Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

LUẬN VĂN: Đảng Nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo công tác tư tưởng trong thời kỳ 1986-2001 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.02 KB, 109 trang )








LUẬN VĂN:

Đảng Nhân dân cách mạng Lào lãnh
đạo công tác tư tưởng trong thời kỳ
1986-2001







mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi mới thành lập (22-3-1955), Đảng NDCM Lào đã là sản phẩm của
sự kết hợp hài hòa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào yêu nước của nhân dân các
bộ tộc Lào. Là đội tiền phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, trong suốt
quá trình xây dựng và lãnh đạo cách mạng, Đảng NDCM Lào luôn luôn lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.
Công tác tư tưởng luôn được xác định là lĩnh vực công tác có tầm quan trọng trong
mọi thời kỳ lãnh đạo cách mạng của Đảng. Bởi vì:
a. Công tác tư tưởng nhằm thống nhất ý chí, hành động của Đảng và toàn xã
hội. Do đó, ở thời kỳ lịch sử nào nó cũng có ý nghĩa quan trọng. Thời kỳ đổi mới do
Đảng NDCM Lào khởi xướng và lãnh đạo có nhiều vấn đề đặt ra về lý luận cũng như


về thực tiễn. Công tác tư tưởng càng phải hướng vào các định hướng lớn để góp phần
đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi.
b. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng diễn ra rất phức tạp, các thế lực thù
địch không ngừng phá hoại nhằm làm cho sự nghiệp đổi mới của Lào đi chệch hướng.
Vì vậy có thể nói, chưa bao giờ công tác tư tưởng lại cần thiết và có tầm quan trọng
như hiện nay. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu tư tưởng và đẩy mạnh công tác tư
tưởng - lý luận đang trở thành một yêu cầu cấp thiết.
Tháng 11 năm 1986, Đảng NDCM Lào đã tiến hành Đại hội đại biểu toàn
quốc lần IV. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt lịch sử trưởng thành của cách mạng
Lào. Trên cơ sở phân tích tình hình thực tiễn về mặt kinh tế - xã hội, Đảng NDCM
Lào đã đề ra đường lối đổi mới, xây dựng phương hướng và nhiệm vụ trong suốt thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để làm tròn sứ mệnh lịch sử trong giai đoạn mới của
cách mạng, Đảng NDCM Lào đặc biệt quan tâm đến công tác tư tưởng và lý luận.
Đảng coi công tác tư tưởng có vai trò quan trọng trong việc tăng cường sự thống nhất
của toàn Đảng, toàn dân đối với đường lối đổi mới của Đảng.
c. Để làm tròn vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội, Đảng phải
thường xuyên vững mạnh cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Công tác tư tưởng
trong nội bộ Đảng là một trong những nhiệm vụ quan trọng, then chốt của Đảng. Nó
đảm bảo cho Đảng không ngừng phát triển về lý luận, hoàn thiện về đường lối; nâng

cao bản lĩnh chính trị, xây dựng phương pháp tư duy khoa học, tuyên truyền, vận động
thực hiện các nhiệm vụ của Đảng; giáo dục đạo đức, phẩm chất chính trị cho toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân; dự báo xu hướng phát triển và tình hình diễn biến tư
tưởng trong Đảng và toàn dân; nắm bắt các vấn đề lý luận, chính trị nảy sinh ở từng
giai đoạn phát triển của xã hội và đất nước.
Bước vào thế kỷ XXI, công tác tư tưởng có vai trò hết sức quan trọng trong
điều kiện Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu, cùng với
những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế. Điều
kiện và hoàn cảnh đó mở ra thời cơ, vận hội lớn, song cũng xuất hiện những thách thức,
nguy cơ lớn. Tình hình đó đòi hỏi công tác tư tưởng phải chủ động, sáng tạo, phải được

đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, phải thường xuyên nâng cao chất lượng, hiệu quả của công
tác tư tưởng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên
sâu về công tác tư tưởng, vai trò của công tác tư tưởng về nâng cao chất lượng của
công tác tư tưởng nói chung, đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng, có nhiều bài
viết của nhiều tác giả về các góc độ khác nhau được đăng tải trên các tạp chí; đồng
thời ngành tư tưởng - văn hóa hàng năm đều tiến hành sơ kết, tổng kết với nhiều
chuyên đề phong phú, trong đó có một số công trình có liên quan như: Đề tài khoa học
cấp nhà nước: "Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng" mang
mã số KHXH-05-02, Đào Duy Tùng: "Một số vấn đề về công tác tư tưởng", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999; Trần Trọng Tân: "Về công tác tư tưởng và văn hóa", Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, 1999; TS. Đào Duy Quát: "Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản
Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, 2004.
ở Lào, từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới đến nay, các Nghị quyết Đại hội
Đảng, các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương quan trọng và trong nội
dung của các Hội nghị công tác chính trị - tư tưởng đều tổng kết, đánh giá về công tác
tư tưởng như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IV) Về công tác chính trị - tư tưởng trong tình hình mới (năm 1989); Nghị
quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng số 13/BCHTW, ngày 31/4/1995 Về công tác
chính trị - tư tưởng trong giai đoạn mới; Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương

tháng 7/1997 Về những nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng và Nghị quyết số 60
của Bộ Chính trị Trung ương tháng 7/2003 Về phương hướng nhiệm vụ và giải pháp
chung của công tác chính trị - tư tưởng trong tình hình mới. Trong báo cáo tổng kết
hàng năm, 5 năm của Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng; các bài viết trong Tạp chí
Xây dựng Đảng, Tạp chí Tuyên truyền, Tạp chí A Lun May; những tài liệu nghiên cứu
lý luận và thực tiễn và nhiều công trình của các nhà khoa học khác nghiên cứu về
công tác tư tưởng. Đặc biệt, trong những năm qua đã có một số luận án tiến sĩ viết về
vấn đề này ở Lào như: Xắc - Xa - Vắt Xuân Thếp - Phim - Ma - Son về: "Công tác tư

tưởng của Đảng Nhân dân cách mạng Lào", Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2002; Phăn - Đuông - Chít - Vông Sa: "Công tác lý luận của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào trong thời kỳ đổi mới", Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2002; luận văn thạc sĩ như: Bun Đuông Cay Xỏn: "Nâng cao chất lượng công tác tư
tưởng của Đảng bộ tỉnh Xa Van Na Khệt Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào trong giai
đoạn hiện nay", Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002; Chăn - Tha - Vông
Phun - Thị - Bua Thoong: "Đổi mới công tác chính trị - tư tưởng của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay", Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2003.
ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, việc nghiên cứu và quán triệt tầm quan
trọng của công tác tư tưởng được tiến hành thường xuyên liên tục. Đặc biệt ở vào các
thời điểm bước ngoặt của lịch sử, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV trở
lại đây. Đảng đã có những Nghị quyết về công tác tư tưởng và Nghị quyết về các định
hướng lớn trong công tác tư tưởng cùng nhiều cuộc hội thảo về công tác tư tưởng,
nhiều bài viết của nhiều tác giả trên các báo, tạp chí đã đi vào nghiên cứu, luận chứng
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng trong thời kỳ đổi mới, nhưng
công trình nghiên cứu có tính hệ thống với tư cách là một luận án khoa học thì chưa
có nhiều.
Từ những lý do trên đây, tác giả chọn đề tài: "Đảng Nhân dân cách mạng
Lào lãnh đạo công tác tư tưởng trong thời kỳ 1986-2001" làm luận văn tốt nghiệp
của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài

- Góp phần nghiên cứu vai trò lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào
đối với công tác tư tưởng trong sự nghiệp cách mạng nói chung và sự nghiệp đổi mới
đất nước nói riêng.
- Góp phần đẩy mạnh công tác tư tưởng, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với công tác tư tưởng, đáp ứng những yêu cầu bức thiết do thực tiễn công cuộc đổi
mới đất nước Lào đặt ra.
Để đạt được mục đích trên, luận văn làm rõ những đóng góp của công tác tư tưởng

vào việc ổn định và phát triển đất nước của thời kỳ 1986-2001.
- Làm rõ tính cần thiết vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng.
Phân tích những thành tựu, hạn chế của công tác tư tưởng và rút ra những kinh
nghiệm bước đầu của công tác tư tưởng trong thời kỳ đổi mới.
Nội dung nghiên cứu được giới hạn chủ yếu trong thời kỳ đổi mới ở Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào từ năm1986 đến 2001.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở các nguyên lý - lý luận, phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào, kinh nghiệm công tác tư tưởng của Đảng trong các giai đoạn cách
mạng. Luận văn có tham khảo những kinh nghiệm công tác tư tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích, tổng hợp, lôgíc và lịch sử kết
hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn; đồng thời phân tích những tư liệu, số liệu thực
tiễn về thực trạng công tác tư tưởng.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về công tác tư tưởng.
- Phân tích thực trạng những thành công và hạn chế trong lãnh đạo công tác tư tưởng
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào với điều kiện đặc thù của Lào.
- Nêu lên một số kinh nghiệm của công tác tư tưởng.
6. ý nghĩa của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao cơ sở khoa học của công
tác tư tưởng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng NDCM Lào trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn góp phần vào việc nhận thức và giải quyết những vấn đề đặt ra trong
công tác tư tưởng ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào thông qua sự phân tích thực
trạng của công tác tư tưởng.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho sự chỉ đạo của Đảng

ủy các cấp từ Trung ương đến cơ sở của Đảng NDCM Lào đối với việc tiến hành công
tác giáo dục chính trị - tư tưởng; giúp cho các cơ quan nghiên cứu và giáo dục lý luận
- chính trị tham khảo để nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của
mình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.

Chương 1
Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo
công tác tư tưởng trong những năm 1986-1991

1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò công tác tư
tưởng
1.1.1. Quan niệm về tư tưởng
* Khái niệm tư tưởng và hệ tư tưởng
Cùng với quá trình tác động vào tự nhiên và xã hội để tạo lập cho mình một
phương thức sống thích hợp, con người luôn suy nghĩ, nhận thức về thế giới xung quanh.
Nói cách khác, suy nghĩ và nhận thức là đặc điểm riêng biệt vốn có của con người và xã
hội loài người.
Tư tưởng có những đặc trưng cơ bản sau:
- Gắn với cá nhân hay một tổ chức xã hội nhất định, tư tưởng của cá nhân đa dạng,
phong phú, phản ánh đời sống, hoạt động vật chất và đời sống tinh thần của con người và xã
hội. Tư tưởng cá nhân mang tính chủ quan của cá nhân, nhưng tư tưởng của cá nhân cũng
chịu sự chi phối của xã hội và có thể trở thành tư tưởng chung của xã hội khi tư tưởng đó
phản ánh đúng hiện thực khách quan, tiếp cận được chân lý và luôn bảo vệ lợi ích chung của
cộng đồng, xã hội.
Tư tưởng bị chi phối và quyết định bởi tồn tại xã hội, là hình thái của ý thức xã
hội, tư tưởng phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự chi phối, quyết định của tồn tại xã hội.
Khi xã hội thay đổi thì tâm lý, tình cảm, tư tưởng của con người cũng thay đổi theo. Tuy

nhiên, nhiều khi xã hội đã thay đổi, nhưng tư tưởng vẫn chưa thay đổi, do ảnh hưởng của
tồn tại xã hội cũ đã thấm sâu vào phong tục, tập quán, suy nghĩ, cách sống của con người,
do các lực lượng xã hội, các đảng phái, giai cấp lỗi thời tìm cách duy trì xã hội cũ, chống
lại tư tưởng mới tiến bộ. Vì thế người ta hay dùng các thuật ngữ "tư tưởng lạc hậu", "tư
tưởng bảo thủ".
Tư tưởng có quan hệ mật thiết, tác động qua lại các yếu tố khác của ý thức xã hội,
đặc biệt là ý thức chính trị Trong giai đoạn hiện nay, ý thức chính trị của giai cấp cách
mạng có vai trò định hướng nhận thức, tư tưởng cho mọi tầng lớp nhân dân, mọi giai tầng
trong xã hội theo chiều tích cực, tiến bộ. Những hoạt động tư tưởng tách rời ý thức chính

trị, tách rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng sẽ dẫn đến sự nhận thức lệch lạc,
những quan điểm sai trái, làm mất ổn định chính trị tư tưởng trong xã hội, không thể
đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu khái niệm về tư tưởng như sau: tư tưởng là sự
phản ánh hiện thực trong ý thức, biểu thị những lợi ích ít nhiều có tính phổ biến của con
người, của xã hội. Đó là ý thức xã hội được hình thành một cách bền vững, sâu sắc trong
tâm trí con người, có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ, hướng dẫn hành động của con người
trong một thời gian tương đối dài. Tư tưởng hướng hành động của con người tới mục
đích đã vạch ra.
Khái niệm tư tưởng liên quan chặt chẽ với khái niệm hệ tư tưởng. Theo từ điển
triết học "hệ tư tưởng là hệ thống quan điểm, tư tưởng và khái niệm do một giai cấp hay
một chính đảng truyền bá" [14, tr.878].
Giáo trình triết học Mác - Lênin do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản
năm 1999 viết:
Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xã hội, nó được hình thành khi
con người nhận thức sâu sắc hơn về những điều kiện sinh hoạt vật chất của
mình Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống
những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn
giáo), kết quả của sự khái quát những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng
được hình thành một cách tự giác và được truyền bá trong xã hội [2, tr.570].

Hệ tư tưởng một mặt phản ánh lợi ích giai cấp; mặt khác nó còn vạch rõ mục tiêu,
con đường, biện pháp để cho giai cấp mình giành và giữ quyền thống trị đối với xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng chủ đạo của mỗi giai cấp phản ánh điều kiện
sinh hoạt vật chất, địa vị kinh tế của giai cấp mình. Giai cấp nào giữ địa vị thống trị trong
xã hội thì tư tưởng của giai cấp đó sẽ là tư tưởng thống trị xã hội.
Trong lịch sử nhân loại đã từng tồn tại nhiều hệ tư tưởng khác nhau: hệ tư tưởng
phong kiến, hệ tư tưởng tư sản, hệ tư tưởng vô sản. Nhưng chưa có một hệ tư tưởng nào
chiếm được đỉnh cao như hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, hệ tư tưởng Mác - Lênin. Bởi
vì, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản là sản phẩm của sự kết tinh những tinh hoa của nhân
loại. Đó là hệ tư tưởng mà toàn bộ tinh thần của nó nhằm phục vụ con người, giải phóng

con người thoát khỏi những áp bức, bất công; đó là một hệ tư tưởng khoa học và cách
mạng, có khả năng tự phê phán cao.
Tư tưởng và hệ tư tưởng là các khái niệm khác nhau, nhưng xét về tính chất,
chúng quan hệ chặt chẽ với nhau. Hệ tư tưởng khoa học tiến bộ sẽ góp phần làm cho đời
sống tư tưởng xã hội ổn định, tư tưởng của các nhóm xã hội, của từng cá nhân mang tính
tiến bộ, nhân bản. Hệ tư tưởng là cơ sở để hình thành đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng cầm quyền và của các lực lượng chính trị, đồng thời nó cũng là cơ sở để đoàn
kết giai cấp, đoàn kết dân tộc. Mặt khác, những tư tưởng độc lập, sáng tạo của mỗi cá
nhân, nhất là tư tưởng của vĩ nhân hay của một tổ chức chính trị - xã hội là những nhân tố
quan trọng góp phần bổ sung, phát triển hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội, làm cho hệ tư
tưởng luôn phù hợp với sự vận động, phát triển không ngừng của xã hội.
Tư tưởng và hệ tư tưởng có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động của con người.
Vì vậy, khi bước lên vũ đài chính trị thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn xã
hội, giai cấp nào cũng chú trọng đến công tác tư tưởng, coi công tác tư tưởng như một
vũ khí sắc bén nhất để phục vụ cho sự thống trị của mình.
* Quan niệm về tư tưởng
Nhờ bộ não đặc biệt có khả năng tích luỹ được kiến thức và phản ánh sáng tạo
trong quá trình đấu tranh với tự nhiên để sống, từ con vượn người dần dần phát triển
thành con người. Con người sống bằng cách lao động sản xuất ra của cải vật chất, nên

một mình không làm được cần phải có quan hệ xã hội.
Nhu cầu trao đổi nhằm tạo sự hiểu biết lẫn nhau trong quá trình lao động, làm
cho con người có tiếng nói rồi chữ viết. Qua tiếng nói, chữ viết, con người truyền đạt cho
nhau ý nghĩ của mình. Đời sống tư tưởng xuất hiện. Đó là một trong những đặc trưng có tính
bản chất của cuộc sống loài người. Con người là một thực thể tự nhiên và xã hội. Do đó, bản
chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Sự khác biệt giữa con người so với các
loài động vật tiến hóa bậc cao là con người có cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ được gọi là tư
tưởng.
Do mục đích của quá trình nhận thức là nhằm phục vụ cho hoạt động trong hiện
thực, nên nhận thức của con người không dừng lại ở sự phản ánh, mà còn có những mục
tiêu, chương trình, kế hoạch, dự định nhằm tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới.

V.I.Lênin coi tư tưởng là hình thức cao của nhận thức; đồng thời là những mục tiêu,
chương trình, kế hoạch nhằm tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới khách quan.
Tư tưởng là nhận thức, quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện
thực khách quan và đối với xã hội. Tư tưởng và quan điểm tư tưởng thuộc lĩnh vực tinh
thần, thuộc ý thức xã hội, chịu sự tác động mang tính quyết định của tồn tại xã hội và của
đời sống vật chất. Là sản phẩm chủ quan của con người, nhưng tư tưởng của mỗi người
lại phụ thuộc chặt chẽ vào đối tượng phản ánh và trình độ nhận thức của họ. Sự vận động
và sự phát triển của thực tại khách quan tác động vào tư tưởng của con người và làm thay
đổi nhận thức, tư tưởng của họ.
Là một phạm trù thuộc lĩnh vực ý thức xã hội, tư tưởng có sự bảo thủ nhất định
so với những thay đổi của thực tế khách quan, cũng như có khả năng đi trước so với
những vận động hiện thực khách quan đó. Tư tưởng nhiều khi không hình thành sau khi
thực tại đời sống vật chất xã hội đó hình thành, mà lại hình thành đồng thời, trong sự
thống nhất với tồn tại xã hội. Đôi khi tư tưởng con người còn có trước khi một tồn tại xã
hội nào đó diễn ra, hoặc nó còn sau khi tồn tại xã hội đó đã qua. Có những tư tưởng tiến
bộ, dựa trên những quy luật vận động khách quan của hiện thực, những tư duy khoa học
chỉ ra những bước phát triển tất yếu của hiện thực làm cơ sở cho những hoạt động tự giác
của con người.

Mặt khác, cũng có những tư tưởng lạc hậu cản trở sự phát triển khách quan của
đời sống xã hội. Vì thế, vai trò của tư tưởng và công tác tư tưởng có tầm quan trọng đặc
biệt; tư tưởng dẫn đầu, hay công tác tư tưởng đi trước một bước là xuất phát từ luận điểm
đó. V.I.Lênin khẳng định: "không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách
mạng" [4, tr.30].
Tư tưởng của con người luôn luôn gắn liền với lợi ích, quan hệ lợi ích tác động
trở lại tư tưởng, chi phối quá trình nhận thức và hoạt động của họ.
C.Mác đã từng chỉ rõ: tư tưởng luôn luôn gắn liền với lợi ích. Tách rời "tư tưởng"
với lợi ích chính là "làm nhục" tư tưởng.
Có tư tưởng của một người, của một giai cấp, một tầng lớp trong xã hội. Căn cứ
vào mức độ nhận thức, sự phù hợp với thực tại khách quan, tính chất tiến bộ và lạc hậu
của nó, người ta chia ra thành tư tưởng cách mạng và tư tưởng phản cách mạng; tư tưởng

đúng và tư tưởng sai; tư tưởng tích cực và tư tưởng tiêu cực; tư tưởng cấp tiến, tư tưởng
tự do và tư tưởng bảo thủ; tư tưởng lạc quan và tư tưởng bi quan.
Xét về cấu trúc, tư tưởng có nhiều loại: thế giới quan, tư tưởng chính trị, tư tưởng
triết học, tư tưởng đạo đức, tư tưởng pháp quyền. Tư tưởng thâm nhập và chi phối tất cả
các lĩnh vực tinh thần của con người và xã hội: hoạt động chính trị, khoa học, nghệ thuật,
giáo dục đào tạo, tín ngưỡng tôn giáo. Đặc biệt tư tưởng gắn chặt với đạo đức, lối sống
của cá nhân, cộng đồng và xã hội. Trong đời sống xã hội hiện thực, cần đặc biệt chú ý hai
dạng tư tưởng có tầm quan trọng nổi trội là tư tưởng chính trị và tư tưởng đạo đức.
1.1.2. Quan niệm về công tác tư tưởng
Cùng với quá trình sản xuất vật chất, xã hội thường xuyên và không ngừng diễn
ra các quá trình tư tưởng. Quá trình tư tưởng bắt nguồn từ chỗ, khi con người hình thành
ý thức, thì xuất hiện các nhu cầu về tinh thần và lợi ích nhận thức. Con người có nhu cầu
vật chất và nhu cầu tinh thần, để thỏa mãn nhu cầu vật chất, con người tổ chức các quá
trình sản xuất vật chất. Khi ở con người xuất hiện nhu cầu tinh thần thì cũng bắt đầu quá
trình sản xuất và tái sản xuất ra "của cải" tinh thần để thỏa mãn nhu cầu đó. Khi xã hội
loài người phân chia thành giai cấp, thì các giai cấp đối kháng nhau có nhu cầu xác lập hệ
tư tưởng để luận chứng cho sự tồn tại và bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Do đó, lịch sử

cũng bắt đầu quá trình sản xuất và tái sản xuất ra hệ tư tưởng, làm xuất hiện các quan hệ
tư tưởng, tức là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất ra
hệ tư tưởng (các quan hệ này là sự phản ánh về mặt tinh thần của các quan hệ sản xuất và
các quá trình tư tưởng). Nói một cách cụ thể hơn, đó là quá trình sản xuất ra hệ tư tưởng
(hình thành và phát triển hệ thống quan điểm, lý luận), quá trình tái sản xuất hệ tư tưởng
(truyền bá hệ tư tưởng), quá trình biến tư tưởng thành sức mạnh vật chất, thành hành
động cách mạng ("vật chất hóa" hệ tư tưởng).
Hệ tư tưởng là sự phản ánh của lợi ích giai cấp dưới hình thức lý luận, cho nên
nó mang bản chất giai cấp. Vì vậy, các quá trình tư tưởng cũng bị chi phối bởi lợi ích của
giai cấp thống trị xã hội. Trong lịch sử xã hội loài người, các giai cấp thống trị, thông qua
đội ngũ những nhà tư tưởng và các thiết chế tư tưởng luôn tìm mọi cách tác động, chi
phối các quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng nhằm biến hệ tư tưởng của mình thành

hệ tư tưởng thống trị xã hội; và từ đó động viên, cổ vũ mọi thành viên trong xã hội đứng
lên bảo vệ và xây dựng chế độ hiện tồn.
Từ sự tìm hiểu các khái niệm tư tưởng, quan hệ tư tưởng, quá trình tư tưởng,
trong đó có quá trình "sản xuất", truyền bá hệ tư tưởng, có thể khẳng định công tác tư
tưởng là hoạt động của chủ thể tư tưởng (nhà tư tưởng, giai cấp, chính đảng) trong quá
trình tư tưởng và tác động đến quan hệ tư tưởng để đạt mục đích đặt ra.
Nói cách khác, công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính đảng, nhằm hình thành, xây dựng, xác lập, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng trong
quần chúng, định hướng giá trị, tạo niềm tin và thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của
"giai cấp mình" chủ thể hệ tư tưởng.
Công tác tư tưởng trong chế độ xã hội chủ nghĩa là hoạt động có mục đích của
Đảng Cộng sản và Nhà nước nhằm hình thành, phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa;
biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội và với hệ tư
tưởng này tiến hành động viên, cổ vũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lao động
hành động tích cực, sáng tạo vì lý tưởng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
1.1.3. Vị trí, vai trò của công tác tư tưởng
1.1.3.1. Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của tư tưởng

Nói đến vị trí, vai trò của tư tưởng, trước hết là nói đến vị trí, vai trò của hệ tư
tưởng, tức là hệ thống quan điểm của một giai cấp về triết học, chính trị và pháp quyền,
văn học, nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo Những quan điểm ấy phản ánh những điều kiện
kinh tế, quan hệ kinh tế nhất định, dưới dạng học thuyết, lý luận, cương lĩnh, đường lối,
chính sách, chiến lược, sách lược
Người lãnh đạo thường nói tư tưởng dẫn đầu. Có người hiểu, tư tưởng "dẫn đầu"
chủ yếu là lòng hăng hái, lòng nhiệt tình và cho rằng, chỉ với lòng hăng hái, con người có
thể làm bất cứ những gì mà họ có thể làm được, "dời non, lấp biển". Các suy nghĩ đó
không đúng với luận điểm của V.I.Lênin: "không có lý luận cách mạng thì cũng không
thể có phong trào cách mạng". Như vậy, tư tưởng dẫn đầu phải là lý luận cách mạng, thể
hiện ở đường lối cách mạng của Đảng. Lý luận cách mạng là đường lối của Đảng giúp
nhân dân các bộ tộc Lào hiểu rõ quy luật phát triển của xã hội Lào, chỉ ra cho con người
Lào mục tiêu phải đạt được và con đường để thực hiện mục tiêu ấy trong những giai đoạn
cách mạng nhất định.

Nói đến tầm quan trọng của tư tưởng phải nói đến tình cảm cách mạng. Tình cảm
cách mạng biểu hiện trong đạo đức của con người cách mạng và sự hiểu biết về khoa học
chủ nghĩa Mác - Lênin. Không có tinh thần hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng
của nhân dân thì càng không có hành động cách mạng. Không có tình cảm cách mạng thì
không phải là người cộng sản. Những người đã biết hy sinh bản thân mình vì sự nghiệp
cách mạng, vì đất nước là người có tình cảm cách mạng cao cả, ở bất cứ lúc nào, bao giờ
họ cũng sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc của mình.
Như vậy là, tình cảm cách mạng phải kết hợp với lý luận cách mạng, với tri thức
cách mạng chủ nghĩa Mác - Lênin. Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là sự thống nhất
hữu cơ giữa lý trí và tình cảm, là sự tổng hợp toàn bộ những thành quả tốt đẹp của trí tuệ
loài người, là sự biểu hiện tập trung những tư tưởng, tình cảm trong sáng và cao cả của
giai cấp công nhân, những ước mơ cao đẹp của những người lao động.
Tư tưởng cách mạng đem lại cho quần chúng tri thức cách mạng và tình cảm
cách mạng, tri thức cách mạng giúp cho quần chúng hiểu sự vật và hành động phù hợp
với quy luật phát triển của sự vật. Tình cảm cách mạng là động lực thúc đẩy quần chúng

nhằm biểu hiện chủ trương, sách lược thành hiện thực cách mạng.
1.1.3.2. Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác tư tưởng của Đảng hiện
nay
Các nhà sáng lập học thuyết Mác nói rằng, khi tư tưởng cách mạng đã thâm
nhập, quyền lực sẽ trở thành sức mạnh vật chất. C.Mác viết: " lực lượng vật chất chỉ
có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng
vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng " [7, tr.25].
Như vậy, công tác tư tưởng của Đảng có vị trí, vai trò quan trọng góp phần làm
phong phú những tư tưởng lãnh đạo. Công tác tư tưởng bao giờ cũng là công tác hàng
đầu, sáng tạo, tổng kết thực tiễn. Công tác tư tưởng là linh hồn của Đảng, của mọi công
việc, nhằm phục vụ những nhiệm vụ cách mạng cụ thể, trước mắt, lâu dài và cái hiểu về
mặt tinh thần của toàn thể con người trong xã hội.
Tuyệt đối không nên coi nhẹ vị trí, vai trò công tác tư tưởng của Đảng, khi cần
thì dùng đến, khi không cần thì xếp lại một bên. Làm như vậy là hạ thấp vị trí, vai trò

công tác tư tưởng của Đảng, thu hẹp vị trí, vai trò công tác tư tưởng vào những công việc
sự vụ, vụn vặt.
Hiện nay, ở Lào một số cán bộ, đảng viên ngoài công tác chuyên môn không làm
công tác tư tưởng của Đảng, không tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối
chính sách của Đảng. Thậm chí có cán bộ, đảng viên được phân công làm việc ở các
ngành chuyên môn thì chỉ biết chuyên môn, không chú ý đến các vấn đề về chính trị và tư
tưởng.
Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã chỉ rõ: toàn Đảng phải làm công tác tư
tưởng. Đảng có những quy định cụ thể để mỗi đảng viên dù ở cương vị công tác nào
đều phải làm công tác tư tưởng, phải coi đó là một trong những công tác căn bản của
Đảng mà mỗi đảng viên phải có trách nhiệm tiến hành tốt.
Các ngành, các cấp cần nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo công tác của mình
lên trình độ lãnh đạo chính trị, lãnh đạo tư tưởng và xem công tác tư tưởng của Đảng là
then chốt để hoàn thành tốt mọi mặt công tác.
Công tác tư tưởng của Đảng tác động đến tâm tư, tình cảm của con người, có tác

dụng phát huy tính tự giác, tính tích cực, chủ động và óc sáng tạo của quần chúng để
hoàn thành mọi nhiệm vụ của Đảng giao cho. Mỗi cơ quan lãnh đạo của Đảng cần đi sâu
nghiên cứu công tác lãnh đạo tư tưởng, dùng nó làm đòn bẩy để đẩy mạnh các công tác
khác.
Như vậy, công tác tư tưởng có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong công tác
xây dựng Đảng và trong sự lãnh đạo của Đảng. Công tác tư tưởng không chỉ góp phần
xây dựng nền tảng tư tưởng, xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn
dân, mà còn góp phần xây dựng hệ thống lý luận làm cơ sở cho hoạt động lãnh đạo của
Đảng, nâng cao trình độ trí tuệ cho cán bộ, đảng viên; không chỉ góp phần xây dựng đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, mà còn tham gia xây dựng Đảng vững mạnh cả về
chính trị và tổ chức. Công tác tư tưởng không chỉ tham gia vào quá trình hoạch định chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, mà còn cổ vũ, động viên, tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục cả dân tộc hăng say lao động, tự giác, vì mục tiêu, lý tưởng
chủ nghĩa xã hội, đấu tranh với các tư tưởng sai trái. Do đó, công tác tư tưởng liên quan
trực tiếp đến vận mệnh của Đảng, đến tương lai, tiền đồ của dân tộc. Sự vững mạnh của
Đảng về tư tưởng chính là tiền đề và điều kiện tiên quyết để Đảng thực hiện tốt sứ mệnh

lịch sử là lãnh đạo đất nước trong quá trình làm cách mạng dân tộc dân chủ, từng bước
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.3.3. Những nguyên tắc của công tác tư tưởng
Những nguyên tắc của công tác tư tưởng là những quan điểm, mà dựa vào đó chủ
thể của công tác tư tưởng xác định nội dung, phương thức tổ chức và phương pháp tác
động đến khách thể, nhằm đạt mục đích đặt ra.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra những nguyên tắc chung
chỉ đạo hoạt động công tác tư tưởng. Căn cứ vào đó và xuất phát từ thực tiễn đấu tranh
cách mạng, có thể nêu lên những nguyên tắc cơ bản về công tác tư tưởng của Đảng
NDCM Lào như sau:
a. Nguyên tắc tính đảng
Nguyên tắc tính đảng đòi hỏi tất cả những nội dung, phương pháp của công
tác tư tưởng phải xuất phát từ những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Đảng NDCM Lào là đội tiên phong của cách mạng Lào, mục tiêu của Đảng là thực
hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Nguyên tắc tính đảng đòi hỏi công tác tư tưởng phải tuyên truyền, truyền bá lý
luận Mác - Lênin, đường lối quan điểm của Đảng vào quần chúng. Mỗi bài viết, bài nói
đều phải có nội dung tư tưởng, chính trị, các báo cáo của cấp dưới gửi lên cấp trên hoặc
của các ngành gửi cho cấp ủy thì không thể thiếu phần nói về công tác tư tưởng vận động
nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong kế hoạch công
tác của các cấp, các ngành cũng cần nêu rõ công tác tư tưởng.
Tính chiến đấu là một biểu hiện của tính đảng trong công tác tư tưởng. Tính
chiến đấu trong công tác tư tưởng đòi hỏi các cán bộ của Đảng phải đấu tranh không
khoan nhượng chống những tư tưởng thù địch với lý luận Mác - Lênin, đấu tranh không
mệt mỏi để bảo vệ quan điểm của Đảng, đấu tranh trong Đảng để tìm ra nguyên nhân sự
mâu thuẫn nội bộ, tạo nên sự thống nhất trong Đảng, cùng nhau bảo vệ Đảng vững mạnh
về mặt tổ chức, làm cho mối quan hệ trong nội bộ được củng cố. Tính chiến đấu của công
tác tư tưởng là một yêu cầu cơ bản trong công tác tư tưởng của Đảng, đồng thời là thước
đo chất lượng của công tác tư tưởng. Hiệu quả của công tác tư tưởng phụ thuộc một phần
quan trọng ở tính chiến đấu của nó.

Một người cán bộ, đảng viên không có tính đảng cao, không thể được lựa chọn
vào hàng ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và cán bộ làm công tác tư tưởng nói riêng. Bồi
dưỡng về tính đảng phải là một nội dung rất quan trọng trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, đảng viên, cán bộ làm công tác tư tưởng.
Dựa vào tính đảng, các cấp ủy, các cơ quan tham mưu làm công tác tư tưởng có
căn cứ để đánh giá đúng một bài giảng, một bài nói, bài viết, một bản báo cáo, một bài
báo, một buổi phát thanh Chủ tịch Cay-Xỏn Phôm Vi Hản đã nói: Vấn đề giáo dục,
bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ đảng viên, động viên tính gương mẫu và tính tiên phong,
chiến đấu của Đảng, đã trở thành vấn đề nguồn gốc mà sẽ phải làm khẩn trương và làm
thường xuyên đi đôi với việc giáo dục, rèn luyện, động viên tính giai cấp, gương mẫu,
tính tiên phong chiến đấu của Đảng, vấn đề xây dựng đại đoàn kết thống nhất trong nội
bộ Đảng cũng là một vấn đề sống còn của Đảng ta [25, tr.420-421].

Tính đảng phụ thuộc rất lớn vào trình độ lý luận, trình độ chính trị, tư tưởng của
người cán bộ, đảng viên, chủ yếu là đội ngũ làm công tác tư tưởng. Một cán bộ có trình
độ lý luận, nhạy cảm với cái mới và có lập trường, tư tưởng vững vàng, nhất định sẽ quán
triệt sâu sắc tính đảng trong công tác tư tưởng. Do đó, để nâng cao tính đảng trong công
tác tư tưởng, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải chú ý nâng cao trình độ lý luận Mác -
Lênin và quan điểm của Đảng cho cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp và đội ngũ cán bộ
làm công tác tư tưởng.
Hiện nay, công tác tư tưởng của Đảng phải đứng vững trên nguyên tắc tính Đảng;
kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái nảy sinh và những tiêu cực trong nội
bộ Đảng, trong xã hội. Phê phán nạn tham nhũng, mất dân chủ, chống các âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch, bảo vệ sự trong sạch, vững mạnh trong nội bộ Đảng, xây
dựng và phát huy tính đảng trong công tác tư tưởng. Có như vậy mới góp phần cho sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng nước Lào đi đến mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
b. Nguyên tắc tính khoa học
Tính khoa học là một nguyên tắc cơ bản của công tác tư tưởng. Quán triệt tính
khoa học, đòi hỏi toàn bộ công tác tư tưởng phải luôn xuất phát từ quy luật khách quan
của sự phát triển xã hội, lấy đó làm cơ sở để giải thích cho quần chúng nhân dân hiểu một

cách có căn cứ khoa học những vấn đề thực tiễn cách mạng đặt ra và hành động một cách
tự giác, có hiệu quả.
Tính khoa học trong công tác tư tưởng còn đòi hỏi phải quán triệt quan điểm lịch
sử cụ thể, biện chứng, trong khi lý giải hoặc phân tích các sự kiện và hiện tượng của đời
sống xã hội; V.I.Lênin đã dạy rằng: Muốn đánh giá đúng đắn hiện thực, thì "không nên
quên mối liên hệ lịch sử căn bản là xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: Một hiện
tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào và đứng trên quan điểm của sự
phát triển đó để xem xét hiện nay nó trở thành như thế nào " [6, tr.78].
Điều đó có nghĩa là khi phân tích một vấn đề cụ thể nào đó phải đặt nó trong
những điều kiện không gian - thời gian nhất định, phải vạch rõ quá trình phát triển, biến
đổi của nó, chỉ rõ bản chất của vấn đề đó hiện nay là gì và phải giải quyết như thế nào
mới có hiệu quả.

Tính khoa học trong công tác tư tưởng phải phản ánh đúng hiện thực khách quan,
phải coi trọng việc nắm vững những quy luật vận động, phát triển của thế giới khách
quan. Quan tâm sâu sắc đến việc vận động các quy luật ấy.
Tính khoa học của công tác tư tưởng còn thể hiện ở tính chân thật. Đó là một tiêu
chuẩn quan trọng của việc tuyên truyền giáo dục quần chúng. Đối với quần chúng, Đảng
luôn luôn nói đúng sự thật, làm cho quần chúng ngày càng tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh
đạo của Đảng. Đảng hoạt động vì lợi ích của nhân dân, người đảng viên không thể che
giấu sự thật với nhân dân.
Các Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI và thứ VII của
Đảng NDCM Lào đã đánh giá tình hình thế giới cũng như tình hình trong nước và khu
vực một cách khách quan, có căn cứ khoa học, đã chỉ ra thành tích đổi mới đạt được trên
các lĩnh vực kinh tế - xã hội, về những khuyết điểm, sai lầm và nguyên nhân của nó. Từ
đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào phải ra sức phát huy những ưu điểm,
nhanh chóng khắc phục những khuyết điểm, lập thành tích mới cao hơn.
Tính khoa học của công tác tư tưởng còn đòi hỏi phải nghiên cứu đặc điểm của
các tầng lớp nhân dân lao động, nắm vững quy luật của quá trình nhận thức, sử dụng
phương pháp thích hợp, nhằm đưa tư tưởng của Đảng đến với nhân dân một cách có hiệu
quả nhất. Nói cách khác là phải tiến hành công tác tư tưởng một cách khoa học, phải vận

dụng những thành tựu mới của khoa học, tin học, khoa học tâm lý, khoa học sư phạm.
Kịp thời tổng kết kinh nghiệm công tác tư tưởng của Đảng, tham khảo những bài học về
công tác tư tưởng của các Đảng anh em, tạo cho công tác tư tưởng một cơ sở khoa học
mới vững chắc hơn.
c. Nguyên tắc tính thực tiễn
Nguyên tắc tính thực tiễn của công tác tư tưởng tức là công tác tư tưởng phải gắn
liền với cuộc sống. Công tác tư tưởng hướng vào giải quyết các vấn đề cấp bách về kinh
tế - xã hội và những vấn đề tư tưởng đang đặt ra, lý giải được những vướng mắc trong
cuộc sống hiện tại và thuyết phục mọi người tham gia tích cực, sáng tạo, góp phần tháo
gỡ khó khăn, thúc đẩy cách mạng tiến lên. Để làm được điều đó, công tác tư tưởng hay
người làm công tác tư tưởng phải có ý thức sâu sắc khi đưa lý luận Mác - Lênin và đường

lối chính sách của Đảng vào trong quần chúng, không phải chỉ trang bị cho họ lý luận và
những nhận thức mới, mà điều quan trọng là làm cho quần chúng nhân dân nắm được lý
luận, biết dùng nó để cải tạo xã hội, cải tạo thiên nhiên, cải tạo bản thân mình, nhằm đưa
đất nước và xã hội tiến nhanh trên con đường Đảng và nhân dân Lào đã lựa chọn. Chính
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đòi hỏi công tác tư tưởng gắn liền với cuộc sống.
Tính thực tiễn đòi hỏi trước hết là nội dung công tác tư tưởng phải gắn chặt với
cuộc sống, sát hợp với từng đối tượng, tiến hành phù hợp với hoàn cảnh thực tế, tránh lối
động viên tư tưởng chung chung, hình thức, nói và làm phải đi đôi với nhau.
Một mặt, công tác tư tưởng phải nhạy bén với cái mới, chú trọng tổng kết thực
tiễn và kinh nghiệm sáng tạo của cơ sở, của quần chúng. Nói cách khác, mục tiêu, nội
dung, hình thức, phương pháp công tác tư tưởng phải xuất phát từ thực tiễn, từ yêu cầu
của đời sống nhân dân. V.I.Lênin luôn luôn nhắc nhở những người làm công tác tư tưởng
không được xa rời cuộc sống.
Người viết:
Hãy bớt làm rùm beng về chính trị đi. Hãy bớt những nghị luận kiểu trí
thức đi. Hãy gần gũi đời sống hơn nữa. Hãy chú ý nhiều hơn nữa xem trong công
việc thường ngày của họ, quần chúng công nông đang thực tế sáng tạo cái mới
như thế nào. Hãy kiểm nghiệm kỹ hơn xem cái mới đó có tính chất cộng sản đến
mức độ nào [5, tr.109].
Công tác tư tưởng không chỉ gắn với thực tiễn, gắn với cuộc sống mà còn góp
phần thúc đẩy cuộc sống tiến lên. Nó phải trang bị cho quần chúng những tư tưởng mới,

tình cảm mới, những kiến thức khoa học để quần chúng có thể lý giải được những vấn đề
vướng mắc trong cuộc sống, xác định được phương hướng, hành động đúng, tích cực
tham gia vào các công việc và hoàn thành những nhiệm vụ cụ thể góp phần vào việc xây
dựng con người mới và xây dựng thượng tầng kiến trúc mới của đất nước.
Trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, công tác tư tưởng của Đảng
cần đi sâu vào thực tế của đời sống nhân dân, để đấu tranh với mọi âm mưu của kẻ địch,
khi chúng đang có âm mưu đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình". Cuộc đấu tranh
trên mặt trận tư tưởng hiện nay hết sức phức tạp, đòi hỏi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là

những người làm công tác tư tưởng, phải có trí tuệ, bản lĩnh và đi sâu vào đời sống quần
chúng, gắn bó với quần chúng, thuyết phục quần chúng bằng những tấm gương trong
thực tế.
Mỗi nguyên tắc nói trên có yêu cầu riêng, nhưng nội dung là thống nhất, gắn bó,
quan hệ hữu cơ với nhau. Công tác tư tưởng phải đáp ứng một cách thống nhất và linh
hoạt tất cả các nguyên tắc đó để đạt hiệu qủa cao nhất.
1.2. Quan điểm và sự lãnh đạo công tác tư tưởng của Đảng nhân dân cách
mạng Lào - thành quả, hạn chế
1.2.1. Quan điểm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về công tác tư tưởng
Vấn đề đặt ra là: hiểu công tác tư tưởng của Đảng như thế nào cho đúng. Để có
một quan niệm tương đối đầy đủ về công tác tư tưởng của Đảng, có thể xuất phát từ ba
căn cứ:
Thứ nhất: căn cứ vào vị trí, vai trò và chức năng nhiệm vụ của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc.
Thứ hai: căn cứ vào yêu cầu khách quan trong việc xây dựng Đảng.
Thứ ba: căn cứ vào các quy luật vận động và phát triển của ý thức xã hội.
Với những căn cứ đó, có thể quan niệm về công tác tư tưởng của Đảng như sau:
Công tác tư tưởng của Đảng là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong công
tác xây dựng Đảng và trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng nhằm tác động có
định hướng lên trạng thái và quá trình vận động của tư tưởng theo các quy luật riêng của
nó, để phát hiện tiềm năng sáng tạo của tư tưởng, góp phần hình thành con người mới và

xã hội mới, mà vấn đề cơ bản là xác lập thế giới quan, hệ tư tưởng và lập trường của giai
cấp công nhân.
Đi sâu phân tích quan niệm của Đảng về công tác tư tưởng trong đường lối của
Đảng NDCM Lào cho thấy:
Một là: Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, công tác tư tưởng là một bộ phận
cấu thành rất quan trọng, quan hệ trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của sự nghiệp
cách mạng của nhân dân Lào do Đảng lãnh đạo. Để không ngừng đáp ứng với yêu cầu
lãnh đạo cách mạng của Đảng, trước hết phải nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đây

là nhiệm vụ cơ bản nhất, quan trọng nhất quyết định trực tiếp đến đường lối cách mạng
và liên quan đến vận mệnh của dân tộc Lào.
Khi đất nước Lào còn đắm chìm trong những đêm dài nô lệ, Đảng đã vạch ra
đường lối cách mạng dân tộc dân chủ và đường lối đó thực sự là ngọn đèn dẫn đường cho
nhân dân các bộ tộc Lào vượt qua mọi gian nan, thử thách. Khi trở thành Đảng cầm
quyền, Đảng Nhân dân cách mạng Lào tiếp tục thực hiện Cương lĩnh chính trị năm 1930
và có sự phát triển trên một số vấn đề cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước.
Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản đã viết: Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông
Dương ra đời do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập, đánh dấu bước ngoặt lịch sử của ba
nước Đông Dương. Từ đó dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác - Lênin chân chính với ngọn
cờ cách mạng dân tộc dân chủ, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc Lào
bước sang thời kỳ mới với chất lượng hoàn toàn mới [26, tr.85].
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ này, khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông
Âu cải tổ lâm vào khủng hoảng và sụp đổ thì Đảng NDCM Lào đã đề ra đường lối đổi
mới đúng đắn, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân tiến lên CNXH.
Thành tựu của hơn 10 năm đổi mới vừa qua là một bằng chứng sinh động về sự thành
công của Đảng NDCM Lào trên mặt trận tư tưởng lý luận.
Cùng với việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, công tác tư tưởng của Đảng
tham gia tích cực vào việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, đưa hệ tư tưởng khoa học, cách mạng là chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng của Đảng vào giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem lại cho họ những
hiểu biết về quy luật phát triển của xã hội, những tri thức về thế giới quan khoa học, về
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giúp cho cán bộ, đảng viên và

nhân dân các bộ tộc Lào gạt bỏ những tàn dư tư tưởng lạc hậu và những tư tưởng lệch lạc
mới phát sinh.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, nhất là khi nhiệm vụ chính trị căn
bản của Đảng đã thay đổi, công tác tư tưởng của Đảng không chỉ nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn, tuyên truyền, giáo dục lý luận mà còn phân tích và dự báo chính xác tình
hình tư tưởng Một trong những nhiệm vụ trọng yếu ở Lào là phải lãnh đạo, quản lý chặt

chẽ các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình ),
các tổ chức văn hóa, văn học, nghệ thuật, khoa học và hệ thống giáo dục quốc dân. Các
phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan văn hóa, văn nghệ chiếm vị trí quan trọng
trong công tác giáo dục tư tưởng, là công cụ đưa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đường lối,
chính sách của Đảng vào quần chúng, là nơi thể hiện, định hướng dư luận xã hội và tham
gia vào việc hình thành dư luận xã hội. Nên nếu có sơ hở trong lãnh đạo và quản lý các
quá trình tư tưởng nói chung và các phương tiện thông tin đại chúng nói riêng, để cho các
phần tử phản động lợi dụng, xuyên tạc đường lối của Đảng NDCM Lào, sẽ gây nên
những hậu quả tai hại khôn lường hết được cho đất nước Lào.
Hai là, trong công tác xây dựng Đảng, công tác tư tưởng là nhân tố quyết định trực
tiếp đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng NDCM Lào.
Có thể khẳng định, cùng với công tác tổ chức và công tác kiểm tra, công tác tư
tưởng góp phần xây dựng Đảng thành đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Lào. Trong xây dựng Đảng, công tác
tư tưởng của Đảng có vai trò bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, bảo vệ chủ
trương, đường lối của Đảng, tạo cơ sở đoàn kết thống nhất tư tưởng trong Đảng và trong
xã hội. Bởi vì, sự thống nhất tư tưởng bao giờ cũng xuất phát từ quan điểm chung, lợi ích
chung, mục đích chung. Không đảm bảo được các yêu cầu đó sẽ không có cơ sở cho sự
tồn tại bền vững của sự đoàn kết thống nhất. Một mặt nhờ đấu tranh tư tưởng mà phân
biệt được đúng, sai, giữa khoa học, cách mạng với bảo thủ, trì trệ để giúp cho Đảng lớn
mạnh và phát triển không ngừng.
Thông qua đấu tranh, một mặt khẳng định những vấn đề cơ bản có tính nguyên
tắc của Đảng khi phải đứng trước nhận thức còn lệch lạc của một bộ phận cán bộ, đảng
viên, hoặc sự xuyên tạc, chống phá của các loại kẻ thù; mặt khác, thông qua đấu tranh tư
tưởng mà kịp thời phát hiện những vấn đề còn hạn chế trong chủ trương, đường lối, sửa

chữa và bổ sung kịp thời những vấn đề mới cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Từ
trước đến nay, trong cách mạng dân tộc, dân chủ cũng như trong cách mạng XHCN,
trước khó khăn, thử thách nhất là trước mỗi bước ngoặt lịch sử của đất nước Lào bao giờ
cũng diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận sâu sắc trong Đảng. Đây là sinh hoạt chính

trị bình thường trong Đảng để tìm ra chân lý. Bởi vì, thực tế cho thấy, trước khó khăn,
thử thách thường xuất hiện những tư tưởng, quan điểm tiên tiến có tác dụng thúc đẩy thực
tiễn phát triển. Điều này đã được chứng minh khá rõ nét trong tiến trình cách mạng Lào,
nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay. Do đó, mở rộng dân chủ, phát huy hết mọi tiềm
năng trí tuệ trong Đảng và trong quần chúng nhân dân, để xây dựng chủ trương, đường
lối của Đảng thật sự khoa học và cách mạng, ngăn ngừa các khuynh hướng tư tưởng cực
đoan, nóng vội, bảo thủ, là vấn đề thường xuyên đặt ra trong công tác tư tưởng của Đảng
nói riêng và trong mọi hoạt động của Đảng nói chung.
Thứ ba: Đối tượng thực hiện chủ yếu công tác tư tưởng của Đảng NDCM Lào là
các tầng lớp nhân dân các bộ tộc Lào. Đây là vấn đề khó, phức tạp. Vì thế, công tác tư
tưởng muốn thành công phải dựa trên những căn cứ khoa học và quy luật vận động phát
triển của ý thức xã hội.
Một trong những vấn đề cơ bản trong công tác tư tưởng của Đảng NDCM Lào là
việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Sự thành công hay
thất bại trong công tác tư tưởng của Đảng tùy thuộc vào việc nhận thức và thực hiện mối
quan hệ này. Nếu công tác tư tưởng của Đảng xuất phát từ thực tiễn đất nước Lào, từ tồn
tại xã hội, thấy được vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, sẽ góp
phần ngăn ngừa được bệnh chủ quan, duy ý chí trong công tác tư tưởng. Mặt khác, nếu
thấy được tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, sẽ giúp cho công tác tư tưởng của
Đảng ngăn ngừa được bệnh rập khuôn, máy móc, hoặc thụ động. ở Lào, công tác tư
tưởng của Đảng dựa trên cơ sở khoa học còn có nghĩa là, khi phân tích, lý giải những vấn
đề tư tưởng trong đời sống chính trị - xã hội, phải phân tích sâu các hiện tượng, khám phá
các mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn của xã hội Lào. Công tác tư tưởng của
Đảng phải thường xuyên phân tích cụ thể các trạng thái, tư tưởng cụ thể, nhất là sự diễn
biến tư tưởng của xã hội trước những bước ngoặt lịch sử. Mặt khác, quá trình tiến hành
công tác tư tưởng phải nghiên cứu, phân tích rõ đặc điểm, tâm lý của đối tượng.

Đối tượng công tác tư tưởng của Đảng là con người và ý thức của người Lào, để
hiểu đúng tâm trạng xã hội cũng như các tập thể, các cộng đồng, phải đi sâu phân tích các
lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của con người, vừa chú trọng lợi ích vật chất, vừa xét

lợi ích tinh thần (đặc biệt lợi ích về chính trị văn hóa của con người ).
Thứ tư: Công tác tư tưởng của Đảng NDCM Lào gắn với xây dựng nội bộ Đảng,
làm cho Đảng trở thành đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân các bộ tộc
Lào, làm cho tư tưởng của các tổ chức chính trị - xã hội và mọi tầng lớp nhân dân ổn định,
không thể tạo ra những biến động tiêu cực về mặt tư tưởng. Xét đến cùng, công tác tư
tưởng của Đảng là phải xây dựng được ý thức tư tưởng mới, quan niệm mới tích cực của
con người Lào đối với cuộc sống, đối với xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Những ý thức mới, quan niệm mới đó phải thể hiện ở phong trào hành động cách mạng
của quần chúng, phát huy được năng lực "nội sinh" của quần chúng góp phần cải tạo và
xây dựng xã hội kiểu mới.
Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản đã nhấn mạnh một số vấn đề về công tác chính
trị tư tưởng của Đảng NDCM Lào:
Công tác tư tưởng là một công tác rất quan trọng là một mặt trận của
cách mạng. Đối với công tác tổ chức, quản lý và xây dựng cán bộ phải thực
hiện theo hướng như sau: Giáo dục đường lối chính sách, chủ nghĩa Mác -
Lênin cho cán bộ, xây dựng tư tưởng giai cấp công nhân cho cán bộ và nhân
dân, xây dựng cho cán bộ trở thành chiến sĩ chính trị tiên phong của giai cấp
công nhân, có đủ khả năng để nắm vững đường lối chính trị chủ trương chính
sách của Đảng để tuyên truyền giải thích sâu rộng cho quần chúng làm chọn
nhiệm vụ của mình. Công tác tư tưởng là sự giáo dục đường lối chính sách
ngày càng sâu rộng làm cho mọi người tự giác thực hiện, xây dựng cho mọi
người trở thành chiến sĩ cách mạng thật sự, thành con người có khả năng, có
đạo đức và trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa. Đảng nắm chính quyền,
công tác tư tưởng cần bao phủ toàn xã hội [27, tr.34].
Để thực hiện tốt điều đó, một trong những cốt lõi đặt ra trong công tác tư tưởng
là phải xác lập thế giới quan cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho tư
tưởng khoa học, cách mạng giữ vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội.

Như vậy, công tác tư tưởng của Đảng NDCM Lào là đòi hỏi khách quan của quá
trình hoạt động và lãnh đạo phong trào cách mạng của Đảng. Từ bỏ hoặc xem nhẹ công

tác tư tưởng của Đảng có nghĩa là Đảng tự bỏ vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã
hội.
1.2.2. Quá trình Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng năm 1986-1991
1.2.2.1. Tình hình kinh tế - xã hội của Lào trước những năm đổi mới
Lịch sử của dân tộc Lào là lịch sử đấu tranh cải tạo thiên nhiên và đấu tranh với
kẻ thù để tồn tại và phát triển. Từ khi Châu Phạ Nhụm tập hợp các thành phố thống nhất
đất nước thành quốc gia Lạn Sạng, bị kẻ thù bên ngoài xâm lược liên tục, nhất là phong
kiến Thái Lan xâm chiếm nước Lào lâu dài nhất trong lịch sử Lào, cuộc đấu tranh của nhân
dân các bộ tộc Lào để tồn tại và giữ gìn đất nước diễn ra cả nước. Cuộc đấu tranh đó dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của nhà vua và chiến sĩ yêu nước, vì vậy, có lúc thắng lợi và có lúc thất bại,
nhưng phong trào đấu tranh của nhân dân cũng tiếp tục diễn ra không ngừng.
Đến cuối thế kỷ XIX, năm 1893 thực dân Pháp bắt đầu xâm chiếm Lào. Nhân
dân các bộ tộc Lào đứng dậy đấu tranh. Nhà vua và các quan lại mất vai trò lãnh đạo,
nhân dân bị thực dân Pháp lợi dụng, làm tay sai cho Pháp.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, để giải phóng dân tộc, mỗi
người dân Lào đều tham gia cách mạng với tấm lòng yêu nước, yêu hòa bình, tự do.
Trong cuộc chiến tranh một mất một còn để giành độc lập, rất nhiều chiến sĩ cách mạng
non trẻ đã hy sinh ngoài mặt trận, hay bị tàn sát dã man. Trong chiến tranh chống Pháp và
chống Mỹ nhiều người con của Lào đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Tinh thần yêu nước thương người luôn thường trực trong ý thức con người Lào.
Nó được kết tinh và hun đúc từ đời này sang đời khác. Nhưng dù lòng yêu nước của
người Lào có cao đến bao nhiêu chăng nữa, nếu không có công tác tư tưởng của Đảng,
không được tập hợp, được giác ngộ về lý tưởng, về lẽ sống, về mục tiêu cách mạng,
không biến nhận thức thành niềm tin, thành ý chí, thành quyết tâm, thì khó có thể thức
tỉnh được trái tim, khối óc của hàng triệu người, tạo nên một sức mạnh tổng hợp để
chống lại kẻ thù giành thắng lợi cho cách mạng Lào.
Mặc dù cuộc đấu tranh rất dũng cảm, kéo dài, nhưng cuối cùng các phong trào đó
đều thất bại, do nhiều nguyên nhân bên trong và bên ngoài. Song, nguyên nhân chủ yếu
nhất là chưa có lý luận cách mạng, chưa có Đảng lãnh đạo, như Lênin đã nói: "không có


lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng". Dù có phong trào đấu tranh,
nhưng chưa có Đảng, chưa có chủ nghĩa Mác - Lênin thành kim chỉ nam, vì vậy, nó chưa
thành phong trào cách mạng tự giác về chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Đông Dương và
thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào ngày 3/2/1930. Đây là sự kiện quan trọng, là
bước ngoặt đối với cuộc cách mạng Lào.
Cơ cấu tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương gồm cả xứ ủy Ai Lao, là người
đưa chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận cách mạng thâm nhập vào phong trào đấu tranh của
nhân dân các bộ tộc Lào. Từ nay trở đi cuộc đấu tranh của nhân dân Lào đã có lý luận soi
sáng, có Đảng Cộng sản lãnh đạo và bước vào chất lượng mới đó là phong trào cách
mạng tự giác. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Xứ ủy Ai Lao, cách mạng Lào là
một bộ phận khăng khít không tách rời của cách mạng Đông Dương và cách mạng thế
giới.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 9-1934 Ban Chấp hành
Đảng bộ Lào (gọi tắt là Xứ ủy Lào) được thành lập phụ trách chỉ đạo trực tiếp cuộc đấu
tranh cách mạng ở Lào. Năm 1934 ở Lào có 32 đảng viên, 6 tổ đảng và nhiều tổ chức
quần chúng ủng hộ Đảng. Đại hội lần thứ nhất Xứ ủy Lào được tổ chức tại một hòn đảo
nhỏ trên sông Mê Kông gần thủ đô Viêng Chăn. Từ đó những người cộng sản lớp đầu
tiên ở Lào đã góp sức cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền bá và giáo dục lý luận cách
mạng vào quần chúng nhân dân Lào.
Đảng Cộng sản Đông Dương nói chung và Xứ ủy Lào nói riêng đã lãnh đạo nhân
dân cả nước Lào chống thực dân Pháp, khi Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam thành
công, tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945, nhân dân Lào cũng nổi dậy đấu tranh giành chính
quyền và tuyên bố độc lập ngày 12-10-1945. Nhưng, độc lập của Lào chưa được đầy 5
tháng thì thực dân Pháp tiến hành xâm lược Lào lần thứ hai. Đảng phải lãnh đạo nhân dân
tiếp tục đấu tranh chống Pháp xâm lược theo phương châm toàn diện, lâu dài.
Sau 20 năm dưới sự lãnh đạo chung của Đảng Cộng sản Đông Dương, tình hình của
mỗi nước bán đảo Đông Dương có chuyển biến theo hướng có lợi các lực lượng cách mạng,
tình hình diễn biến theo đặc điểm của mỗi nước. Cho nên, tại Đại hội II tổ chức tại xã Vinh
Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11-19/2/1951, theo sáng kiến của Chủ

tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Đông Dương đã quyết định tổ chức ở mỗi nước Lào và

×