Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

so sánh 3 bước đột phá kinh tế mới của đảng hntw 6 tháng 81979 hntw 8 tháng 61985 hn bộ chính trị khóa v tháng 81986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.97 KB, 18 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH </b>

<b>Nhóm: Nhóm 01 </b>

<b>HÀ NỘI, 2022 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>MỤC LỤC ... 2 </b>

<b>DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 1 ... 3 </b>

<b>MỞ ĐẦU ... 4 </b>

<b>CHƯƠNG 1: CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ KINH TẾ MỚI CỦA ĐẢNG ... 5 </b>

<b>1.1. Đột phá thứ nhất: Hội nghị Trung ương 6 tháng 8/1979 ... 5 </b>

<i><b>1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ... 5 </b></i>

<i><b>1.1.2. Nội dung đột phá thứ nhất ... 5 </b></i>

<b>1.2. Đột phá thứ hai: Hội nghị Trung ương 8 tháng 6/1985 ... 7 </b>

<i><b>1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử ... 7 </b></i>

<i><b>1.2.2. Nội dung đột phá thứ hai... 8 </b></i>

<b>1.3. Đột phá thứ ba: Hội nghị Bộ Chính trị khóa V tháng 8/1986 ... 10 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 1 </b>

chú 1 Phạm Thúy An 20D110001 Lập đề cương,

kết luận, tổng hợp word

Hoàn thành tốt công việc

2 Âu Tuyết Anh 20D110071 Chương 3 Hồn thành tốt cơng việc

3 Đặng Ngọc Anh 20D110072 Mục 1.1 chương 1

Hồn thành tốt cơng việc

4 Đặng Vân Anh 20D220002 Mục 2.1 chương 2

Hoàn thành tốt cơng việc

5 Hồng Trâm Anh 19D220072 Mục 2.2 chương 2

Hồn thành tốt cơng việc

6 Lưu Diệu Anh 20D110004 Chỉnh sửa word, thuyết trình, phần mở

đầu

Hồn thành tốt công việc

7 Mai Thị Quỳnh Anh 20D110074 Mục 1.3 chương 1

Hồn thành tốt cơng việc

8 Nguyễn Hoàng Anh 20D110005 Mục 1.2 chương 1

Hồn thành tốt cơng việc

9 Nguyễn Phúc Văn Anh

20D110075 PPT Hoàn thành tốt công việc

10 Phạm Thị Mai Anh 20D220074 Mục 2.2 chương 2

Hồn thành tốt cơng việc

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỞ ĐẦU </b>

Trong những năm từ 1945 đến 1975 ở Việt Nam, nền kinh tế kế hoạch bao cấp được áp dụng và mang lại nhiều kết quả tốt đẹp. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, mơ hình kinh tế ấy khơng cịn phù hợp, nhưng vì những ưu điểm mà nó mang lại mang Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc bấy giờ chưa dứt khốt xóa bỏ hồn tồn chế độ ấy. Cùng với bối cảnh Việt Nam đang phải khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh ở cả miền Bắc và miền Nam, chính sách cấm vận của Mỹ, rồi hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc làm cho nền kinh tế nước nhà gặp mn vàn khó khăn. Từ đó, việc đổi mới tư duy về kinh tế là điều tất yếu, khách quan, trong đó phải kể đến các bước đột phá tư duy đổi mới kinh tế của Đảng ta, đặc biệt là 3 bước đột phá kinh tế mới được trình bày thơng qua Hội nghị trung ương 6 tháng 8/1979, Hội nghị trung ương 8 tháng 6/1985 và Hội nghị Bộ Chính trị khóa V tháng 8/1986. Những đổi mới tư duy kinh tế trên là tổng hợp của cả q trình tìm tịi, thử nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Đồng thời, chúng phản ánh sự phát triển nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng lợi ích của nhân dân để hình thành đường lối đổi mới. Để làm rõ hơn về những lợi ích, nhược điểm còn tồn

<i><b>đọng, so sánh rõ hơn về ba đột phá kinh tế trên, nhóm đã chọn đề tài: “So sánh 3 bước đột </b></i>

<i><b>phá kinh tế mới của Đảng (HNTW 6 tháng 8/1979; HNTW 8 tháng 6/1985; HN Bộ Chính trị khóa V tháng 8/1986)”. Qua đề tài này, ta thấy được việc đổi mới mang tầm vóc </b></i>

và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, tồn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Những tư duy đổi mới về kinh tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt về sau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>CHƯƠNG 1: CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ KINH TẾ MỚI CỦA ĐẢNG 1.1. Đột phá thứ nhất: Hội nghị Trung ương 6 tháng 8/1979 </b>

<i><b>1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử </b></i>

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn đất nước độc lập, thống nhất. Đây là con đường phát triển hợp quy luật nước ta, là điều kiện tiên quyết để đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. “Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau và ở nước ta, khi giai cấp cơng nhân giữ vai trị lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa.” Từ cuối những năm 70, đến đầu những năm 80 của thế kỷ XX, cách mạng nước ta giành được nhiều thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song còn nhiều khuyết điểm sai lầm, đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Yêu cầu bức thiết địi hỏi cách mạng nước ta thốt ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, ổn định tình hình mọi mặt đưa cách mạng tiến lên. Do đó, ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhanh chóng triệu tập Hội nghị Trung ương 6 khóa IV tháng 8/1979.

<i><b>1.1.2. Nội dung đột phá thứ nhất </b></i>

Mở đầu của quá trình đổi mới từng phần là Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (8 - 1979), họp bàn về những vấn đề cấp bách về kinh tế - xã hội và sản xuất hàng tiêu dùng. Hội nghị đã có những đổi mới tư duy quan trọng nhằm đảm bảo đúng đắn lợi ích vật chất của người lao động, của tập thể và từng người trong sản xuất, thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:

Trước hết, hội nghị Trung ương 6 đã nhìn thằng vào sự thật, vạch rõ những khuyết điểm, sai lầm trong lãnh đạo kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”. Cụ thể, phát triển cơ chế quan liêu bao cấp, tập trung kết hợp chặt chẽ kế hoạch hóa với sử dụng thị trường, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế,

<i>khắc phục sự bảo thủ, trì trệ trong việc xây dựng các chính sách kinh tế cụ thể. Kế đó, hội </i>

nghị chủ trương phải ban hành các chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Trước hết là sản xuất nơng nghiệp, với các chính sách nhằm ổn định mức nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần còn lại bán cho nhà nước với giá thỏa thuận và được tự do lưu thông. Hội nghị xác định rõ, phải tận dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tập thể kể cả tư bản tư nhân để tận dụng mọi khả năng lao động, cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ quản lý, nhằm phát triển sản xuất. Về cải tạo đối

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

với nông nghiệp ở miền Nam, cần phải nắm vững phương châm tích cực và vững chắc, chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, cưỡng ép theo mệnh lệnh, làm ồ ạt gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống của nhân dân.

Tháng 9 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định tận dụng đất đai nơng nghiệp hoang hố để phát triển sản xuất. Tháng 10 năm 1979, Hội đồng chính phủ cơng bố quyết định xố bỏ các trạm kiểm sốt khơng cần thiết, xố bỏ ngăn sơng, cấm chợ. Nhờ đó đạt được các kết quả tích cực, cụ thể năm 1979 sản lượng lương thực tăng 1.718.500 tấn so với năm 1978. Ngày 21/1/1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 26/QĐ-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khốn, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước góp phần làm cho sản xuất cơng nghiệp năm 1981 đạt kế hoạch đề ra, riêng công nghiệp địa phương tăng 7,5%. Ngày 23/6/1980, Bộ chính trị ra Nghị quyết 26/NQ-TW về cải tiến phân phối, lưu thông. Nghị quyết nhấn mạnh nguyên tắc giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và lưu thơng: tạo tiền đề cần thiết để tiến tới xoá bỏ từng bước chế độ cung cấp theo tem phiếu.

Trên cơ sở đó, Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 13 – 1 - 1981 của Ban Bí thư về cải tiến cơng tác khốn, mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã ra đời, làm cho người lao động thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng, do đó mà đem hết nhiệt tình lao động và khả năng ra sản xuất, đã bước đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp. Trên lĩnh vực công nghiệp, với Quyết định 25/CP, ngày 21 – 1 - 1981 của Hội đồng Chính phủ, cùng với Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khốn, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh, được áp dụng, bước đầu tạo ra động lực mới cho lĩnh vực công nghiệp..

Có thể nhìn nhận những tư duy đột phá về kinh tế được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá IV, trong Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư và trong các Quyết định của Chính phủ thời kỳ này là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và tồn diện, nhưng là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng. Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tịi đó là “cởi trói”, "giải phóng lực lượng sản xuất" , “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất : chú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao động. Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam gây ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để những chủ trương đổi mới phát huy tác dụng, những tìm tịi đổi mới ban đầu đó đã phải trải qua các thử thách rất phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn sâu, bám rễ trong nhiều người. Bên cạnh những tư duy cũ trên đây, trước đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, cũng đã xuất hiện khuynh hướng muốn đổi mới mạnh mẽ hơn, tiếp tục đẩy tới tư duy thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội.

<b>1.2. Đột phá thứ hai: Hội nghị Trung ương 8 tháng 6/1985 </b>

<i><b>1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử </b></i>

Tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IV diễn ra từ ngày 4 đến ngày 20 tháng 12 năm 1976, Đảng Lao động Việt Nam quyết nghị đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, áp dụng mơ hình kinh tế của Miền Bắc từ trước khi thống nhất cho cả nước và tiến hành kế hoạch 5 năm 1976–

<b>1980. Mơ hình kinh tế Thời kỳ bao cấp được lựa chọn đã bộc lộ những khuyết điểm ngay </b>

khi còn đang áp dụng ở miền Bắc, khi áp dụng ở miền Nam lại càng cho thấy không phù hợp, gây ra rất nhiều khó khăn cho các đơn vị và nhân dân. Những mất cân đối trong nền kinh tế chậm được khắc phục, tính năng động trong sản xuất kinh doanh khơng được phát huy, tài chính quốc gia ngày càng thiếu hụt, lạm phát nghiêm trọng, hệ thống giá của Nhà nước ngày càng tách rời giá trị và sức mua của đồng tiền, tiền lương thực tế và đời sống của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang ngày càng giảm sút, gây ra nhiều tiêu cực trong tâm lý và đời sống xã hội.

Trước thực tiễn đó, những sự thay đổi tư duy quản lý kinh tế đã hình thành, kể cả ở cấp đầu não chính trị, cấp địa phương, lẫn ở các đơn vị kinh tế. Thời kỳ 1979 – 1982 là thời kỳ có những chuyển biến trong tư duy về kế hoạch hóa kinh tế, về chính sách giá thu mua nơng sản, về khốn sản xuất. Kết quả là kinh tế Việt Nam thời kỳ này có những khởi sắc. Tuy nhiên, cũng có những hậu quả tiêu cực như tình trạng tranh mua, tranh bán đẩy giá lên cao, tình trạng kế hoạch tập trung của nhà nước bị các đơn vị kinh tế không chấp hành do mải chạy theo kế hoạch 2 (kế hoạch liên doanh liên kết) và kế hoạch 3 (kế hoạch làm ăn kiểu thị trường). Những mặt tiêu cực này đã khiến hình thành chủ trương xét lại chính sách này, thể hiện rõ qua Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ V vào tháng 3 năm 1982, hội nghị lần thứ 1 (tháng 9 năm 1982), thứ 3 (tháng 12 năm 1982), thứ 4 (tháng 6 năm 1983) và thứ 5 (tháng 12 năm 1983) của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

V, chiến dịch Z - 30... Giữa lúc chủ trương uốn nắn lại được đẩy mạnh thì Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh trước vốn là được xem là người bảo thủ đã có những thay đổi lớn về tư duy, đặc biệt là sau khi nghiên cứu những kết quả của các cải cách thời kỳ 1979 – 1982 và đi thực tiễn địa phương ở nhiều nơi. Ông đã nêu ra ý kiến cần đổi mới và phải đổi mới triệt để tại các Hội Nghị Trung Ương lần thứ 6 và 7. Đến hội nghị Trung ương 8 (tháng 6/1985), Ban chấp hành trung ương đã quyết nghị tiến hành một cuộc cải cách lớn về "giá – lương – tiền."

<i><b>1.2.2. Nội dung đột phá thứ hai </b></i>

Hội nghị Trung ương 8 tháng 6/1985 chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, chuyển sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đồng thời thừa nhận sản xuất hàng hóa và quy luật của sản xuất hàng hóa. Trong đó, lấy ba nội dung quan trọng của cái cách: Giá cả, tiền lương, tiền tệ (giá – lương – tiền) làm khâu đột phá có tính chất quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Về giá cả, Hội nghị thực hiện cơ chế một giá thống nhất trong tồn hệ thống, khắc phục tình trạng thả nổi trong việc định giá và quản lý giá, đánh giá đúng, đủ chi phí cho giá thành sản phẩm. Hội nghị nhấn mạnh việc điều chỉnh mặt bằng giá cả và cơ chế quản lý giá phải dựa trên các nguyên tắc: Xác định giá phù hợp với giá trị và sức mua của đồng tiền; Định giá trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa; Lấy giá thóc làm chuẩn để tính các loại giá khác và toàn bộ mặt bằng giá; Quản lý giá phải có phân cơng, phân cấp hợp lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Về tiền lương, Hội nghị đưa ra những chủ trương về xóa bỏ chế độ tiền lương hiện vật, thực hiện tiền lương tiền tệ gắn với xóa bỏ bao cấp. Chế độ tiền lương phải đảm bảo cho người lao động tái tạo sức lao động và gắn với chất lượng và hiệu quả lao động. Hội nghị đề ra các biện pháp nhằm thực hiện các yêu cầu nói trên như sau: “Bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá bù lỗ, chuyển sang chế độ trả lương bằng tiền, xác định lại hệ thống lương cơ bản thống nhất cả nước; Sắp xếp lại các mức lương, thang lương, phụ cấp, tiền thưởng; Tính phụ cấp đắt đỏ phải được Trung ương thống nhất quy định cho từng vùng; Điều chỉnh chế độ trợ cấp xã hội.

Về tiền tệ, Hội nghị xác định vấn đề tài chính và lưu thông tiền tệ cần phải được chấn chỉnh đồng thời cùng giá và lương, và các chủ trương là: Đầu tiên, trên

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

cơ sở phát triển sản xuất và cải tiến quản lý, phấn đấu hạ giá thành và phí lưu thơng, cần nắm chắc và huy động các nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thứ hai, thực hiện chế độ tự chủ tài chính của xí nghiệp làm cho giá, lương, tài chính, tín dụng,…phát huy đầy đủ chức năng đòn bẩy kinh tế, kích thích và địi hỏi các đơn vị kinh tế phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh xã hội chủ nghĩa, cải tiến kỹ thuật, làm ăn có hiệu quả. Thứ ba, điều chỉnh mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thực hiện chế độ phân cấp ngân sách trên cơ sở ba cấp cùng làm chủ, bảo đảm sự nhất trí giữa ba lợi ích (tồn xã hội, tập thể, cá nhân người lao động), tạo điều kiện cho địa phương chủ động khai thác các tiềm năng để phát triển kinh tế địa phương, tăng nguồn thu và chủ động bố trí ngân sách địa phương. Thứ tư, áp dụng các biện pháp có hiệu lực để cải tiến lưu thông tiền tệ, thu hút tiền nhàn rỗi, đẩy nhanh nhịp độ quay vòng đồng tiền. Chuyển mạnh hoạt động của ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, kịp thời đáp ứng những nhu cầu về vốn cho sản xuất - kinh doanh theo giá mới. Thứ năm, tăng cường sự kiểm soát bằng đồng tiền và kỷ luật về tài chính tiền tệ. Sửa đổi chế độ chi tiêu cho phù hợp với cơ chế mới, trên cơ sở đó nghiêm cấm mọi sự chi tiêu sai chế độ, chống lãng phí, nghiêm trị mọi hành vi tham ơ, lập quỹ đen.

Đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế...” Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cấp thiết và cấp bách. Cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp trong những năm trước đây (trước Đại hội VI) đã không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn phân phối lưu thông và làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Chính vì vậy mà Đảng ta tiếp tục chủ trương việc triển khai thực hiện một cách triệt để việc đổi mới cơ chế quản lý đã được đề ra tại Đại hội V. Cơ chế mới về quản lý kinh tế mới chính là “cơ chế kế hoạch hố theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>1.3. Đột phá thứ ba: Hội nghị Bộ Chính trị khóa V tháng 8/1986 </b>

<i><b>1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử </b></i>

<i>a. Bối cảnh quốc tế </i>

Sau chiến tranh Việt Nam, đế quốc Mỹ và phản động quốc tế cấu kết nhau lại bao vây, cô lập Việt Nam. Đế quốc Mỹ xiết chặt cấm vận về kinh tế bắt đầu từ tháng 5 - 1975 và lôi kéo các nước cắt viện trợ kinh tế cho Việt Nam.

Từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra những biến đổi to lớn. Trước âm mưu “Diễn biến hịa bình” của chủ nghĩa đế quốc, trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ, cùng với xu thế tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới, quá trình chạy đua kinh tế, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản có nhiều diễn biến phức tạp. Điều đó đã đặt hệ thống xã hội chủ nghĩa trước những thách thức mới. Việc vượt qua những thách thức đó diễn ra trong bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Trong khi đó các nước tư bản chủ nghĩa tuy cũng phải đối phó với những nguy cơ mới, nhưng do sự điều chỉnh cần thiết, đặc biệt là sử dụng những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên đã vượt qua được những khó khăn, kinh tế có bước tăng trưởng đáng kể.

Để thốt khỏi tình trạng khủng hoảng, Trung Quốc đã thực hiện cải cách mở cửa; Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tiến hành cải tổ, cải cách. Trong khi Trung Quốc có sự vượt lên mạnh mẽ thì những sai lầm về đường lối và cách làm đã khiến công cuộc cải tổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu ngày càng khó khăn, sự khủng hoảng toàn diện dần dần xuất hiện ở các nước này. Những thay đổi của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật và cuộc khủng hoảng tồn diện, trầm trọng của Liên Xơ cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đổi mới.

<i>b. Bối cảnh trong nước </i>

Ở Việt Nam, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bên cạnh thuận lợi và những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn đầu xây dựng đất nước, chúng ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới.

Về thuận lợi, đất nước thống nhất, hoà bình, có điều kiện phát huy trí tuệ tồn Đảng, tồn dân vào cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân cả nước phấn khởi, tự hào, tin tưởng vào Đảng và sự nghiệp đất nước. Những kinh nghiệm và thành quả của gần 20

</div>

×