Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Khủng hoảng tài chính Thế giới 2007-2009 và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.69 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................... 1
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................... 3
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ . 5
1.1. Lý thuyết về chu kỳ kinh tế ..................................................................... 5
1.1.1 Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế .............................................................. 6
1.1.2. Nguyên nhân và biện pháp đối phó với chu kỳ kinh tế ....................... 6
1.2. Lý thuyết của Mác về CNTB và tính tất yếu của khủng hoảng kinh tế
trong CNTB. ..................................................................................................... 9
1.2.1 Lý luận về giá trị của Mác ...................................................................... 9
1.2.2. Lý luận của C.Mác về tài sản ảo trong CNTB ................................... 10
CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN GÂY RA KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH THẾ GIỚI 2007-2009 ............................................................. 13
2.1 Nguyên nhân sâu xa: ............................................................................... 13
2.2 Nguyên nhân gián tiếp: ........................................................................... 13
2.3 Nguyên nhân trực tiếp: ........................................................................... 14
2.3.1 Các yếu tố kinh tế ................................................................................. 14
2.3.2 Yếu tố pháp lý ....................................................................................... 17
CHƯƠNG III: DIỄN TIẾN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH THẾ GIỚI 2007-2009 ............................................................. 18
3.1 Diễn tiến của cuộc khủng hoảng tài chính Thế giới 2007-2009 ........... 18
3.2 Tác động của cuộc khủng đối với Hoa Kỳ và phản ứng của Hoa Kỳ . 23
3.2.1 Tác động của cuộc khủng đối với Hoa Kỳ .......................................... 23
3.2.2 Phản ứng của Hoa Kỳ ........................................................................... 24
3.2.2.1 Phản ứng của Cục dự trữ liên bang Mỹ ................................. 24
3.2.2.2 Phản ứng của chính phủ Mỹ .................................................. 25
3.3 Tác động của cuộc khủng hoảng đối với Thế giới ................................ 27
Page 1
CHƯƠNG IV: TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH THẾ GIỚI ĐẾN VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
ĐỐI VỚI VIỆT NAM ........................................................................... 29


4.1 Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến Việt Nam ...... 29
4.1.1 Làm chậm tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam. ............................. 29
4.1.2 Ảnh hưởng rõ rệt đến khu vực xuất nhập khẩu của Việt Nam .......... 30
4.1.3 Thâm hụt tài chính ................................................................................ 30
4.1.4 Chính sách tiền tệ ................................................................................. 30
4.1.5 Một số vấn đề Xã Hội ........................................................................... 31
4.2 Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam .................................................. 31
4.2.1 Vấn đề đặt ra đối với Chính Phủ .......................................................... 31
4.2.2 Vấn đề đặt ra đối với hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán
Việt Nam ........................................................................................................ 33
4.2.2.1 Đối với hệ thống ngân hàng ................................................... 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: ............................................ 37
Page 2
LỜI MỞ ĐẦU
a.Tính tất yếu
Có thể nói cuộc khủng hoảng tài chính Thế giới 2007-2009 đã kết thúc
nhưng những hậu quả và sức tàn phá của nó thật khiến người ta cho đến nay
vẫn không tin mình đã ra khỏi khủng hoảng. Đây là một cuộc khủng hoảng gây
thiệt hại lớn, có qui mô rộng và được đánh giá là một bước ngoặt trong lịch sử
phát triển kinh tế của con người. Bước ngoặt bởi lẽ trong cuộc khủng này,
CNTB đã bộc lộ ra những điểm yếu chết người mang bản chất của nó bắt nguồn
từ sự “chạy theo siêu lợi nhuận” của các nhà đại tư bản và sự bất lực của các
chính khách. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ cường quốc kinh tế số một thế
giới-Hoa Kỳ, làm suy sụp trung tâm tài chính trứ danh phố Wall và qua đó lan
rộng sang các nước khác, làm tê liệt hệ thống tài chính toàn cầu và gây thiệt
hại cho rất nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia Tư bản giàu có và các đại
gia tư sản của Thế giới.
Việt Nam trong những năm trước khủng hoảng, trong một khoảng thời
gian dài đã duy trì được một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn
định. Tuy nhiên, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Việt

Nam chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế,
đặc biệt là hệ thống tài chính được đánh giá là còn rất non trẻ ở Việt Nam.
Với tính cấp thiết đó , đề tài “Khủng hoảng tài chính Thế giới 2007-2009
và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” đã được chọn để nghiên cứu.
b. Mục đích
Đề tài được thực hiện nhằm tìm hiểu về cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2007-2009 và qua đó nêu ra một số vấn đề đối với Việt Nam
Page 3
c. Đối tượng phạm vi
c.1 Đối tượng
Đề tài sẽ nghiên cứu cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-2009
c.2 Phạm vi
Nghiên cứu số liệu từ năm 1970 đến nay
d. Phương án nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp , so sánh...
e. Kết cấu bài viết
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục , phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, đề tài được trình bày thành 4 chương:
Chương I: Lý thuyết chung về khủng hoảng kinh tế
Chương II: Nguyên nhân khủng hoảng tài chính Thế giới 2007-2009
Chương III: Diến tiến của cuộc khủng hoảng tài chính Thế giới 2007-2009
Chương IV: Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Thế giới 2007-2009
đối với Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
Page 4
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
1.1. Lý thuyết về chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP
thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng
nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ
gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh (hay mở rộng).

Đồ thị 1.1: Các pha của chu kỳ kinh tế
• Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản,
người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm
suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
• Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay
trước suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
• Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước
lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ).
Page 5
Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng
thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh
tế khi nền kinh tế đã sang pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng
trưởng GDP thực tế đổi chiều giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các
nhà kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu
cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:
• Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền
trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất
cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và
kết quả là GDP thực tế giảm sút.
• Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao
động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất
nghiệp tăng cao.
• Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản
xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng
tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
• Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán
thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ
kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ
suy thoái.

1.1.1 Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có
hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay
phương pháp nào dự báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế.
Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả khu vực
công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng
giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến
thị trường vốn...thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.
1.1.2. Nguyên nhân và biện pháp đối phó với chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế khiến cho kế hoạch kinh doanh của khu vực tư nhân và kế
hoạch kinh tế của nhà nước gặp khó khăn. Việc làm và lạm phát cũng thường
biến động theo chu kỳ kinh tế. Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh
tế và xã hội phải gánh chịu những tổn thất, chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu
Page 6
kỳ là nhiệm vụ được nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, vì cách lý giải nguyên nhân
gây ra chu kỳ giữa các trường phái kinh tế học vĩ mô không giống nhau, nên
biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất cũng khác nhau.
* Chủ nghĩa Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường
không hoàn hảo, khiến cho tổng cầu biến động mà thành. Do đó, biện pháp
chống chu kỳ là sử dụng chính sách quản lý tổng cầu. Khi nền kinh tế thu hẹp,
thì sử dụng các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ nới lỏng. Khi nền kinh
tế khuếch trương thì lại chuyển hướng các chính sách đó sang thắt chặt. Hình 1
minh họa một sự suy thoái do tổng cầu giảm: tổng cầu dịch chuyển từ AD sang
AD' khiến cho sản lượng giảm từ Q xuống Q' và giá cả giảm từ P đến P' (lạm
phát giảm).
* Các trường phái theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới thì cho rằng sở dĩ có
chu kỳ là do sự can thiệp của chính phủ hoặc do những cú sốc cung ngoài dự
tính. Vì thế, để không xảy ra chu kỳ hoặc để nền kinh tế nhanh chóng điều
chỉnh sau các cú sốc cung, chính phủ không nên can thiệp gì cả. Hình 2 minh
họa một trường hợp suy thoái do tổng cung giảm: vì lý do nào đó (ví dụ giá đầu

vào tăng đột biến) tổng cung giảm từ AS xuống AS' khiến cho sản lượng giảm
từ Q xuống Q' nhưng giá cả lại tăng từ P lên P' (lạm phát tăng).
Page 7
Một số lý thuyết chính lý giải nguyên nhân của chu kỳ kinh tế là:
* Lý thuyết tiền tệ: cho rằng chu kỳ kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt
của chính sách tiền tệ và tín dụng. Đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là nhà
kinh tế học đoạt giải Nobel kinh tế năm 1976, người đứng đầu trường phái
Chicago Milton Friedman. Lý thuyết này tỏ ra phù hợp với cuộc suy thoái của
kinh tế Mỹ 1981-1982 khi Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất danh nghĩa tới
18% để chống lạm phát.
* Mô hình gia tốc - số nhân: do Paul Samuelson đưa ra, mô hình này cho
rằng các biến động ngoại sinh được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với
sự gia tốc trong đầu tư tạo ra những dao động có tính chu kỳ của GDP.
* Lý thuyết chính trị: đại diện là các nhà kinh tế học William Nordhaus,
Michał Kalecki,... Lý thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân gây
ra chu kỳ kinh tế vì họ hướng các chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể thắng
cử.
* Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng: với những đại diện như Robert
Lucas, Jr., Robert Barro, Thomas Sargent...phát biểu rằng những nhận thức sai
lầm về sự vận động của giá cả, tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá
nhiều hoặc quá ít dẫn đến các chu kỳ của sản lượng và việc làm. Một trong
những phiên bản của lý thuyết này là tỷ lệ thất nghiệp cao trong suy thoái là do
Page 8
mức lương thực tế của công nhân cao hơn mức cân bằng của thị trường lao
động.
* Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: lập luận rằng những biến động tích
cực hay tiêu cực về năng suất lao động trong một khu vực có thể lan tỏa trong
nền kinh tế và gây ra những dao động có tính chu kỳ. Những người ủng hộ lý
thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải Nobel năm 2004 Edward Prescott,
Charles Prosser,...

Tuy vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, không có lý
thuyết nào tỏ ra đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi. Ngày nay, quan sát các chu kỳ
kinh tế ở các nền kinh tế công nghiệp phát triển, người ta phát hiện ra hiện
tượng pha suy thoái càng ngày càng ngắn về thời gian và nhẹ về mức độ thu
hẹp của GDP thực tế. Một trong những nguyên nhân quan trọng là chính phủ
các nước này đã hiểu biết và vận dụng tốt hơn những hiểu biết về kinh tế vĩ mô.
Bằng cách kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, nhà nước có
thể ngăn chặn một cuộc suy thoái biến thành khủng hoảng.
1.2. Lý thuyết của Mác về CNTB và tính tất yếu của khủng hoảng kinh tế
trong CNTB.
1.2.1 Lý luận về giá trị của Mác
“Như các nguyên tử biệt lập, những con người chỉ quan hệ với nhau qua
sức hút của những đồ vật-hàng hoá do họ làm ra để hình thành một hình thái xã
hội. Và hình thái xã hội ấy chính là một cơ chế sản xuất vô chủ thể, chạy theo
đồng tiền một cách điên cuồng, vận động bên ngoài ý thức của những người sản
xuất, bất chấp những hậu quả gây ra cho người khác – đó chính là tư tưởng của
Marx về xã hội hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Rõ ràng đây là sự mô tả mácxít về
cái gọi là “bàn tay vô hình” mà những nhà kinh tế cổ điển đã coi là sự diệu
kỳ”_Lữ Phương
Trong bộ Tư Bản, Mác nói rằng “…với tư cách là kẻ sáng tạo ra giá trị
sử dụng là lao động có ích, thì lao động là một điều kiện tồn tại của con người
không phụ thuộc vào bất kỳ hình thái xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên vĩnh
cửu làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên, tức là cho
bản thân sự sống của con người”
Mác cho răng “Quá trình lao động, như chúng ta đã hình dung nó trong
những yếu tố đơn giản và trừu tượng của nó, là một hoạt động có mục đích
nhằm tạo ra những giá trị sử dụng, là sự chiếm đoạt những cái có sẵn trong
thiên nhiên để thoả mãn những nhu cầu của con người, là điều kiện chung của
Page 9
sự trao đổi chất giữa con người với tự nhiên, là một điều kiện tự nhiên và vĩnh

cửu của đời sống của con người, và vì vậy quá trình lao động ấy không phụ
thuộc vào bất kỳ một hình thái nào của đời sống đó, mà ngược lại, nó là chung
cho tất cả mọi hình thái xã hội của đời sống đó một cách giống như nhau. Vì
vậy, chúng ta không cần phải xét người lao động trong mối quan hệ với những
người lao động khác. Một bên là con người và lao động của con người, bên kia
là tự nhiên và vật liệu của tự nhiên – thế là đủ”
“Quả thật, một đầu óc phát triển hơn, có tính phê phán hơn, thừa nhận tính
chất phát triển về mặt lịch sử của của các quan hệ phân phối, nhưng đồng thời
lại càng bám chặt hơn vào tính chất không thay đổi, bắt nguốn từ bản chất của
loài người và do đó, không phụ thuộc vào bất cứ một sự phát triển lịch sử nào
của bản thân các quan hệ sản xuất”
“Quyền lực của nhà tư bản với cương vị là hiện thân, [đại biểu nhân
cách] của tư bản trong quá trình sản xuất, với tư cách là người lãnh đạo sản
xuất, chức năng xã hội của hắn về bản chất khác với quyền lực trong một nền
sản xuất của những nô lệ, những nông nô v.v… Trong hệ thống tư bản chủ
nghĩa, tính chất xã hội của sản xuất tác động lên những người sản xuất trực tiếp
như là một cơ chế xã hội được tổ chức theo đẳng cấp, trong đó những người
hành xử quyền lực, do họ là những đại biểu nhân cách cho những điều kiện lao
động để chống lại lao động chứ không phải như trong những hệ thống sản xuất
trước đó, do họ là những kẻ thống trị chính trị hoặc thần quyền. Ngược lại, giữa
những nhà tư bản nắm quyền và tác động vào nhau, chỉ với cương vị những kẻ
sở hữu hàng hoá, một tình trạng vô chính phủ hoàn toàn đã ngự trị , trong đó sự
gắn kết xã hội của sản xuất chỉ vượt qua được sự tuỳ tiện cá nhân do nó là một
quy luật tự nhiên đầy sức mạnh”
 Tóm lại, theo Mác, sự bóc lột giá trị thặng dư sẽ cuối cùng tất yếu
dẫn tới sự thiếu hụt khả năng chỉ trả của người lao động và khả năng chỉ trả các
khoản vay của người lao động.
1.2.2. Lý luận của C.Mác về tài sản ảo trong CNTB
Khi phân tích về CNTB, C.Mác đã chỉ ra trong rất nhiều tài liệu lý thuyết
của mình về những mâu thuẫn nội tại của CNTB sẽ dẫn tới khủng hoảng.

Mác cho rằng trong một thế giới gồm các thị trường cạnh tranh nhau, nền
sản xuất hàng hóa và sự đầu cơ tài chính tiền tệ, những gì ông gọi là “mâu
thuẫn” chính là thứ cố hữu bẩm sinh của thế giới đó.
Page 10
Mác viết trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Nếu giai cấp tư sản
không thường xuyên cải cách công cụ sản xuất, từ đó không làm cho quan hệ
sản xuất – cũng tức là toàn bộ mối quan hệ xã hội, thường xuyên cải cách, thì
giai cấp đó không thể sống còn.”
Mác cho rằng “Nhu cầu không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm đã thúc đẩy giai cấp tư sản đi tới khắp nơi trên toàn cầu”, và thấy được sự
phát triển chủ nghĩa tư bản sẽ không thể tránh khỏi dẫn tới việc “mở đường cho
những cuộc khủng hoảng sâu sắc rộng khắp hơn”.
Mác hiểu rõ các hành vi đầu cơ sẽ gây ra khủng hoảng và làm cho nó xấu
đi, các hành vi ấy có sức phá hoại rất lớn toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa ông còn
nhìn rõ biện pháp gọi là thông qua cải cách kiểu tiệm tiến (incremental reform)
để mãi mãi tránh khỏi khủng hoảng chẳng qua là một ảo tưởng chính trị.
Khi nghiên cứu về CNTB, Mác đã ví von rằng chủ nghĩa tư bản giống như
một “thầy phù thủy (sorcerer), song lại bất lực trong việc điều khiển bày ma
quỷ do mình gọi ra.”
Mác viết: “Việc cho nhau vay giữa các nhà công nghiệp và thương nhân
lại kết hợp với những khoản mà các ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho họ
vay, để đổi lấy các kỳ phiếu. Vì các kỳ phiếu chỉ đơn thuần là những kỳ phiếu
ảo, và vì các giao dịch về hàng hóa chỉ nhằm độc có mục đích tạo ra các kỳ
phiếu, cho nên toàn bộ quá trình đã trở nên rắc rối tới mức cái vẻ bề ngoài
tường như công việc kinh doanh vẫn diễn ra rất vững chắc và vẫn thu hồi được
tư bản về một cách liên tiếp - cái vẻ bề ngoài đó vẫn có thể được duy trì một
cách yên ổn trong một thời gian dài, nhưng thực ra thì đã từ rất lâu, những
khoản thu tiền về này chỉ được thực hiện một phần bằng cách đập vào lưng
những người cho vay tiền bị lừa gạt, hay những người sản xuất bị lừa gạt.
Thành thử chính ngay trước khi bị phá sản, công việc kinh doanh luôn luôn có

cái vẻ hầu như vẫn quá ư lành mạnh, cho tới khi đột nhiên bị phá sản”
Marx không chỉ mô tả hiện tượng mà còn lý giải hết sức sâu sắc nguyên
nhân của các cuộc khủng hoảng, vì sao người ta lại không nhận biết được dấu
hiệu của một cuộc khủng hoảng sắp nổ ra, và rồi sau cuộc khủng hoảng mọi sự
sẽ diễn biến tiếp như thế nào v.v...
"Chứng khoán, với tư cách là bản sao của tư bản thực tế, chỉ là tư bản giả,
ảo tưởng, tuy cũng được mua bán như hàng hóa. Giá trị của chúng có thể tăng
hay giảm hoàn toàn độc lập với sự vận động của tư bản thực mà chúng đại biểu.
Như vậy, cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì của cải
tưởng tượng ấy cũng tăng lên do sự tăng giá trị của chứng khoán...
Page 11
... Trong chừng mực mà sự mất giá của các chứng khoán không biểu hiện
sự đình trệ thật sự của nền sản xuất, thì sự tan vỡ của các bong bóng xà phòng
này, chứa đầy tư bản tiền tệ danh nghĩa, cũng không làm cho quốc gia nghèo
bớt đi một đồng xu nào cả. Tuy nhiên, sự mất giá của các chứng khoán có giá
trong thời kỳ khủng hoảng là một phương tiện mạnh nhất để tập trung tài sản
bằng tiền…
… Trong một chế độ mà sản xuất chủ yếu dựa trên tín dụng, chừng nào
quá trình tái sản xuất vẫn diễn ra liên tục và việc tư bản quay về được đảm bảo
thì tín dụng vẫn được duy trì và mở rộng. Nhưng nếu xây ra một sự đình trệ, do
việc tư bản quay về bị chậm lại, do thị trường bị tràn ứ do giá cả sụt xuống, thì
sẽ nổ ra khủng hoảng. Hàng hóa không bán được, tư bản cố định thông sử dụng
được, tín dụng bị co hẹp. Kết quả là nảy ra hiện tượng khan hiếm tín dụng.
Nếu đột nhiên tín dụng bị đình chỉ và chỉ những việc thanh toán bằng tiền
mặt mới có hiệu lực, thì ở đó hiển nhiên phải xảy ra khủng hoảng và tình trạng
xô đẩy nhau chạy theo các phương tiện thanh toán. Cho nên mới thoạt nhìn thì
toàn bộ cuộc khủng hoảng có vẻ chỉ là một cuộc khủng hoảng tín dụng và tiền
tệ. Và thật vậy, vấn đề chỉ là làm sao biến được các kỳ phiếu thành tiền. Nhưng
đại bộ phận các kỳ phiếu đó đều đại biểu cho các việc mua bán mà khối lượng
vượt rất xa các nhu cầu của xã hội, thành thử chính điều đó lại là cơ sở của toàn

bộ cuộc khủng hoảng.
Về xuất khẩu và nhập khẩu, tất cả các nước đều bị lôi cuốn vào cuộc
khủng hoảng. Và khi ấy, người ta nhận thấy là trụ một số ít trường hợp ngoại lệ
ra, tất cả các nước đều đã xuất khẩu quá nhiều (tức là sản xuất quá nhiều) và
nhập khẩu quá nhiều (tức là buôn bán quá nhiều), thành thử bảng cân đối thanh
toán đều bất lợi đối với tất cả các nước… Nghĩa là đã có một tình trạng sản xuất
thừa mà tín dụng đã góp phần vào, và có tình trạng giá cả cao vọt lên một cách
phổ biến, đi kèm với tín dụng mở rộng quá mức ở tất cả các nước...”
Page 12
CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN GÂY RA KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH THẾ GIỚI 2007-2009
2.1 Nguyên nhân sâu xa:
Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng bắt đầu từ cuộc khủng hoảng
1970. Trong suốt thời gian này, số liệu cho thấy thu nhập thực tế của người lao
động đã không tăng mặc dù năng suất lao động đã tăng đáng kể( Wolff, 2008).
Nói cách khác, xét về mặt tổng thể, mặc dù số lượng hàng hóa tăng lên đáng kể
nhưng khả năng thanh toán của đa số người lao động lại không tăng lên. Do vậy
, việc cho vay tiêu dùng là tất yếu. Việc cho vay tiêu dùng như vậy rõ ràng là
chỉ có thể trì hoãn được khủng hoảng chứ không chữa được căn bệnh kinh niên
là người lao đọng tiêu dùng phần khoog phải thuộc về mình trong tổng sản
phẩm. Phần không thuộc về mình đó là tiêu điểm của sự xem xét Mác xít như
chúng ta đã biết, vì đang ra nó( sản phẩm thặng dư đó phải thuộc về người lao
động), nhưng cấu trúc sỡ hửu và hệ thống chính trị pháp lý đã đảm bảo rằng nó
thuộc về giới chú tư bản. Đây là nguyên nhân sâu xa mà nếu không giải quyết ở
mức hệ thống, sẽ không bao giờ giải quyết được bệnh căn của khủng hoảng chu
kỳ.
2.2 Nguyên nhân gián tiếp:
Paul Krugman, người đoạt giải Nobel kinh tế 2008, đồng thời là một nhà
báo chuyên mục của tờ New York Times, và cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ
Henry Paulson, cùng có quan điểm cho rằng, sự mất cân đối toàn cầu - có thể

được hiểu là những khoản thặng dư thương mại khổng lồ của một số quốc gia
như Trung Quốc, và thâm hụt thương mại cũng vĩ đại không kém của một số
nước khác như Mỹ - là nguyên nhân gián tiếp gây ra khủng hoảng tài chính.
Những người có quan điểm cho rằng mất cân đối toàn cầu (global imbalances)
gây ra cuộc khủng hoảng nhìn nhận, một lượng tiền dư thừa từ những quốc gia
có tỷ lệ tiết kiệm cao, như Trung Quốc và các nước xuất khẩu dầu lửa, đã chảy
vào nước Mỹ. Những dòng tiền này khiến lãi suất tại Mỹ được duy trì ở mức
thấp và tạo ra sự bùng nổ trong lĩnh vực cho vay tín dụng, tiếp đó là sự tăng vọt
của giá các loại tài sản như nhà đất và chứng khoán. Rốt cục, khi những bong
bóng này vỡ, khủng hoảng tài chính nổ ra theo.
Page 13
2.3 Nguyên nhân trực tiếp:
2.3.1 Các yếu tố kinh tế
Nguyên nhân xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là đề tài đang
được tranh cãi và mổ xẻ. Một trong những tác nhân chính gây nên tình trạng
khủng hoảng hiện nay là các ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tài
chính Mỹ thông qua hoạt động cho vay dưới tiêu chuẩn và nghiệp vụ chứng
khoán hoá mà nhiều chuyên gia gọi là “Cỗ máy đầu tư cấu trúc” (Structured
Investment Vehicle – SIV). Đây có thể được xem là mô hình chứng khoán hoá
bất động sản kiểu Mỹ được hình thành từ những năm 1980. Phương thức kinh
doanh của các SIV là huy động vốn ngắn hạn thông qua việc phát hành thương
phiếu (commercial paper) với lãi suất thấp để đầu tư vào các loại chứng khoán
được đảm bảo bằng tài sản (asset-backed securities), đa số trường hợp là bất
động sản với lãi suất cao. Mô hình và diễn biến của hoạt động chứng khoán hoá
bất động sản có thể khái quát như sau:
Đồ thị 2.1: Diễn biến thay đổi của lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ (đường
màu xanh).
Nguồn: FED
Vào đầu năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự trữ liên
bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ lãi suất cơ bản, dẫn đến việc các ngân hàng

thương mại cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Còn nhớ, vào giữa
năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6%/năm nhưng sau đó lãi suất này
liên tục được cắt giảm để kích thích TTCK và hoạt động đầu tư nhằm đẩy mạnh
tăng trưởng kinh tế, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%/năm. Trong khi đó,
Chính phủ Mỹ lúc bấy giờ lại có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho
Page 14
dân nghèo được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực
hiện thông qua hai công ty tài chính (CTTC) được bảo trợ bởi chính phủ là
Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất
động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các NHTM cho người
nghèo mà không cần chứng minh thu nhập còn gọi là cho vay dưới chuẩn
(subprime), biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản
vay thế chấp (mortgage-backed securities – MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu
tư trên TTCK, chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức lớn như Bear Stearns và
Merrill Lynch. Khi đã chứng khoá hoá các khoản cho vay bất động sản, hay nói
cách khác là đã hình thành một sự liên thông mật thiết với TTCK thì thị trường
bất động sản (TTBĐS) không còn là sân chơi duy nhất của các NHTM hoặc các
công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa mà đã có sự tham gia tích
cực của các nhà đầu tư và đầu cơ trên TTCK vốn có khả năng tài chính rất dồi
dào. Về bản chất, MBS là một công cụ phái sinh từ bất động sản nên việc phát
hành, giao dịch và bảo hiểm MBS hết sức thông thoáng và Chính phủ Mỹ
dường như không thể kiểm soát nổi. Do có thể bán lại phần lớn các khoản vay
để các công ty khác biến chúng thành MBS, các NHTM đã trở nên mạo hiểm
hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay. Vòng xoáy của
thị trường đã đi quá xa, đặc biệt là “bong bóng” bất động sản bắt đầu “xì hơi”
thì điều gì phải đến đã đến…
Đồ thị 2.2: Mua repo MBS của Fed tăng vọt vào cuối năm 2007.
Nguồn: FED
Page 15

×