review, Volume 20 I Issue 2 tr. 317.</small>
<i><small>20 Thomas F. Cotter (2006), The Procompetitive Interest in Intellectual Property Law, University of </small></i>
<small>Minnesota Law School, tr. 499.</small>
Theo đó, phía cơng ty Suppiger - chủ thể được cấp bằng sáng chế đối với thiết bị sản xuất muối viên - được sử dụng rộng rãi trong ngành thực phâm đóng hộp. Sau đó, phía cơng ty Suppiger chỉ đồng ý cho các nhà máy đóng hộp thực phẩm thuê hệ thống thiết bị này với điều kiện các nhà máy đó phải mua muối từ công ty Suppiger.
Công ty Morton cũng là một doanh nghiệp sản xuất và cho thuê máy làm muối viên. Đồng thời, phía cơng ty Morton cũng chỉ cho các cơng ty đóng hộp thực phẩm th máy này với điều kiện họ phải mua muối được sản xuất bởi các công ty con của Morton.
Công ty Suppiger đã kiện Morton vi phạm bằng sáng chế vì đã bán muối cho khách hàng của họ. Tòa án đã bác bỏ cáo buộc đó với các lý do:
(1) Bản thân bị đơn (công ty Morton) không phải là một bên trong thỏa thuận cấp phép hạn chế;
(2) Việc sử dụng bằng sáng chế đó khơng vi phạm đạo luật Clayton về chống độc quyền vì chúng khơng làm giảm đáng kể sự cạnh tranh hoặc có xu hướng tạo ra sự độc quyền trên thị trường muối viên;
(3) Máy của bị đon không được sản xuất trong phạm vi cho phép của bằng sáng chế19.
Đồng thời, Tòa án cũng chỉ ra rằng, bằng sáng chế không thể được sử dụng nhằm hạn chế cạnh tranh trong việc tiếp cận các mặt hàng không liên quan đến sáng chế. Điều đó sẽ bị xem là lạm dụng và vi phạm chính sách cơng. Do đó, nếu cơng ty Suppiger vẫn muốn kiểm soát việc mua bán muối trên thị trường thì họ khơng có quyền ngăn cản chủ thê khác bán hoặc cho thuê máy đóng muối viên dù họ đang là chủ sở hữu bằng sáng chế. Bởi lẽ, độc quyền từ quyền sở hữu trí tuệ là độc quyền trong giới hạn và chủ sở hữu khơng thể sử dụng nó để hạn chế thương mại.
Cuối cùng, dựa trên ngun tắc cơng bằng, Tịa án đã lập luận rằng: ‘Têtt <i>cầucủanguyên đcm bị từ chối bởi họ đã thực hiệnquyền(dù quyền đó đượcphápluật bảovệthơngqua việc cấp bằng sảng chế) trái với lợi ích cơngcộng".</i> Đồng thời, Tòa án cũng tuyên bố rằng: <i>“Việc sử dụng bằng sáng chế nhằmmụcđích loại bỏ sự cạnh tranh đổivớicác sản phấmkhơng liênquan đến bang sáng chế có thếbị tướcquyền đối với sángchế đã được bảohộ ”20.</i>
Sau phán quyết đó, học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ được thừa nhận và được sử dụng để chống lại các cáo buộc vi phạm độc quyền sáng chế hoặc các đối tượng sở hữu trí tuệ khác. Theo đó, khi một chủ thể bị khởi kiện (bị đơn) về hành vi vi phạm độc quyền đối với bằng sáng chế từ chủ sở hữu sáng chế đó (ngun đơn) và khơng muốn gánh chịu các chế tài (chấm
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i><b><small>SỬCMẠNH THỊ TRƯỜNG...</small></b></i>
dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại cho nguyên đon), bị đon cần chứng minh rằng nguyên đon đã có hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ như sau21:
<small>21 Daryl Lim (2013), Patent</small><i><small> Misuse and Antitrust Law: Empirical, Doctrinal and Policy Perspectives, </small></i>
<small>Published By Edward Elgar Publishing Limited, tr. 38-40.</small>
<i><small>22 Lê Net (2006), Quyền sở hữu trí tuệ (Tài liệu bài giảng), Nxb. Đại</small></i><small> học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, ử 210.</small>
<i>(i)Thựchiện quyền sở hữu trí tuệvượtquáphạm vỉ cho phépcủa pháp luậtsởhữutrí tuệ (chủ thể đã cóhành vỉ lạm quyền)</i>
về ngun tắc, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chỉ được phép thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của pháp luật. Đồng thời, việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ cũng khơng được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác cũng như không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan (Điều 7 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành).
<i>. .lạm dụngquyềnsở hữutrí tuệ được hiểu làviệc sửdụng quyền sởhữu trí tuệ sai với nguyêntẳc, mục tiêu mà quyểnsởhữutrí tuệ đề ra ”22.</i>
Do đó, để chứng minh chủ thể có hành vi lạm quyền, cần phải chứng minh được rằng, chủ sở hữu đã <i>thực hiện quyền sởhữutrítuệ vượt quá phạm vỉcho phép </i>và hành vi đó đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác bên cạnh lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Đây là một việc làm không phải dễ dàng vì <i>quyền vả lợi ích hợp pháp củangười khác </i>là một thuật ngữ rất rộng. Hơn nữa, cũng khơng loại trừ
<i>người khác ở đây </i>chính là người trực tiếp sử dụng, đồng thời là đối thủ cạnh tranh của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ.
Vậy nên, việc xem xét, đánh giá hành vi của chủ thể có bị xem là lạm quyền sở hữu
trí tuệ hay không phải được đánh giá trong bối cảnh cụ thể với mối tương quan giữa quyền tài sản của chủ sở hữu với quyền và lợi ích của các chủ thể khác.
<i>(ii)Tác động tiêucựcđến mơitrườngcạnh tranh</i>
Tiêu chí thứ hai để xem xét hành vi cụ thể của chủ thể là hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ nếu nó gây ra các tác động loại trừ, làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Các hành vi này bao gồm: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lình thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền (khoản 2 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2018).
Tuy nhiên, xét dưới khía cạnh ý chí của chủ sở hữu, hành vi bị xem là hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ chính là các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có được từ quyền sở hữu trí tuệ gây hạn chế cạnh tranh. Do vậy, xác định sức mạnh thị trường của chủ thể là một trong những yêu cầu quan trọng để xác định hành vi lạm quyền.
Vậy nên, việc áp dụng học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ phải được thực hiện theo nguyên tắc lập luận hợp lý cho từng vụ việc, hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Tịa án, các thẩm phán khơng thể đặt ra các nguyên tắc cứng nhắc trong việc xem xét một hành vi của chủ sở hữu sẽ bị xem là lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ. Để chứng minh được điều đó thì các chủ thể cần phải phân tích, đánh giá 4 yếu tố:
- Có sự mở rộng quyền sở hữu trí tuệ quá mức: Chủ sở hữu tài sản trí tuệ đã thực hiện các hành vi vượt quá giới hạn đã được thừa nhận bởi văn bằng bảo hộ và pháp luật sở hữu trí tuệ;
- Áp đặt điều kiện: Chủ sở hữu đã đưa ra các yêu cầu như là điều kiện chuyển giao (cấp phép) quyền sở hữu trí tuệ;
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><i><b><small>NHÀNƯỚCVÀ PHẢPLUẬTSƠ3/2022</small></b></i>
- CĨ hành vi ép buộc: Chủ sở hữu sử dụng sức mạnh thị trường, vị trí độc quyền có được từ quyền sở hữu trí tuệ để ép buộc người nhận chuyển giao (được cấp phép) bất đắc dĩ phải chấp nhận các yêu cầu đó nếu muốn được chuyển giao;
- Khơng có sự biện minh hợp lý: Chủ sở hữu đã không thể chứng minh được lý do hợp lý khi đặt ra các yêu cầu đó trong hợp đồng chuyển giao (cấp phép)23.
<small>23 Jeffery B. Fromm and Robert A. Skitol (2003), </small>
<i><small>Harmonization of the IP Misuse Doctrine and Antitrust Law: A Call for Help from the Agencies and Congress,</small></i><small> tr. 7.</small>
Rõ ràng, học thuyết Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trị quan trọng trong việc ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh của chủ sở hữu trong quá trình thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Nhưng, điều đó khơng có nghĩa là bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ đều bị xem là hành vi lạm quyền sở hữu trí tuệ để tước bỏ quyền độc quyền của chủ sở hữu. Điều này cần được phân tích, đánh giá một cách cẩn trọng trong mối tương quan giữa bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh và độc quyền mặc nhiên của quyền sở hữu trí tuệ. Để đảm bảo việc đó, nhất thiết trong hệ thống pháp luật quốc gia cần phải ghi nhận hai nguyên tắc sau:
<i>Một là,</i> cần thừa nhận rằng: Chủ sở hữu mặc nhiên có quyền độc quyền đối với quyền sở hữu trí tuệ. Đe bảo vệ sự độc quyền đó, pháp luật cần cho phép chủ sở hữu được phép thực hiện một số hành vi nhất định nhằm loại trừ các hành vi có nguy cơ xâm phạm đến sự độc quyền hợp pháp đó của các chủ thể khác, đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh.
<i>Hai là,</i> việc đánh giá hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ phải được xem xét theo nguyên tắc lập luận hợp lý thay vì nguyên tắc vi phạm mặc nhiên.
<i><b><small>3.3. Điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ</small></b></i>
Điều 27 Luật Cạnh tranh năm 2018 nghiêm cấm trường hợp doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền thực hiện các hành vi bị xem là lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, một doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên hoặc có sức <i>mạnh thị trường đảng kể </i>khi thực hiện các hành vi cụ thể (ấn định giá bán lại, ràng buộc bán kèm, yêu cầu chuyển giao ngược...) sẽ bị xem là vi phạm pháp luật vì đã thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh và phải gánh chịu các chế tài theo quy định của pháp luật.
Cách tiếp cận như trên là không hợp lý, bởi lẽ trong mối tương quan của quyền sở hữu trí tuệ, việc xác định hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh của một hành vi cụ thể của chủ sở hữu thông qua mức thị phần xác định hoặc sức mạnh thị trường đáng kể là không phù hợp. Với đặc thù là độc quyền, khó thay thế, doanh nghiệp sở hữu quyền sở hữu trí tuệ dễ dàng có được vị trí thống lĩnh, thậm chí độc quyền trên thị trường cơng nghệ, thị trường sản phẩm được sản xuất từ công nghệ đó. Đồng thời, với tầm quan trọng của sáng chế và khả năng thay thế các yếu tố kỳ thuật thì chủ sở hữu cũng mặc nhiên có được sức mạnh thị trường đáng kể theo cách tiếp cận của pháp luật Việt Nam. Hay nói cách khác, với quy định này của Luật Cạnh tranh năm 2018, hành vi ấn định giá bán lại, ràng buộc bán kèm hay chuyển giao ngược trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ sẽ mặc nhiên bị xem là vi phạm pháp luật cạnh tranh. Quy định này khá cứng nhắc, chưa tính đến đặc thù cùa quyền sở hữu trí tuệ cũng như quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu. Do đó, để đảm bảo quyền hợp pháp của chủ sở hữu tài sản trí tuệ, sự phù hợp và hiệu quả thực thi của
</div>