Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

LUẬN VĂN: Phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương thành phố Cần Thơ docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.17 KB, 104 trang )












LUẬN VĂN:
Phát huy nhân tố con người trong lực lượng
vũ trang địa phương thành phố Cần Thơ








Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố hàng đầu, yếu
tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn thế nữa, con
người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của mọi quá trình lịch sử. Là sản phẩm của
lịch sử, con người còn là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Chính vì vậy, Đảng ta
luôn xác định con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.


Ngay từ Đại hội lần thứ III năm 1960, Đảng ta đã khẳng định: "Con người là vốn
quý nhất" [9, tr. 77], Đại hội IV năm 1976, Đảng ta đưa ra luận điểm về "Con người mới
- con người làm chủ tập thể" [17, tr. 64]. Kế tiếp các kỳ Đại hội VI, VII, VIII trong công
cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" [14, tr. 85]. Và Đại hội IX, Đảng ta
tiếp tục khẳng định: "Con người và nguồn lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất
nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [16, tr. 201]. Điều đó cho thấy, tư
tưởng, quan điểm của Đảng ta về con người, về vai trò của nhân tố con người (NTCN) là
nhất quán. Song, trong thực tiễn không phải thời kỳ nào chúng ta cũng thực hiện đầy đủ
tư tưởng trên. Trước đổi mới, chúng ta xem xét đánh giá con người, NTCN có phần
chung chung, trừu tượng. Từ Đại hội VI năm 1986 đến nay, con người mới được xem xét
một cách cụ thể hơn. Các chủ trương, chính sách để phát huy NTCN ngày càng rõ ràng,
thiết thực hơn. Cho nên, trong sự nghiệp đổi mới đất nước việc phát huy NTCN Việt
Nam đã có bước chuyển biến đáng kể về mọi mặt, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới đất
nước phát triển.
Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) có sự phát triển mới. Quân đội nhân
dân Việt Nam (QĐNDVN) nói chung và lực lượng vũ trang (LLVT) địa phương thành phố
Cần Thơ nói riêng, không chỉ sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) và chiến đấu chống vũ trang


xâm lược của kẻ thù mà còn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy để bảo vệ Đảng,
bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân trong cuộc đấu tranh chống "Diễn biến hòa bình"
(DBHB), bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc. Cho nên, vấn đề phát huy NTCN nhằm
nâng cao vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong sự nghiệp xây
dựng và BVTQ lại đặt ra hết sức cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn như hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), những
năm qua đã bổ sung cho quân đội - LLVT Quân khu 9 và LLVT thành phố Cần Thơ
nhiều cán bộ, chiến sĩ có chất lượng cao và tạo ra môi trường xã hội thuận lợi để thúc đẩy
cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, phấn khởi phát huy tinh thần tự giác, tích cực, chủ
động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Bên cạnh đó, đã có những tác động tiêu

cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, làm cho một số cán bộ, chiến sĩ LLVT nói chung
và cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng nhận thức chưa đầy
đủ về nhiệm vụ xây dựng quân đội, nhiệm vụ BVTQ, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu
quả trong thực hiện nhiệm vụ và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Nhiệm vụ BVTQ của nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh cuộc đấu tranh
chính trị thế giới hết sức phức tạp. Các thế lực phản động, thù địch tìm mọi cách chống
phá cách mạng nước ta, chống phá công cuộc xây dựng CNXH của nhân dân ta bằng
chiến lược "DBHB" và bạo loạn lật đổ, kết hợp răn đe quân sự với các loại hình chiến
tranh xâm lược có tính chất, quy mô khác nhau, mà mũi nhọn chống phá của chúng là
lĩnh vực chính trị, tư tưởng, quân đội ta được coi là một trong những đối tượng chủ yếu
nhằm "phi chính trị hóa lực lượng vũ trang". Đúng như nhận định của nguyên Tổng Bí
thư Lê Khả Phiêu: "Sự thách thức đối với quân đội nhân dân lớn nhất là sự thách thức
trên mặt trận chính trị, tư tưởng" [53, tr. 61]. Tình hình đó, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ quân
đội phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, cảnh giác mọi
âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, SSCĐ và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống. Quân
đội ta không chỉ là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu, là lực lượng chính trị đặc biệt trung
thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân, mà còn là lực lượng nòng cốt
trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) và chiến tranh nhân dân (CTND), sẵn
sàng chống vũ trang xâm lược của kẻ thù, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ


chế độ và tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng;
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Với yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ mới, đòi hỏi quân
đội nói chung và LLVT địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng, không ngừng nâng cao
sức mạnh chiến đấu mới. Đó là, thiện chiến trong chiến đấu, thiện chiến trong đấu tranh
chính trị, tư tưởng.
Cần Thơ là thành phố có vị trí đặc biệt quan trọng, không những là trung tâm về
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật mà còn là địa bàn chiến lược quân sự quan
trọng của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Cần Thơ là đầu mối giao thông thuận
tiện về đường thủy và đường bộ nối với các tỉnh miền Tây sông Hậu và thành phố Hồ Chí

Minh. Đảng bộ, dân và quân thành phố Cần Thơ đã và đang dồn hết sức xây dựng phát
triển kinh tế - xã hội, xứng đáng là thành phố trực thuộc Trung ương. Trong nhiệm vụ
BVTQ, thành phố Cần Thơ là nơi trực tiếp xây dựng tiềm lực, thế trận QPTD, là nơi trực
tiếp ngăn ngừa và đánh bại chiến lược "DBHB", bạo loạn lật đổ ở khu vực này. Khi có
chiến tranh, thành phố Cần Thơ là khu vực phòng thủ quan trọng vừa là tiền tuyến chiến
đấu, vừa là hậu phương chi viện sức người, sức của để BVTQ.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ BVTQ trong giai đoạn cách mạng hiện nay,
nhiều vấn đề đặt ra đối với LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, nhưng suy cho cùng
yếu tố quyết định là con người. Chăm lo bồi dưỡng, đào tạo con người, phát huy nguồn
lực con người không những có ý nghĩa quyết định đối với nhiệm vụ trước mắt, mà còn có
ý nghĩa chiến lược lâu dài trong nhiệm vụ quốc phòng nói chung, quân sự địa phương
(QSĐP) nói riêng.
Từ những vấn đề nêu trên, việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành
phố Cần Thơ, cần phải có một số giải pháp đồng bộ, phù hợp đối với LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ. Cả về lý luận và thực tiễn đang đặt ra một cách cấp thiết, đòi hỏi
phải được nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống để lý giải đúng, kịp thời vấn đề góp phần xây
dựng LLVT thành phố Cần Thơ chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới. Từ tính cấp thiết trên, tác giả chọn vấn


đề: " Phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương thành phố Cần
Thơ hiện nay " làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong các tác phẩm kinh điển mác-xít, đặc biệt là những tác phẩm của Hồ Chí
Minh, vấn đề con người, về xây dựng LLVT được đề cập đến một cách toàn diện, có hệ
thống mang ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng và
BVTQ trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.
Thời gian qua, vấn đề con người, NTCN nói chung và NTCN trong lĩnh vực
quân sự nói riêng đã và đang có sự quan tâm, thu hút nghiên cứu của các nhà khoa học
trên thế giới như: "Nhân tố tinh thần và chính trị trong chiến tranh hiện đại" (của Học

viện Quân chính Lênin, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960); "Học thuyết Mác-Lênin về chiến
tranh và quân đội" (của D.A.Vôn-cô-gô-nốp, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1987);
"Hệ thống con người và kỹ thuật quân sự" (của giáo sư, tiến sĩ triết học A.B.Pypco, Nxb
Quân đội nhân dân, 1976). Và đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước ở Việt
Nam, vấn đề con người, NTCN được Đảng, Nhà nước ta chú ý quan tâm. Những kết quả
thu được bằng nhiều công trình của tập thể và cá nhân có liên quan đến các khía cạnh
khác nhau đã được công bố như:
"Con người - những ý kiến mới về một đề tài cũ" (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987);
"Bàn về chiến lược con người" (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989); "Con người Việt Nam trong
công cuộc đổi mới" (Đề tài KX.07); "Mối quan hệ biện chứng giữa con người và vũ khí
trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam" (của tác giả Phạm Thanh
Sơn, Luận án PTS triết học, 1994); "Nâng cao chất lượng của nhân tố con người trong
sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân hiện nay" (của tác giả Hoàng Quang Đạt,
Luận án PTS triết học, 1995); "Tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan trong
xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" (của tác giả Nguyễn Văn Tài, Luận án
tiến sĩ triết học, 1998); "Phát huy nhân tố con người bộ đội pháo binh Việt Nam trong
việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay" (của tác giả Nguyễn Đức Khang, Luận
án tiến sĩ triết học, 2002); "Nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong việc xây dựng sức


mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" (tác giả Phạm Khắc Ninh,
Luận văn thạc sĩ triết học, 1997).
Và một số công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí, báo chí như:
"Các Mác với vấn đề con người và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa" (tác giả Lê
Thi, tạp chí triết học, số 4, tháng 12/1983); "Mấy vấn đề về "trồng người" trong tư tưởng
Hồ Chí Minh" (tác giả Lê Sỹ Thắng, tạp chí triết học, số 2, tháng 6/1995); "Về con người
Việt Nam trước và sau 10 năm đổi mới" (tác giả Lê Hữu Tầng, tạp chí triết học, số 4,
tháng 8/1997); "Nhân tố con người và những giá trị văn hóa" (tác giả Trường Lưu, tạp
chí triết học, số 1, tháng 3/1993); "Nâng cao năng lực trí tuệ-một công việc cấp bách xây
dựng Quân đội nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới" (tác giả Đặng Vũ Hiệp, tạp chí

Quốc phòng toàn dân, tháng 4/1995)
Những công trình nghiên cứu trên của các tác giả đã đề cập đến nhiều khía cạnh,
nhiều cấp độ khác nhau về con người, NTCN nói chung và con người, NTCN trong quân
đội nói riêng. Chưa có công trình nào nghiên cứu về con người, NTCN trong LLVT địa
phương thành phố Cần Thơ. Tác giả luận văn kế thừa những kết quả nghiên cứu của các
công trình trên để đi sâu vào đề tài "Phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ
trang địa phương thành phố Cần Thơ" dưới góc độ một luận văn triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở vạch ra thực trạng việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ, luận văn chỉ ra những vấn đề phát sinh và đưa ra những giải pháp để
phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ trong tình hình mới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Làm sáng rõ đặc điểm và vai trò của NTCN, phát huy NTCN trong thực hiện
nhiệm vụ BVTQ, nhiệm vụ quốc phòng, QSĐP hiện nay.


- Đánh giá thực trạng việc phát huy NTCN, đồng thời đặt ra những vấn đề của
việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ.
- Đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy NTCN trong LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ đối với việc thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu quá trình hoạt động thực tiễn của LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ: Xây dựng, huấn luyện và SSCĐ. Dựa vào kết quả điều tra, khảo sát
thực tế về thực trạng NTCN, cũng như việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ ở một số cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự thành phố.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; các quan điểm, chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng và Nhà nước ta; các

Nghị quyết, chỉ thị của Đảng ủy quân sự Trung ương, Tổng Cục chính trị, Đảng ủy quân
sự Quân khu 9, Thành ủy Cần Thơ và Đảng ủy quân sự thành phố Cần Thơ.
- Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin
về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp các phương pháp khác:
lịch sử và lôgíc, điều tra xã hội học, so sánh, đối chiếu
6. Những đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Làm sáng tỏ đặc điểm, vai trò NTCN trong LLVT, đặc biệt ở thành phố Cần Thơ,
cũng như những bài học kinh nghiệm để phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành
phố Cần Thơ.
- Phân tích thực trạng NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, đề ra
một số vấn đề nảy sinh trong việc phát huy NTCN của LLVT địa phương thành phố Cần
Thơ.


- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành
phố Cần Thơ đối với nhiệm vụ BVTQ; nhiệm vụ quốc phòng, công tác QSĐP trong tình
hình mới.
Luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong giảng dạy ở Trường quân
sự Quân khu 9, Trường QSĐP thành phố Cần Thơ cũng như trong hoạt động thực tiễn
của các cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương. Mặt khác, luận văn góp phần làm phong phú
đường lối quân sự của Đảng ta trên vấn đề NTCN trong xây dựng LLVT địa phương là
nâng cao NTCN và tích cực phát huy NTCN của LLVT nói chung, LLVT địa phương
thành phố nói riêng. Từ đó, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng
bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.




Chương 1
yêu cầu cấp bách Của Việc Phát HUY
NHÂN Tố CON Người TRONG Lực Lượng Vũ TRANG
Địa PHƯƠNG Thành Phố Cần THƠ Hiện NAY

1.1. Khái Niệm: CON Người, NHÂN Tố CON Người, NHÂN Tố CON Người
TRONG Lực Lượng Vũ TRANG
1.1.1. Khái niệm con người
Vấn đề con người là một vấn đề tưởng là cũ nhưng rất mới, vì lẽ, con người còn
chứa đựng rất nhiều tiềm năng và giá trị nhưng chưa được phát hiện và khai thác triệt để.
Con người còn tồn tại thì vấn đề con người vẫn được đặt ra và các nhà tư tưởng, các
trường phái triết học quan tâm nghiên cứu. Suy cho cùng, chính từ con người, vấn đề cơ
bản của triết học mới được xác định, cũng như những vấn đề về thế giới quan và phương
pháp luận mới được đặt ra. Không phải C. Mác là người đầu tiên phát hiện vấn đề con
người là vấn đề trung tâm của thế giới để đặt ra vấn đề giải phóng xã hội loài người; mà
trước đó, các trường phái triết học cũng đề cập vấn đề này trên nhiều bình diện khác
nhau. Nhưng chỉ có C. Mác mới xem xét vấn đề con người một cách cụ thể, sâu sắc và
toàn diện trên quan điểm duy vật biện chứng bằng sự kế thừa rất biện chứng những giá trị
khoa học đã có trong lịch sử triết học về con người. Các nhà triết học trước C. Mác do
hạn chế về thế giới quan, hoặc do hạn chế về điều kiện lịch sử nên vấn đề con người giải
thích theo hướng duy tâm thần bí, siêu hình.
Sai lầm của các nhà triết học duy tâm khi coi bản chất con người là sản phẩm của
các đấng siêu nhiên tối cao, là hiện thân của "tinh thần tuyệt đối", là kết quả của sự "tha
hóa" của tinh thần tuyệt đối mà có, hoặc là sản phẩm của ý thức chủ quan của chính bản
thân con người. Còn quan điểm của các nhà triết học duy vật trước C. Mác cho rằng, con
người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự phát triển của tự nhiên. Họ còn cho
rằng, con người bẩm sinh là một sinh vật có tính xã hội. Họ chỉ thấy sự tồn tại hiện thực


của con người trong mối quan hệ với tự nhiên mà không hề xét đến mối quan hệ chi phối

cuộc sống của họ. Cách khác, họ thừa nhận tác động của môi trường đối với sự cải biến
con người, mà họ giải thích không đúng với bản chất con người và vai trò của con người
trong thực tiễn cách mạng, cũng như vai trò của thực tiễn đối với việc hình thành và phát
triển con người.
Chỉ có C. Mác và Ph. Ăngghen nghiên cứu, nhận thức về con người mới có sự
thay đổi căn bản về chất so với các nhà triết học khác.
Xuất phát từ con người hiện thực, C. Mác vận dụng phép biện chứng duy vật vào
việc phân tích các mối quan hệ xã hội và chỉ ra rằng, con người tồn tại với tư cách là
người khi nó gắn với thế giới xung quanh, với cộng đồng và với người khác. Hoạt động
thực tiễn của con người tạo thành hệ thống các mối quan hệ xã hội. C. Mác viết trong
Luận cương về Feuerbach: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các
quan hệ xã hội" [38, tr. 11]. Điều đó có nghĩa là, những quan hệ xã hội đó được thể hiện
trong toàn bộ hoạt động cụ thể của con người. Chỉ có những con người sống, hoạt động
trong một xã hội nhất định, một thời đại nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định
chứ không có những con người trừu tượng. Con người chỉ có thể bộc lộ và thực hiện
được bản chất của mình trong toàn bộ những quan hệ xã hội cụ thể mà thôi. Chúng ta
không thể dừng lại ở mối quan hệ chật hẹp giữa cơ thể con người và môi trường, mà muốn
hiểu được nó - Con người hiện thực, đời sống hiện thực của con người thì phải xem xét
toàn diện các mối quan hệ. Đó chính là mối quan hệ của con người với tự nhiên và xã
hội.
Tự nhiên, xã hội và con người là một chỉnh thể thống nhất, có mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ với nhau. Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể sáng tạo ra tự nhiên và
xã hội ở trình độ cao hơn. Cho nên, không có xã hội và tổng hòa các mối quan hệ xã hội
thì sẽ không có con người đúng theo nghĩa của nó. Bản chất của con người hiện thực
được quy định bởi các quan hệ xã hội. Tự nhiên sinh ra con người, là cái có trước con
người, nên con người phụ thuộc vào tự nhiên và các quy luật của tự nhiên. Con người trở


thành chính mình là vì không lệ thuộc thụ động vào tự nhiên như những sinh vật khác.

Chính nhờ lao động, thông qua lao động con người thích nghi với tự nhiên, hoàn cảnh,
môi trường và cải tạo tự nhiên, làm ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của chính mình mà tự
nhiên không có. Quá trình cải tạo tự nhiên là quá trình con người tự hoàn thiện chính
mình, tự khẳng định mình trước tự nhiên.
Con người có trước xã hội. Xã hội loài người hiểu theo đúng nghĩa của nó khi
tính cộng động và những mối quan hệ xã hội con người được hình thành và thiết lập vững
chắc. Chỉ có trong đời sống thực tiễn, con người mới được hình thành và ngày càng hoàn
thiện. C. Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu sâu sắc những thành tựu của khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội và chỉ ra rằng: Con người không do ai sáng tạo ra mà là sản phẩm cao
nhất trong quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Đây là bước ngoặt cách mạng
trong nhận thức về bản chất con người do hai ông đem lại.
C. Mác chỉ rõ rằng, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều gắn với một phương thức
sản xuất vật chất nhất định, khi phương thức sản xuất vật chất biến đổi thì lực lượng sản
xuất cũng biến đổi theo. Nhân tố quyết định sự biến đổi đó chính là hai yếu tố: người lao
động và tư liệu sản xuất. Con người cùng với công cụ lao động do con người tạo ra đã
quyết định sự phát triển của xã hội. Ngược lại, sự phát triển của xã hội đến lượt nó lại
quyết định sự hoàn thiện và phát triển chính bản thân con người. Đây là luận điểm có ý
nghĩa quan trọng mà C. Mác đã vạch ra, là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu con
người, NTCN trong xã hội hiện nay. C. Mác và Ph.Ăngghen đã viết:
Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy
tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể
bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động
của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ
thấy có sẵn cũng như những điều kiện do họ hoạt động của chính họ tạo ra
[38, tr. 28-29].
Chính việc đưa quan điểm thực tiễn vào việc nghiên cứu con người,
C. Mác và Ph.Ăngghen đã chuyển từ những suy luận tư biện về con người sang những


giải pháp có cơ sở vững chắc trong đời sống xã hội. Hai ông đã tiếp thu tư tưởng hợp lý

của Hêghen một cách sáng tạo khi cho rằng, con người là sản phẩm của chính họ, cái gọi
là tính người chính là sản phẩm của hoạt động lao động của con người. Hai ông đã khẳng
định rằng, hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Mặt khác, hai ông phê phán
Feuerbach và các nhà triết học duy vật trước kia, rằng họ chỉ thấy giới tự nhiên như là
khách thể mà không nhìn thấy trong giới tự nhiên có hoạt động thực tiễn của con người.
Trong hoạt động thực tiễn, con người đã tạo ra thiên nhiên thứ hai chính từ thiên nhiên
thứ nhất. Con người đã khách thể hóa bản chất của mình vào tự nhiên thuần túy để tạo
nên thiên nhiên thứ hai cho mình. Đây là phát hiện mới của hai ông: con người có khả
năng cải tạo thế giới và cải tạo bản thân mình thông qua hoạt động thực tiễn.
Xuất phát điểm từ thực tiễn, C. Mác đã xây dựng lý luận về vai trò tích cực của
con người-Con người là chủ thể của sự vận động lịch sử, của sự phát triển trong mỗi cá
nhân con người. Nói cách khác, hoạt động thực tiễn trở thành yếu tố quyết định đến sự
hình thành nhân cách, làm con người trở thành người thực sự, bản chất con người chính
là nhân cách. Nhân cách đó được thể hiện trong các mối quan hệ xã hội. Quá trình lao
động sáng tạo chính là quá trình con người nhập thân vào các quan hệ xã hội, tạo ra
những giá trị xã hội. Mặt khác, chính những giá trị này tác động trở lại hình thành và phát
triển nhân cách con người, bản chất xã hội của con người.
Khác hẳn quan niệm con người ý thức của chủ nghĩa duy tâm, con người sinh vật
của chủ nghĩa nhân bản Feuerbach, quan niệm của C. Mác rất khoa học:
Nếu như tính cách con người là do hoàn cảnh tạo nên thì do đó phải làm
cho hoàn cảnh hợp với tính người. Nếu như con người bẩm sinh đã là sinh vật có
tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính chân chính của mình
trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng của bản tính anh ta, không phải căn
cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của toàn xã hội
[37, tr. 200].
Con người tồn tại, phát triển và tham gia vào các hoạt động đời sống hiện thực cần
phải thỏa mãn những tiền đề về nhu cầu tự nhiên như một cá thể sinh vật, xã hội. Và chính


hoạt động sáng tạo trong đời sống hiện thực đã đem lại sự hoàn thiện NTCN. Theo C. Mác,

giải phóng con người chính là hoàn thiện NTCN, hình thành nên những cá nhân tự do, làm
phong phú và lành mạnh các quan hệ xã hội của con người. Xét về bản chất, phát triển con
người là quá trình giải phóng NTCN để hoàn thiện năng lực người. Con người mang bản
chất người nhiều hơn. Qua mỗi giai đoạn cách mạng, con người được hình thành và hoàn
thiện từng bước, khắc phục sự tha hóa của con người, để con người hoạt động với tư cách
là chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo vì sự phát triển xã hội.
Tóm lại, triết học Mác đã góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người khỏi
áp bức bất công, xây dựng cuộc sống con người văn minh, hạnh phúc. C. mác đã nhận
thức và giải quyết đúng đắn vấn đề con người; đồng thời đặt ra những điều kiện cần thiết
để con người phát triển toàn diện, hài hòa và đạt tới tự do khi đã nhận thức được cái tất
yếu. Chính lý luận của chủ nghĩa Mác về con người và bản chất con người đã đem lại
phương pháp tiếp cận mới trong việc giáo dục, xây dựng con người, phát huy NTCN.
1.1.2. Khái niệm nhân tố con người
NTCN là một khái niệm rộng được các nhà khoa học Việt Nam và các quốc gia
trên thế giới tiếp cận nghiên cứu dưới nhiều lĩnh vực khác nhau, góc độ khác nhau. Họ
tìm kiếm con đường, giải pháp để phát huy tính tích cực xã hội của con người trong đời
sống thực tiễn. Quan niệm về NTCN của một số tác giả như sau:
Thứ nhất, NTCN là toàn bộ những dấu hiệu đặc thù nói lên vai trò của con người,
trong hệ thống các mối quan hệ xã hội. Đó là tất cả những gì liên quan đến con người như
một chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội [29, tr. 28].
Thứ hai, NTCN với tư cách là một phạm trù triết học xã hội nói lên vai trò, vị trí
và những ảnh hưởng của con người trong hoạt động thực tiễn nhằm cải biến hiện thực, tự
biểu hiện, tự khẳng định những sức mạnh tiềm tàng của bản thân con người trong quá
trình phát triển và hoàn thiện bản chất xã hội của nó (nhóm tác giả PGS.TS Hoàng Chí
Bảo, TS. Nguyễn Văn Nhớn ).


Như vậy, ở quan niệm thứ nhất, nêu lên được con người là chủ thể trong các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội và vai trò của nó trong các quan hệ xã hội. ở quan
niệm thứ hai, cho thấy những sức mạnh tiềm tàng của NTCN thông qua hoạt động thực

tiễn và vai trò của NTCN có ảnh hưởng đến việc cải biến thế giới hiện thực. Còn theo
GS.TS Phạm Minh Hạc, trong sự phát triển kinh tế, xã hội, NTCN giữ vị trí trung tâm,
quyết định. NTCN chẳng những là nhân lực, mà trở thành nguồn lực sinh ra các nguồn
lực khác và được gọi là nguồn nhân lực hay nguồn lực con người [22, tr. 11]. ở đây, tác
giả đề cập đến vai trò NTCN, nhấn mạnh đến vai trò quyết định của NTCN trong chuỗi
hệ thống nhân tố tác động đến sự phát triển xã hội.
Nhìn chung, khi xây dựng khái niệm NTCN, các tác giả đều nhấn mạnh đến mặt
hoạt động thực tiễn của con người. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan niệm cho rằng:
"Nhân tố con người chính là tổng hòa các đặc trưng xã hội quy định vai trò chủ thể tích
cực, tự giác, sáng tạo của con người trong một quá trình lịch sử, xã hội". Do vậy, khi
nghiên cứu NTCN, tùy theo mục đích, phạm vi nghiên cứu và các quan hệ xác định để sử
dụng, nhưng không được sử dụng chúng với tư cách như là công cụ nhận thức khoa học.
1.1.3. Khái niệm nhân tố con người trong lực lượng vũ trang
NTCN trong LLVT là sự vận dụng khoa học đối với khái niệm chung về NTCN
nhằm mục đích nghiên cứu một chủ thể xác định là LLVT nói chung và LLVT địa
phương thành phố Cần Thơ nói riêng nhằm khai thác chiều sâu về những đặc trưng riêng
có của con người trong LLVT gắn với quá trình thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
LLVT địa phương thành phố Cần Thơ mà đề tài nghiên cứu trong luận văn này là
những con người cụ thể (cán bộ, chiến sĩ) đang làm nhiệm vụ trong các cơ quan, đơn vị,
nhà trường và địa phương. Họ là chủ thể của quá trình thực hiện công tác quân sự, quốc
phòng ở thành phố Cần Thơ, giữ vai trò chủ yếu trong xây dựng củng cố quốc phòng, an
ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Là một bộ phận của QĐNDVN, LLVT địa phương thành phố Cần Thơ được thành
lập ngày 30 tháng 7 năm 1945. Trải qua 59 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, LLVT
địa phương thành phố không ngừng lớn mạnh, xây dựng, huấn luyện, SSCĐ cao; từng bước


xây dựng LLVT địa phương là đội quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, bao gồm: lực lượng thường trực, lực lượng DBĐV và lực lượng DQTV được liên kết
với nhau theo nguyên tắc tổ chức của quân đội, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới trong

giai đoạn cách mạng hiện nay. Từ đó cho thấy, hoạt động của LLVT địa phương thành phố
thể hiện những đặc điểm nổi bật mà đề tài tập trung nghiên cứu đối tượng này.
NTCN trong LLVT là sự tiếp cận khái niệm chung về NTCN, đó là hệ thống các
yếu tố, các đặc trưng quy định vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người
LLVT, là một chỉnh thể thống nhất giữa hoạt động với tổng hòa những đặc trưng tiêu
biểu về phẩm chất và năng lực của cán bộ, chiến sĩ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
BVTQ.
Từ khái niệm chung về NTCN trong LLVT cho thấy những đặc điểm NTCN
trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ được thể hiện trong hoạt động và phẩm
chất, năng lực thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của mình.
Thứ nhất, hoạt động của LLVT địa phương thành phố Cần Thơ gắn liền với chức
năng tiến hành đấu tranh vũ trang để bảo vệ những giá trị vật chất và tinh thần của dân
tộc, BVTQ và bảo vệ nhân dân. Hoạt động đó, bao gồm những hoạt động lý luận; hoạt
động huấn luyện, SSCĐ và chiến đấu; hoạt động lao động sản xuất và hoạt động làm
công tác vận động quần chúng Nói cách khác, những hoạt động trên thực hiện ba chức
năng cơ bản của quân đội: Chiến đấu, công tác và sản xuất. Là loại lao động đặc thù,
LLVT thành phố thực hiện chức năng chiến đấu trong thời chiến và chuẩn bị SSCĐ trong
thời bình. "Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải được thực hiện tốt ngay trong
thời bình, đánh bại mọi thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trong hòa bình, ngăn
ngừa mọi âm mưu gây chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng nếu chiến tranh xảy ra" [53, tr.
61].
Đặc điểm hoạt động của LLVT địa phương thành phố gắn liền với việc sử dụng
các loại vũ khí truyền thống và hiện đại đã hình thành cho cán bộ, chiến sĩ phẩm chất,
năng lực toàn diện để kết hợp và phát huy khả năng trong huấn luyện, chiến đấu; đồng
thời quyện chặt lòng yêu nước, yêu CNXH, dám đánh, biết đánh và biết thắng kẻ thù, sẵn


sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Mặt khác, tinh thần ý chí và tính tự
giác năng động sáng tạo ngày càng cao của cán bộ, chiến sĩ đã khắc phục khó khăn gian
khổ, đoàn kết hiệp đồng chặt chẽ, vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong việc kết hợp vũ khí

truyền thống và vũ khí hiện đại, cách đánh truyền thống và cách đánh hiện đại trong
những tình huống cụ thể để đánh thắng kẻ thù có vũ khí hiện đại và tương lai có thể chiến
đấu, đánh thắng vũ khí công nghệ cao. "Chiến tranh hiện đại cũng như kỹ thuật hiện đại
thì đòi hỏi phải có nhân lực có chất lượng cao" [26, tr. 191].
Thứ hai, phẩm chất và năng lực của cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố
Cần Thơ được hình thành trong quá trình đào tạo, huấn luyện; đặc biệt, là rèn luyện thử
thách trong thực tiễn. Cán bộ, chiến sĩ phải trải qua quá trình giáo dục, học tập, rèn luyện
trong quân đội nói chung và trong các cơ quan, đơn vị nói riêng mới có đủ những kiến
thức nhất định về chính trị, quân sự và giác ngộ sâu sắc mục đích ý nghĩa của nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng BVTQ hiện nay. Từ đó, cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành
phố hình thành những tình cảm, thái độ, hành động tích cực phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức, phong cách, chính trị, tư tưởng của LLVT, quân đội; từng bước nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật theo yêu cầu nhiệm vụ và chức trách được giao.
Phẩm chất và năng lực của con người là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài
về mặt lịch sử - xã hội.
Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài và làm thay đổi tự nhiên,
con người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của nó. Con người phát triển
những tiềm lực đang "ngái ngủ" ở trong bản tính đó và bắt sự hoạt động của
những tiềm lực ấy phải phục tùng quyền lực của mình [39, tr. 17].
Đặc điểm hoạt động của cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố trong
nhiệm vụ BVTQ đặt ra yêu cầu rất cao là phải phát huy những tiềm lực đang "ngái ngủ"
trong con người, đó là năng lực suy nghĩ và hành động tự giác, độc lập sáng tạo trong học
tập, công tác và chiến đấu.
Con người trong LLVT địa phương thành phố được tổ chức theo một hệ thống
nhất định. Hệ thống đó là sức mạnh chiến đấu bao gồm cả số lượng và chất lượng, là


nhân tố đầu tiên trong quan hệ với các nhân tố khác (vũ khí, kỹ thuật, trang thiết bị, cơ sở
vật chất ); mà thành tố cốt lõi tạo nên nhân lực có chất lượng cao là phẩm chất, năng lực
cán bộ, chiến sĩ; là sự kết tinh phẩm chất và năng lực của con người Việt Nam, của người

chiến sĩ QĐND: "Trung với Đảng, hiếu với dân, SSCĐ hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng" [50, tr. 349]. Đồng thời, mang những đặc điểm riêng gắn
liền với truyền thống của LLVT địa phương thành phố được Ban chấp hành Tỉnh Đảng
bộ Cần Thơ khen tặng: "Trung thành với Đảng, đoàn kết quân dân, tự lực tự cường, anh
dũng quyết thắng".
Phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của cán
bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố Cần Thơ. Trước hết phẩm chất chính trị đó là
lòng yêu nước, yêu CNXH, trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, với chế độ
XHCN, gắn bó máu thịt với nhân dân; có lòng tin sắt đá vào nền tảng tư tưởng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những phẩm chất đó được cán bộ, chiến sĩ thể hiện
ở bản lĩnh chính trị vững vàng kiên định tư tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và XHCN.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan của hoạt động quân sự, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng
BVTQ nên phẩm chất chính trị rất quan trọng nếu thiếu nó, người quân nhân sẽ không
hoàn thành được nhiệm vụ, không nắm chắc tay súng giữ vững mục tiêu chiến đấu.
Chính vì vậy, phẩm chất chính trị là cội nguồn sức mạnh của LLVT địa phương thành
phố. Nó quyết định đến chất lượng hoạt động, hiệu quả công tác; quyết định đến khả
năng thực hiện nhiệm vụ BVTQ của cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố.
Cùng với phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức cũng là một yếu tố cốt lõi
trong NTCN của cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố. Chính vì vậy, đòi hỏi
cán bộ, chiến sĩ phải có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng "Cần, kiệm, liêm
chính, chí công vô tư" [49, tr. 480]. Có lối sống lành mạnh, tiến bộ, văn minh, yêu
mến thiết tha gắn bó với quân đội, SSCĐ BVTQ. "Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [46, tr
209]. Phải hết lòng thương yêu đồng đội, đoàn kết giúp đỡ nhau mọi mặt, khắc phục


khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần xây
dựng đơn vị VMTD.
Tóm lại, phẩm chất và năng lực của cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố

được trải nghiệm trong thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, được các thế hệ
cán bộ, chiến sĩ đi trước xây dựng nên hình ảnh "Người chiến sĩ lực lượng vũ trang thành
phố Cần Thơ" với những đặc điểm chung có giá trị nhân cách hết sức tiêu biểu của "Bộ
đội Cụ Hồ".
1.2. YÊU Cầu Cấp Bách Phát HUY NHÂN Tố CON Người TRONG Lực
Lượng Vũ TRANG Địa PHƯƠNG Thành Phố Cần THƠ Hiện NAY
1.2.1. Vai trò nhân tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương thành
phố Cần Thơ
Con người là chủ thể của quá trình phát triển xã hội với những tiềm năng to lớn
về hoạt động cải tạo xã hội. Cho nên, phát huy NTCN phải đặt trong mối quan hệ giữa
khai thác, bồi dưỡng và phát triển. Mục tiêu vì con người không chỉ là tạo điều kiện tối
đa cho sự phát triển tự do của mỗi cá nhân mà còn phải bảo đảm cho sự phát triển của
mỗi cá nhân không nằm ngoài sự phát triển tự do của mỗi người. Nên mọi dự án, chiến
lược phát triển xã hội bao giờ cũng tập trung cho sự chuẩn bị về NTCN, đặt con người
vào vị trí trung tâm của mọi quá trình biến đổi xã hội, coi đó là nguồn lực nội sinh quyết
định sự phát triển. "Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục
đích cao nhất của mọi hoạt động" [11, tr. 36]. Song, vấn đề đặt ra là phải biết sử dụng
đúng đắn vai trò của NTCN-nghĩa là, đem những yếu tố, những đặc trưng của NTCN vào
một "quỹ đạo" chung, để biến đổi tích cực, đúng phương hướng, có hiệu quả tác động
như thế thì những phẩm chất xã hội của chủ thể mới bộc lộ ra, tạo sự cải biến tích cực có
hiệu quả vào quá trình phát triển xã hội, tạo động lực để phát triển xã hội và phát triển
con người.
Đối với sự nghiệp xây dựng, BVTQ Việt Nam XHCN, Đảng ta đặc biệt chú ý
đến phát huy NTCN và vì con người. Thực tế cho thấy, sự nghiệp đổi mới đất nước do


Đảng ta lãnh đạo và khởi xướng đã chứng tỏ vai trò to lớn của NTCN. Vì vậy, nhận thức
đúng vai trò, động lực của NTCN, đặt con người vào vị trí trung tâm của tiến trình đổi
mới để phát huy cao độ nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
BVTQ trong giai đoạn cách mạng hiện nay trở nên cấp bách. "Chăm sóc, bồi dưỡng phát

huy nhân tố con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng" [13, tr.
45]. Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng quân đội nói chung, LLVT địa phương thành phố Cần
Thơ nói riêng đặt lên hàng đầu là việc chuẩn bị tốt về NTCN. Phát huy NTCN trong
LLVT địa phương thành phố là quá trình không ngừng hoàn thiện tính tích cực, tự giác,
sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ vào thực tiễn BVTQ. Đây là quá trình hiện thực, mà cán bộ,
chiến sĩ LLVT địa phương thành phố vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong thực hiện
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Nói cách khác, đó là kết quả của quá trình kết hợp biện
chứng giữa con người và trang bị vũ khí, giữa số lượng và chất lượng, giữa tư tưởng và tổ
chức, giữa chính trị và kỹ thuật, giữa khách quan và chủ quan. Trong đó, NTCN là trung
tâm, hạt nhân giữ vai trò quyết định. Từ đó cho thấy, phát huy NTCN trong LLVT địa
phương thành phố Cần Thơ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong BVTQ.
Phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ là một quá trình tìm
kiếm, phát hiện con đường và biện pháp, nguyên nhân chủ quan và điều kiện khách quan
để khai thác, bồi dưỡng và phát triển tính tích cực, tự giác, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ
trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng BVTQ một cách có hiệu quả nhất. Phát
huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong
thực hiện nhiệm vụ BVTQ, đồng thời cũng là nội dung rất quan trọng của việc phát huy
NTCN của quân đội ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
LLVT địa phương thành phố Cần Thơ được xây dựng theo những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mang bản chất giai cấp công nhân, tính
nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình hình
diễn biến phức tạp hiện nay. Thực tiễn xây dựng và chiến đấu đã khẳng định LLVT địa
phương thành phố Cần Thơ là đội quân cách mạng, là lực lượng trung thành và công cụ
bạo lực đáng tin cậy để bảo vệ Đảng, Nhà nước; đồng thời là lực lượng nòng cốt xây
dựng nền QPTD và CTND. Cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố từ nhân dân mà


ra, vì nhân dân mà chiến đấu, trải qua quá trình giáo dục, rèn luyện, huấn luyện và chiến
đấu trong thực tiễn hoạt động quân sự, quốc phòng đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp của
người quân nhân cách mạng "Bộ đội Cụ Hồ", một hình ảnh tiêu biểu của con người mới

XHCN trong sự nghiệp BVTQ hiện nay.
Vai trò NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ là biểu hiện của
người quân nhân vừa mang cái chung của người chiến sĩ quân đội, đồng thời mang cái
riêng của LLVT địa phương, được thể hiện thông qua sức mạnh chiến đấu của cán bộ,
chiến sĩ. Sức mạnh chiến đấu của LLVT địa phương thành phố bao gồm hai yếu tố: tinh
thần và vật chất. Đó là, giác ngộ chính trị, tinh thần chiến đấu sâu sắc, ý thức chấp hành
tổ chức kỷ luật nghiêm minh, trình độ tổ chức lực lượng chiến đấu, trình độ hiệp đồng,
phối hợp tác chiến, biên chế con người và trang bị vũ khí kỹ thuật, trình độ kỹ chiến
thuật, bản lĩnh lãnh đạo, chỉ huy chiến đấu của đội ngũ cán bộ,
Phẩm chất chính trị, tinh thần của người chiến sĩ là yếu tố hàng đầu, quyết định
đến thắng lợi trong chiến đấu. Đặc điểm hoạt động quân sự là kề bên cái sống, cái chết,
rất nguy hiểm đến tính mạng con người. Do vậy khi tham gia vào quá trình chiến đấu,
người chiến sĩ phải vượt qua mọi trở ngại thử thách, gian khổ, vượt qua tính chất ác liệt
của chiến tranh, tâm lý căng thẳng, thể lực luôn vận động không ngừng trên diện rộng
chiến trường. Chính vì vậy, nếu có sự giác ngộ về đường lối chính trị của Đảng, về mục
đích ý nghĩa của cuộc chiến đấu; có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí kiên định; có tri
thức khoa học về nghệ thuật quân sự thì người chiến sĩ sẽ chiến đấu dũng cảm, mưu trí và
sáng tạo trong chiến đấu. Phẩm chất chính trị,tinh thần của người chiến sĩ cách mạng
trong chiến đấu còn thể hiện ở sự thống nhất giữa ý chí quyết đánh với tri thức khoa học
biết đánh. Đây là yếu tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định để giành thắng lợi trong chiến đấu,
"biết thắng" của LLVT địa phương thành phố. Truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc
là thứ vũ khí sắc bén, có sức mạnh phi thường trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân
tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Ta phải có quần chúng giác ngộ chính trị, tự
nguyện cầm súng thì mới thắng" [44, tr. 349]. Trong lĩnh vực quân sự, ảnh hưởng của
cuộc cách mạng khoa học-công nghệ dẫn đến sự biến đổi của vũ khí, trang bị và kỹ thuật
quân sự thì chiến tranh tương lai có thể xảy ra sẽ được tiến hành bằng vũ khí có tầm bắn


xa, độ chính xác cao, có sức hủy diệt rất lớn thì vai trò của nhân tố chính trị, tinh thần
không giảm mà ngày càng tăng. Chính vì vậy, chiến tranh hiện đại đòi hỏi con người phải

có chất lượng cao cũng như vũ khí, trang bị và kỹ thuật hiện đại.
Vai trò NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ là biểu hiện sức
mạnh tổng hợp của trí tuệ, thể chất và các điều kiện đảm bảo hậu cần, kỹ thuật; tạo nên
sức mạnh vật chất - sức mạnh của cán bộ, chiến sĩ đối với nhiệm vụ xây dựng và nâng
cao sức mạnh chiến đấu của LLVT địa phương.
Trong hoạt động quân sự, thực tiễn chiến đấu của người chiến sĩ trên chiến
trường, là sự kết hợp giữa hai yếu tố tinh thần và vật chất. Sức mạnh vật chất là sự tổng
hợp về trí tuệ và thể chất của người chiến sĩ. Thân thể cường tráng, bền bỉ, dẻo dai chính
là một yếu tố quyết định đến chiến thắng: "Thân thể khỏe mạnh thì nhất định
thắng, Thân thể yếu đuối thì không thể thắng được" [45, tr. 454]. Sức khỏe của người
chiến sĩ tốt kết hợp với vũ khí, trang bị và kỹ thuật thì sẽ trở thành sức mạnh vật chất để
giành chiến thắng. Cho nên, sức mạnh vật chất của NTCN phải là quá trình thống nhất
biện chứng giữa con người và vũ khí; sức mạnh chiến đấu của con người, NTCN nhân
lên khi được trang bị và sử dụng thành thạo vũ khí, kỹ thuật có trong tay và năng lực hoạt
động thực tiễn, năng lực tổ chức chiến đấu. Đó chính là điểm hội tụ sức mạnh vật chất
của NTCN quyết định thành bại trong chiến đấu.
Trong các giai đoạn cách mạng, LLVT địa phương thành phố đã tham gia đầy đủ các
mặt hoạt động, nâng cao trình độ SSCĐ và sức mạnh chiến đấu của toàn quân, góp phần
quan trọng trong thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của quân đội, tô đậm vẻ đẹp bản
chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ". Là đội quân chiến đấu, công tác và sản xuất, LLVT địa
phương thành phố đã thể hiện sức mạnh chiến đấu, hoạt động quân sự trong chiến tranh giải
phóng và chiến tranh BVTQ, thực sự là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong đội
hình chiến đấu và hoạt động của LLVT ba thứ quân của quân đội ta. Tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã chỉ rõ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh: "Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa,


bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc" [16, tr. 39-40]. Do vậy, để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, LLVT địa phương thành phố phải thực hiện tốt ba
nội dung của cuộc vận động: "Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị
vững mạnh toàn diện và xây dựng chính quy hóa lực lượng vũ trang" [18], để đáp ứng với
yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ quân sự, quốc phòng BVTQ hiện nay.
Vai trò NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ đối với nhiệm vụ xây
dựng nền khoa học - nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Nghệ thuật quân sự Việt Nam ra đời và phát triển trong cuộc đấu tranh dựng
nước và giữ nước, chống các kẻ thù xâm lược thường lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần.
Điểm xuất phát của nghệ thuật quân sự Việt Nam là nghệ thuật toàn dân đánh giặc. Mặt
khác, nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển còn là sự vận dụng sáng tạo khoa học nghệ
thuật quân sự Mác-Lênin và tư tưởng nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh đặt con người là
vị trí trung tâm, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi "Người trước, súng sau", dựa vào
lòng yêu nước của nhân dân, tìm sức mạnh trong khối đoàn kết toàn dân, động viên sức
mạnh vật chất, tinh thần và trí tuệ của toàn dân, tổ chức cho toàn dân đánh giặc lấy LLVT
nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt, phải đánh lâu dài, đề cao mưu trí, chỉ chấp nhận giao
chiến trong thế có lợi, cách đánh có lợi, phát huy được cái mạnh của ta, hạn chế được cái
mạnh của địch để tạo lực, tạo thế, lấy ít địch nhiều, nhỏ thắng lớn, chuyển yếu thành mạnh,
phát huy cao nhất khả năng của thế trong việc kết hợp với lực tạo sức mạnh lớn giành thế
chủ động chiến trường; kết hợp kế thừa truyền thống quân sự dân tộc với tinh hoa của
quân sự thế giới.
Ngày nay nghệ thuật quân sự Việt Nam tiếp tục hoàn thiện những
phương pháp đấu tranh vũ trang truyền thống của mình, trên cơ sở đó đề ra
những vấn đề chuẩn bị đất nước, chuẩn bị lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới (trong đó có sử dụng lực
lượng vũ trang chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ) [65, tr. 546].


Thực hiện đường lối quân sự của Đảng, xuất phát từ yêu cầu thực tế, dựa vào
niềm tin và sức mạnh to lớn của nhân dân, LLVT địa phương thành phố đã phát huy cao
độ tinh thần tự lực, tự cường, sáng tạo độc đáo những cách đánh truyền thống và hiện đại,

không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu, góp phần xây dựng nền nghệ thuật quân sự
Việt Nam và của LLVT địa phương, đó là: Chủ động, bất ngờ tiến công tiêu diệt địch;
phục kích chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch; tạo thế, chuyển thế từ phòng ngự
sang tập trung lực lượng tập kích, phản công, tiến công tiêu diệt địch; tổ chức lực lượng
phù hợp với hai phương thức tác chiến là đánh tập trung và đánh phân tán vận động tiến
công nhanh, táo tạo, bất ngờ, công đồn đả viện, bứt rứt đồn bót; kết hợp đấu tranh quân
sự, chính trị và binh vận giành thắng lợi Những đóng góp của LLVT địa phương thành
phố tạo nên sức mạnh tổng hợp của CTND, toàn dân đánh giặc: hạn chế chỗ mạnh, khoét
sâu chỗ yếu của địch, làm cho địch phân tán lực lượng trên chiến trường rơi vào tình thế
bị động, lúng túng, bị thế bao vây liên hoàn của LLVT địa phương.
Trong chiến tranh giải phóng, nghệ thuật sử dụng lực lượng cũng là nét phát
triển sáng tạo, độc đáo của LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, khẳng định hai cách
đánh đó là: đánh độc lập và đánh hiệp đồng, nhưng lấy cách đánh độc lập là chủ yếu
nhất. Tác chiến độc lập là nét đặc thù của LLVT địa phương thành phố để bảo vệ và
phát triển lực lượng, giành thế chủ động chiến trường. Đó cũng là quy luật tồn tại của
LLVT địa phương thành phố. Trên chiến trường Cần Thơ, địch luôn càn quét tìm lực
lượng ta để tiêu diệt, LLVT địa phương thành phố luôn phải đương đầu chiến đấu lại
với binh hỏa lực rất mạnh của chúng để chiến thắng và tồn tại. Chính vì vậy, cách đánh
độc lập của LLVT địa phương thành phố đã khẳng định về sở trường của LLVT địa
phương: "Nghệ thuật dao phay", "nghệ thuật nạng giàn thun", "nghệ thuật nuôi ong vò
vẽ" để đánh giặc rộng rãi, muôn màu, muôn vẻ đặc biệt lợi hại góp phần giữ thế, tạo
lực tiến công liên tục trên chiến trường, tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ lực lượng ta.
Nghệ thuật sử dụng lực lượng của LLVT địa phương thành phố đã phát huy tinh thần
tích cực, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, khẳng định tinh thần và ý chí, trí tuệ và tài năng
để khai thác, sử dụng và phát huy NTCN, nhân tố kỹ thuật để giành thắng lợi. Không
chỉ đánh "du kích" giỏi, LLVT địa phương thành phố còn thực hiện tốt trong những trận


đánh hiệp đồng với LLVT địa phương bạn và bộ đội chủ lực Quân khu, biết tập trung
lực lượng cần thiết đảm nhiệm những hướng chủ yếu, hiệp đồng chính xác, nhịp nhàng

tạo nên thế chủ động và giành thắng lợi trên chiến trường, góp phần to lớn vào thắng lợi
vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
1.2.2. Yêu cầu cấp bách phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ
trang địa phương thành phố Cần Thơ hiện nay
Trong chiến tranh giải phóng, chiến tranh BVTQ và làm nhiệm vụ quốc tế
Campuchia, LLVT địa phương thành phố Cần Thơ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu đầy
hy sinh, gian khổ để giành thắng lợi. Thắng lợi đó, suy cho cùng, là thắng lợi của con
người mới Việt Nam XHCN. "Quyết định thắng lợi của chiến tranh có nhiều nhân tố,
nhưng nhân tố cơ bản nhất là con người" [10]. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, nhiều nhà chiến lược quân sự Việt Nam khẳng định: "Nói thắng lợi của kháng
chiến là thắng lợi của con người, cũng có nghĩa đó là thắng lợi của sự nghiệp bồi dưỡng
và phát huy nhân tố con người" [62, tr. 272].
Ngày nay, nhiệm vụ xây dựng đất nước và BVTQ là quy luật tồn tại và phát triển
của dân tộc ta. Vì vậy, trong bất cứ tình huống nào, việc phát huy NTCN đối với quân đội
nói chung và LLVT địa phương nói riêng đã trở thành yêu cầu cấp bách đặt ra. Phát huy
NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ là sự thể hiện hành động đường lối
quân sự của Đảng ta về vai trò NTCN trong chiến tranh, là quá trình không ngừng nâng
cao tính tích cực, sáng tạo của mỗi cán bộ, chiến sĩ trên cơ sở giải quyết mối quan hệ biện
chứng giữa con người với con người, giữa con người với vũ khí, giữa quân sự với chính
trị, hậu cần, kỹ thuật; giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và DQTV; giữa lực
lượng thường trực với lực lượng DBĐV, giữa tổng quân số với khả năng vũ khí, trang
bị, nhằm chuẩn bị cuộc "chiến tranh tự vệ" để BVTQ: "Nhà nước xã hội chủ nghĩa đánh
thắng các cuộc chiến tranh xâm lược nhất thiết phải chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược
bằng vũ trang để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" [61, tr. 29].
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta. Người cha thân
yêu của các LLVT đã trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin


vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh
BVTQ.

Bước vào thời kỳ mới, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng BVTQ của chúng ta chịu
sự tác động của tình hình thế giới đầy biến động phức tạp. Đối với nước ta, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện chiến lược "DBHB", bạo loạn lật đổ
kết hợp răn đe bằng sức mạnh quân sự nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội, xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN Tình hình thế giới và khu vực nói trên
đã tác động trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và BVTQ, vừa tạo ra nhiều thuận lợi mới
rất quan trọng, đồng thời cũng gây ra những khó khăn, thách thức nghiêm trọng đối với
nước ta. Do đó, vấn đề BVTQ XHCN, đặc biệt là, phát huy NTCN Việt Nam nói chung
và NTCN trong LLVT nói riêng là vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết, là khâu quan trọng
nhất trong nhiệm vụ quân sự, quốc phòng để chuẩn bị tốt cho chiến tranh BVTQ hiện
nay.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, tạo ra thời
cơ mới và những thuận lợi cơ bản cho thời kỳ phát triển mới của đất nước, thời kỳ đẩy
mạnh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội; xã hội có một số chuyển biến tích cực, thực hiện
có hiệu quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị, ổn định chính trị tiếp tục giữ
vững, quan hệ đối ngoại và hợp tác phát triển, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và BVTQ. Hiện nay đất nước cơ bản đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội thì khủng hoảng mới xuất hiện, chúng ta vẫn còn một số mặt chưa được củng cố vững
chắc. Đặc biệt đối với quốc phòng, an ninh Đảng ta chỉ rõ:
- Quốc phòng, an ninh chưa được tăng cường đúng mức, sức mạnh và
khả năng sẵn sàng chiến đấu chưa cao.
- Công tác nghiên cứu và dự báo tình hình, tham mưu chiến lược chưa
đáp ứng yêu cầu, có lúc, có nơi còn để bất ngờ, bị động.
- Chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang còn
nhiều hạn chế, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, khoa học, công nghệ chưa ngang
tầm đòi hỏi của tình hình.

×