Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

LUẬN VĂN: Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ nữ từ 1986 đến 2001 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.63 KB, 96 trang )








LUẬN VĂN:

Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ nữ từ
1986 đến 2001







Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nói đến vai trò của cán bộ, V.I.Lênin đã từng nói: Hãy cho tôi một đội ngũ
những người Bôn sê vích, tôi sẽ làm đảo lộn nước Nga. Đảng NDCM Lào luôn luôn
khẳng định: cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ là nhiệm vụ quan trọng trong công tác cán bộ
của Đảng và Chính phủ nước CHDCND Lào trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phụ nữ là một lực lượng xã hội rộng lớn, đóng vai trò quan
trọng trong mọi lĩnh vực xã hội, trong thực tế không có một công việc quan trọng nào của
đất nước lại không có sự tham gia của phụ nữ. Trong bối cảnh có nhiều thời cơ, thuận lợi


và khó khăn, thách thức; trước yêu cầu, nhiệm vụ chính trị mới nặng nề, khó khăn và
phức tạp, công tác cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng của Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào đòi hỏi phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm có đủ bản lĩnh
chính trị, phẩm chất cách mạng, năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn, góp phần thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm qua, Đảng NDCM Lào đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn
diện có nguyên tắc, Đảng đề ra chủ trương đường lối, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
cho từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. vấn đề quan trọng nhất có tính chất quyết
định sự thành công hay thất bại của đường lối đó là công tác cán bộ. ở Lào hiện nay, các
cấp, các ngành đều có tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý và
cán bộ chuyên môn. Để thực hiện thành công những chủ trương, đường lối của Đảng và
phát huy vị trí, vai trò của cán bộ nữ, phải xây dựng đội ngũ cán bộ nữ ở các cấp, các
ngành để phụ nữ chủ động thực hiện vai trò, nhiệm vụ của mình. Đại hội IV của Đảng
NDCM Lào đã nêu rõ tình trạng cán bộ nữ:
Hiện nay tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số còn tương đối thấp
trong các cơ quan lãnh đạo các cấp, các ngành. Vì vậy, chúng ta vừa phải tích
cực bồi dưỡng, đào tạo, vừa phải vận dụng tiêu chuẩn cho phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể trong việc bố trí cán bộ nữ và cán bộ các bộ tộc. Mặt khác, cán bộ

nữ, cán bộ các bộ tộc phải phấn đấu vươn lên làm tròn nhiệm vụ được giao [2,
tr.147].
Việc nghiên cứu quá trình Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng trong những năm đổi mới là rất cần thiết,
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần tổng kết rút kinh nghiệm thiết thực để xây
dựng đội ngũ cán bộ nữ ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới đất nước. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ nữ từ 1986 đến 2001"làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Lịch sử Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề cán bộ, cán bộ phụ nữ và công tác cán bộ

trong điều kiện mới, cho tới nay việc nghiên cứu vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ của
Đảng nói chung và đội ngũ cán bộ nữ đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều hình
thức khác nhau. ở Việt Nam, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, tổng kết về
công tác cán bộ dưới nhiều hình thức in sách, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đăng tạp
chí, chẳng hạn như: Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Nguyễn Phú Trọng
và Trần Xuân Sầm đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Bùi Thị Hồng
Tiến: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cấp cơ sở 1975-1993, luận án tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội 1994
Ngoài ra trong những năm qua đã có một số luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng
của học viên Lào viết về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ: Đệt Ta Kon Phi La Phăn Đệt,
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn
trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Hà Nội, 2004; Khăm Phăn Phôm Ma Thặt, Công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý
ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới, Hà Nội, 2004.
Về vai trò của cán bộ nữ và công tác cán bộ nữ cũng được nhiều người quan tâm
nghiên cứu như: Ngô Thị Ngọc Anh, Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1975-1995 trong
việc thực hiện chính sách cán bộ nữ, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội, 1995; Ních Khăm,
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội Liên hiệp phụ nữ ở Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, Hà Nội, 2003. Ngoài ra, cũng có nhiều luận văn thạc sĩ như: Nguyễn Thị

Mão, Xây dựng cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ trong công cuộc đổi mới hiện nay, Hà Nội,
1996; Nguyễn Thị Kim Dung: Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo quá trình xây dựng
đội ngũ cán bộ nữ trong công cuộc đổi mới (1986-1996), Hà Nội, 2000 Ngoài ra, cũng có
nhiều người đề cập trong nhiều bài đăng trên các Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xây dựng Đảng,
Tạp chí Khoa học về phụ nữ, Tạp chí Thông tin lý luận
Từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới ở Lào đến nay hầu như mọi Nghị quyết Đại hội
Đảng, các Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đều đề cập đến công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng. Đặc biệt là Nghị quyết 7 (khóa V)
1994 của BCHTW về phát triển nguồn lực, Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất

về công tác cán bộ của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tháng 8 năm 1995 đã đề ra phương
hướng, mục tiêu và nhiệm vụ của công tác cán bộ đến năm 2000. Tuy nhiên, ở Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ mới được đề cập chủ yếu trong các
văn kiện Đại hội Đảng, nhất là trong các văn kiện Đại hội IV, V,VI,VII và trong bài phát
biểu của các lãnh tụ Đảng, Nhà nước và trong nội dung của các Hội nghị công tác tổ chức
cán bộ đều có tổng kết, đánh giá và có chủ trương ở mức độ này hay mức độ khác về công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng. Trong thực tế, vấn đề này vẫn
rất mới mẻ, chưa được nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và rất ít công trình lý luận
nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng.
Đối với chuyên ngành Lịch sử Đảng, chưa có một luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
nào viết về quá trình lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ ở Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào từ năm 1986 đến năm 2001. Lý do trên đã khuyến khích tác
giả đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Hy vọng qua luận văn sẽ đóng góp được một số vấn đề
cả về đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ ở
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào những năm tiếp theo.
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ từ năm 1986 đến năm 2001. Từ
đó rút ra một số kinh nghiệm bước đầu để tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng
ngày càng tốt hơn nữa yêu cầu của sự nghiệp cách mạng hiện nay ở Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào.

3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau
đây:
- Trình bày tương đối có hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về việc xây dựng
đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng và quá trình lãnh đạo của Đảng
về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nữ từ năm 1986 đến năm 2001.

- Phân tích thực trạng của đội ngũ cán bộ nữ trước đổi mới và đặc biệt là trong
thời kỳ đổi mới.
- Rút ra những kinh nghiệm bước đầu từ thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ nữ.
- Phân tích những vấn đề đặt ra, nhiệm vụ và yêu cầu mới đối với đội ngũ cán bộ
nữ ở CHDCND Lào trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Từ mục đích và nhiệm vụ đặt ra trên đây, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề
tài là đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đối với công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ nữ từ năm 1986 đến năm 2001, tức từ thời điểm mở đầu đổi mới đến
Đại hội VII của Đảng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Căn cứ vào cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng dựa trên quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng.
- Luận văn tham khảo kết quả nghiên cứu của các đề tài nghiên cứu khoa học của
tập thể và cá nhân các nhà khoa học trong những năm qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, đồng thời có
kết hợp phương pháp đối chiếu, so sánh, thống kê tổng hợp nhằm làm sáng tỏ các vấn đề
đặt ra trong luận văn.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài

- Trình bày tương đối có hệ thống quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán
bộ nữ nói riêng.
- Góp phần vào việc tổng kết sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ nữ từ năm 1986 đến năm 2001.

- Rút ra những kinh nghiệm bước đầu có ý nghĩa thực tiễn về việc xây dựng đội ngũ
cán bộ nữ ở nước Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào nhằm nâng cao chất lượng của công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ nữ trong những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
đội ngũ cán bộ nữ
ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trước năm 1986

1.1. Khái quát đặc điểm lịch sử, văn hóa và tình hình kinh tế - xã hội Lào
Cho đến nay, việc xác định cụ thể thời kỳ tiền sử của Lào vẫn chưa được làm rõ,
tài liệu về thời kỳ này còn quá ít. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, một số nhà khảo cổ
học đã tìm thấy một số hiện vật của người cổ ở Tham Hang, Tham Phạ Lơi (tỉnh Sầm
Nưa) và một số nơi khác cho thấy Lào cũng là một nơi mà con người đã có mặt từ hàng
vạn năm trước đây.
Do hoàn cảnh địa lý là một miền đất có địa hình phức tạp, núi cao, rừng rậm,
sông ngòi nhiều thác và chảy xiết làm cho việc thông thương đi lại gặp nhiều khó khăn,
những bộ lạc đã từng sống lâu đời, cũng như các bộ tộc từ nơi khác đến, thường sống ở
các thung lũng, trên các cao nguyên, hay dọc các ven sông, suối, lập thành các bản,
mường. Do đó, việc tập hợp các bộ lạc, bộ tộc lại với nhau tạo thành một quốc gia có
phần muộn hơn so với các nước láng giềng như Việt Nam, Campuchia và Thái Lan.
Phải đến thế kỷ XIV, Chậu Phạ Ngưm mới thống nhất đất nước lập nên Vương
quốc Lạn Xạng (1353-1357). Đây là một quốc gia phong kiến thống nhất đầu tiên. Từ đó
đến nay, con người ở đây đã lao động sáng tạo và phát triển không ngừng, đấu tranh với
thiên nhiên và mọi trở ngại khác trong xã hội để xây dựng nước Lào. Mặc dù Lào ra đời

và phát triển muộn hơn so với các quốc gia phong kiến khác ở khu vực cũng như trên thế
giới, nhưng đó là những chặng đường lịch sử đấu tranh sinh tồn, phát triển đầy quyết liệt
và hy sinh gian khổ. Sau triều đại Chậu Phạ Ngưm là triều đại Su Li Nha Vông Sa Thăm

My Ka Lạt (1633-1690). Sau khi triều đại Su Li Nha Vông Sa bị suy yếu và tan rã (1690),
Vương quốc Lạn Xạng rơi vào tình trạng loạn lạc, chia cắt, mất chủ quyền, bị các thế lực
phong kiến Ava (Myanma) và Xiêm đô hộ cho tới năm 1893. Sau đó, nước Lào bị thực
dân Pháp xâm lược hơn 60 năm (1893-1954) và hơn 20 năm (1954-1975) sống dưới chế
độ thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ.
Trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của
Đảng NDCM Lào, nhân dân các bộ tộc Lào nói chung và phụ nữ Lào nói riêng đã đấu
tranh chống lại hai kẻ thù lớn của dân tộc và cuối cùng đã giành được thắng lợi một cách
hòa bình và khai sinh ra nước CHDCND Lào vào ngày 2-12-1975. Từ đây trở đi, cách
mạng Lào đã bước sang giai đoạn mới là giai đoạn bảo vệ và xây dựng đất nước, hoàn
thiện chế độ dân chủ nhân dân, tạo cơ sở vững chắc để từng bước tiến lên CNXH.
Lào là một nước nằm ở phía Tây và Tây Bắc của bán đảo Đông Dương, nằm lọt
trong lục địa Đông Nam á giữa vĩ độ 24 đến 23 độ bắc và kinh độ 100 - 108 độ đông.
Diện tích là 236.800 km
2
. Lào có biên giới chung với các nước: phía Bắc giáp Trung
Quốc (416 km); Tây Bắc giáp Mianma (230 km); phía Tây giáp Vương quốc Thái Lan
1835 km; phía Nam giáp Vương quốc Campuchia (492 km); phía Đông giáp CHXHCN
Việt Nam (1957 km). Viêng Chăn là thủ đô của CHDCND Lào, có cầu Hữu Nghị qua
sông Mê Kông và sự khơi thông đường sắt đi qua các cầu này sẽ nối Lào với hệ thống
đường sắt của Thái Lan ở phía Tây và hành lang Đông Tây trong kế hoạch nối Thái Lan
qua Nam Trung Lào và Việt Nam ra các cảng nước sâu của Việt Nam ở phía Đông, sẽ là
những điều kiện để phát triển quan hệ kinh tế giữa Lào với Thái Lan và Việt Nam cũng
như các nước trong khu vực và quốc tế. Do vị trí địa lý đặc biệt của mình, CHDCND Lào
được coi như một "địa bàn trung chuyển" của Đông Nam á lục địa từ Tây sang Đông, từ
Bắc xuống Nam và ngược lại. Với vị trí này đã thúc đẩy ASEAN đẩy mạnh hợp tác với
CHDCND Lào và là điều kiện thuận lợi để CHDCND Lào đẩy nhanh quá trình hội nhập
với các nước trong khu vực và quốc tế.
Địa hình của nước Lào phần lớn là núi cao và rừng rậm chiếm khoảng 85% diện
tích lãnh thổ, độ cao trung bình là 200m đến 2.820m. Đặc tính núi đã tạo ra đặc điểm địa


hình đa dạng và khá hiểm trở. Căn cứ vào địa hình, đất đai và khí hậu được phân chia
thành hai mùa là mùa khô và mùa mưa; căn cứ vào địa hình nước Lào được chia làm 3
vùng lớn: Vùng đồi núi phía Bắc; vùng đồng bằng và đồi núi phía Tây; vùng cao nguyên
ở Trung và Nam Lào.
Lào chưa có đường giao thông nối liền từ Bắc đến Nam nên việc giao lưu hàng
hóa và đi lại giữa các vùng, miền, các nơi rất khó khăn, sản phẩm ở những nơi thừa rất
khó chuyển đến nơi thiếu. Hơn nữa, Lào không có biển do đó việc trao đổi buôn bán với
các nước cũng gặp nhiều khó khăn. Điều đó đã cản trở nhiều loại hàng nông nghiệp xuất
khẩu, nhất là những loại có giá trị thấp. Mặc dù vậy, đối với CHDCND Lào, sông Mê
Kông chạy dọc từ Bắc đến Nam với độ dài 1898 km, không chỉ là đường giao thông
huyết mạch từ Bắc tới Nam mà còn là tiềm năng phát triển thủy lợi rất lớn. Đây là một
thế mạnh trong tiềm năng phát triển kinh tế và hợp tác với khu vực.
Lào nằm giữa các nước có nền kinh tế khá phát triển và có chế độ chính trị khác
nhau như: Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc Do đó, ảnh hưởng về mặt chính trị và kinh
tế cũng gây ra không ít khó khăn đối với việc hoạt động của công tác đảng, công tác cán
bộ.
Dân số nước CHDCND Lào ngày nay là 5.609.900, trong đó nữ là 2.813.589
(theo con số điều tra tháng 3 năm 2005). Mật độ dân số trung bình là 24 người/km
2
, bao
gồm 49 bộ tộc cùng chung sống xen kẽ nhau có những phong tục tập quán, ngôn ngữ và
trang phục khác nhau, trong đó người Lào Lùm chiếm đa số. Các bộ tộc đó sống rải rác ở
18 tỉnh thành, 140 huyện, 10.486 bản, 965.468 hộ gia đình, phân bố không đều: 85%
sống ở nông thôn, dân thành thị có khoảng 15%.
ở Lào, "nông nghiệp chiếm hơn 85% dân số và tổng sản phẩm nông nghiệp
chiếm 60% của GDP" [21, tr.25], sức lao động chưa được khai thác và đưa vào sử dụng
một cách thích đáng vào sản xuất.
Tổng số lao động cả nước Lào trong năm 1998 có khoảng 2,183 triệu người và
đến năm 2000 có khoảng 2,27 triệu người chiếm khoảng 48,0% dân số, trong đó lao động

nữ là 1.231.230 người, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là 1.852.686 người, chiếm
85,5%, trong đó lao động nông nghiệp nữ là 1.003.620 người, chiếm 54,17%; lao động
trong lĩnh vực thương mại có 55.930 người, trong đó nữ có 22.801 người, trong lĩnh vực
dịch vụ có 85.713 người, nữ 48.814 người [23, tr.23].

Trong những năm gần đây, tuy số người lao động trong các ngành đã bắt đầu có
sự thay đổi lớn, nhưng về mặt chất lượng, trình độ văn hóa, kỹ thuật, tay nghề còn nhiều
hạn chế. Công tác giáo dục, đào tạo chưa thành chiến lược và quan tâm đúng mức từ phía
Nhà nước, năng lực quản lý kinh doanh còn non yếu. Tất cả những cái đó, là một trong
những nguyên nhân cản trở việc mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp
thu khoa học kỹ thuật hiện đại.
Nhìn lại lịch sử hàng ngàn năm, Lào là một miền đất chịu ảnh hưởng của hai nền
văn minh lớn là ấn Độ và Trung Hoa. Người Lào đã hấp thụ những phong tục và tín
ngưỡng của hai nền văn minh này, từ đó đã xây dựng một nền văn hóa đặc sắc của
riêng mình. Đó là một nền văn hóa mang sắc thái và hòa đồng giữa ba loại nguồn gốc:
Thay Lào, nguồn gốc Inđônêxia và nguồn gốc văn hóa Trung Quốc, trong đó nền văn
hóa từ gốc Thay Lào có ảnh hưởng mạnh nhất: "Cả ba loại văn hóa của dân tộc Thay
Lào, gốc Inđônêxia, gốc Trung Quốc đều có sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau và bổ
sung cho nhau, trong đó sự ảnh hưởng của nền văn hóa của dân tộc Thay Lào là sâu rộng
nhất nó đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của nền văn hóa thống nhất
quốc gia Lào" [59, tr.33].
Nhân dân các bộ tộc Lào có lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.
Trong suốt thời kỳ đó, cơ sở tâm lý xã hội phổ biến là dựa trên đạo Phật đã phát triển, tồn
tại và được nhân dân Lào tôn kính trong suốt gần 700 năm. Trong suốt thời gian đó, Phật
giáo đã thấm sâu vào tư tưởng tình cảm và ý thức của nhân dân Lào để tạo nên một nền
văn hóa dân tộc Lào thống nhất, vừa thấm đượm tính nhân từ của đạo Phật, vừa mang sắc
thái bình yên của người Lào. Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống của người
Lào, từ nếp sống trong gia đình đến sự ứng xử xã hội và hoạt động kinh tế. Triết lý Đạo
phật khuyên con người nên sống giản dị, không nên tham lam, phải cần cù, biết tự lập,
dựa vào bản thân mình và tạo cho đời sau tốt hơn. Đức tính vốn có đó của người dân Lào

rất phù hợp với chính sách tiết kiệm cho phát triển và làm nghĩa vụ với đất nước. Nếu có
chính sách thích hợp, phát huy được truyền thống tốt đẹp này, nó sẽ trở thành động lực
vô cùng quý báu trong công cuộc đổi mới, trong xây dựng và phát triển đất nước nói
chung cũng như trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ.

CHDCND Lào là một nước có nền kinh tế tự nhiên đã tồn tại qua nhiều thế kỷ,
nhưng trong suốt mấy chục năm gần đây đã xuất hiện kinh tế nửa tự nhiên và một phần ở
vùng đồng bằng dọc theo sông Mê Kông, vùng biên giới của đất nước đang phát triển
theo cơ chế thị trường. Song, kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên là phổ biến. Đây cũng là
một trở ngại cho công cuộc đổi mới ở Lào.
Trong quá trình phát triển, CHDCND Lào gặp phải rất nhiều khó khăn và trở lực.
Trong đó có sự trì trệ của cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp và tình trạng cơ sở
hạ tầng nghèo nàn, thị trường nhỏ hẹp, nằm sâu trong nội địa và chưa thống nhất, nhân
lực và vốn vật chất thiếu nghiêm trọng, khả năng chuyển đổi của nền kinh tế chậm chạp,
tâm lý lối sống và tập quán của nhân dân các bộ tộc Lào gắn bó với thiên nhiên, trong khi
đó các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu uy hiếp và gây mất ổn định.
CHDCND vẫn là một trong những nước nghèo nàn và kém phát triển nhất trên
thế giới. Sự nghèo nàn và kém phát triển của Lào biểu hiện trên các mặt lực lượng sản
xuất, năng suất lao động, trình độ dân trí, mức sống thấp và đặc trưng nổi bật là nền kinh
tế còn mang đậm tính chất tự nhiên và nửa tự nhiên. Việc chuyển sang nền kinh tế thị
trường còn rất khó khăn. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tư duy và hành động
của nhân dân và ĐNCB công chức của Đảng và Nhà nước.
Đại hội IV (1986) của Đảng NDCM Lào đã mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện
và sâu sắc, bắt đầu từ đổi mới tư duy trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế. Nội dung cơ
bản của đường lối đổi mới là: chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, chuyển nền kinh tế tự nhiên
tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa, khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho các
thành phần kinh tế tham gia vào phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại.
Qua việc thực hiện công cuộc cải tạo và đổi mới gần 20 năm, với sự quyết tâm
cao của toàn Đảng, toàn dân, CHDCND Lào đã đạt được những thành tựu trong lĩnh vực

kinh tế. Thành tựu nổi bật là nền kinh tế quốc dân liên tục phát triển lành mạnh trong
những năm 1986-1990, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trung bình 4,8%/năm và
những năm 1991 - 1995 tăng 6,4%/năm [22, tr.3], năm 1998 tăng 4% [68, tr.73], và năm
2000 kinh tế phát triển 6,2%/năm [47, tr.11]. Cùng với sự tăng trưởng của xã hội thì các
ngành kinh tế cũng đã có những phát triển tích cực. Tổng sản phẩm nông nghiệp năm

1997 tăng 4,9% và năm 1998 tăng 5,1%; tổng sản phẩm công nghiệp, năm 1997 tăng 12,3%
và năm 1998 tăng 8,9%; tổng sản phẩm dịch vụ cũng đã tăng lên năm 1997 tăng 9,8% và năm
1998 tăng 10,6% [51, tr.1], [52, tr.2]. Giá trị sản lượng quy ra thóc năm 1985 là 1.396.000 tấn
năm 1990 là 1.482.000 tấn, năm 1995 là 1.418.000 tấn và đến năm 1998 đạt được 1.675.000
tấn [69, tr.30].
Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp và dịch vụ.
"Tỷ trọng nông, lâm nghiệp trong GDP từ 61,2% năm 1990 giảm xuống 51,3% năm 2000,
công nghiệp và xây dựng từ 14,5% tăng lên 22,6; dịch vụ từ 24,3% tăng 26,1%" [23,
tr.16]. "Năm 2003 - 2004 tổng sản phẩm trong nước (GDP) là 6,5%, trong đó nông
nghiệp 3,5%; công nghiệp 11,4%; dịch vụ 7,4%; GDP/người USD bằng 403" [65, tr.2].
Qua thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và VII của Đảng NDCM Lào, tuy đất nước
vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng với sự cố gắng to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân
các bộ tộc Lào, nền kinh tế của cả nước đã từng bước vượt qua những thách thức gay gắt
và đạt được những thành tựu lớn, có ý nghĩa quan trọng.
Trong lĩnh vực giáo dục đã có tiến triển khá về số lượng và chất lượng. Trẻ em
được vào trường mẫu giáo từ 8% trong năm 2000 lên 10% năm 2005; vào trường tiểu học
tăng từ 77,3% lên 86%; vào trường phổ thông cơ sở: 54,3% và trường phổ thông trung
học: 32,4%. Khoảng 85% số bản trong cả nước đã xây dựng được trường học. Hệ thống
trường đại học quốc gia được mở rộng thêm ở hai trung tâm: tỉnh Chăm Pa Sắc và tỉnh
Luông Pha Bang, cải cách nội dung giáo trình, phương pháp dạy và học, các trường dân
lập ra đời và hoạt động có hiệu quả.
Y tế cũng đã có bước phát triển: công tác phòng chống dịch bệnh được quan tâm,
đầu tư nâng cấp và trang bị kỹ thuật y tế trong cả nước được 8 trung tâm y tế, chăm sóc
sức khỏe, từng bước phát triển mạng lưới y tế cơ sở theo hướng đa dạng hóa loại hình,

tăng cường đội ngũ cán bộ y tế cho các huyện vùng sâu vùng xa. Nhà nước có chính sách
khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực này, đến nay trong cả nước có phòng khám chữa bệnh
của tư nhân tới 230 chỗ. Tất cả đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng hiệu
quả của việc chăm sóc sức khỏe của cộng đồng, tỷ lệ tử vong của phụ nữ và trẻ sơ sinh đã
giảm đi rõ rệt.

Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tiếp tục phát triển, vừa tạo phong
trào rèn luyện thân thể trong các tầng lớp nhân dân, vừa bồi dưỡng đào tạo đội ngũ vận
động viên nâng cao thành tích thi đấu ở trong nước và quốc tế. Có đầu tư trong việc bảo
tồn tôn tạo các khu di tích văn hóa nổi tiếng của quốc gia, địa phương, kết hợp việc phát
triển kinh tế, khoa học công nghệ với việc bảo đảm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và an
ninh quốc phòng.
Việc xóa đói giảm nghèo trong 5 năm (2001 - 2005) đã giao đất, giao rừng cho
nhân dân quản lý và sử dụng được 322.000 ha cho nhân dân 310 bản, phá khoảng 19.000
ha diện tích trồng thuốc phiện, thay đổi cơ cấu cây trồng được 30.000 ha, có 135.000 hộ
gia đình thoát khỏi cảnh nghèo đói.
1.2. quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
nhân dân cách mạng Lào về xây dựng đội ngũ cán bộ nữ
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ nữ
1.2.1.1. Khái niệm cán bộ
Cán bộ là một danh từ được dùng rộng rãi trong hoạt động tổ chức và lãnh đạo
của các Đảng Cộng sản cũng như trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày ở các nước xã
hội chủ nghĩa, kể cả ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay.
Theo sự dẫn giải của tập thể tác giả cuốn: "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước" (do PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên, Nxb
Chính trị quốc gia, năm 2001) thì từ này xuất hiện trước tiên ở các nước phương Tây, sau
đó được du nhập vào các nước khác, trong đó có các nước châu á như Trung Quốc, Nhật
Bản, Việt Nam Nhất là ở Việt Nam, từ cán bộ được xuất hiện mấy chục năm gần đây và

được dùng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Theo các tác giả trên, nghĩa
gốc của từ này là chỉ những người làm việc trong bộ máy chính quyền, có vai trò như là
"bộ khung", là "nòng cốt" trong xã hội hay những người chỉ huy trong quân đội trong một
tổ chức [19, tr.18].
Theo Từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 1999, cán bộ có hai nghĩa:

- Là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong các cơ quan nhà nước,
Đảng và đoàn thể.
- Là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt
với những người bình thường không có chức vụ.
Trong nghĩa thứ nhất, cán bộ được xem như là người làm hành chính công trong
các cơ quan nhà nước, bao gồm cả những người có chức vụ hành chính cao nhất đến
những người không có chức vụ hành chính nào, tất cả đều nằm trong bộ máy, có nghĩa vụ,
trách nhiệm trong bộ máy nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước theo
ngạch lương nhất định do Nhà nước quy định. Trong trường hợp này cán bộ được đồng
nhất với công chức.
Theo nghĩa thứ hai, cán bộ được coi như là người có chức vụ và trách nhiệm cao
hơn trong bộ máy tổ chức. Điều này phản ánh nghĩa gốc của từ cán bộ, bởi vì chính
những người có chức vụ, trách nhiệm cao mới có vai trò là "nòng cốt", là "người chỉ huy"
và đây chính là một góc độ trong cách hiểu thông thường.
Nhưng trên thực tế cả hai nghĩa đó luôn quyện vào nhau và từ cán bộ không chỉ
là đối tượng là các công chức nhà nước mà là toàn bộ những người làm việc trong hệ
thống chính trị.
Trước đây, trong chiến tranh, "cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc
trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, quân đội" [19, tr.18]. Hiện nay, mặc dù hoàn
cảnh thực tế khác đi và trong nhận thức của con người cũng có nhiều đổi thay, nhưng
trong cách hiểu thông thường nhất, từ "cán bộ", trước hết vẫn để phân biệt những người
làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị nằm trong
biên chế, của Nhà nước và hưởng lương từ ngân sách.
Trong Pháp lệnh cán bộ, công chức Việt Nam năm 1998 đã xác định đối tượng là

cán bộ, công chức bao gồm những người "trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước"; những người được bầu cử, được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm
vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước, đơn vị quân đội nhân dân và công an
nhân dân [17, tr.5-6].
ở CHDCND Lào, theo Từ điển tiếng Lào xuất bản năm 1996, cán bộ cũng đồng
nghĩa với công chức, nhà nước [67, tr.356]. Còn quan niệm về công chức thì được thể
hiện rõ trong đối tượng của Nghị định 171 (1993), nay là Nghị định 82 (2003) của Thủ

tướng Chính phủ về Quy chế công chức CHDCND Lào. Theo đó, tất cả những người làm
việc trong biên chế của các tổ chức nhà nước, Đảng, quần chúng đều được gọi là công
chức [37, tr.1].
Từ những điều nói trên cho phép chúng ta khẳng định rằng: cán bộ là một khái
niệm dùng để chỉ những người công tác ở các cơ quan tổ chức của Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể chính trị, lực lượng vũ trang, nằm trong biên chế, cả những người giữ chức vụ
lẫn những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ không giữ chức vụ.
1.2.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò phụ nữ
Chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao vai trò, vị trí và khả năng của phụ nữ và cán
bộ nữ. Theo các nhà kinh điển thì trong lịch sử nhân loại không có một phong trào nào
của những người bị áp bức mà lại không có phụ nữ tham gia, bởi vì phụ nữ lao động là
những người bị cùng khổ nhất trong tất cả những người bị áp bức, nên không bao giờ họ
đứng ngoài và không thể đứng ngoài các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng
chính bản thân họ. Trong thời kỳ công xã, thời nô lệ hay trong chế độ phong kiến, chế độ
TBCN, phụ nữ sát cánh cùng nam giới chiến đấu để đánh đổ giai cấp bóc lột. Từ thực
tiễn lao động đó Lênin đã khái quát:
Không còn nghi ngờ gì nữa, ở nước ta, những tổ chức đó đã trở nên ngày
càng nhiều hơn và bắt đầu thay đổi tính chất. Không còn nghi ngờ gì nữa,
trong giới phụ nữ công nông, số người tổ chức có tài, tức là những người biết
tổ chức công việc một cách thực tiễn làm cho một số lớn người lao động và
một số lớn hơn nữa những người tiêu dùng tham gia vào đó, mà không phải
tốn nhiều lời, không bận rộn túi bụi, không tranh cãi, không ba hoa về kế

hoạch, về hệ thống tức là những mắc phải những bệnh mà những "nhà trí
thức" tự phụ một cách lố lăng, hoặc những "người cộng sản" non nớt vẫn
thường mắc phải, số người như thế đã có nhiều hơn con số mà chúng ta đã
biết, nhưng chúng ta chưa chăm sóc đúng mức những mầm mống đó của cái
mới [6, tr.28- 29].
Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin, với học thuyết cách mạng và khoa học, đứng trên
quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mới tìm ra nguyên
nhân đích thực của sự bất bình đẳng nam nữ, thấy được lực lượng và điều kiện cụ thể cùng

với những biện pháp hiệu quả để giải phóng phụ nữ. Mỗi bước chuyển của lịch sử xây dựng,
mỗi nấc thang tiến bộ của nhân loại đều in đậm công lao của phụ nữ, cuộc đấu tranh cho sự
bình đẳng của xã hội, vì sự phát triển của nhân loại. C.Mác lấy mức độ giải phóng phụ nữ để
làm một trong những tiêu chuẩn để đánh giá trình độ văn minh của nhân loại, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dẫn trong bài Phụ nữ quốc tế: "xem tư tưởng và việc làm của đàn bà, con
gái thì biết xã hội tiến bộ như thế nào" [13, tr.288].
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học cũng đã chỉ ra điều kiện, biện
pháp để giải phóng phụ nữ. Xuất phát từ tình trạng bất bình đẳng quyền lợi về kinh tế,
Ăngghen đã khẳng định: "Sự nghiệp giải phóng phụ nữ, quyền bình đẳng giữa nam và nữ
đều không thể có được và mãi mãi không thể có được, chừng nào mà phụ nữ vẫn bị gạt ra
ngoài lao động sản xuất xã hội và còn phải bị bó hẹp trong công việc riêng tư của gia
đình" [8, tr.506].
Lênin, người học trò xuất sắc của Mác - Ăngghen, đã kế tục và phát triển những
quan điểm cách mạng của Mác - Ăngghen về vai trò của phụ nữ trong điều kiện giai cấp
vô sản đã có chính quyền. Người đã viết nhiều, nói nhiều về phụ nữ và đã thực hành giải
phóng phụ nữ ngay trên đất nước Nga Xô viết. Lênin đã vạch ra bản chất của chủ nghĩa
tư bản trong giai đoạn tột cùng của nó là đã chứa đựng biết bao hiện tượng nghèo nàn, bị
bóc lột và bị áp bức. Chế độ tư bản giống các chế độ nông nô là ở chỗ đều là kẻ bóc lột,
mặc dầu hình thức bóc lột có khác nhau. Trong tất cả các nước văn minh, ngay cả những
nước tiên tiến nhất, phụ nữ vẫn ở vào địa vị mà người ta gọi đúng là nô lệ gia đình.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917), chính quyền Xô viết được

thành lập, Lênin đã chỉ rõ nhiệm vụ của chính quyền Xô viết là phải xóa bỏ sự hạn chế
quyền lợi của người phụ nữ, thu hút lực lượng phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội,
tham gia công việc quản lý nhà nước. Đây là cuộc cách mạng phải trải qua quá trình đấu
tranh lâu dài và khó khăn, không thể dễ dàng và ảo tưởng. Lãnh tụ Lênin vạch rõ:
Mặc dù có mọi luật lệ giải phóng, nhưng phụ nữ vẫn còn là nô lệ trong
gia đình vì những công việc nội trợ còn đè nặng lên lưng họ, làm cho họ nghẹt
thở, mụ mẫm, nhọc nhằn, ràng buộc họ vào bếp núc, vào con cái, lãng phí sức
khỏe của họ vào công việc cực kỳ không cần thiết, làm cho họ đần độn, bị gò
bó. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể cứu giúp phụ nữ thoát ra khỏi tình

trạng đó. Chỉ chừng nào chúng ta chuyển từ nền kinh tế nhỏ lên nền kinh tế
công cộng và chế độ canh tác chung, thì phụ nữ mới có thể hoàn toàn giải
thoát và giải phóng triệt để được [3, tr.26].
Lực lượng phụ nữ là một trong những nhân tố quyết định thành công của cách
mạng. Coi giải phóng phụ nữ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, đó là một
trong những điểm để phân biệt cuộc cách mạng vô sản với các cuộc cách mạng xã hội
khác. Lênin cho rằng:
Chừng nào mà phụ nữ không những chưa được tự do tham gia đời sống
chính trị nói chung mà cũng chưa được quyền gánh vác một công việc thường
xuyên và chung cho cả mọi người, thì chừng ấy không những chưa nói đến
chủ nghĩa xã hội được, mà cũng chưa thể nói đến ngay cả một chế độ dân chủ
toàn vẹn và bền vững được [3, tr.73-74].
Lênin đã phát triển một cách sáng tạo quan điểm của Mác - Ăngghen về giải
phóng phụ nữ trong điều kiện giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, phụ nữ được
bình đẳng với nam giới trong việc tham gia lãnh đạo nhà nước và quản lý xã hội. Khi
điều kiện cho phép, Lênin đã đề ra và thực hành nhiều biện pháp hữu hiệu để đào tạo, bồi
dưỡng, giáo dục, nâng cao trình độ cho phụ nữ có đủ khả năng tham gia quản lý nhà nước.
Lênin cho rằng ngày nay đã có chính quyền công nông thì việc giáo dục chính trị cho phụ
nữ lao động có một tầm quan trọng hàng đầu. Nhiệm vụ của chúng ta là làm sao ngày
càng có nhiều công nhân tham gia vào việc quản lý nhà nước. Trong khi tham gia quản lý

phụ nữ sẽ học tập nhanh chóng và đuổi kịp nam giới.
Học thuyết Mác - Lênin là học thuyết khoa học và cách mạng đã chỉ ra nguyên
nhân kinh tế của bất bình đẳng nam nữ mà biểu hiện đầu tiên là sự phân biệt đối xử giữa
đàn ông với đàn bà; từ đó lên án, phê phán quan điểm phong kiến và tư sản đối với phụ
nữ. Đồng thời, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định sự nghiệp giải phóng phụ nữ là một
quá trình gắn liền với thắng lợi của CNXH và CNCS. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin chỉ ra những điều kiện để giải phóng phụ nữ:
Một là, sự phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại cùng với sự nghiệp cách
mạng giải phóng giai cấp công nhân.
Hai là, đưa phụ nữ tham gia lao động sản xuất, có khả năng độc lập về kinh tế, có
đóng góp về kinh tế chung trong gia đình và xã hội.

Ba là, phụ nữ biết làm việc nước, tham gia các hoạt động xã hội và trực tiếp tham
gia quản lý nhà nước.
1.2.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và xây dựng đội ngũ cán
bộ nữ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế thừa và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề phụ nữ và cán bộ nữ. Người đã đánh giá đúng vai trò và khả
năng của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Phụ nữ là những người vợ, người mẹ,
người thầy đầu tiên trong gia đình và nuôi dậy những mầm non của đất nước. Ngoài ra,
phụ nữ còn có khả năng và trên thực tế đã trực tiếp đóng góp nhiều công sức xây dựng và
bảo vệ đất nước.
Địa vị kinh tế, chính trị, xã hội quy định quyền bình đẳng của phụ nữ. Vì vậy,
điều căn bản có ý nghĩa quyết định cho sự bình đẳng của phụ nữ là phải giải phóng sức
lao động của phụ nữ, tạo điều kiện để chị em tham gia lao động sản xuất, quản lý kinh tế,
tham gia công tác xã hội cùng với nam giới. Người nghiêm khắc phê bình thái độ thành
kiến, hẹp hòi của cán bộ lãnh đạo các cấp trong việc đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng
cán bộ nữ. Tại Hội nghị cán bộ cao cấp Trung ương năm 1966, Người căn dặn: "Đặc biệt
phải chú ý cất nhắc cán bộ phụ nữ vào các cơ quan lãnh đạo, nhất là các ngành hoạt động
thích hợp với phụ nữ" [12, tr.21]. Người cho rằng phụ nữ giữ cương vị lãnh đạo, quản lý

cũng làm tốt không thua kém gì nam giới. Cán bộ nữ hoàn toàn có đầy đủ tinh thần và
khả năng tham gia các hoạt động xã hội, đóng góp với phong trào chung. Đặc biệt cán bộ
nữ có tác dụng trực tiếp rất mạnh đối với việc phát triển và thúc đẩy phong trào phụ nữ.
Muốn có phong trào phụ nữ thì phải có cán bộ nữ. Ngược lại, phong trào phụ nữ phát
triển nhanh hay chậm, thành quả đến mức độ nào là do cán bộ đóng vai trò quyết định.
Cán bộ nữ là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng phụ nữ là những người tiên phong của
phong trào phụ nữ, người thiết tha nhất với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Muốn giáo dục
động viên phụ nữ phải có đội ngũ cán bộ nữ tốt và giỏi.
Đối với cán bộ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tình cảm đặc biệt, sự bao dung,
độ lượng và chăm chút thương yêu. Người không dừng lại ở sự cảm thông, thương xót số
phận của người phụ nữ, mà đã tìm ra căn nguyên của sự bất bình đẳng đối với người phụ
nữ, chỉ ra biện pháp để giải phóng người phụ nữ. Theo Người, giải phóng phụ nữ phải được

thực hiện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng đem lại những quyền
lợi vật chất, tinh thần đồng thời mở ra tương lai phát triển tốt đẹp cho chị em phụ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn căn dặn các cấp ủy đảng các ngành khi giao
công việc cho phụ nữ phải căn cứ vào trình độ của từng người và hết sức giúp đỡ họ.
Người cho rằng việc chị em phụ nữ tham gia vào các cơ quan lãnh đạo các cấp, các
ngành là nhiệm vụ Đảng phải quan tâm thường xuyên và đó cũng là biểu hiện cụ thể của
ý thức, trình độ và năng lực thực hiện nam nữ bình đẳng về chính trị và xã hội.
Trên cơ sở đánh giá đúng vai trò và khả năng của phụ nữ trong gia đình và ngoài
xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.
Chính Người đã mạnh dạn cất nhắc đề bạt cán bộ nữ vào sử dụng đúng sở trường và khả
năng cán bộ nữ. Theo Người, muốn giải phóng phụ nữ một cách triệt để thì ngoài việc
mang đến cho họ những quyền lợi và sự bình đẳng với nam giới cần phải đào tạo và bồi
dưỡng họ trở thành những cán bộ giỏi có ích cho đất nước. Vì vậy, phải mạnh dạn cất
nhắc, đề bạt cán bộ nữ. Nếu có cất nhắc phụ nữ nhưng chưa mạnh dạn tức là còn phần
nào chưa coi trọng trí tuệ, tài năng của phụ nữ. Quan điểm của Người là tăng cường cán
bộ nữ và đưa phụ nữ vào các cơ quan lãnh đạo, không phải là bênh vực chị em mà là xuất
phát từ yêu cầu thực tiễn lịch sử của cách mạng và từ chính khả năng, năng lực của cán

bộ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng vào khả năng to lớn của phụ nữ, mạnh dạn cất
nhắc và đề bạt cán bộ nữ, bởi vì Người nhận thấy cán bộ nữ có nhiều ưu điểm là "ít mắc
bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí, không hay chè chén như một số cán bộ nam" [11,
tr.165], đồng thời Người cũng chỉ ra những khuyết điểm của chị em cần khắc phục đó là
hay có thái độ tự ti, ỷ lại, ngại đấu tranh phê và tự phê bình. Người khuyên chị em phải tự
lực tự cường vươn lên, bản thân chị em phải cố gắng tranh thủ thời gian để học tập chính
trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, cần kiệm xây dựng gia đình và làm tốt các công việc
được giao. Chỉ có như vậy Đảng và Chính phủ mới sẵn sàng cất nhắc và giao cho những
nhiệm vụ quan trọng.
Đây là quan điểm đúng trong việc sử dụng bố trí cán bộ nữ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người coi trọng việc phát huy ưu điểm của cán bộ nữ, những ưu điểm đó xuất phát
từ đặc điểm tâm lý, bản chất tốt đẹp của phụ nữ là cẩn thận, chu đáo, tiết kiệm trong tiêu

dùng và có quan điểm quần chúng, gần gũi và hòa mình với phong trào quần chúng Bố
trí cán bộ nữ vào những vị trí, chức vụ phù hợp với khả năng thì chị em phụ nữ có điều
kiện để phát huy và phát triển hết năng lực của mình.
Người luôn luôn gắn liền đội ngũ cán bộ nữ với phong trào phụ nữ. Người sớm
xác định giải phóng phụ nữ, giành quyền bình đẳng cho phụ nữ là một mục tiêu của cách
mạng. Trong sự nghiệp cách mạng xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu của
nhiệm vụ cách mạng là phải động viên thu hút được toàn bộ lực lượng và tất cả các tầng
lớp nhân dân trong xã hội cùng tham gia góp sức thì cách mạng mới thắng lợi được. Bởi
vì, cách mạng XHCN là cuộc cách mạng hoàn toàn mới, khác hẳn về chất so với các cuộc
cách mạng trước nó. Mục đích là xóa bỏ hoàn toàn và triệt để mọi áp bức bóc lột, do đó
càng phải thu hút lực lượng phụ nữ. Đây là tư tưởng vừa thể hiện sự kế thừa, vừa phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
XHCN. Đồng thời, còn thể hiện quan điểm nhân đạo và quan điểm kinh tế - xã hội đối
với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ xuất phát từ tinh thần nhân đạo
cộng sản chủ nghĩa mà còn xuất phát từ một niềm tin vững chắc vào tinh thần yêu nước

và khả năng lao động sáng tạo và những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ. Theo quan điểm
của Người, nguyên nhân gây ra nỗi khổ cực của phụ nữ Việt Nam cũng như phụ nữ trên
thế giới là do ách áp bức giai cấp và nô dịch dân tộc. Từ đó Người đã vạch ra con đường
giải phóng phụ nữ, đó là con đường tham gia cách mạng để đánh đổ ách áp bức bóc lột.
Khi đất nước đã giành được độc lập dân tộc, phụ nữ đã thoát khỏi ách áp bức của chủ
nghĩa thực dân, cách mạng phải bắt tay ngay vào xây dựng cuộc sống mới, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra những điều kiện chủ yếu để giải phóng phụ nữ. Điều kiện đó
không chỉ là phát triển của văn hóa, giáo dục mà phải thu hút phụ nữ, giúp đỡ họ tham
gia vào các tổ chức kinh tế, lao động sản xuất có ích. Phụ nữ phải được giải phóng khỏi
lao động bếp núc gia đình, phụ nữ phải trở thành lực lượng lao động của toàn xã hội.
Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc mà còn
là một nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà chính trị kiệt xuất đã tổ chức, lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng phụ nữ và xây dựng, sử dụng đội ngũ cán bộ nữ. Người đã thu phục, động viên

được cả phong trào phụ nữ to lớn và thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH
ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện một cách nhất
quán vị trí, vai trò của phụ nữ và đội ngũ cán bộ nữ trong các giai đoạn lịch sử của Đảng,
đặc biệt là giai đoạn Đảng cầm quyền. Đảng với tư cách là lãnh tụ chính trị và là đội tham
mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, trước hết phải đề ra được chủ trương, nghị quyết,
đường lối chính trị đúng đắn. Để làm được việc đó, Đảng phải có những đội ngũ cán bộ có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí thức và kinh nghiệm, có đạo đức cách mạng, nắm vững
chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện lịch sử cụ thể.
1.2.2. Quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về xây dựng đội ngũ
cán bộ nữ
Trải qua mấy chục năm xây dựng, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, Đảng
NDCM Lào đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp
với điều kiện cụ thể của đất nước Lào trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như
trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới từ 1986

đến năm 2001. Đảng đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó bài học về
cán bộ và công tác cán bộ của Đảng là bài học rất quan trọng có ý nghĩa quyết định đến
sự thành công hay thất bại của việc hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào trong quá trình của cách mạng, đồng thời
nó luôn luôn mang tính thời sự nóng hổi về cả phương diện lý luận và thực tiễn. Trong đó,
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nữ là một nội dung không thể tách rời trong công tác
cán bộ của Đảng và yêu cầu của sự nghiệp giải phóng phụ nữ, cũng như phát triển phong
trào phụ nữ. Đại hội IV của Đảng NDCM Lào là Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới đất
nước đã khẳng định:
Cùng với sự chuyển biến của cách mạng từ một xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến sang xây dựng một chế độ xã hội mới, phụ nữ nước ta đã được giải
phóng khỏi ách áp bức, bóc lột. Nhưng vì tàn dư của xã hội cũ, như phong tục,
tập quán lạc hậu còn rất nặng nề trong đời sống xã hội ta, nên việc giải phóng
phụ nữ một cách triệt để, thực hiện nam nữ bình đẳng còn là vấn đề cần được
tiếp tục giải quyết, trong đó Hội Phụ nữ đóng vai trò quan trọng, có nhiệm vụ

giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, vận động, tổ chức, tập hợp các tầng
lớp phụ nữ phát huy những truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Lào, khắc phục tư
tưởng tự ty, ỷ lại, tính thụ động trong phấn đấu vươn lên của phụ nữ, làm cho
họ tích cực tham gia vào các phong trào thi đua từ việc xây dựng gia đình văn
hóa mới đến việc tham gia quản lý kinh tế - xã hội [2, tr.142].
Những quan điểm chủ đạo mang tính bao trùm đã thể hiện tính cấp bách và là
vấn đề sống còn của công tác cán bộ trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Tính cấp bách
của cán bộ và công tác cán bộ không chỉ xuất phát từ bản chất lý luận mà còn xuất phát
từ đòi hỏi thực tiễn lịch sử của cách mạng Lào hiện nay, từ ngay bản thân công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ nữ thời gian qua với những đặc điểm vốn có của nó.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ nữ, ngay từ khi ra đời đến nay, Đảng NDCM Lào luôn coi công tác cán
bộ nói chung và công tác cán bộ nữ nói riêng là một trong những vấn đề có tầm quan
trọng chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình. Đảng đã từng bước xây

dựng được một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực phẩm chất thực hiện nhiệm vụ chính trị
trong từng giai đoạn cách mạng. Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, đội ngũ cán
bộ của Đảng nói chung và cán bộ nữ nói riêng đã có những cống hiến to lớn vào quá trình
thắng lợi viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc và bản thân phụ nữ cũng đã tạo ra
phẩm chất có tính đặc trưng của mình. Từ khi có Đảng Mác - Lênin lãnh đạo, phẩm chất
có tính đặc trưng đó của phụ nữ Lào dần dần được phát huy được khơi dậy với những
điều kiện hoàn toàn mới.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài đòi
hỏi vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng, do đó công tác cán bộ của Đảng, đặc biệt
là việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng bố trí đội ngũ cán bộ nữ càng đòi hỏi phải phù hợp và
đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Nhất là trong quá trình chuyển đổi
nhiệm vụ cách mạng từ giải phóng dân tộc sang xây dựng đất nước, đặc biệt là trong thời
kỳ đổi mới trong điều kiện nền kinh tế còn yếu kém, sản xuất chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường càng làm cho vấn đề cán bộ trở
nên hết sức quan trọng và cấp bách.
Một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và đảm nhận được những nhiệm vụ lớn trong
tình hình mới, có đủ bản lĩnh, phẩm chất đạo đức trước những thách thức của tình hình
mới đang là một công việc lớn của toàn Đảng, đó là phải đổi mới toàn diện. Hiện nay,

vấn đề quan trọng nhất là phải đổi mới công tác cán bộ và phong cách lãnh đạo để đưa sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân tiếp tục tiến lên. Tức là phải đổi mới về công
tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ tiêu chuẩn và năng lực lãnh đạo.
Trước yêu cầu to lớn của sự nghiệp cách mạng hiện nay, nếu chúng ta không kịp
đổi mới công tác cán bộ thì không thể đáp ứng được yêu cầu đó. Đại hội IV của Đảng
NDCM Lào đã chỉ ra rằng: "chúng ta phải đổi mới công tác cán bộ một cách căn bản, từ
quan điểm đến cơ chế lựa chọn, bồi dưỡng, sắp xếp cán bộ, trước hết phải đổi mới quan
điểm của những người làm công tác tổ chức cán bộ" [2, tr.144].
Tiếp tục đổi mới cán bộ và công tác cán bộ thực sự là yêu cầu vừa cơ bản vừa
bức xúc, chẳng những đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước hôm nay
mà còn chuẩn bị những thế hệ cách mạng kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng trong

tương lai, đảm bảo đưa đất nước tiến bước sang thời kỳ mới. Đảng NDCM Lào, qua học
tập và đúc kết kinh nghiệm lãnh đạo từ nhiều năm nay Đảng coi công tác cán bộ nói
chung và công tác cán bộ nữ nói riêng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Từ sau Đại hội
IV và V của Đảng NDCM Lào đã có sự thay đổi về công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ,
nhất là từ sau Nghị quyết 5 (khóa IV) và Nghị quyết 7 (khóa V).
Trong Hội nghị Tổ chức cán bộ toàn quốc lần thứ 7 (17/12/1991), Chủ tịch Cay
sỏn Phôm Vi Hản đã nói:
Cán bộ có vai trò quyết định sự thành bại của đường lối. Để đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện và sâu sắc của cách mạng nó đòi hỏi phải
xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ chính trị, vừa vững chắc và
đồng bộ, có tính kế tục và đảm bảo về mặt số lượng cũng như chất lượng. Phải
nhanh chóng lập quy hoạch đào tạo cán bộ từ yêu cầu thực tiễn của các lĩnh
vực, bắt đầu từ trình độ nhận thức khả năng của từng loại cán bộ. Chú trọng
bồi dưỡng đào tạo cán bộ cơ sở vùng sâu, vùng xa, cán bộ dân tộc thiểu số và
cán bộ nữ [33, tr.112,116,117,118].
Trong giai đoạn hiện nay của công cuộc đổi mới toàn diện, một vấn đề đặt ra là
phải thực hiện hàng loạt biện pháp, giải pháp lớn, gắn với việc đổi mới một bước về tổ
chức, gắn quá trình đổi mới về kinh tế với đổi mới về tổ chức và phân công lao động,
chỉnh đốn và đổi mới công tác tổ chức cán bộ cần phải có đội ngũ cán bộ vững vàng về

chính trị, có phẩm chất đạo đức tốt, chuyên môn giỏi, có đủ năng lực trí tuệ và thực tiễn,
biết khai thác tiềm năng thế mạnh của đất nước cũng như những phẩm chất năng lực và
truyền thống tốt đẹp của phụ nữ, biết khơi dậy và phát triển nguồn lực nội sinh, quán triệt
các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vận dụng vào
điều kiện cụ thể của đất nước một cách chủ động sáng tạo, đề ra chủ trương sát hợp, tổ
chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng, xây dựng
đoàn thể quần chúng nhân dân, đưa các chủ trương, chính sách, các nghị quyết của Đảng
và Nhà nước vào hiện thực cuộc sống. Đây là một công việc cần phải quan tâm hàng đầu,
để xây dựng được đội ngũ cán bộ có đầy đủ những tiêu chuẩn đã nêu trên.
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng NDCM Lào luôn luôn nhấn mạnh:

trong vấn đề tài nguyên, con người cũng có nhiều mặt, nhưng cái trọng tâm nhất là vấn
đề cán bộ, cần phải đổi mới và củng cố nhiều hơn về cách suy nghĩ, phương thức làm
việc cũng cần phải thay đổi, năng lực, đạo đức cũng cần phải được củng cố và nâng cao.
Nếu không nhận thức đầy đủ vấn đề này thì không thể theo kịp tình hình đổi mới được.
Trong tình hình chung của thế giới hiện nay, vấn đề con người và phát triển nguồn lực
con người đang được đặc biệt coi trọng để phát triển đất nước. Đây đồng thời cũng là vấn
đề Đảng và Nhà nước CHDCND Lào rất quan tâm và thực tế đang là vấn đề bức xúc để
thực hiện thành công những đường lối và chủ trương, những chiến lược, những mục tiêu
để đưa sự nghiệp đổi mới đất nước đến thành công.
Quan điểm của Đảng NDCM Lào đối với cán bộ và công tác cán bộ lúc nào cũng
rõ ràng và nhất quán. Đảng coi công tác cán bộ và cán bộ là vấn đề có tính chiến lược, là
khâu quan trọng trong mỗi giai đoạn cách mạng cũng như trong từng lĩnh vực, từng mặt
trận chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, xã hội bởi vì nó có liên quan trực tiếp đến việc
đào tạo, bố trí lực lượng, gắn liền với việc củng cố bộ máy tổ chức. Đường lối về công
tác tổ chức cán bộ không chỉ phục vụ đường lối chính trị mà còn là nhân tố quyết định sự
thành công của đường lối chính trị, quyết định việc đề ra và tổ chức thực hiện đường lối
chính sách của Đảng.
Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, nhìn chung, luôn gắn liền trực tiếp với việc củng
cố năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Nếu có cán bộ giỏi và tốt thì sẽ nâng cao uy tín,
vai trò lãnh đạo của Đảng, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, ngăn chặn các

hiện tượng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác. Có cán bộ tốt
mới có tổ chức vững mạnh, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và hòa thuận đoàn
kết giữa các tầng lớp người và các bộ tộc, phát huy năng lực của toàn dân trong thực hiện
đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong Hội nghị Công tác cán bộ
toàn quốc Lào (ngày 7/8/1995) Chủ tịch Khăm Tày - Xỉ Phăn Đon nói:
Về công tác cán bộ trước mắt, phải tập trung xây dựng lực lượng của
Đảng cho vững mạnh, nhất là phải xây dựng được cán bộ chủ chốt, lãnh đạo
trong các tổ chức đảng - Nhà nước trong các ngành và các địa phương, đào tạo
cho được cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và cán bộ cấp cơ sở. Công tác cán bộ

của chúng ta phải đảm bảo cho việc củng cố tổ chức của Đảng, của Nhà nước
và các tổ chức quần chúng [54, tr.16-17].
Đảng NDCM Lào luôn khẳng định rằng cán bộ có vai trò quyết định sự thành bại
của đường lối. Do đó, ngay từ đầu Đảng coi trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ:
Trong những năm trước mắt chúng ta phải tập trung nâng cao chất lượng
và khả năng của cán bộ theo kịp đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn
mới, vừa đủ về số lượng đáp ứng yêu cầu của cấp cơ sở. Vì vậy, chúng ta phải
nhanh chóng lập quy hoạch đào tạo cán bộ dài hạn và ngắn hạn. Quan điểm của
Đảng ta về bồi dưỡng và đào tạo cán bộ là kết hợp nhuần nhuyễn giữa bồi dưỡng
nâng cao trình độ với việc đào tạo; giữa giáo dục quan điểm lập trường giai cấp
và đạo đức cách mạng với việc trang bị kiến thức mới về mặt chuyên môn và
kiến thức chung; kết hợp giữa người cũ và người mới; với nhiều độ tuổi khác
nhau, đảm bảo tính kế thừa liên tục; tiến hành bồi dưỡng và đào tạo các loại cán
bộ một cách đồng bộ như cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý nhà nước, quản lý kinh
tế - xã hội, cán bộ làm công tác ngoại giao, nhà chuyên gia về các mặt và cán bộ
kinh doanh, coi trọng một cách thích hợp cán bộ từ cơ sở, cán bộ dân tộc thiểu số
và cán bộ nữ gắn liền với yêu cầu của từng chức danh [46, tr.61-62].
Đảng NDCM Lào nhấn mạnh: Hội Liên hiệp phụ nữ "có nhiệm vụ giáo dục nâng
cao trình độ và tăng cường khả năng phát triển về mọi mặt cho phụ nữ, để phát huy vai
trò của phụ nữ trong xã hội và chủ động thực hiện quyền bình đẳng nam nữ; đồng thời
cũng ra sức phát huy vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em"
[46, tr.54].

Trong việc đào tạo - bồi dưỡng cán bộ phải coi trọng đào tạo, bồi dưỡng về chính
trị - tư tưởng, bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin, lý tưởng cách mạng, tinh thần yêu nước,
tinh thần tự lực cánh sinh, truyền thống đấu tranh anh dũng của nhân dân các bộ tộc Lào
trong các thời kỳ, các giai đoạn lịch sử gắn liền với truyền thống đấu tranh thắng lợi và
sự chỉ đạo lãnh đạo toàn dân của Đảng là khâu quan trọng nhất. Việc giáo dục đó phải
làm liên tục, có hệ thống làm thường xuyên và phải gắn liền với việc giải quyết vấn đề
thực tiễn đặt ra trong công tác cán bộ.

Việc đào tạo cán bộ là quá trình lâu dài. Vì vậy, phải nhìn nhận một cách có hệ
thống, có quá trình, trong đó phải chú trọng khâu tìm nguồn để đào tạo cán bộ, chú ý tìm
nguồn từ ngay trong trường để có phương hướng đào tạo phù hợp với điều kiện hiện nay
- phải quan tâm đặc biệt đào tạo cán bộ trong tầng lớp những người lao động và con cháu
của cán bộ cách mạng.
Việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ phải đảm bảo và gắn liền với nhiệm vụ chính trị
của Đảng, gắn liền với việc củng cố bộ máy tổ chức có nghĩa là đào tạo cán bộ phải gắn liền
với mục tiêu của việc phát triển kinh tế - xã hội, tránh đào tạo cán bộ một cách tràn lan
không có kế hoạch, không bắt nguồn từ yêu cầu cụ thể. Chúng ta phải cố gắng giải quyết tình
trạng cán bộ vừa thừa, vừa thiếu, vừa không đảm bảo chất lượng để điều hành công việc như
thời gian vừa qua.
Việc bồi dưỡng đào tạo cán bộ phải đảm bảo tính giai cấp của Đảng, chú
trọng bồi dưỡng đào tạo cả ba lớp và ba loại cán bộ như: cán bộ lãnh đạo, cán bộ
quản lý và cán bộ chuyên môn, coi trọng việc đào tạo cán bộ cho địa phương,
nhất là cán bộ cấp huyện và cơ sở, cán bộ dân tộc thiểu số và cán bộ nữ, tập trung
bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ đã có bằng nhiều biện pháp thích hợp trong
đó phải chú trọng hình thức học tại chỗ và tập trung đào tạo cán bộ một số
chuyên ngành đang thiếu chẳng hạn: cán bộ nông nghiệp, cán bộ luật pháp, cán
bộ biết làm kinh tế thị trường, ngoại ngữ [54, tr.18-19].
Như vậy, những vấn đề lý luận và quan điểm về cán bộ và công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn
thể quần chúng như đã trình bày ở trên đã giải quyết những vấn đề cơ bản, được coi là cơ
sở khoa học đối với vấn đề cán bộ, nhất là đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán
bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng ở Lào hiện nay.

×