Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

GAN VÀ CÁC BỆNH VỀ GAN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.82 KB, 8 trang )

GAN VÀ CÁC BỆNH VỀ GAN
Đại cương về gan
Gan (liver) là cơ quan lớn nhất trong cơ thể ( nếu không kể da) nằm bên tay
mặt, dưới lồng ngực phải.
Gan là "nhà máy lọc máu" chính và quan trọng nhất trong cơ thể. Gan tiếp
nhận máu từ hai nguồn khác nhau: 30% từ tim và 70% từ tĩnh mạch cửa (portal
vein). Máu từ tim với dưỡng khí và nhiên liệu sẽ nuôi dưỡng các tế bào gan. Máu
đến từ tĩnh mạch cửa là máu đến từ những cơ quan như bao tử , lá lách , tụy tạng ,
túi mật , ruột non , ruột già cũng như các cơ quan khác nhau trong bụng.
Gan là cơ quan đầu tiên tiếp nhận các chất dinh dưỡng và hóa tố khác nhau
hấp thụ từ hệ thống tiêu hóa nên thức ăn và tất cả các nhiên liệu phải đi qua gan
trước để được thanh lọc và biến chế thành những vật liệu khác nhau. Nói chung
gan có những nhiệm vụ chinh là chuyển hoá chất đường, sản xuất và chuyển hoá
chất béo, sản xuất và thoái biến chất đạm,thanh lọc các độc tố và tổng hợp chất
mật.
Cũng như tất cả các cơ quan khác trong cơ thể gan cũng có thể bị tàn phá
bởi độc tố, vi trùng, vi khuẩn và nhiểu bệnh tật khác nhau. Nhưng vì các tế bào gan
không có dây thần kinh cảm giác, nên nếu gan bị tổn thương, bệnh thường không
gây ra một triệu chứng nào chỉ. trừ trường hợp gan bị "sưng phồng" lên làm vỏ
bọc gan bị kéo căng gây ra những cơn đau "tưng tức" hoặc khó chịu ở vùng bụng
trên vể phía taymặt.
Bệnh viêm gan do siêu vi khuẩn (viral hepatitis).
Viêm gan (xưng gan) rất nguy hiểm vì nó âm thầm lặng lẽ phá hoại gan mà
bệnh nhân không có hoặc rất ít có triệu chứng rõ rệt cho đến khi bệnh phát nặng
Có năm loại viêm gan do siêu vi khuẩn. Đó là các viêm gan A,B,C,D và E
Viêm gan A
Siêu vi khuẩn viêm gan A được tìm thấy trong mồ hôi, nước bọt,
nước tiểu, nhưng nhiều nhất vẫn là ở phân của người có bệnh. Siêu vi khuẩn
viêm gan A theo thức ăn, nước uống nhiễm khuẩn xâm nhập vào cơ thể của
chúng ta.
Bệnh thường không gây ra một triệu chứng nào, và nếu có,


không cần chữa tự nhiên cũng hết. Siêu vi khuẩn viêm gan A chỉ gây sưng
gan cấp tính (acute inflammation) chứ không tạo nên những biến chứng lâu
dài, như sơ gan (fibrosis), chai gan (cirrhosis), hoặc ung thư gan (cancer)
Bệnh có thể chích ngừa được. Thuốc rất an toàn và công hiệu. Nếu
chưa chích ngừa hoặc trong người chưa có kháng thể chống siêu vi khuẩn
viêm gan A, thì các bạn phải giữ vệ sinh ( rửa tay bằng xà bông trước và sau
khi dùng nhà cẩu, rửa tay cẫn thận trườc và sau khi ăn hay làm bếp, rửa
sạch các bát đĩa của người bệnh) và tránh quan hệ tình dục với người đang
ở thời kỳ ủ bệnh
Viêm gan B
Bệnh viêm gan B là bệnh truyền nhiễm, nên tất cả chúng ta ai ai
cũng có thể bị, không kể tuổi tác. Siêu vi khuẩn viêm gan B được tìm thấy
trong máu, mồ hôi, nước bọt, nước mắt cũng như nước tiểu và tinh dịch của
bệnh nhân. Bệnh thường lây trực tiếp từ người này qua người kia . dễ dàng
nhất là qua máu ( như lây từ mẹ khi mới sanh, tiếp máu, dùng kim chích và
dung cu y khoa thiếu vệ sinh, hoặc bị nhiểm qua vết trầy trụa hay côn trùng)
và qua đường sinh lý (tinh dịch). Chung đụng trong đời sống hằng ngày
,như đụng vào mồ hôi nước mắt của người bệnh, cũng có thể bị lây. Tuy
trong nước bọt của bệnh nhân viêm gan B cũng thấy có một số ít vi khuẩn
nhưng cho tới nay chưa ai bị lây bệnh viêm gan B khi ăn uống chung với
người có bệnh.
Siêu vi khuẩn viêm gan B có thể gây ra những triệu chứng cấp tính.
Những triệu chứng này thay đổi nhiều, tùy theo tuổi tác của bệnh nhân khi bị
lây bệnh. Bệnh có thể từ rất nhẹ và mơ hồ như những cơn cảm cúm thông
thường không đáng kể đến rất nặng phải nhập viện để điều trị.
Viêm gan B là một trong những nguyên nhân chính gây ra viêm gan
cấp tính (acute hepatitis), viêm gan kinh niên (chronic active hepatitis), chai
gan (liver cirrhosis) và ung thư gan (liver cancer). Rượu, bia và một số
thuốc men trong đó có dược thảo có thể làm gan bị chai lẹ hơn.
Phương pháp duy nhất để định bệnh viêm gan B là thử máu. Các

phép thử nghiệm khác như siêu âm ,. chụp scan chỉ cho biết thể chất hình
thù và kích thước của gan ,còn sinh thiết gan chỉ giúp bác sĩ biết về sự tiến
triển và trang thái bệnh tật của gan
Bệnh có thể được chữa trị bằng thuốc uống (lamivudine, adefovir ,
zadaxin thymosin alpha 1) hoặc thuốc chích dưới da (interferon) Tuy cách
thức chữa bệnh đã được cải tiến rất nhiều nhưng c ũng chỉ có khả năng giảm
thiểu sự tàn phá của siêu vị khuẩn viêm gan B chứ không hoàn toàn loại bỏ
siêu vi khuẩn này ra khỏi cơ thể. Vì thế hơn lúc nào hết, phòng bệnh vẫn
hơn chữa bệnh. Thuốc chủng ngừa rất hiệu nghiệm nếu được chích ngừa
đúng cách (chích 3 mũi). Ngoài ra các kim chích và dụng cụ y khoa phải
được khử trùng đề tiêu diệt siêu vi khuẩn viêm gan B bẳng cách đun sôi
ở100 độ C trong vòng 1 đến 5 phút, hoặc sát trùng bằng glutaraldehyde,
chloroform hoặc formalin ( tia cực tím , ether cũng như alcohol không đủ
mạnh).
Viêm gan C
Bệnh viêm gan C là bệnh truyền nhiễm nên chúng ta ai ai cũng có
thể bị. Bệnh có thể lây qua máu như từ mẹ khi mới sanh, tiếp máu, dùng các
vật dung thiếu vệ sinh như đồ cạo râu,bàn chải đánh răng, kim châm cứu,
xâm mình, cạo gió và các dụng cụ mổ xẻ . Bệnh cũng có thể lây qua
đường sinh lý , nhưng trường hợp này hiếm. Đôi khi người ta có thể vô tình
bị nhiễm siêu vi khuẩn viêm gan C trong lúc té ngã, trầy trụa hoặc đứt tay
chân . Tuy một số siêu vi khuẩn viêm gan C được tìm thấy trong mồ hôi và
nước bọt nhưng , ăn uống chung hoặc va chạm thể xác hàng ngày với bệnh
nhân viêm gan C không có gì nguy hiểm.
Siêu vi khuẩn viêm gan C có thể gây ra những triệu chứng cấp tính
thông thường 7 hay 8 tuần sau khi lây bệnh. Khoảng 30% bênh nhân bỗng
dưng cảm thấy hơi khó chịu như bị cúm nhẹ. Một số bệnh nhân khác có thể
bị nhức đầu, mệt mỏi, đau nhức khớp xương và bắp thịt. Nhiều khi họ cũng
cảm thấy buồn nôn, khó chịu, đau bụng, tiêu chảy, ăn kém ngon, xuống cân
và đôi khi bị sốt hoặc nổi ngứa. Khoảng 30% bệnh nhân viêm gan C có da

và mắt trở nên vàng . Các triệu chứng nêu trên thường kéo dài từ 6 đến 8
tuần và từ từ thuyên giảm, rồi hoàn toàn biến mất sau một thời gian ngắn.
Bấy giờ, bệnh chuyển qua giai đoạn hoặc im lìm tức không hoạt động
(dormant) hoặc mạn tính tức tiếp tục tăng trưởng(chronic). Trong thời kỳ sơ
khởi của giai đoạn mạn tính vẫn chỉ có những triêu chứng mơ hồ không
đáng kể như là mệt mỏi thường vào xế chiều , mất dần khả năng tập trung
tư tưởng , đau lâm râm hoặc đau nhói phần bụng trên dưới xương sườn bên
phải hoặc buồn nôn, khó chịu, da nổi ngứa, đau khớp xương và bắp thịt. Nếu
không được khám phá và chữa trị kịp thời, bệnh mỗi ngày một nặng hơn đưa
đến sơ gan, rồi chai gan sau một thời gian trung bình là 20 năm. Thời gian
chai gan có thể ngắn hơn nếu bệnh nhân đã bị lây do tiếp máu nhiễm
khuẩn , uống nhiều rượu bia, uống một số thuốc khác nhau hoặc bị nhiễm
nhiều loại vi khuẩn viêm gan khác nhau.
Thử máu định kỳ hằng năm là phương pháp thường xuyên nhất
trong việc tìm kiếm bệnh viêm gan C. Phép siêu âm gan không cho biết gan
bị viêm hay không nhưng giúp bác sĩ có một khái niệm về hình thù và kích
thước của gan ( gan bị chai có thể nhỏ hơn bình thường) và nhận diện được
một số bệnh khác, như bướu gan (tumor), sạn trong túi mật (gallstone), gan
đóng mỡ (fatty liver) hoặc cổ trướng (ascites). Ngoài ra sinh thiết gan có
thể mang lại cho bác sĩ nhiều dữ kiện quan trọng trong việc định bệnh và
chữa bệnh viêm gan

Tế bào gan sẽ được lấy ra bằng một kim rất nhỏ, đâm giữa xương sườn
vào thẳng lá gan rổi đem thử nghiệm dưới kính hiển vi.

Viêm gan C có thể đươc chữa trị bẳng thuốc uống (ribavarin) và
thuốc chích dưới da (peginterferon, zadaxin (thymosin alpha 1)) . Hai
thuốc ribavarin và interferon gây nhiều phản ứng phụ, con thuốc mới
zadaxin (thymosin alpha 1) đươc xem là an toàn, gây ít phản ứng phụ. Hiện
nay chưa có thuốc chủng ngừa chống viêm gan C

Viêm gan D
Viêm gan D là một bệnh truyền nhiễm "có điều kiện" , nói một
cách khác chỉ nguy hiểm cho những người đang hoặc sẽ bị bệnh viêm gan B
mà thôi. Vì vậy những người được miễn nhiễm bệnh viêm gan B sẽ không
sợ bị lây bệnh viêm gan D. Viêm gan D thường lây qua đường máu và
đường sinh lý. Tuy nhiên, bệnh chỉ lây qua những người đang bị viêm gan B
với kháng nguyên HBsAg mà thôi. Trong những năm gần đây, chích thuốc
phiện đã trở thành nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh viêm gan D, nhất là
khi những người nghiện thuốc này dùng chung kim với nhau.
Triệu chứng của viêm gan D lệ thuộc vào tình trạng nhiễm vi khuẩn
viêm gan B của lá gan. Nếu vi khuẩn viêm gan B đang tàn phá lá gan, siêu vi
khuẩn viêm gan D cũng "đánh ké". Nếu vi khuẩn viêm gan B bị tiêu diệt bởi
hệ miễn dịch của bệnh nhân thì vi khuẩn viêm gan D cũng sẽ "chết theo".
1 Bệnh nhân có thể cùng một lúc lây cả hai bệnh viêm gan B và D
(đồng nhiễm-coinfection ). Vì viêm gan D thường gây ra những triệu chứng
tương tự như bệnh viêm gan B nên khi cơ thể bị tấn công một lúc bởi hai
loại siêu vi khuẩn viêm B và D các triệu chứng có thể trầm trọng hơn, và
bệnh có thể kéo dài hơn. Bệnh nhân bị nhiễm cùng một lúcviêm gan B và D
sẽ có một số triệu chứng điển hình của bệnh viêm gan B trước, rồi sau đó,
khi bệnh có vẻ như đang thuyên giảm thì các triệu chứng như vàng da, nhức
đầu, buồn nôn, chóng mặt v.v. bắt đầu trở lại do đợt tấn công thứ hai; lần
này do siêu vi khuẩn viêm gan D Tùy theo tuổi tác khi bị lây bệnh, những
triệu chứng kể trên có thể rất rõ rệt hoặc mơ hồ.
2- Bệnh nhân đang bị viêm gan B bị lây thêm bệnh viêm gan D ( Bội
nhiễm- superinfection): Ðây là trường hợp rất nguy hiểm Với sự bành
trướng của siêu vi khuẩn viêm gan D trong một cơ thể đang bị nhiễm trùng
bởi siêu vi khuẩn viêm gan B, bệnh sẽ trở nên rất trầm trọng với những hậu
quả vô cùng tai hại trong một thời gian rất ngắn. Ngay cả trong trường hợp
siêu vi khuẩn B đang "ngủ yên", (dormant) siêu vi khuẩn D có thể đánh
thức v à cả hai sẽ hợp lực tàn phá lá gan. nhanh chóng (từ 3 đến 5 năm).

Cũng như các bệnh viêm gan siêu vi khuẩn khác, thử máu là phương
pháp độc nhất và chính xác nhất trong việc định bệnh viêm gan D. Phép siêu
âm cũng hữu ích
Vì viêm gan D cấp tính dễ trở thành ác tính, bệnh nhân cần được
theo dõi một cách kỹ lưỡng. Khi bệnh trở nên ác tính, bệnh nhân bắt đầu có
những triệu chứng của loạn trí như mất dần tự chủ, chóng quên, ăn nói
"lung tung" hoặc nặng hơn nữa, sẽ bị hôn mê, bất tỉnh v.v. Khi máu trở nên
quá loãng, họ có thể bị chảy máu cam, ói ra máu, đi cầu phân đen như mực,
da dễ bị bầm tím. Trong trường hợp này, bệnh nhân phải được đưa vào cấp
cứu vì gan có thể bị tàn phá một cách rất nhanh chóng và nếu không được
ghép gan, bệnh nhân có thể chết . Khác với bệnh viêm gan B bệnh viêm gan
D có khuynh hướng trở thành kinh niên nếu không chữa trị , để rồi tiếp tục
tàn phá lá gan. Vi khuẩn viêm gan D được xem là một trong những vi khuẩn
viêm gan dữ tợn và nguy hiểm nhất,
Cho tới nay, chỉ có một thứ thuốc duy nhất được chấp thuận bởi
FDA trong việc chữa trị bệnh viêm gan D: Ðó là Interferon alpha Thuốc
được dùng cho cả hai trường hợp: viêm gan D mạn tính và cấp tính Viêm
gan D chỉ lây qua những ai chưa có kháng thể chống lại vi khuẩn viêm gan
B. Vì thế, chủng ngừa viêm gan B là phương pháp hữu hiệu nhất để
phòng bệnh viêm gan D. Tuy nhiên hiện nay chưa có thuốc chủng ngừa
bệnh viêm gan D cho những người đang bị bệnh viêm gan B.
Viêm gan E
Vì viêm gan E là bệnh truyền nhiễm nên chúng ta ai cũng có thể bị.
Tương tự như bệnh viêm gan A, bệnh lây từ người này qua người kia qua
thức ăn và nước uống nhiễm vi khuẩn E. Bệnh dễ lây nhất qua phân So với
bệnh viêm gan A, bệnh viêm gan E khó lây hơn Bệnh đôi khi lây qua máu
và rất hiếm khi qua đường sinh lý.
Thông thường triệu chứng của bệnh viêm gan E chỉ rất nhẹ và nhất
thời, kéo dài từ vài ngày đến vài tuần lễ. Bệnh không gây ra những hậu quả
lâu dài, như trong trường hợp của bệnh viêm gan B, D và C. Tuy nhiên bệnh

có thể trở nên ác tính và nguy hiểm, nhất là khi bệnh nhân đang mang
thai Thời gian ủ bệnh kéo dài từ 15 đến 60 ngày sau khi nhiễm siêu vi
khuẩn. Thông thường bệnh nhân bắt đầu bị hâm hấp sốt, mệt mỏi, đau nhức
toàn thân như cảm cúm. Sau đó, da và mắt trở nên vàng, nước tiểu trở nên
đậm mầu, phân có mầu nhạt như đất sét, bụng đau lâm râm, khó chịu, buồn
nôn và ói mửa. Một số ít bệnh nhân bị tiêu chảy, nổi mề đay và đau khớp
xương. Cũng như bệnh viêm gan A, đa số bệnh nhân không cần chữa, bệnh
tự nhiên từ từ giảm dần và biến mất. Chỉ trong một số trường hợp hiếm hoi
hơn, gan bị tàn phá một cách rất nhanh chóng và bệnh nhân có thể chết nếu
không được ghép gan.
Thử máu là phương pháp độc nhất để định bệnh viêm gan E
Thông thường bệnh chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn, và bệnh
không cần chữa tự nhiên cũng hết. Các triệu chứng của bệnh có thể được
chữa trị tùy theo tình trạng của mỗi bệnh nhân Tuy nhiên nếu bệnh trở nên
ác tính, ghép gan là phương pháp độc nhất để có thể cứu được mạng
sống của bệnh nhân. Cho tới nay, người ta vẫn chưa khám phá ra thuốc
chích ngừa bệnh viêm gan E. Vì thế, giữ vệ sinh là một trong những
phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chặn sự bành trướng của căn bệnh đáng
ngại này.
Vấn để dinh dưỡng của các ngưởi bị viêm gan
Thông thường, khi cơ thể chúng ta còn khỏe mạnh, chưa bệnh tật, ăn
uống bừa bãi cẩu thả cũng chỉ gây ra một số hậu quả không tốt cho sức khoẻ
nếu chúng ta tiếp tục ngày này qua tháng nọ. Tuy nhiên, vấn đề dinh dưỡng
trở nên vô cùng quan trọng khi gan của chúng ta bị viêm, không còn tốt như
trước nữa
Dinh dưỡng cho người bệnh viêm gan được phân biệt tùy theo bệnh
trạng của mỗi cá nhân:
Viêm gan cấp tính (acute hepatitis )
Vì người bị viêm gan cấp tính thường có các biểu hiện mệt mỏi, đau
nhức cơ khớp, có các triệu chứng rối loạn tiêu hóa như ậm ạch, đầy hơi, khó

chịu, chậm tiêu, buồn nôn và nôn Các triệu chứng này kéo dài vài ngày
đến vài tuần. Giai đoạn này bệnh nhân nên ăn uống nhẹ, ăn làm nhiều bữa
và sử dụng các loại thức ăn dễ tiêu. Cần lưu ý, các biểu hiện trên thường dễ
chịu hơn vào buổi sáng, vì vậy bệnh nhân nên ăn vào buổi sáng nhiều hơn.
Tránh ăn các thức ăn nhiều gia vị, dầu, mỡ. Cần ăn nhiều các loại protein
được nấu nhừ, bên cạnh đó cũng cần ăn các chất có sơ như cam, cà rốt,
chuối, gạo lứt, đậu đỏ, các loại rau xanh
Trong giai đoạn này bệnh nhân cũng nên uống nhiều nước, đặc biệt
nước cam, nước chanh vừa tăng lượng sinh tố, vừa tăng lượng nước của cơ
thể. Tuyệt đối không được sử dụng rượu bia trong giai đoạn này dưới mọi
hình thức vì chúng là các chất rất có hại cho tế bào gan.
Nếu phải dùng thuốc, nên dùng càng ít càng tốt
Trong trường hợp viêm gan cấp tính mức độ nặng, bệnh nhân cần
được điều trị tại bệnh viện để có được chế độ điều trị và chăm sóc hợp lý.
Viêm gan mạn tính hay kinh niên (chronic hepatitis)
Thực phẩm sử dụng cần hết sức đa dạng trong các nhóm như rau, củ,
quả, ngũ cốc, sữa và chế phẩm từ sữa, thịt cá hay trứng. Thức ăn cần cung
cấp đủ năng lượng cho bệnh nhân, phù hợp với trọng lượng chiều cao và
hoạt động của cơ thể. Cần cung cấp đủ lượng protein cần thiết để tấn công
bệnh tật, tái tạo gan và không thất thoát các chất cơ. Các thức ăn cần có
nhiều vitamin A (như gan gà, gan lợn ) và vitamin C (cam, quýt, rau
sống )
Rau củ và trái cây cung cấp nhiều vitamin và khoáng chất. Mỗi ngày
nên ăn ít nhất một loại rau có màu xanh đậm và một loại rau có màu cam (cà
rốt, cà chua, bí đỏ ).
Mỗi ngày bệnh nhân nên dùng khoảng 500ml sữa để có đủ vitamin D
( có thể sử dụng chế phẩm của sữa như sữa chua, pho- mát).
Mỗi ngày dùng 75g thịt hay cá, trứng. Nên ăn cá béo giàu omega –
3. Thịt cung cấp các chất như protid, lipid và các chất khoáng như sắt, kẽm,
magiê , nên dùng thịt tươi, không nên dùng thịt hộp, thịt nguội.

Nên dùng dầu thực vật, dầu đậu nành, dầu mè.
Tuyệt đối bỏ rượu để bảo vệ tế bào gan và giúp gan chóng bình phục
và giảm thiếu tối đa các chất quá béo quá ngọt.
Nên uống thêm thuốc bổ, nhưng nên tránh thuốc có chứa nhiều chất
sắt.
Vitamin A: 10,000 đến 25,000 IU mỗi ngày
Vitamin D: 5,000 đến 8,000 IU mỗi ngày
Vitamin E: 50 đến 400 IU mỗi ngày
Vitamin C: 100 mg mỗi ngày
Các chất khoáng: một viên multivitamin loại ngày một viên
Calcium 1,000 đến 2,000 mg mỗi ngày
Cần siêu âm gan đề, kiểm tra chức năng gan định kỳ 3 hoặc 6 tháng một
lần để kịp thời phát hiện và điều trị các biến chứng
Hepatitis-Wikipedia
Sống với bệnh viêm gan- BS Christopher Bùi xuân Dương
Chế độ ăn cho ngưởi mắc bệnh viêm gan- Bacsi.com
Ghi chú
1- Bảng tóm tắt thông tin về siêu vi khuẩn A, B v à C
www.ethnomed.org/ethnomed/patient_ed/viet/abc_hep_03.pdf
2- Bệnh viêm gan với y học cổ truyền
www. yhoccotruyen.htmedsoft.com /benhhoc/htmdocs/Benh_VanG/Gan
Viem.htm
3- Các loại viêm gan không phải do siêu vi khuẩn
Có hai loai chính: viêm gan do rượu (alcoholic hepatitis) và viêm gan do
đôc tố và thuốc (toxic/drug-induced hepatitis). Ngoài ra còn hai loại không mấy
thông thường ; viêm gan tự miển dich (autoimmune hepatitis) và viêm gan u hạt
(granulomatous hepatitis)
Viêm gan do rượu thường xẩy ra sau cả chục năm sau khi một người trở
thành nghiện rưọu, và đôi khi bộc phát chỉ sau một năm nhưng trường hợp này rất
hiếm

Viêm gan do độc tố/thuốc xẫy ra khi một người hít phải hoặc nuốt phải
một độc tố như carbon tetrachloride, vinyl chloride, các nấm độc hoặc một vài loại
dươc phẩm. Nhiểu loại dược phẩm đươc sử dụng rộng rãi có thể tác hại lên gan
như : Ionazid (thuốc trị bệnh lao phổi), methyldopa( thuốc trị cao huyết áp),
acetaminophen (thuốc giảm đau), trụ sinh (như erythromycin, chlorpromazine),
thuốc uống ngừa thai và steroid đồng hoá
Viêm gan tự miễn dich xẫy ra khi gan bị tấn công bời chính hệ miễn dịch
của cơ thề
Viêm gan u hạt xẩy ra khi các tế bào máu trắng tụ bất thường trong gan

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×