Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Tài liệu tìm hiểu về các công ty sản xuất ô tô ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.3 MB, 117 trang )

Alfa Romeo ra đời như thế nào?

Alfa Romeo là một công ty sản xuất xe
hơi nổi tiếng của Italia, do Cavaliere Ugo
Stella, một nhà quý tộc ở Milan liên kết
với nhà sản xuất xe hơi Alexandre
Darracq sáng lập vào năm 1907, lấy tên
là "Darracq Italiana". Ban đầu, nhà máy
sản xuất được đặt ở Naples nhưng sau
đó, Stella đã dời xưởng về vùng ngoại ô
Milan và đổi tên thành
ALFA (Anonima
Lombarda Fabbrica Automobili).


Chiếc 1910 24HP do Giuseppe Merosi thiết kế là chiếc xe đầu tiên khôn
g
còn
mang nhãn hiệu Darracq. Sau đó Merosi cũn
g
tiếp tục thiết kế nhiều mẫu xe
ALFA mới được trang bị động cơ mạnh mẽ hơn (40-60hp). ALFA cũn
g
tham
gia vào các giải đua xe quốc tế tuy nhiên do ảnh hưởn
g
của chiến tranh th
ế

giới thứ nhất, ALFA đã phải ngưng sản xuất xe trong 3 năm.


ALFA bắt đầu nằm dưới sự điều hành của
Nicola Romeo từ năm 1916 và chuyển sang sản
xuất vũ khí quân dụng hạng nặng cho quân đội
Italia và các đồng minh của Italia. Trong suốt
thời kỳ chiến tranh, ALFA đã sản xuất vũ khí và
động cơ cho máy bay, máy phát điện và đầu
máy xe lửa. Khi chiến tranh kết thúc, Nicola
Romeo đã hoàn toàn tiếp quản ALFA và công ty
tiếp tục sản xuất xe hơi trở lại.


Năm 1920, ALFA đổi tên thành Alfa Romeo và mẫu xe đầu tiên ra mắt là
chiếc Torpedo 20-30HP. Giuseppe Merosi vẫn là nhà thiết kế chính cho Alfa
Romeo và công ty vẫn tiếp tục cho ra đời những mẫu xe hơi dân dụn
g
và xe
đua danh tiếng (trong đó có cả chiếc 40-60HP và RL Targa Florio).


Năm 1923 Vittorio Jano bỏ Fiat đến đầu
quân cho Alfa Romeo, thay thế vị trí
thiết kế trưởng của Merosi, một phần là
nhờ sự thuyết phục của tay đua trẻ tuổi
Enzo Ferrari của đội Alfa Romeo. Chiếc
xe đầu tiên do Jano thiết kế là chiếc P2
Grand Prix, chiếc xe giành giải vô địch
thế giới năm 1925. Jano cũng đã phát
triển hàng loạt những chiếc xe dân
dụng, từ những chiếc xe có dung tích xi
lanh lớn/nhỏ với động cơ I4, I6 hay I8

dựa trên động cơ P2. Năm 1928, sau khi



Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hợp đồng vũ khí quốc phòng hết hiệu lực, Alfa Romeo gần như đứn
g
bên bờ
vực phá sản. Alfa Romeo bắt đầu nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ Italy
vào năm 1933. Kể từ đó, Alfa Romeo còn nổi tiến
g
với nhữn
g
mẫu xe thiết k
ế

dành riêng cho cảnh sát ("Panthers" Carabinieri, Giulia Super, hay 2600 Sprint
GT…).



Sau Thế chiến II, Alfa Romeo
cố gắng khôi phục sản xuất từ
đống đổ nát do chiến tranh
gây ra. Những chiếc xe hơi
sang trọng và những chiếc xe
cỡ nhỏ bắt đầu được sản xuất
hàng loạt ở các nhà máy của
Alfa Romeo.



Trên đường đua, các xe Alfa
Romeo đã giành được rất
nhiều chiến thắng vinh quang
trong nhiều giải đấu, từ giải
Formula 1, Prototypes, Touring đến giải Fast Touring.

Tuy nhiên, đầu những năm 1970, Alfa lại một lần nữa gặp khó khăn về tài
chính. Chính phủ Italia buộc phải bán Alfa Romeo cho Fiat, tập đoàn Alfa
Lancia Spa ra đời, mở đầu cho kỷ nguyên của Alfa và Lancia. Cho đến nay,
Alfa Romeo vẫn thuộc sở hữu của Fiat.

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Audi AG ra đời như thế nào?

Hiếm nhà sản xuất xe hơi nào lại có lịch sử phát triển hào hùng hay
sở hữu một bộ sưu tập những chiếc xe danh tiếng thế giới như Audi.
Không chỉ đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển công nghệ
mới cho xe hơi, Audi còn xứng đáng là "bá chủ" trên các đường đua
đường trường.
Kỷ nguyên của Auto Union AG
Năm 1932, Audi sát nhập với Horch,
DKW và Wanderer thành lập nên Auto
Union AG. Bắt đầu một kỷ nguyên mới
của tập đoàn xe hơi hạng sang.

Năm 1933, lần đầu tiên Auto Union AG
tham gia German Automobile Exhibition.
Audi đã đem đến triển lãm một bất ngờ
lớn với một chiếc xe cỡ vừa dẫn động cầu

trước. Chiếc xe concept này đã được
phát triển và đến 1938, Audi 920 chính thức có mặt trên thị trường. Với thiết
kế hiện đại, động cơ OHC 75hp mạnh mẽ, chiếc xe có thể đạt vận tốc tối đa
140km/h. Audi 920 thực sự trở thành niềm mơ ước của những người năng
động, ưa mạo hiểm luôn khao khát có
một chiếc xe nhỏ nhưng mạnh mẽ.
Trong khi đó, DKW chủ yếu được biết
đến là một trong những nhà sản xuất xe
máy lớn nhất thế giới. Năm 1933, DKW
ra mắt mẫu xe mới sử dụng 8 động cơ
175-600cc và năm 1934, chiếc RT 100
xuất hiện trên thị trường và nhanh chóng
trở thành chiếc xe bán chạy nhất mọi
thời đại. Vị thế của DKW càng được củng
cố hơn với sự ra đời của 200 Class và NZ
(1938). Ô tô cỡ nhỏ của DKW được sản
xuất ở Berlin-Spandau và Zwickau. Các
mẫu xe 4WD của DKW, bao gồm các mẫu F2, F4, F5, F7 và F8, được phân
chia làm 2 hạng: hạng Reichsklasse (Rich class - động cơ 600cc 18hp) và
Meisterklasse (Master class - động cơ 700cc 20hp). Ngoài ra, DKW còn giới
thiệu mẫu xe mui xếp “Front Luxus”. Xe DKW Front vẫn tiếp tục dẫn đầu
trong số các xe cỡ nhỏ bán chạy nhất ở Đức: Vào những năm 1930, 250.000
chiếc DKW Front đã được tiêu thụ ở Đức.

Năm 1933, Horch giới thiệu hàng loạt động cơ V8 với dung tích xi lanh 3,0L,
3,5L và 3,8L (công suất cực đại 70-92hp). Năm 1935, Horch giới thiệu chiếc
Logo của Audi

Audi 920 - M


t tron
g
nhữn
g
mẫu
xe kinh điển

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
xe thể thao mui xếp Type 853 sử dụng động cơ I8. Năm 1937, Horch chiếm
tới hơn 50% thị phần xe trên 4.0L.
Từ trước khi sát nhập với Audi, Horch và
DKW thành Auto Union AG, Wanderer đã
sử dụng động cơ OHC do Giáo sư
Porsche thiết kế. Wanderer lần lượt giới
thiệu model W21 và W22 (1933), W40,
W45 và W50 (1935). Động cơ Horch V8
dần được thay thế bằng động cơ I6. Auto
Union ngày càng đạt được nhiều tiến bộ
vượt bậc trong việc phát triển hộp số tự
động và tìm kiếm vật liệu mới để sản
xuất thân xe.

Hơn nữa, nhận thấy việc sản xuất khung gầm bằng gỗ và nội thất bọc da quá
tốn kém, Auto Union AG hợp tác với Dynamit AG (Troisdorf) để nghiên cứu,
phát triển thân xe bằng plastic. Lần đầu tiên trong lịch sử ngành công nghiệp
ô tô Đức người ta đã tiến hành một chương trình kiểm tra độ cứng của gỗ,
thép tấm và plastic.
Auto Union AG mở rộng khá nhanh trong giai đoạn 1933-1939 với doanh thu
tăng từ 65 triệu lên 276 triệu (Reichsmark) và 23,000 nhân công. Sản lượng
hàng năm của Auto Union cũng tăng vọt: Xe máy từ 12,000 xe/năm lên

59.000 xe/năm và ô tô từ 17.000 xe/năm lên 67.000xe/năm. So với năm
1932 (năm thành lập Auto Union), năm 1938, sản lượng của Horch tăng gấp
đôi, Wanderer tăng gấp 5 lần còn DKW tăng tới 10 lần.

Sự tạm dừng và bước khởi đầu mới
Sau khi chiến tranh kết thúc, toàn bộ nhà
xưởng, thiết bị sản xuất của Auto Union
AG bị quân đội Liên Xô cũ tiếp quản.
Năm 1949, Ban Giám đốc của Auto Union
AG đã dời công ty về Bavaria và thành
lập trụ sở mới tại Ingolstadt.

Năm 1954, công ty đạt được mức siêu lợi
nhuận (400.000 DM) nhưng tháng
08/1954 ở Bavaria đã nổ ra một cuộc
đình công lớn và Auto Union đã phải chi
khoảng 920.000 DM cho vụ này. Cũng trong năm này, Friedrich Flick, cổ đông
lớn nhất của tập đoàn Sắt thép Maxhutte, đầu tư vào Auto Union.
Năm 1957, Daimler-Benz tỏ ý muốn thâu tóm Auto Union để mở rộng sản
xuất và tăng thị phần. Kế hoạch này được Flick hoàn toàn ủng hộ. Khi đó,
Flick nắm giữ trong tay 41% cổ phần của Auto Union và 25% cổ phần của
Daimler-Benz. Ngoài ra, Flick còn được nhà tư bản người Thuỵ Sỹ Ernst
Göhner, người cũng nắm giữ tới 41% cổ phần của Auto Union, hậu thuẫn.
Thiết kế tinh tế

Nội thất sang trọng

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Ngày 24/04/1958, Daimler-Benz mua vào
88% cổ phần của Auto Union chỉ với giá

41 triệu DM. Chưa đầy một năm sau,
Daimler-Benz đã thâu tóm toàn bộ Auto
Union. Một nhà máy mới được xây dựng
ở Ettinger Strasse và bắt đầu đi vào sản
xuất vào tháng 07/1958. Lực lượng lao
động sản xuất của Auto Union ở
Ingolstadt tăng lên 3.700 người (1958)
và 5.700 người (1959).

Năm 1962, doanh thu của Auto Union bắt
đầu giảm sút, trong khi Daimler-Benz
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đến năm
1964, Auto Union đối mặt với khó khăn
nghiêm trọng về tài chính. Daimler-Benz nhận thấy không thể tiếp tục gánh
vác thua lỗ cho Auto Union bèn tìm cách bán công ty này cho Volkswagen.

Kỷ nguyên mới của Audi

Sự chuyển giao quyền sở hữu Auto Union đặt dấu chấm hết cho kỷ nguyên
động cơ hai kỳ. Gần 30.000 chiếc ô tô mang nhãn hiệu DKW bị tiêu huỷ. Nhà
máy của Auto Union được dùng làm nơi lắp ráp VW Beetle. Cuối năm 1965,
Auto Union phục hồi đôi chút nhờ có sự ra đời của những chiếc xe Audi bốn
kỳ mới. Ngày 10/03/1969, Auto Union GmbH sát nhập với NSU Motorenwerke
AG, và ngày 01/01/1969đổi tên là Audi NSU Union AG. Sản lượng của cả NSU
và Audi tăng đều đặn đến cuối 1973 nhưng đến năm 1974, do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng dầu mỏ, sản lượng của Audi NSU Union AG giảm mạnh, từ
400.000 xe (1973) xuống
còn 330.000 xe (1974).
Cuối năm 1975, ngành công
nghiệp ô tô Đức bắt đầu hồi

phục trở lại. Tháng 3/1977,
chiếc xe mang nhãn hiệu
NSU cuối cùng xuất xưởng.
Kể từ đó, mọi chiếc xe do
công ty sản xuất đều mang
nhãn hiệu “Audi”. Sự ra đời
của chiếc xe thể thao 4WD
Audi Quattro năm 1980 thực
sự làm chấn động ngành sản
xuất ô tô thế giới, đưa Audi
lên vị trí hàng đầu về công
Động cơ mạnh mẽ

Xứng danh ông hoàng xe hơi

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nghệ. Đây là chiếc xe thương mại đầu tiên được trang bị hệ thống dẫn động
chủ động bốn bánh.

Ngày 01/01/1985, Audi NSU Union AG được đổi tên thành AUDI AG. Trụ sở
của công ty đồng thời cũng được chuyển về Ingolstadt. Cũng trong năm
1985, lần đầu tiên công ty dạt tổng vốn đầu tư lên tới 1 tỉ DM. Mùa thu năm
1986, Audi giới thiệu Audi 80 mới với thân xe mạ kẽm. Đến năm 1986, khi
Audi 80 trở nên lạc hậu, Audi cho ra mắt chiếc Audi 89 và mẫu xe này nhanh
chóng được ưa chuộng rộng rãi. Năm 1987, Audi giới thiệu Audi 90 mới và
trang nhã với hàng loạt những tính năng mới.

Năm 1988, Audi tung ra thị trường chiếc xe hạng sang đầu tiên, chiếc Audi V8
trang bị động cơ V8 3,6L - 4 van. Năm 1992, chiếc xe Audi 80 TDI du hành
một vòng quanh thế giới, vượt qua quãng đường 40.273km với vận tốc trung

bình 85,8km/h và mức tiêu hao nhiên liệu 3,78L/100km (74,7mpg). Năm
1991, Audi đạt mức doanh thu kỷ lục 14,8 tỉ DM. Sự
ra đời của Audi A4 đã
đem lại thành công rực rỡ cho Audi: Năm 1995, 120.000 chiếc Audi A4 được
tiêu thụ ở Đức.
Cuối năm 1995, danh tiếng của Audi
càng được củng cố hơn khi hai chiếc
concept TT Coupé và TT Roadster ra đời.
Tiếp đó, Audi giới thiệu chiếc compact 2
cửa Audi A3 (1996) và Audi A6 (1997).

Hiện nay, doanh số xe bán ra của Audi
trên thị trường châu Âu liên tục tăng
nhanh. Năm 2004, 779,441 chiếc Audi đã
được tiêu thụ trên toàn thế giới, trong
đó, doanh số xe bán ra c
ủa Audi tăng
mạnh nhất ở Trung Đông (tăng 58,5%), Đông Âu (tăng 19,3%) và ở châu Phi
(tăng 17,2%).

Mặc dù không thông dụng như xe của Mercedes-Benz hay BMW, nhưng ô tô
của Audi vẫn luôn là biểu tượng của công nghệ cao và thiết kế tinh tế.
Audi Quattro - mẫu xe huyền thoại
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thương hiệu Toyota ra đời như thế nào?

Những người ưa thích tìm hiểu
lịch sử các nhà sản xuất xe hơi
hẳn đã quá biết về người sáng
lập ra tập đoàn sản xuất xe hơi

hàng đầu hiện nay Toyota
Motors Company chính là người
thợ mộc tài hoa Sakichi Toyoda.
Không chỉ có vậy, khi mới được
thành lập, nhà sản xuất xe hơi
này lại mang tên Toyoda
Automatic Loom Works Ltd. Vậy
thì cái tên Toyota thực chất có
từ bao giờ?

Quay ngược thời gian trở về với năm 1936, để chón chào sự kiện chiếc xe du
lịch đầu tiên ra đời, Toyoda Automatic Loom Works Ltd. đã tổ chức một cuộc
thi thiết kế biểu trưng nhằm quảng bá hình ảnh của công ty. Yêu cầu đặt ra
đối với biểu trưng này đó là phải khơi gợi cảm giác hưng phấn giống nh
ư

đang ngồi trên một chiếc xe chạy với vận tốc cao. 27.000 thí sinh đã hưởn
g

ứng cuộc thi này.

Người thắng cuộc là một chàng trai đã
sáng tạo và mạnh dạn đề xuất ý tưởng
đổi tên công ty và những chiếc xe hơi
này thành "Toyota". Con trai của Sakichi
Toyoda - Kichiro Toyoda gần như ngay
lập tức bị ấn tượng bởi cái tên mới này
và tuyên bố đổi tên Toyoda thành
Toyota."Toyota" trong tiếng Nhật rõ
ràng có cách viết bay bướm hơn rất

nhiều so với từ "Toyoda". Hơn nữa, để
viết được từ "Toyota", người ta phải viết 8 nét – con số này trong văn hoá
Nhật vốn là một biểu tượng cho sự may mắn và thịnh vượn
g
. Cách phát âm
của Toyota cũng rắn rỏi và mạnh mẽ hơn hẳn so với Toyoda. Thán
g
4/1937,
Toyota chính thức được đăng ký bản quyền thương mại. Mẫu xe Model AA,
chiếc xe du lịch đầu tiên của Toyota cũng chính là chiếc xe đầu tiên man
g

thương hiệu Toyota .


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tuy nhiên, đây vẫn chưa thể coi là thành
công thực sự của Toyota. Do chưa thể
định hướng được thương hiệu cũng như
cách quảng bá thương hiệu một cách
hiệu quả, rộng khắp, thương hiệu Toyota
được mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ
hiểu theo một cách khác nhau. Điều đó
có nghĩa là, cùng một thương hiệu
nhưng lại mang quá nhiều cách diễn đạt,
khiến cho hình ảnh và thông điệp của
công ty không nhất quán.

Năm 1989, nhằm tạo ra một hình ảnh và một thông điệp nhất quán về
thương hiệu Toyota, và cũng để tách biệt Toyota khỏi thương hiệu xe hơi

hạng sang Lexus, Toyota đã thiết kế mẫu logo mới – chính là logo hiện nay
của Toyota.

Logo mới này gồm 3 hình elíp lồng vào
nhau. Hai hình elíp nhỏ ở giữa, lồng
vuông góc với nhau tượng trưng cho mối
quan hệ gắn kết, sự tin tưởng lẫn nhau
giữa khách hàng và Toyota, đồng thời
tạo thành chữ T trong từ "Toyota". Hình
elíp thứ ba tạo thành nền của logo, hàm
ý sự phát triển không ngừng của Toyota
trong lĩnh vực công nghệ xe hơi cũng
như sự phát triển vượt bậc của công ty
trong tương lai.

Không chỉ có vậy, ngày nay, khi thương hiệu Toyota đã trở nên nổi tiến
g
toàn
thế giới và là lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùn
g
, 3 hình elíp này còn
biểu hiện những đặc tính rất riêng của Toyota. Đó là chất lượn
g
, sự tin cậy và
tinh thần không ngừng đổi mới.


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
BMW có lịch sử phát triển như thế nào?




Tòa nhà "tổng hành dinh" của BMW đư

c xây dựn
g
m
ô

phỏng theo hình dáng của bốn chiếc xi-lanh

Trước Thế chiến II

BMW được Karl Friedrich Rapp thành lập vào tháng 10/1913. Ban đầu, thực
chất đây là một nhà máy sản xuất động cơ máy bay (Bayerische Flugzeug-
Werke) có trụ sở tại Milbertshofen, Munich. Do gặp khó khăn về tài chính,
Rapp phải cầu viện trợ giúp từ Camillo Castiglioni và Max Friz và công ty được
cơ cấu lại thành Bayerische Motoren Werke GmbH (BMW GmbH).
Năm 1918, Franz Josef Popp, một nhà tư bản
người Áo, chính thức tiếp quản BMW từ năm
1917 và đổi tên công ty thành BMW AG. Sau
Thế chiến I, Hiệp ướcVersailles (1919) nghiêm
c
ấm sản xuất máy bay tại Đức. Otto đóng cửa
nhà máy và chuyển sang sản xuất phanh hơi
cho tàu hoả.
Chiếc ô tô đầu tiên do BMW chế tạo là chiếc
BMW 3/15 (1928) song mãi đến tận 1933 chiếc
xe thực sự "BMW", trang bị động cơ I6, mới ra đời. Trước Thế chiến II, cả hai
chiếc sedan 327 và chiếc roadster 328 của BMW đều đã hiện đại và tân tiến

hơn rất nhiều so với những chiếc xe cùng thời khác.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thế chiến II

BMW là nhà cung cấp chính về động cơ cho
Luftwaffe và Wehrmacht, trong đó có cả động
cơ 801. BMW cũng sản xuất cả động cơ máy
bay phản lực, động cơ BMW 003 và vũ khí tên
lửa. Cuối Thế chiến II, nhà máy BMW ở Munich
bị bom tàn phá nặn
g
nề còn các nhà máy ở Eisenach, Dürrerhof, Basdorf và
Zühlsdorf thì bị Liên Xô cũ chiếm đóng.
Sau Thế chiến II, BMW bị quân Đồng Minh cấm mọi hoạt độn
g
sản xuất cho
đến tận năm 1952. Ở miền Đông, nhà máy của BMW ở Eisenach chịu sự quản
lý của Tập đoàn Awtowelo, một doanh nghiệp quốc doanh. Kể từ đó, các xe
của BMW mang thương hiệu EMW đến tận năm 1955. Ở miền Đông, nhà sản
xuất máy bay Bristol BAC quản lý các nhà máy của BMW, sau đó đem các
mẫu 326, 327 và 328 về Anh dưới danh nghĩa bồi thườn
g
thiệt hại chiến
tranh.
Thời kỳ sau chiến tranh

Năm 1952, lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ 2 BMW tái sản xuất xe
du lịch song mẫu xe này đã không thể len chân vào thị trườn
g
xe hạn

g
nhất.
Năm 1959, BMW dự định sát nhập với Daimler-Benz song Chủ tịch Hội đ

n
g

Quản trị của BMW - Kurt Golda đã thuyết phục được cổ đông lớn nhất
Herbert Quandt thay đổi quyết định.
Vươn ra ngoài lãnh thổ nước Đức BMW bắt đầu
sản xuất xe hơi ở Spartanburg, South Carolina
năm 1994. Nhà máy này hoạt động 6 ngày một
tuần, nghĩa là chế tạo xe hơi liên tục trong
110h/tuần, sử dụng 4.700 nhân công và sản
lượng lên tới 500 chiếc mỗi ngày. Hiện nay, nhà
máy này hàng năm xuất khẩu hơn 50,000 chiếc
BMW 3 Series, chủ yếu sang thị trường Mỹ,
Nhật, Úc, châu Phi và Trung Đông. Xe hơi của
BMW cũng bắt đầu được sản xuất ở Shenyan
g
, Trun
g
Quốc vào thán
g
10/2003, thông qua một liên doanh của BMW với nhà sản xuất xe hơi Trun
g

Quốc Brilliance nhằm sản xuất BMW 3 Series và 5 Series cho thị trườn
g
nội

địa.
Tiếp quản Rover & Rolls-Royce
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Từ năm 1994 đến 2000, dưới sự lãnh đạo của
Bernd Pischetsrieder, BMW mua lại Rover Group
của British Group với mục đích đưa xe vào sản
xuất hàng loạt. Kể từ đó hàng loạt mẫu xe du
lịch danh tiếng của Rover như Mini, Land Rover
và Ranger Rover và cả mẫu xe lịch sử Triumph
đều thuộc sở hữu của BMW. Tuy nhiên, công việc kinh doanh không được
suôn sẻ. Trong nhiều năm, xe Rover cạnh tranh gay gắt với BMW tron
g
sản
xuất, giành giật thị phần và thậm chí là ở cả chiến lược tiếp thị. Nhận thấy
khó khăn trong việc phát triển Rover son
g
son
g
với BMW, BMW liên tiếp thay
đổi chiến lược marketing cho bộ phận Rover. Năm 2000, sau 6 năm thua lỗ
liên tiếp, BMW bán Rover cho Phoenix Consortium với giá rẻ mạt, đ

n
g
thời
bán Land Rover và Range Rover cho Ford Motors.
Đầu những năm 1990, BMW bắt đầu hợp tác
với Rolls-Royce. Kể từ đó, Rolls-Royce Silver
Seraph và Bentley Arnage sử dụng dộng cơ của
BMW. Năm 1998, BMW đã mua lại thương hiệu

Rolls-Royce với giá 40 triệu đôla.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
"Chiến binh" Jeep ra đời như thế nào?



Hiện nay là thương hiệu xe hơi của DaimlerChrysler nhưng ban đầu, "
j
eep"
được dùng để chỉ chiếc Bantam BRC - một chiếc xe quân sự. Mẫu xe này
cũng được Willys-Overland và Ford Motor Company tham gia sản xuất tron
g

thời kỳ Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Ngoài ra, người ta còn dùn
g
từ "
j
eep"
để chỉ dòng xe SUV - xe thể thao đa dụng.
Chiếc xe jeep đầu tiên chính là chiếc Bantam
BRC do American Bantam sản xuất theo đơn
đặt hàng của quân đội Hoa Kỳ. Chiếc xe nà
y

thực sự đáp ứng được mọi yêu cầu của quân
đội, nhưng đáng tiếc American Bantam Car
Company lại là một côn
g
ty "vô danh tiểu tốt".
Quân đội Hoa Kỳ cho rằn

g
côn
g
ty này khôn
g

thể cung ứng được số lượn
g
lớn xe Jeep. Chính
vì vậy, Willys-Overland và Ford Motor Company
đã thử sản xuất xe jeep, sau khi quan sát chiếc xe
j
eep của American
Bantam. Nhiều người cho rằng Willys và Ford đã tham khảo các bản kỹ thuật
của Bantam để chế tạo thế hệ jeep thứ hai này.
Cả 3 mẫu xe này (mỗi mẫu 1500 chiếc) đã được đem đi thử n
g
hiệm, cuối
cùng Willys, do trả thầu thấp nhất, đã trúng thầu hợp đ

n
g
chế tạo xe
j
eep
đầu tiên. Công ty này đã
chế tạo ra mẫu xe được coi là mẫu
j
eep tiêu
chuẩn - mẫu xe jeep quân đội MB. Tuy nhiên,

cũn
g

g
iốn
g
American Bantam, Willys cũn
g
chỉ là
một hãng sản xuất xe hơi nho nhỏ, và quân đội
Hoa Kỳ không thể không lo ngại về khả năn
g

cung ứng xe jeep của hãng. Hơn nữa, vì Willys
chỉ có một xưởng sản xuất duy nhất, nên n
g
uy
cơ nguồn cung ứng bị gián đoạn hoặc cắt đứ
t


Bantam BRC-40


Willys MB (1941-1945)

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
rất dễ xảy ra nếu xưởng sản xuất này bị phá huỷ. Đây là lý do khiến chính
phủ Hoa Kỳ đã yêu cầu Ford tham
g

ia sản xuât xe
j
eep, lấy nhãn hiệu là GPW
(G = xe của chính phủ, P = chiều dài cơ sở, W = thiết kế của Willys). Nh
ư

vậy là, dưới sự chỉ đạo của Charles E. Sorensen (Phó Chủ tịch Ford tron
g
thời
kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ 2) đã sản xuất tới hơn 600.000 chiếc xe jeep.
Xe jeep nhanh chóng được nhân bản trên hầu khắp thế
g
iới, với nhiều phiên
bản khác nhau. Mẫu xe này thậm chí còn phục vụ Hồn
g
quân Liên Xô tron
g
suốt Chiến tranh Thế giới lần thứ 2)
Thương hiệu Jeep đã đổi chủ khôn
g
ít lần. Jeep
thuộc quyền sở hữu của Willys vào năm 1941,
sau đó Willys được bán cho Kaiser năm 1953,
đổi tên thành Kaiser-Jeep. Sau đó, Jeep hoạt
độn
g
khôn
g
hiệu quả, American Motors (AMC)
đã mua lại thương hiệu Jeep từ tay Kaiser vào

năm 1970. Sau đó, Chrysler Corporation đã
mua lại AMC năm 1987, chỉ một thời
g
ian n
g
ắn
sau khi mẫu Jeep CJ được thay thế bởi mẫu
Jeep Wrangler (YJ) do AMC thiết kế. Cuối cùn
g
, khi Chrysler sát nhập với
Daimler-Benz, năm 1998, thương hiệu Jeep lại thuộc quyền sở hữu của
DaimlerChrysler.
Các dòng xe Jeep
Jeep quân sự

Bantam phát triển mẫu thiết kế thử nghiệm thành model BRC-40 - đây là một
chiếc xe nhẹ, dễ điều khiển. Trái ngược hẳn với BRC-40 là mẫu MA - chắc
chắn và mạnh mẽ. Đây chính là dòng xe đã phục vụ Hồn
g
quân Liên Xô.
Trong khi đó, model MB (1942-1945) lại giành được sự tín nhiệm tuyệt đối t


phía quân đội Hoa Kỳ. "Người hùn
g
" của cuộc Chiến tranh Thế
g
iới lần thứ 2
đã thay đổi hoàn toàn cách nhìn của người Mỹ về xe hơi. Cái tên Jeep cũn
g

ra
đời trong thời điểm lịch sử này.

M422 là mẫu xe AMC chế tạo dành riêng cho lính thuỷ đánh bộ Hoa Kỳ - đây
là mẫu xe sử dụng động cơ V4 làm mát bằn
g
khôn
g
khí. Một chiếc Jeep khá
quen thuộc nữa chính là dòng xe Humvee hiện nay được quân đội Hoa Kỳ hế
t

sức ưa chuộng - HMMWW (Highly Mobile Multi-Purpose Wheeled Vehicle).
Từ thành công của dòng MB, Willys đã phát triển nhữn
g
chiếc xe
j
eep dân s


(civillian jeep). Hầu hết các dòng xe jeep dân sự được sản xuất với số lượn
g

rất hạn chế (vài chục chiếc), ngoại trừ mẫu CJ-5 với hơn 600.000 chiếc được
sản xuất liên tục trong gần 30 năm. Willys cũn
g
phát triển chiếc DJ
(Dispatcher Jeep) thành nhữn
g
chiếc

j
eep mui cứn
g
. Sau này, vào khoản
g
giữa thập niên 80, AMC lại tung ra thị trườn
g
mẫu Jeep Wran
g
ler (doanh s



CJ-3B

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
khoảng 623.000 chiếc).
Jeep dân sự

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Biểu tượng Ford ra đời từ bao giờ?

Suốt hơn 100 năm lịch sử nghiên cứu, chế tạo và phát triển xe hơi,
Ford đã không ít lần thay đổi mẫu mã biểu
trưng của mình.
Năm 1903, lần đầu tiên thương hiệu “Ford Motor
Company” được dùng trong các giao dịch thương
mại. Sau đó, khi mẫu xe Model A được sản xuất
hàng loạt, Ford đã có những cải tiến đặc biệt để
biến tên công ty trở thành biểu tượng của hãng

bằng cách lồng tên công ty vào một khung viền
cực kỳ thời trang vào thời đó.
Cùng với sự ra đời của hàng loạt mẫu xe mới
cũng như những thuận lợi hiếm có trong công việc kinh doanh, Ford nhận
thấy sự cần thiết trong việc đơn giản hoá biểu tượng của mình. Năm 1906,
Ford trình làng một mẫu biểu trưng hoàn toàn mới. Chữ Ford viết nghiêng 45
o

được cách điệu ở chữ
F
và chữ
D
với đuôi vắt xuống thật dài nhưng cũng thật
mềm mại, bay bổng và tinh tế. Mẫu biểu trưng này được đăng ký bản quyền
tại văn phòng phát minh sáng chế Mỹ năm
1909.
Bên cạnh logo đã được đăng ký tại Mỹ, biểu
tượng Ford hình ô-van lần đầu tiên được các công
ty Perry, Thornton và Schreiber đưa vào Anh năm
1907. (Đây cũng chính là những người tiên phong
trong việc đưa Ford vào nước Anh và thành lập
Ford Ltd. tại Anh sau này). Biểu tượng hình ô-van
này được dùng để quảng cáo cho các sản phẩm
của Ford - “Dấu chứng nhận cho lòng tin và sự tiết kiệm ”.
Bằng việc kết hợp chữ Ford cách điệu với kiểu dáng hình ô-van, năm 1911,
Ford đưa ra logo và sử dụng thống nhất tại các đại lý ở Anh. Tuy nhiên, trên
các sản phẩm và trong các giao dịch thương mại, Ford vẫn dùng logo đầu
tiên cho đến tận thập niên 1920.
Đã có thời gian Ford thay thế hoàn toàn logo hình ô-van bằng logo cánh chim
hình tam giác trên các sản phẩm của mình. Logo này được thiết kế tượng

trưng cho tốc độ, sự nhẹ nhàng, sự duyên dáng và ổn định. Logo có hai màu,
vàng và xanh sậm, trên đó mang dòng chữ “Universal Car”. Henry Ford không
thích biểu tượng này, chính vì vậy chẳng bao lâu sau người ta không còn thấy
nó trên các sản phẩm của Ford.


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Model A 1927 là mẫu xe đầu
tiên có gắn logo hình oval
trên lưới tản nhiệt. Với nền
màu xanh hoàng gia thẫm
tương tự với logo ngày nay
của Ford, logo này được sử
dụng trong hầu hết các mẫu
xe Ford cho đến cuối thập
niên 1950. Mặc dù logo hình
ô-van vẫn được sử dụng
thống nhất trong toàn bộ
các giao dịch thương mại,
nhưng mãi đến giữa thập niên 1970, người ta mới lại thấy biểu trưng hình ô-
van này xuất hiện trở lại trên các xe Ford.
Năm 1976, logo Ford hình ô-van với hai gam màu xanh và bạc trở thành dấu
hiệu chứng nhận thương hiệu của Ford Motor Company, nhằm thể hiện một
hình ảnh nhất quán về công ty, các nhà máy, cơ sở vật chất cũng như các
mẫu xe và tất cả những tài sản thuộc Ford Motor Company.
Ngày 17/06/2003, kỷ niệm 100 năm thành lập, Ford Motor Company đã đưa
ra một phiên bản mới của logo hình ô-van có đôi chút thay đổi, nhưng không
nhiều và không dễ nhận thấy. Logo hoàn toàn mới này có tên là "Logo Kỷ
niệm 100 năm ngày thành lập" (Ford Centennial Logo).


Sứ mệnh trườn
g
tồn của Ford: sản phẩm tuyệt vời, côn
g
ty
hùng mạnh và vì một thế giới tươi đẹp hơn.


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Biểu tượng của Audi có ý nghĩa như thế nào?

Năm 1932, Auto Union quyết định chọn biểu tượng 4 hình tròn xếp lồng vào
nhau, tượng trưng cho 4 công ty tiền thân của tập đoàn sản xuất xe hơi này.
Tất cả các hình tròn có kích thước hoàn toàn bằng nhau, nằm bình đẳng trên
một đường ngang, lồng vào nhau, thể hiện sự đoàn kết và tôn trọng lẫn
nhau.
Horch
August Horch, một trong những người tiên
phong của ngành công nghiệp ô tô Đức, chính là
người đã sáng lập ra Horch Werke. Horch đã
từng giữ những chức vụ cao nhất ở nhà máy
sản xuất động cơ Carl Benz ( Mannheim). Năm
1899, Horch quyết định thành lập công ty sản xuất ô tô riêng ở Cologne, lấy
tên là Horch & Cie. Ông dời công ty về Reichenbach (1902) và Zwickau
(1904), và bắt đầu sản xuất ô
tô sử dụng động cơ 4 xilanh.
Tuy nhiên, do bất đồng quan
điểm với Hội đồng Giám sát và
Hội đồng Quản trị của công ty,
August Horch rời khỏi Horch &

Cie. Năm 1931, Horch-Werke
giới thiệu mẫu xe mới tại Paris
Motor Show: Một chiếc mui
xếp thể thao với động cơ 12
xilanh, màu vàng tươi, mui xếp
màu nâu nhạt, nội thất bọc da.
Trong phân khúc xe hạng
sang, Horch luôn dẫn đầu với
doanh số bán ra luôn cao hơn các đối thủ của mình khoảng 30%. Tuy nhiên,
sau đó công ty đã gặp khó khăn về tài chính, chủ yếu là do chi tiêu quá tay
cho các hoạt động bán hàng.
Audi
Sau khi rời khỏi Horch & Cie., Horch thành lập một công ty ô tô khác và vẫn
tiếp tục sử dụng nhãn hiệu Horch. Horch & Cie. đã kiện ông vì vi phạm bản
quyền thương hiệu. Do đó, Horch phải tìm thương hiệu mới cho công ty của
mình. Theo tiếng Đức cổ, từ "horch" có nghĩa là "lắng nghe", và Horch đã sử
dụng một từ Latin đồng nghĩa với từ "horch", đó là từ "audi", để đặt tên cho
những chiếc ô tô của ông. Tuy nhiên, rất nhiều người lại cho rằng Audi là từ
viết tắt của "Auto Union Deutschland Ingolstadt" (Ingolstadt Auto
Corporation, Germany).


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Chiếc xe mang nhãn hiệu Audi lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường năm
1910. Sau Thế chiến I, Audi mở đầu trang sử mới cho ngành công nghiệp ô
tô thế giới: Lần đầu tiên ở xe thương mại vô lăng được đặt bên trái và cần số
được đặt ở giữa xe, giúp cho việc lái xe trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Audi
bắt đầu sản xuất ô tô sử dụng động cơ 2612cc, và sau đó là động cơ 4 xi
lanh 3564 cc, 4680 cc và 5720 cc.

Năm 1923, Audi ra mắt mẫu xe đầu tiên sử dụng động cơ 6 xilanh 4655 cc.
Bên cạnh đó Audi cũng thiết kế và sản xuất hệ thống phanh hơi. Năm 1927,
lần đầu tiên động cơ 8 xilanh của Audi (còn được gọi là Imperator - Kẻ thống
trị) xuất hiện trên thị trường. Tuy nhiên, vào thời điểm này phân khúc xe
hạng sang trên toàn thế giới tụt dốc nghiêm trọng. Từ năm 1928 Audi thuộc
sở hữu của Jörgen Skafte Rasmussen, chủ sở hữu tập đoàn DKW.
DKW
Năm 1904, Jörgen Skafte Rasmussen thành lập
công ty cơ khí chế tạo máy ở Chemnitz. Năm
1916, ông bắt đầu nghiên cứu xe sử dụng động
cơ hơi nước. Mặc dù các thì nghiệm này không
thành công song Rasmussen vẫn quyết định đặt
tên công ty là DKW - Dampf Kraft Wagen
(Steam-Driven Vehicle). Năm 1919, Rasmussen
mua thiết kế động cơ mini hai kỳ của Hugo Ruppe và phát triển thành động
cơ xe máy "Das Kleine Wunder" (The Little Miracle).
Vào những năm 1920, DKW trở thành nhà sản xuất xe máy và
động cơ lớn
nhất trên thế giới. Năm 1929, động cơ 8 xy lanh được sử dụng trong mẫu
Audi Zwickau và Audi Dresden. Cũng vào năm đó, những mẫu xe sử dụng
động cơ 4 xi lanh (theo bản quyền của Peugoet) và 6 xi lanh cũng được giới
thiệu.
Tuy nhiên, nắm bắt được nhu cầu của thị
trường, Rasmussen nhanh chóng định hướng
sang ô tô cỡ nhỏ. Chiếc xe thực sự "DKW"
đầu tiên được sản xuất ở
Berlin-Spandau và
là xe dẫn động cầu sau. Cuối thập niên 1930,
nhà máy ở Zwickau bắt đầu phát triển mẫu
xe mới với những tính năng: động cơ xe máy


<>

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
600cc, 2 xilanh, 2 kỳ, nội thất bọc da và dẫn động cầu trước. Chiếc xe này do
hai nhà thiết kế của Audi – Walter Haustein và Oskar Arlt - phát triển và được
đặt tên là DKW Front. Lần đầu tiên ra mắt công chúng vào năm 1931 tại
Berlin Motor Show, DKW Front nhanh chóng trở thành chiếc xe cỡ nhỏ được
yêu thích nhất và bán chạy nhất.
Wanderer
Wanderer ban đầu là một công ty sản xuất xe
đạp được thành lập năm 1885 ở Chemnitz.
Wanderer bắt đầu chế tạo những chiếc ô tô đầu
tiên vào năm 1904. Mãi đến năm 1913, công ty
mới đi vào sản xuất hàng loạt, khởi đầu là mẫu
xe cỡ nhỏ "Puppchen".
Năm 1926, chiếc xe Wanderer Type W10 sử
dụng động cơ 1.5L 30hp xuất xưởng và nhanh chóng được thị trường đón
nhận bởi nó là sự kết hợp của những công nghệ
hiện đại nhất lúc bấy giờ.
Để đáp ứng nhu cầu tăng vọt của thị trường,
Wanderer đã xây dựng một xưởng sản xuất ở
Siegmar ngoại ô Chemnitz với công suất 25
xe/ngày. Tuy nhiên, đến cuối thập niên 1920,
Wanderer cũng lâm vào khủng hoảng.
Ảnh audi.com



Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Ôtô ra đời như thế nào?

Không phải là phát minh trong ngày một ngày hai, cũng không phải của một
nhà phát minh nào đó, lịch sử của xe hơi là một cuộc cách mạng trên toàn
cầu. Theo ước tính thì có khoảng 100 nghìn bằng sáng chế đã được cấp cho
những người phát minh ra những chiếc ôtô hiện đại ngày nay. Tuy nhiên,
chúng ta hãy ngược dòng thời gian để tìm hiểu về chiếc ôtô từ những ngày sơ
khai nhất.


Vào năm 1769, chiếc xe tự hành đầu tiên đã được
một kĩ sư cơ khí người Pháp tên là Nicolas Joseph
Cugnot (1725-1804) phát minh nhằm phục vụ cho
mục đích quân sự. Chiếc xe này sử dụng động cơ
hơi nước do kĩ sư Brezin thuộc xưởng quân khí Paris
chế tạo. Về cấu tạo, nó có 3 bánh lớn và có thể
chuyển động với tốc độ tối đa 2 dặm rưỡi một giờ.
Hệ thống động cơ hơi nước và bình hơi tách biệt với nhau và được đặt vào
phía đầu mũi xe. Với tốc độ và công suất lớn, chiếc xe hơi nước này được
quân đội Pháp sử dụng để kéo những khẩu pháo khổng lồ. Tuy nhiên, nhược
điểm của nó là cứ 10 hoặc 15 phút lại phải dừng để tiếp nước và khởi động
lại động cơ. Năm 1770, Cugnot đã cho sản xuất chiếc xe hơi nước 3 bánh chở
khách đầu tiên với sức chứa 4 người cho mỗi lần chở.

Năm 1771, Cugnot là người đầu tiên trên thế giới gặp tai nạn khi lái xe ôtô.
Chiếc xe đã đâm vào một bức tường đá trên đường di chuyển. Tiếp đó là một
loạt những điều không may xảy ra với nhà phát minh này: một trong những
nhà tài trợ của Cugnot đã qua đời trong khi những người khác thì bị lưu vong
nước ngoài do những biến động chính trị. Điều này đã khiến cho công việc
của Cugnot phải dừng lại do không còn tiền để trang trải cho mọi chi phí.


Sau Cugnot cũng đã có nhiều người tiếp tục sáng chế và cải tiến xe hơi nước
và nó đã trở thành một phương tiện di chuyển phổ biến ở nhiều nước trong
những năm sau đó.


Vào giữa những năm 1832-1839, Robert Anderson,
một nhà phát minh người Scotland đã cho ra đời
chiếc xe chở khách chạy bằng điện thô sơ đầu tiên
trên thế giới. Năm 1835, một giáo sư người Hà Lan
tên là Stratingh đã thiết kế một chiếc xe chạy bằng
điện có công suất nhỏ, và nó được trợ lý của ông là
Christopher Becker lắp ráp chạy thử. Năm 1842, hai
nhà phát minh Thomas Davenport người Mỹ và Robert Davidson người
Scotland đã cho ra đời bởi những chiếc xe điện hoàn thiện hơn. Tuy
nhiên, loại xe của họ lại sử dụng pin điện không sạc lại nên rất tốn kém về chi
phí sử dụng.


Chiếc xe hơi nước của
Cugnot


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Pháp và Anh là những quốc gia đầu tiên ủng hộ cho việc phát triển xe ôtô
chạy bằng điện. Tuy nhiên, mãi tới năm 1895 Mỹ mới bắt đầu để ý tới loại
phương tiện này, sau khi vào năm 1891, nhà phát minh A. L. Ryker cho ra đời
chiếc xe điện ba bánh đầu tiên tại nước này. Sau đó, một nhà phát minh khác
là William Morrison sản xuất chiếc xe điện có thể chở được 6 hành khách. Vào
khoảng giữa những năm 1890-1900, nhiều cải tiến về chiếc xe điện đã diễn

ra ở đất nước này và điều này đã khiến cho ngành công nghiệp sản xuất và
dịch vụ của loại xe này rất phát triển. Chẳng hạn, vào năm 1897, một đội taxi
của thành phố New York đã được thành lập bởi Công ty chuyên chở hàng hóa
và hành khách bằng xe điện của Philadelphia.
Bên cạnh và có thể gọi là song song với sự phát
triển của xe chạy bằng điện là sự phát minh và phát
triển của xe ôtô chạy bằng động cơ dầu. Và có lẽ,
thành công và nổi tiếng nhất là những chiếc xe do
Gottlieb Daimler và Karl Benz phát minh bởi chúng
có nguyên tắc hoạt động và hình dáng giống với
những chiếc xe hiện đại ngày nay.

Tuy nhiên, trước khi nói về những phát minh của
Daimler hay Benz, không thể không nhắc đến
Nicolaus Otto, người đã phát minh ra động cơ đốt
trong. Động cơ đốt trong bốn kỳ được Otto phát
minh vào năm 1876 và nó đã trở thành một trong
những phát minh vĩ đại nhất trong lĩnh vực động cơ
xe máy. Đầu tiên nó được áp dụng cho những chiếc
xe gắn máy, nhưng sau đó, cùng với sự phát triển
của ôtô, loại động cơ này được cải tiến và áp dụng
cho cả những chiếc xe ôtô sử dụng nhiên liệu lỏng.

Trở lại với những chiếc xe chạy bằng động cơ dầu. Năm 1885, kĩ sư cơ khí
người Đức Karl Benz đã thiết kế và cho ra đời chiếc xe ôtô chạy bằng động cơ
đốt trong đầu tiên trên thế giới. Ban đầu nó được thiết kế với ba bánh, nhưng
đến năm 1891, Benz đã cải tiến và biến nó trở thành chiếc xe ô-tô bốn bánh.

Cũng vào năm 1885, Gottlieb Daimler cùng với đồng
sự của mình là Wihelm Mayback đã cải tiến động cơ

của Otto trở thành loại động cơ có thể sử dụng cho
xe ôtô. Động cơ Daimler-Maybach có kích thước
nhỏ, trọng lượng nhẹ và sử dụng một bộ chế hòa khí
phun dầu, ngoài ra, nó còn có một xi-lanh đứng.
Chính thiết kế có tính ứng dụng cao đó đã giúp cho
các nhà sản xuất ô-tô nói chung và Daimler nói riêng
tạo ra một cuộc cách mạng trong thiết kế kiểu dáng
xe ô-tô. Tháng 8 năm 1886, Daimler đã ứng dụng
động cơ này vào một chiếc xe buýt thông dụng và biến nó trở thành chiếc xe
ô-tô bốn bánh đầu tiên trên thế giới có kiểu dáng như những chiếc xe hiện
đại ngày nay.


M

t chiếc xe chạy bằn
g

động cơ đốt trong

Chiếc xe đ

u tiên của
Daimler

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Fiat có lịch sử phát triển như thế nào?

FIAT (Fabbrica Italiana Automobili Torino) được thành lập ngày 11/07/1899)
tại Turin, Italy. Người đứng đầu tập đoàn này là Giovanni Agnelli, người sáng

lập và đồng thời là Chủ tịch kiêm Giám đốc Điều hành đầu tiên của Fiat. Năm
1900 đánh dấu sự ra đời của nhà máy Fiat đầu tiên tại Carso Dante với 150
nhân công. Bốn năm sau, năm 1904, cả thế giới được biết đến logo hình ovan
màu xanh của Fiat.

Năm 1908, Fiat khánh thành nhà máy sản xuất
xe hơi đầu tiên của mình tại hoa Kỳ. Công việc
của công ty phát triển nhanh chóng tại đất
nước được coi là ông tổ của ngành xe hơi này.
Để đáp ứng được nhu cầu của thị trường Hoa
Kỳ cũng như tốc độ sản xuất của nhà máy, Fiat
đã xây dựng thêm một số nhà máy chuyên sản
xuất linh kiện, phụ tùng xe hơi.

Chỉ một vài năm sau đó, Fiat bắt tay vào việc
cải tổ công nghệ. Chính những nỗ lực này của
Fiat khiến nó trở thành một trong những nhà
sản xuất xe hơi đáng gờm nhất, đồng thời
những chiếc xe của Fiat luôn dẫn đầu trong
việc phá các kỷ lục của ngành công nghiệp xe
hơi, không chỉ trong lĩnh vực công nghệ mà còn
cả trên các đường đua.

Năm 1916, Fiat khởi công xây dựng xưởng chế
tạo xe hơi mang tên Lingotto. Việc xây dựng và trang bị diễn ra suốt 6 năm
trời. Nhà máy cao 5 tầng này không chỉ là xưởng sản xuất xe hơi lớn nhất
châu Âu mà còn nhanh chóng trở thành biểu tượng của ngành công nghiệp
xe hơi Italy. Cũng trong thời gian này, Fiat bắt tay vào những lĩnh vực mới –
xe động cơ điện, xe thương mại, xe lửa và thậm chí là thép. Công ty tiếp tục
vươn tới thị trường Liên Xô.


Những biểu tượng đ

u tiên
của tập đoàn Fiat

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ 1, sản
xuất của Fiat chủ yếu phục vụ mục đích quân
sự. Fiat lâm vào khủng hoảng trầm trọng khi
chiến tranh kết thúc nhưng nhà sản xuất xe hơi
này nhanh chóng phục hồi và lấy lại được vị thế
của mình – Đó là nhờ chính sách cắt giảm chi
phí sản xuất được phát động năm 1923, khi đó
Giovanni Agnelli đã được đề bạt là Tổng Giám
đốc Điều hành của Fiat. Fiat quyết định tiến một
bước xa hơn: sản xuất xe hơi trên quy mô lớn
để cắt giảm chi phí tối da, nhờ đó hạ giá thành
sản phẩm. Thời gian này Fiat còn được biết đến
với những chương trình chăm sóc sức khỏe, câu
lạc bộ thể thao và các trường kỹ thuật.

Dưới chính sách của nhà cầm quyền Mussolini,
Fiat buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động của
mình và nhắm vào thị trường nội địa. Công nghệ sử dụng trên những mẫu xe
thương mại và xe tải nhanh chóng được cải tiến và thay đổi để đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng trong nước.

Chiến tranh Thế giới thứ 2 ảnh hưởng không nhỏ tới cơ cấu và quy mô sản
xuất của Fiat. Nhiều nhà máy, xưởng sản xuất bị phá hủy. Năm 1945,

Giovanni Agnelli qua đời. Người lên nắm quyền thay ông là Vittorio Valletta đã
đề ra kế hoạch tái thiết vào năm 1948. Năm 1958, Fiat đầu tư vào cả hai lĩnh
vực: xe hơi và máy nông nghiệp. Trong thời gian này, Italy trở thành trung
tâm phát triển kinh tế hàng đầu châu Âu và chính ngành công nghiệp xe hơi
nước nhà là nguồn động lực thiết yếu dẫn đến sự phát triển vượt bậc về kinh
tế đó.

Cháu nội Giovanni Agnelli – người có cùng tên
với ông nội tiếp tụ
c làm rạng danh dòng họ
Agnelli khi trở thành chủ tịch Fiat năm 1966.
Giovanni cháu tập trung toàn bộ nguồn lực của
công ty vào phát triển công nghệ tự động trong
sản xuất xe hơi. Nhờ đó, Fiat không chỉ đối phó
được với cuộc khủng hoảng nhiên liệu diễn ra
trong thời gian đó mà còn trở thành một đối thủ
đáng gờm trong lĩnh vực công nghệ sản xuất xe
hơi. Những năm 70, xe Fiat chiếm tới 80-90%
thị phần tại đất nước mình. Chính nhờ những chính sách của Fiat mà tỉ lệ sở
hữu xe hơi của Italy tăng lên đáng kể, từ 96 người/ xe lên 28 người/ xe.

Năm 1978, Fiat giới thiệu hệ thống lắp ráp tự động sử dụng hệ thống robot
(Robogate). Năm 1979, bộ phân chế tạo xe hơi được tách ra thành một công
ty độc lập có tên là Fiat Auto S.P.A, với quyền sở hữu các thương hiệu Fiat,
Lancia, Autobianchi, Abarth, Ferrari. Ban đầu, Fiat chỉ sở hữu 50% cổ phần
của Ferrari, nhưng sau đó, con số này nhanh chóng tăng lên thành 87%.
Giovanni Agnelli, ông tổ của
tập đoàn Fiat

Bravo, m


t tác phẩm mới
của Fiat

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Năm 1984, Fiat tiếp quản Alfa Romeo và đến năm 1993 là thương hiệu
Maserati danh tiếng.

Cuộc khủng hoảng đầu thập niên 1990 khiến
cho công ty chuyển hướng mục tiêu sang thị
trường thế giới, với 60% doanh số thu được từ
thị trường nước ngoài. Năm 1996, Cesare Romiti
thay thế vị trí của Giovanni, nhưng Giovanni vẫn
giữ chức vị Chủ tịch Danh dự. Tổng hành dinh
của Fiat được chuyển từ Corsi Marconi về
Palazzina Fiat, Lingotto năm 1997. Năm 1999,
kỷ niệm 100 năm ngày thành lập công ty, Fiat
đã thiết kế mẫu logo mới vẫn mang màu xanh
truyền thống, nhưng với dáng vẻ mới – hình
tròn.

Kể từ năm 2000 đến nay, Fiat hầu như không trải qua nhiều thay đổi đáng
kể, ngoài những mẫu xe mới vẫn lần lượt ra mắt người tiêu dùng và một mục
tiêu nhất quán – sự đổi mới và công nghệ vượt trội để vững bước trong thế
kỷ 21.
Logo thứ 14, kỷ niệm 100
năm của tập đoàn Fiat

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Acura ra đời như thế nào?


Cho dù đã khẳng định được vị thế của mình trên đất Mỹ, Honda vẫn quyết
định tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của mình khi thành
lập nhãn hiệu Acura cho riêng thị trường Bắc Mỹ. Vậy là từ tháng 3/1986,
Acura được Honda sử dụng như một nhãn hiệu độc lập cho các dòng xe hạng
sang ở Mỹ, Canada, Mexico và Hồng Kông, bao gồm xe đa dụng, xe gia đình
và xe thể thao.

Chỉ một năm sau khi ra đời, Acura đã nhanh
chóng khẳng định vị thế của mình khi chiếc
Acura Legend đoạt danh hiệu
Xe nhập khẩu của
năm
(Import Car of the Year) và mẫu Integra
được bầu chọn vào top 10 của tạp chí Car and
Driver.
Năm 1990, chỉ vài năm sau khi ra mắt thị
trường Bắc Mỹ, đại lý của Acura 5 năm liên tiếp
đứng đầu bảng xếp hạng Chỉ số Hài lòng của
Khách hàng. Một năm sau, chiếc Acura Legend giành giải
"Xe nhập khẩu Uy
tín nhất của năm"
của Motor Trend. Tiếp đến, năm 1997, Honda giới thiệu
mẫu Integra Type-R. Đây là mẫu xe có tỉ số công suất: dung tích xi lanh hp/l
cao nhất lúc bấy giờ (108hp/l). Chiếc xe thể thao NSX được xuất xưởng vào
cuối thập niên 1990 được coi là phá vỡ mọi công thức toán học và khoa học.
Ngay Motor Trend cũng từng nhận định đây là chiếc xe thể thao hàng đầu
của mọi thời đại. Chiếc siêu xe với thân xe bằng nhôm này là sự kết hợp hoàn
hảo giữa sự thoải mái hoàn hảo và độ an toàn tối đa cho người sử dụng.


Một chiếc Acura NSX

Thành công tiếp nối thành công, Acura tiếp tục tấn công vào thị trường xe
thể thao đa dụng với mẫu xe huyền thoại MDX. Năm đầu tiên của thế kỷ 21
chứng kiến chiếc MDX giành danh hiệu Xe thể thao đa dụng uy tín nhất năm
2001 do tạp chí Motor Trend bình chọn.
Logo của thương hiệu Acura
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×