Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

LUẬN VĂN: Phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 118 trang )

LUẬN VĂN:
Phát huy nhân tố con người trong quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn nước ta hiện nay


Phần mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đường lối đổi mới đất nước bắt đầu từ Đại hội VI mà đặc biệt là từ Đại hội VII
Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ vai trò động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội là con người. Chính con người với sức lực và trí tuệ của mình là nhân tố quyết định
hiệu quả của việc khai thác nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác. Từ đó đến nay,
Đảng ta ln coi trọng con người là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng
thời là mục tiêu của CNXH.

Trong điều kiện gần 80% dân cư sống ở nông thôn, từ một nước nông nghiệp
lạc hậu bắt đầu đi vào CNH, HĐH ta chưa có những chỉ số cao về phát triển con người
như mong muốn. Đặc điểm ở nông thôn vùng núi chỉ số về phát triển con người còn quá
thấp so với thành thị. Q trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nông thôn, xây dựng nền
nông nghiệp hiện đại, nông thôn văn minh theo hướng XHCN là nhiệm vụ cực kỳ quan
trọng, nhưng đồng thời cũng rất khó khăn, phức tạp.

Nhân tố con người được khẳng định là có giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định
sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như q trình CNH, HĐH nơng nghiệp,
nơng thơn nói riêng. Vấn đề then chốt để tạo được động lực chính là có chủ trương,
chính sách đúng đắn nhằm khơi dậy mọi khả năng tích cực, năng động, sáng tạo của
nhân tố con người, đồng thời hướng tính tích cực, năng động và sáng tạo đi đúng quy
luật, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.



Nghệ An là một trong những tỉnh miền Trung, đất tương đối rộng, người đông,
chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Là một tỉnh nghèo, điểm xuất phát thấp, mang nhiều đặc


trưng chung cho nơng nghiệp cả nước. Do đó, u cầu phát huy nhân tố con người trong
quá trình CNH, HĐH càng bức thiết cả về lý luận và thực tiễn.

Vì vậy tơi chọn đề tài: "Phát huy nhân tố con người trong q trình CNH,
HĐH nơng nghiệp, nơng thơn nước ta hiện nay" (qua thực tế Nghệ An), nhằm góp
phần nhỏ bé đáp ứng địi hỏi trên.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Do tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề nhân tố con người trong sự phát triển
kinh tế - xã hội. Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và
văn hóa của các quốc gia. Nó địi hỏi phải phân tích một cách khoa học về giá trị lớn lao
và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người. Đã có khơng ít tài liệu trong nhiều và
ngồi nước nghiên cứu về vấn đề này.

ở Liên Xô (cũ) các nhà nghiên cứu lý luận dưới các góc độ khác nhau đã tiếp
cận một cách khoa học vấn đề: Vai trò của nhân tố con người trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội.

ở nước ta, nhất là từ giữa những năm 80 khi bắt tay vào sự nghiệp đổi mới,
chúng ta càng nhận ra vai trò đặc biệt của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Do đó, đã có nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu.
Với những công trình tiêu biểu như: Đề tài KX-07-13 "Về một số động lực phát triển
kinh tế - xã hội hiện nay" do GS. Lê Hữu Tầng chủ nhiệm; "Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn" PGS. TS Bùi Đình Thanh chủ nhiệm...


Trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
tập trung ở vấn đề phát triển CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, thực hiện chính sách
xã hội ở nơng thơn, vai trị của nơng nghiệp, nơng thơn; xóa đói giảm nghèo, giải quyết


việc làm... Đáng chú ý là các cơng trình "40 năm kinh nghiệm Đài Loan (Nxb Đà Nẵng,
1994); Công ty ADUKI "Vấn đề nghèo ở Việt Nam" (Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội,
1996); GS Nguyễn Điền "CNH nông nghiệp, nơng thơn các nước châu á và Việt Nam"
(Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 1997); PGS. PTS Nguyễn Đức Bách "Những lợi ích
kinh tế - xã hội tác động đến lịng tin của nơng dân và con đường XHCN" (Tạp chí
nghiên cứu lý luận số 2-1992). Điển hình hơn là chương trình khoa học cấp Nhà nước
KX-08 "Phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, gồm 12 đề tài nhánh đã tập trung nghiên
cứu một cách toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn Việt Nam
theo định hướng XHCN.

Đối với khu vực Bắc Trung Bộ đã có một số cơng trình nghiên cứu: PGS. TS
Lê Đình Thắng, PTS Nguyễn Thanh Hiền "Xóa đói giảm nghèo ở khu IV cũ" (Nxb
Nơng nghiệp, Hà Nội, 1995); chương trình khoa học: "Con người Nghệ An trước yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH" (Sở khoa học công nghệ và môi trường, Vinh, 1998).

Mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề nhân tố con người trong
q trình CNH, HĐH, nhưng chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn
diện, đầy đủ vai trị, vị trí của nhân tố con người trong q trình CNH, HĐH nơng
nghiệp, nơng thơn nhằm phát huy có hiệu quả nhân tố con người. Vì vậy, tác giả mạnh
dạn nghiên cứu vấn đề này với lòng mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc luận giải cơ
sở lý luận và thực tiễn cho việc phát huy nhân tố con người trong q trình CNH, HĐH
nơng nghiệp, nơng thơn Nghệ An theo định hướng XHCN.

3. Mục đích - nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu


3.1. Mục đích

Trên cơ sở phân tích thực trạng việc phát huy nhân tố con người trong nông
thôn, nông thôn Nghệ An hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm


góp phần phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn Nghệ An hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ

Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:

- Làm rõ quan điểm mác xít về nhân tố con người.

- Đánh giá thực trạng việc phát huy nhân tố con người ở nông thôn Nghệ An
hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả nhân tố con
người trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An hiện nay.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài có nội dung rộng, chúng tơi khơng có điều kiện và khơng thể đi sâu
nghiên cứu chi tiết nhân tố con người và quá trình CNH, HĐH cụ thể. Điều mà luận văn
quan tâm và tập trung nghiên cứu là: phát huy nhân tố con người trong q trình CNH,
HĐH nơng nghiệp, nơng thơn (qua khảo sát thực tế Nghệ An).

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu


4.1. Là cơng trình nghiên cứu triết học, luận văn dựa trên cơ sở lý luận và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm
đường lối của Đảng về nhân tố con người, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.


- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở khảo sát thực tiễn tình hình nơng nghiệp,
nơng thơn Nghệ An, có kế thừa một số kết quả thu được của các cơng trình khoa học
khác có liên quan, nhất là thực tế điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và nguồn lực con
người Nghệ An.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp, kết hợp
lôgic với lịch sử, trao đổi, phỏng vấn, thu thập và phân tích số liệu thống kê theo
phương pháp hệ thống.

5. Cái mới về khoa học của luận văn

- Góp phần hệ thống hóa quan điểm Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta về nhân tố con người và vai trò nhân tố con người.

- Bước đầu đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả nhân
tố con người trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An.

6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn

ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng để làm tư
liệu tham khảo trong việc giảng dạy nghiên cứu triết học. Góp phần phát huy nhân tố
con người đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An hiện nay.


7. Kết cấu luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm 2 chương với 4 tiết và
danh mục các tài liệu tham khảo.


Chương 1

Nhân tố con người và vai trò của nhân tố

con người trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn

1.1. quan điểm mác xít về nhân tố con người

1.1.1. Khái niệm về con người

Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như:
sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, y học... Song, giải đáp những vấn đề chung nhất
về con người như bản chất con người, mục đích và ý nghĩa cuộc sống của con người,
vai trò của con người trong thế giới như thế nào là những câu hỏi lớn của các hệ thống
triết học từ cổ đại đến hiện đại, từ phương Đông sang phương Tây.

Trong triết học trước Mác đã từng tồn tại những quan điểm khác nhau về vấn đề
con người.

Triết học thời cổ đại, trong quan niệm về con người thường tập trung tìm
kiếm xem có cái gì đó là cơ sở đầu tiên cấu tạo nên con người và cấu tạo như thế nào
theo hai xu hướng (nhất nguyên luận và nhị nguyên luận).


Do hạn chế về điều kiện lịch sử, nên quan niệm về con người thường mang tính
chất thần bí và duy tâm.


Thời kỳ Trung cổ đại ở phương Tây cùng với sự thống trị của Thiên Chúa
giáo, con người được quan niệm là do thượng đế, đức Chúa trời sáng tạo ra, con người
mắc phải tội tổ tông truyền, phải chịu khổ, chịu nạn, phải chuộc tội, phải cầu Chúa và
tin tưởng vô điều kiện vào Chúa.

Thời kỳ Phục Hưng con người được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Chủ
nghĩa nhân đạo tư sản đề cao con người với những nhu cầu cá nhân. ở thời kỳ Cận đại,
do ảnh hưởng của quan niệm siêu hình, máy móc, con người cũng được xem xét như "1
cỗ máy". Phơ-bách là một trong những nhà duy vật lớn nhất của triết học trước Mác đấu
tranh quyết liệt chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Nhưng Phơ-bách không hiểu được
hoạt động thực tiễn xã hội của con người, không hiểu được vai trị của thực tiễn sản xuất
trong q trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, coi thực tiễn là hành động tầm
thường, có tính chất con bn. Cho nên, hạn chế lớn nhất trong triết học "nhân bản" của
ông là ở chỗ hiểu không đúng về con người. Ông coi con người chỉ là một thực thể
mang bản chất tộc loại, không hiểu được bản chất xã hội của con người, khơng thấy
được vai trị của mối quan hệ giữa người với người quy định bản chất của họ. Quan
niệm của Phơ-bách về bản chất con người vẫn mang tính trừu tượng, phi lịch sử. Từ
quan niệm này ông đã trượt từ chủ nghĩa duy vật trong quan niệm về giới tự nhiên sang
chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm xã hội.

Tóm lại, những sai lầm thiếu sót chủ yếu trong nhận thức triết học về bản chất
con người của các hệ thống triết học trước Mác là do xuất phát từ lập trường duy tâm
hoặc từ phương pháp siêu hình trong cách xem xét vấn đề con người.

Đến chủ nghĩa Mác, với chủ nghĩa duy vật triệt để và phương pháp biện chứng

khoa học, vấn đề con người đã được giải đáp một cách toàn diện khoa học.

Con người được chủ nghĩa Mác xem xét trong sự thống nhất biện chứng giữa
cái sinh vật và cái xã hội.


Tiền đề xuất phát của chủ nghĩa Mác không phải là con người trừu tượng, con
người sinh học thuần túy, con người "xã hội" trống rỗng, khơng có cá nhân; mà hồn
tồn ngược lại. "Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ, và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều
kiện do hoạt động của họ sáng tạo ra" [23, tr. 267]. Đó là những con người sống trong
một thời đại nhất định, một mơi trường xã hội nhất định, có những quan hệ xã hội nhất
định. Những con người sống và hoạt động, mà hoạt động bản chất nhất, có tính người
nhất là sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt của mình, mặc dầu ăn, uống, sinh con đẻ cái
cũng là hoạt động có tính người.

Triết học Mác khơng hề phủ nhận cũng khơng tuyệt đối hóa mặt tự nhiên sinh
học khi xem xét con người với tư cách là những cá nhân đang sống và hoạt động. Trước
hết, Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp, sản phẩm của q trình tiến hóa
tự nhiên. Mác viết: "Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là tự nhiên là
thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải duy trì một q trình thường
xun để tồn tại" [23, tr. 135]. Con người, do đó khơng nằm ngồi sự chi phối của quy
luật tự nhiên bởi lẽ, "bản thân chúng ta... là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong
lòng giới tự nhiên" [22, tr. 657].

Thừa nhận yếu tố sinh vật của con người nghĩa là thừa nhận những quy luật
sinh học chung của con người, những đặc điểm về cấu trúc và chức năng cơ thể, đời
sống sinh lý, đặc tính di truyền... Tuy nhiên, Mác không thừa nhận quan điểm cho rằng:
cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh học, là bản năng thuần túy của
con người.


Cái sinh vật của con người (cái sinh vật này không cịn mang tính tự nhiên
thuần túy động vật) chỉ tồn tại đối với con người xã hội. Nghĩa là trong xã hội, cái sinh
vật đã được xã hội hóa. Nếu tách khỏi quan hệ xã hội thì chỉ cịn lại bản năng sinh vật.
Những thiên chức bẩm sinh do tự nhiên "ban tặng" bởi q trình tiến hóa lâu dài của sự


sống hữu cơ, có thể được ni dưỡng phát triển hoặc thui chột đi tùy thuộc vào điều
kiện, môi trường xã hội, do hoàn cảnh xã hội quyết định.

Cái nền tảng căn bản - có tính chất quyết định của sự thống nhất giữa cái sinh
vật và cái xã hội - chính là hoạt động thực tiễn mà trước hết là lao động sản xuất. Thông
qua hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới hiện thực khách quan mà con người tự khẳng
định mình như một thực thể xã hội, thốt khỏi trạng thái tự nhiên thuần túy. Chính "lao
động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một
mức độ mà trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân
con người" [22, tr. 641]

Vạch ra vai trò của các mối quan hệ xã hội trong yếu tố cấu thành bản chất của
con người là một cống hiến quan trọng của triết học Mác.

Mác viết: "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội" [21, tr. 11]

Kế thừa tư tưởng của Mác và tri thức triết học phương Đơng, vốn văn hóa dân
tộc, Hồ Chí Minh luôn chú ý đến con người.

Trong quan niệm Hồ Chí Minh, con người là những cá nhân cụ thể, vừa là cộng
đồng người đang sống với những nhu cầu hiện thực của họ.


Hồ Chí Minh khẳng định, lịch sử xã hội lồi người là do chính con người sáng
tạo ra bởi chính hoạt động của mình. Hồ Chí Minh viết: "vơ luận điều gì đều do con
người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả" [16, tr. 241].


Con người đã sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và giá trị tinh thần cho đời sống xã
hội cũng như phương thức sử dụng, hưởng thụ những thành quả của hoạt động đó.

Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của con người trong sự nghiệp xây dựng
xã hội mới. Hoàn cảnh tạo ra con người, nhưng trong chừng mực mà con người tạo ra
hoàn cảnh. Để cải tạo hoàn cảnh, trước hết con người phải ý thức rõ hơn hoàn cảnh cần
được cải tạo. Con người là chủ thể, hoàn cảnh là khách thể được cải tạo. Hồ Chí Minh
viết: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa" [18, tr.
159]. ở đây là con người giác ngộ XHCN có ý thức về sự cần thiết phải cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới.

Hồ Chí Minh ln ln coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân - lực lượng
sáng tạo chân chính ra lịch sử, là lực lượng nòng cốt của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định: "Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là người
sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã
hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa... Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý"
[17, tr. 250].

Vấn đề quan trọng trong tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh là tin tưởng và tơn
trọng mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người, đặc biệt là quần chúng nhân dân
lao động: "dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong".

Hồ Chí Minh rất coi trọng tính tự giác, chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo
của con người trong hoạt động (cả trong hoạt động thực tiễn và nhận thức).


Hồ Chí Minh ln ln coi trọng các nhu cầu và quyền lợi chính đáng của con
người. Bởi vì, nếu các nhu cầu và quyền lợi chính đáng của con người khơng được quan
tâm đúng mực thì tính tự giác, tích cực của họ bị giảm sút, xã hội mất đi nguồn động lực
của sự phát triển.


Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của
nhân dân trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Có như vậy thì nhân dân mới tin, mới
dám nói sự thật, đấu tranh cho lẽ phải và sự công bằng, mới có sự sáng tạo, từ đó tạo ra
động lực thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh viết: "Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Cơng việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân...
Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [16, tr. 368]

Nhận thức trên đây là một căn cứ xuất phát rất quan trọng định hướng cho quá
trình xây dựng và phát triển con người mới, phát huy tối đa tính tự giác, tích cực, năng
động, sáng tạo của nhân tố con người, cho quá trình xây dựng và phát triển đời sống
vật chất, văn hóa tinh thần nói chung, và đặc biệt cho sự thắng lợi của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước ta hiện nay.

Khái niệm nhân tố con người

Trong lịch sử triết học trước Mác, do quan niệm sai lầm về nguồn gốc bản chất
của con người, cho nên các nhà triết học trước Mác chưa có được một quan niệm đúng
đắn về vai trò của nhân tố con người trong tiến trình vận động của lịch sử, chưa thấy hết
được sức mạnh cải tạo thế giới của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn. Đặc
biệt, họ khơng phát hiện được vai trị của quần chúng nhân dân - lực lượng sáng tạo
chân chính ra lịch sử, là nhân tố quyết định tiến trình lịch sử.


Vấn đề nhân tố con người cũng được nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu.
Nhưng, do họ xuất phát từ những mục đích và phương pháp tiếp cận khác nhau mà hiện
nay có nhiều quan niệm về nhân tố con người. Có thể đưa ra một số quan niệm sau:

- Cách tiếp cận thứ nhất: Nhấn mạnh mặt hoạt động của nhân tố con người, vào
sự thể hiện các phẩm chất và đặc trưng bản chất của nó trong hoạt động có định hướng


và biến đổi (đó là các đại biểu như: G.A.En Janor; L.V.Nicolaer; O.N.Krutôva;
N.E.Zelinsky; E.F.Sulimor...)

- Cách tiếp cận thứ hai: Nhấn mạnh vào các đặc trưng, phẩm chất, năng lực đa
dạng của con người được thể hiện trong hoạt động như tác giả A.K.Ledov viết: Con
người trong mọi biểu hiện của nó vốn có những đặc trưng nhân cách nhất định. Những
quan điểm và quan niệm chính trị, đạo đức, triết học..." được con người lĩnh hội và trở
thành thế giới quan, các nguyên tắc và quy phạm ứng xử, quan điểm sống của họ, nghĩa
là những bản tính hoặc thuộc tính, phẩm chất khơng tách rời con người - đó là những
đặc trưng chính trị, tư tưởng, đạo đức và những đặc trưng khác của nhân tố con người.
Tất cả những phẩm chất đa dạng biểu hiện trong các dạng thức hoạt động khác nhau của
con người, trong quan hệ của nó với những người khác, với thế giới chung quanh đều
bao hàm trong khái niệm "nhân tố con người". Khái niệm đó thể hiện tính tích cực xã
hội của "cá nhân" [5]. RG. Janovskij cũng đưa ra quan niệm tương tự trong định nghĩa
của mình về nhân tố con người: "Nó như là tổng hịa những khả năng, thuộc tính, tri
thức, kinh nghiệm, năng lực và thói quen đang phát triển của con người mà chúng biểu
lộ trong hoạt động của con người và qua đó ảnh hưởng đến các quá trình xã hội" [5].

ở Việt Nam, vấn đề nhân tố con người đã được nhiều người quan tâm nghiên
cứu. Một số cơng trình nghiên cứu xem xét nhân tố con người trong một chỉnh thể thống
nhất toàn vẹn bao quát những đặc trưng bản chất nói lên con người vừa là chủ thể hoạt
động, chủ thể mang những đặc trưng về phẩm chất, năng lực, đồng thời là chủ thể tiếp

thu sáng tạo giá trị xã hội. Quan niệm khác xem:

Nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định
vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người bao gồm một
chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các đặc trưng về
phẩm chất, năng lực của con người trong một quá trình biến đổi và phát
triển xã hội nhất định [27, tr. 120].


Kế thừa những quan điểm của các tác giả trên, có thể đưa ra một quan niệm như
sau:

Nhân tố con người là sự thống nhất hữu cơ các mối liên hệ, quan hệ giữa các
mặt hoạt động với các đặc trưng về năng lực, phẩm chất xã hội của con người trong
q trình sáng tạo ra tồn bộ đời sống hiện thực.

ở đây, khái niệm "nhân tố con người" phản ánh những đặc trưng bản chất nhất
của con người hiện thực - với tính cách là một thực thể xã hội:

- Hoạt động thực tiễn là đặc trưng bản chất nhất của con người hiện thực với tư
cách là chủ thể sáng tạo. Đương nhiên, hoạt động đó của con người là do nhu cầu của con
người quyết định (chứ không phải do ý thức, tư duy), những nhu cầu đó "được phản ánh
vào trong đầu óc con người làm cho người ta ý thức rõ hơn về nhu cầu đó". Do đó, q
trình hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có phương pháp. Qua đó, nhân tố
con người giữ vai trò là tác nhân trực tiếp tạo ra sự biến đổi, phát triển của lịch sử. Hoạt
động thực tiễn vừa là cơ sở vừa là động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức, thúc đẩy sự
hình hành phát triển các đặc trưng về năng lực, phẩm chất của con người, đồng thời là
quá trình hiện thực hóa các năng lực, phẩm chất của con người. Cùng với sự tiến triển
của hoạt động thực tiễn, các đặc trưng về năng lực, phẩm chất của con người ngày càng
phát triển và hoàn thiện hơn.


- Những phẩm chất, năng lực của con người phản ánh những giá trị xã hội trong
những điều kiện lịch sử cụ thể - đặc trưng cho con người với tư cách là một nhân cách.
Các năng lực: nhận thức, tổ chức quản lý, điều hành hoạt động, khả năng tự ý thức, tự
nhận thức, tự đánh giá hành vi trong hoạt động của chủ thể... Các phẩm chất xã hội:
quan điểm đạo đức, chính trị, thế giới quan, lý tưởng, niềm tin, lập trường, thái độ, lối
ứng xử... Những năng lực, phẩm chất đó đặc trưng cho con người với tư cách là chủ thể


mang những giá trị văn hóa - lịch sử, phản ánh trình độ phát triển, mức độ hồn thiện
của con người.

- Mối liên hệ biện chứng giữa các mặt hoạt động (hoạt động thực tiễn và hoạt
động nhận thức), các đặc trưng về năng lực, phẩm chất tạo thành nhân tố con người như
một chỉnh thể thống nhất. Mặt khác, chính sự tác động qua lại giữa các mặt, các đặc
trưng về năng lực, phẩm chất của con người làm cho nhân tố con người luôn luôn vận
động, phát triển khơng ngừng trong tiến trình lịch sử. Qua đó, phản ánh quá trình con
người sáng tạo ra thế giới đối tượng thì cũng sáng tạo ra chính bản thân mình. Nhân
tố con người biểu hiện ra với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo, đồng thời là đối
tượng (khách thể) của q trình đó. Cũng với ý nghĩa này con người trở thành "vừa là
động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội".

Vấn đề cần phân biệt ở đây là khái niệm "nhân tố con người" với "nguồn lực
con người" hay "nguồn nhân lực". Hiện nay khái niệm "nguồn nhân lực" dùng cùng
nghĩa với "nguồn lực con người".

Nói tới nguồn lực con người, ta thường nói tới mặt số lượng và chất lượng. Mặt
số lượng của nguồn lực con người chính là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực
lượng lao động cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Các chỉ tiêu về số lượng của nguồn lực
con người của một quốc gia là dân số, tốc độ tăng dân số, tuổi thọ bình quân, cấu trúc

của dân số; số dân ở độ tuổi lao động, số người ăn theo... Về mặt chất lượng nguồn lực
con người là khả năng hoạt động năng động sáng tạo của con người cho sự phát triển
kinh tế - xã hội. Các chỉ tiêu về chất lượng: thể lực, trí lực, kỹ năng kỹ xảo, các phẩm
chất xã hội: ý thức đạo đức, chính trị, niềm tin, lý tưởng... là yếu tố quan trọng nhất
trong nguồn lực con người. Mặt chất lượng của nguồn lực con người là yếu tố quyết
định đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.


Nói tới phát huy nguồn lực con người là nói tới 3 phương diện: phát triển nguồn
lực, sử dụng nguồn lực và nuôi dưỡng môi trường cho nguồn lực [35, tr. 287].

Như vậy, khái niệm nguồn lực hay "nguồn nhân lực" là dùng để nói lên khả
năng và phẩm chất của lực lượng lao động xã hội. Nội dung của nó bao gồm cả mặt số
lượng và chất lượng của lao động xã hội. Còn khái niệm nhân tố con người là phản ánh
bản chất xã hội của con người, của nguồn lực con người, là hạt nhất cốt lõi đặc trưng
cho mặt chất lượng của nguồn lực con người, nhấn mạnh vai trị chủ thể tích cực, năng
động, sáng tạo của con người.

Khái niệm "nhân tố con người" và "nguồn lực con người" có cùng một nghĩa
như nhau khi đặt trong mối quan hệ với các nhân tố khác (vật chất) đều biểu hiện ở
những đặc trưng, thuộc tính cơ bản của con người: là nhân tố hoạt động sống, khả năng
tái sản sinh và tự nhân mình lên gấp bội tiềm năng vơ tận của trí tuệ và tinh thần con
người. "Do đó, phát huy nhân tố con người có thể hiểu như là phát huy nguồn lực con
người, khi con người trở thành một điều kiện, một tiềm năng cần phát huy để tạo ra
động lực phát triển của một quá trình xã hội" [15, tr. 127].

1.1.2. Những điều kiện khách quan ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố
con người ở Việt Nam

- Môi trường tự nhiên (mơi trường địa lý)


Việt Nam với vị trí địa lý và đặc điểm địa hình, khí hậu, tài ngun sinh thái là
một thiên nhiên nhiệt đới gió mùa phong phú, đa dạng, chứa đựng nhiều tiềm năng to
lớn, nhưng cũng đặt ra khơng ít thách thức đối với con người.

Tuy ba miền Bắc - Trung - Nam mà mỗi miền có những nét khác biệt nhau về
địa hình, khí hậu, mơi trường sinh thái, tài ngun, nhưng tính nhiệt đới gió mùa và bán


đảo vẫn là đặc trưng chung của thiên nhiên Việt Nam. Những điều kiện tự nhiên đó kết
hợp với hồn cảnh lịch sử cụ thể mà có ảnh hưởng nhất định đến vai trò hoạt động của
nhân tố con người, đến tính tích cực, sáng tạo của con người, lịng say mê hoạt động của
họ cũng như tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ trong quá trình xây dựng nước nhà,
phát triển kinh tế, xã hội.

Trong lịch sử xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, con người Việt
Nam vừa thích nghi vừa khai phá những tài nguyên và mặt thuận lợi của thiên nhiên để
mở mang ruộng đồng, làng xóm, phát triển kinh tế nơng nghiệp trồng lúa nước kết hợp
với nghề thủ công, chăn nuôi, săn bắt... Mặt khác, con người cũng phải liên kết với nhau
trong cuộc đấu tranh khắc phục những trở ngại của thiên nhiên, chống thiên tai, nhất là
lũ lụt, hạn hán... Từ rất sớm con người Việt Nam đã biết đắp đê sông, đê biển chống lũ
lụt, bão tố, đào kênh, khơi mương làm thủy lợi để chống hạn hán, tưới tiêu cho đồng
ruộng. Công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội trong những đặc điểm
của thiên nhiên Việt Nam, sớm tạo nên sự gắn bó cộng đồng, sự gắn bó quê hương, xóm
làng là một trong những cơ sở của tình yêu đất nước. Từ đó tạo ra sự gắn bó chung sống
và hịa đồng giữa con người với thiên nhiên, sự gắn bó con người với con người trong
tính cộng đồng cao của truyền thống Việt Nam.

Những nét đặc thù của thiên nhiên Việt Nam kết hợp với điều kiện lịch sử cụ
thể mà trong hoạt động thực tiễn sản xuất đã sớm rèn luyện cho con người Việt Nam

những đức tính tốt đẹp đáng trân trọng và cần được phát huy đó là: có lịng bao dung độ
lượng, thương người như thể thương thân, hoạn nạn có nhau; yêu quê hương nơi chơn
rau cắt rốn, u thiên nhiên; cần cù chịu khó trong lao động; khả năng thích ứng linh
hoạt đối phó với thiên tai bất ngờ. Đặc biệt là sớm hình thành ý thức sức mạnh của cộng
đồng mà trong đó sức mạnh của mỗi thành viên được nhân lên trong quá trình khai khẩn
đất đai, trị thủy.

- Điều kiện kinh tế- xã hội (ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố con người)


Điều kiện kinh tế - xã hội, xét đến cùng là cái ảnh hưởng có tính quyết định đối
với việc phát huy nhân tố con người.

Việt Nam vốn là một nước có nền sản xuất nhỏ tồn tại phổ biến, lâu dài trong
hàng ngàn năm lịch sử, ảnh hưởng rất lớn đến việc phát huy nhân tố con người.

Đặc điểm quan trọng của nền sản xuất nhỏ Việt Nam là cơ sở kỹ thuật thủ công
lạc hậu, tư liệu sản xuất thích ứng với sử dụng cá nhân, phân cơng lao động có tính chất
tự nhiên, truyền thống, thời vụ, giới tính, lao động cá thể chiếm ưu thế, năng suất lao
động thấp, sản xuất cò con, manh mún, nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp...

Lối tư duy kinh nghiệm là chủ yếu, kém phát triển về tư duy lý luận là kết quả
của nền sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán. Trình độ kỹ thuật thủ cơng lạc hậu, hoạt
động cơ bắp là chủ yếu, các thao tác đơn giản dựa vào thói quen kinh nghiệm trong sản
xuất. Người nào tích lũy được nhiều kinh nghiệm coi như là "cẩm nang" của mình. Sức
lao động cơ bắp đóng vai trị quyết định. Hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm rất thấp.
Hoạt động sản xuất phụ thuộc rất lớn vào "ân huệ" của giới tự nhiên ban tặng như độ
màu mỡ của đất đai, chim muông, thú rừng...

Do đó, khả năng chinh phục giới tự nhiên rất kém, điều đó cũng có nghĩa là khả

năng phát triển trí tuệ rất thấp - tư duy khoa học không phát triển lên được, dành chỗ
cho tư duy huyền thoại vốn đã xuất hiện từ sớm cùng với lịch sử loài người.

Nền sản xuất tiểu nông, năng suất lao động thấp, người ta phải lo vun vén cho
lợi ích nhỏ nhen của mình. Tính ích kỷ nhỏ nhen, trục lợi lại trỗi dậy có khi lấn át cả
tính cộng đồng. Người ta thường chỉ thấy lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ mà khơng
thấy được lợi ích tồn bộ, lâu dài. Phương pháp suy nghĩ nặng về tình cảm, nhẹ về lý trí,
dễ mắc bệnh chủ quan ảo tưởng, làm kìm hãm sự phát triển trí tuệ, hạn chế tính tích cực,
năng động, sáng tạo của con người.


Nền kinh tế khép kín, tự túc, tự cấp, lại bị hàng ngàn năm Bắc thuộc, do vậy
khơng có khả năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật của nền đại công nghiệp. Đây cũng là
một nguyên nhân cản trở phát triển tư duy trí tuệ, tư duy kinh tế.

Điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, với nền sản xuất nhỏ,
manh mún, đời sống bấp bênh đã rèn luyện cho con người tính cần cù, chịu khó, ý chí
vượt qua khó khăn, khả năng phản ứng mau lẹ, linh hoạt, thông minh sáng tạo.

Trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay đòi hỏi một mặt, kiên quyết đấu
tranh khắc phục những tàn dư, tư tưởng tiêu cực, lạc hậu, mặt khác, phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc gắn liền với nâng cao, phát triển tư duy lý luận, tư duy kinh tế.

- Điều kiện văn hóa - lịch sử

Lịch sử dân tộc ta đã phải trải qua những cuộc chiến tranh tàn khốc, nguy hiểm
đến sự tồn vong của dân tộc, nguy cơ bị đồng hóa, mất nước, để lại những hậu quả hết
sức nặng nề, tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều, đòi hỏi thời gian lâu dài mới khắc
phục được. Ngay cả bây giờ, các thể lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế
độ XHCN và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta. ảnh hưởng cực kỳ to lớn đến công

cuộc xây dựng đất nước đi lên CNXH.

Chính tính đặc thù trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã tác
động sâu sắc đến sự phát triển tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, ý chí quật cường,
bất khuất, niềm tự hào dân tộc.

Tinh thần yêu nước, yêu quê hương xử sở, nơi chôn rau cắt rốn được hun đúc
lên và phát triển thành ý thức bảo vệ non sông đất nước, ý thức sâu sắc về lãnh thổ quốc
gia.


Chủ nghĩa Mác - Lênin được Hồ Chí Minh truyền bá vào Việt Nam cùng với
phong trào yêu nước và phong trào công nhân dẫn đến thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam năm 1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh, cách
mạng Việt Nam đã đi đến thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945, thành lập Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Tiếp theo 30 năm kháng chiến đi đến thắng lợi mùa xuân năm
1975, giành lại được độc lập, thống nhất đất nước.

Độc lập dân tộc kết hợp với CNXH, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa
Mác - Lênin trở thành nguồn động lực tinh thần và có ý nghĩa quyết định trong thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.

Như vậy, chủ nghĩa yêu nước là giá trị truyền thống quan trọng nhất của dân tộc
Việt Nam, là "sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại" [7,
tr. 94]. Chủ nghĩa yêu nước là nhân tố cơ bản của bản lĩnh dân tộc, bảo đảm sự phát
triển bền vững và ổn định của kinh tế, xã hội, bảo đảm giữ gìn bản sắc văn hóa và hội
nhập vào cộng đồng khu vực cũng như cộng đồng thế giới. Chính thời kỳ Bắc thuộc hơn
một ngàn năm với tất cả những âm mưu đồng hóa của ngoại bang là một thử thách hết
sức ác liệt đối với sự tồn vong của đất nước, dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước vẫn là động
lực tinh thần nội sinh để chiến thắng bất cứ kẻ thù nào, để xây dựng phát triển đất nước.


Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm tinh thần cao quý nhất của dân tộc Việt Nam,
là tư tưởng và tình cảm thiêng liêng giữ vị trí chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng
đầu bậc thang giá trị dân tộc. Tinh thần đó đã được phát huy sức mạnh vơ biên của nó
trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và là mẫu số chung, là một động lực tinh
thần nội sinh của cộng đồng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước.

Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ta cần được nâng cao lên ngang tầm thời đại,
đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước tiến lên văn minh hiện đại, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chuyển từ động lực tinh thần


trong chống ngoại xâm sang động lực tinh thần trong xây dựng đất nước, khắc phục
nghèo nàn lạc hậu, coi nghèo nàn lạc hậu, coi thua kém các nước trong khu vực và thế
giới là nỗi nhục như nỗi nhục mất nước, nỗi nhục nô lệ.

Cũng cần phải nhấn mạnh thêm rằng, trong lịch sử đã phải chứng kiến không ít
trường hợp phát triển chệch hướng của tinh thần dân tộc hoặc theo khuynh hướng Sôvanh nước lớn, chủ nghĩa đại dân tộc, hoặc theo khuynh hướng chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi, chủ nghĩa quốc gia vị kỷ. Trên thế giới hiện nay, cả hai khuynh hướng đó là nguyên
nhân sâu xa của nhiều xung đột sắc tộc, quốc gia, khu vực. Nhưng trong lịch sử cũng đã
thể nghiệm sức mạnh lớn lao của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính của
nhiều dân tộc trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc mình.

Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính của Việt Nam trong thời đại
ngày nay là:

- Kết hợp độc lập dân tộc với CNXH.

- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí
Minh.


- Tiếp nhận những tư tưởng tiên tiến của thời đại văn minh công nghiệp và hậu
công nghiệp.

Chủ nghĩa yêu nước giữ một vai trị hết sức quan trọng trong cơng cuộc đổi
mới, CNH, HĐH đất nước hiện nay. Chủ nghĩa yêu nước là mẫu số chung của mọi
người Việt Nam thuộc các dân tộc người (ta có 54 tộc người quen gọi là 54 dân tộc), các
tầng lớp xã hội và tôn giáo khác nhau cũng như mọi thành viên trong cộng đồng Việt
Nam thuộc các xu hướng chính trị khác nhau đang sinh sống ở nước ngồi. Đó là cơ sở
chung cần phát huy để đoàn kết tập hợp mọi lực lượng của dân tộc trong sự nghiệp xây


dựng đất nước. Chủ nghĩa yêu nước là nhân tố cơ bản của bản lĩnh dân tộc, là động lực
nội sinh tạo nên quyết tâm, ý chí, nghị lực và trí tuệ để xây dựng đất nước, vượt qua
nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp trào lưu văn minh của thời đại, đảm bảo sự phát triển bền
vững và ổn định, đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc trong giao lưu văn hóa và hội nhập
vào cộng đồng khu vực cũng như cộng đồng thế giới.

Yêu cầu đặt ra trong việc phát huy chủ nghĩa yêu nước trong quá trình CNH,
HĐH thực hiện sự nghiệp xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh là phải nhận thức sâu sắc về chủ nghĩa u nước, lịng tự
tơn dân tộc. Do vậy, cần phải có những giải pháp đồng bộ trong giáo dục gia đình,
trường học và tạo lập mơi trường văn hóa xã hội mang tính giáo dục cao của tồn xã
hội.

1.2. vai trò của nhân tố con người trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nơng nghiệp, nơng thơn Việt Nam

1.2.1. Đặc điểm của q trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn Việt
Nam - thuận lợi và khó khăn


CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước nói chung và cũng là chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước ta
nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.

Q trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn có thể nêu ra một số đặc điểm
sau đây:

- Q trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn là q trình phát triển LLSX
vừa củng cố hồn thiện QHSX XHCN ở nơng thơn phù hợp với mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế, xã hội nói chung của đất nước trong từng thời kỳ. Thực chất là quá


trình tạo ra những tiền đề cần thiết về vật chất, kỹ thuật, về con người, công nghệ,
phương tiện, phương pháp - những yếu tố cơ bản của LLSX cho CNXH... Trong giai
đoạn đầu của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã chỉ rõ: quá trình phát triển LLSX là "q trình
chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ
cơng là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo năng suất lao động xã hội cao" [11,
tr. 4].

- Quá trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn trước hết nhằm khai thác có
hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư nghiệp, đảm bảo vững chắc yêu cầu an
toàn lương thực cho xã hội; tạo nguồn nguyên liệu có khối lượng lớn, chất lượng cao,
giá thành hạ, đủ tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu công nghệ chế biến; tăng giá trị hàng xuất
khẩu; tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động; phân cơng lại lao động xã
hội, hình thành các điểm cơng nghiệp gắn liền với đơ thị hóa tại chỗ, mở rộng thị trường
sản phẩm và dịch vụ cơng nghiệp...

- Q trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn không chỉ đơn giản là phát

triển công nghiệp nông thôn và HĐH một số công đoạn sản xuất nông nghiệp như cơ
giới hóa, điện khí hóa mà nó cịn bao gồm toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ đời sống vật chất và văn hóa tinh thần nói chung ở nông thôn phù hợp với nền sản
xuất công nghiệp hiện đại và phương thức tổ chức tiên tiến. Đó là q trình phát triển
tồn diện nơng, lâm, ngư nghiệp; hình thành các vùng tập trung chun canh, có cơ cấu
hợp lý về cây trồng vật nuôi, thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học
hóa; phát triển cơng nghiệp chế biến nơng - lâm - thủy sản với công nghệ ngày càng cao
gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp đô thị; phát triển các ngành nghề
truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi
nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân; xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nơng thơn mới, văn minh
hiện đại.


- Q trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn theo hướng phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước gắn liền với thị trường trong và ngoài nước. Nền kinh tế sản
xuất hàng hóa nhiều thành phần chính là xây dựng một hệ thống QHSX phù hợp với
tính chất và trình độ của LLSX trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, có tác dụng to lớn
trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế, phát triển LLSX, có khả năng hội nhập
vào thị trường quốc tế.

Tóm lại: Q trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn phải giữ vững định
hướng XHCN vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển của LLSX, vừa là nhân tố tích cực để
củng cố, hồn thiện QHSX XHCN ở nông thôn phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội chung của đất nước trong từng thời kỳ. CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn trước hết và chủ yếu nhằm tăng nhanh tốc độ tăng trưởng nông nghiệp,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ, xây dựng nông thôn mới và
nâng cao đời sống nhân dân. Song đích cuối cùng phải hướng tới đó là nâng cao hiệu

quả tổng hợp của toàn bộ đất nước, bao gồm cả kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phịng,
mơi trường, sinh thái.

Những thuận lợi và khó khăn trong q trình CNH, HĐH nơng nghiệp,
nơng thơn:

Những thuận lợi:

- Chính quyền thuộc về nhân dân, nước nhà đi vào giai đoạn hịa bình để xây
dựng, nhân dân ta vốn có truyền thống yêu nước tinh thần đồn kết, lịng tự tơn dân tộc
với quyết tâm chống nghèo nàn lạc hậu, có tinh thần lao động cần cù, chịu khó, thơng
minh, sáng tạo... Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta sẽ là động lực tinh thần phát
huy sức mạnh nội lực thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và
CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn nói riêng.


×