Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

luận văn thạc sĩ Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo công tác phát triển khoa học và công nghệ từ năm 1996 đến năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.09 KB, 100 trang )

Đảng bộ thành phố Hải Phòng lÃnh đạo
công tác phát triển khoa học và công nghệ
từ năm 1996 đến năm 2005

HÀ NỘI – 2012


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Q TRÌNH LÃNH ĐẠO CƠNG TÁC PHÁT TRIỂN KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2000

1.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội của Hải Phịng
1.2. Chủ trương, chính sách phát triển khoa học và cơng nghệ của
Đảng bộ thành phố Hải Phịng trong giai đoạn 1996-2000
1.3. Quá trình thực hiện đường lối, chính sách phát triển khoa học và
cơng nghệ của thành phố Hải Phòng từ năm 1996 đến năm 2000

9
9
22
41

Chương 2: Q TRÌNH LÃNH ĐẠO CƠNG TÁC PHÁT TRIỂN KHOA
HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI
PHỊNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005



54

2.1. Chủ trương, chính sách phát triển khoa học và công nghệ của
Đảng bộ thành phố Hải Phịng từ năm 2001 đến năm 2005
2.2. Q trình thực hiện đường lối, chính sách phát triển khoa học

54

và cơng nghệ của thành phố Hải Phòng giai đoạn 2001 – 2005
Kinh nghiệm

71
85
93
95

2.3.

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

101


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, q trình tồn cầu hố và hội nhập kinh tế đang có tác
động ngày càng sâu sắc và rộng khắp trên thế giới. Cuộc cách mạng khoa học

và công nghệ hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản
xuất, nâng cao năng suất lao động và làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế
– xã hội của mỗi quốc gia. Do vậy, nhiều nước phát triển và đang phát triển đã
chú trọng, tăng cường đầu tư vào khoa học và công nghệ, đồng thời tập trung
xây dựng và triển khai chiến lược và chính sách khoa học và cơng nghệ quốc
gia.
Việt Nam “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa…” [30, tr.61]. Vì vậy, từ Đại hội Đại biểu tồn quốc lần
thứ III (năm 1960), Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện cuộc cách mạng khoa học và kỹ
thuật là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ.
Tiếp tục định hướng cho sự phát triển của khoa học và công nghệ, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991) nêu rõ:
Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự phát triển lực lượng sản
xuất và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của
nền kinh tế. Các chiến lược khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu cơng nghiệp
hóa theo hướng hiện đại, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Sử dụng có hiệu
quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước. Phát triển đồng
bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật đi đơi với phát triển
giáo dục và văn hóa, nâng cao dân trí … Khoa học và cơng nghệ, giáo dục và
đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu [30, tr.134].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 của Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng nêu lên 5 đặc điểm tình hình thế giới, trong đó xác định:
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển nhanh với trình độ ngày
càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền


kinh tế và đời sống xã hội. Các nước đều có cơ hội để phát triển. Tuy nhiên do
ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường thuộc về các nước phát triển, khiến các
nước chậm phát triển và đang phát triển đang đứng trước những thách thức to lớn

[19, tr.16].
Bên cạnh đó, Đại hội nêu rõ:
Phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh để thúc đẩy sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố; nắm bắt các thành tựu khoa học và
công nghệ chuyển giao vào Việt Nam. Bước đầu phát triển một số lĩnh vực
công nghệ cao về điện tử, thông tin, sinh học, vật liệu mới và tự động hoá.
Nâng tỉ lệ đổi mới thiết bị trong các ngành sản xuất mỗi năm từ 10% trở lên.
Tranh thủ tối đa công nghệ tiến bộ, từng bước đưa cơng nghệ nước ta đạt tới
trung bình của khu vực. Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái [19, tr.37-38].
Nhận thức được vai trị to lớn của khoa học và cơng nghệ đối với sự phát triển
của đất nước, sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt
Nam đề ra nhiều Nghị quyết chuyên đề nhằm tăng cường và phát triển công
tác khoa học và công nghệ như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VIII), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khoá IX)…
Hải Phịng là thành phố Cảng, là đơ thị loại 1 – trung tâm cấp quốc gia. Trong
nhiều năm qua, thành phố không ngừng vươn lên phát triển về mọi lĩnh vực.
Thực hiện đường lối phát triển đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XII xác định mục tiêu phát triển của
thành phố đến năm 2010 là:
...xây dựng Hải Phòng trở thành một thành phố Cảng văn minh, hiện đại,
cửa chính thông ra biển và trung tâm công nghiệp, dịch vụ, thuỷ sản ở
miền Bắc, có kinh tế, văn hố, giáo dục - đào tạo; khoa học - công nghệ,
cơ sở hạ tầng phát triển, quốc phòng an ninh vững chắc, không ngừng
nâng cao đời sống nhân dân [51, tr.223].


Như vậy, song song với sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh
quốc phịng, cơng tác khoa học và công nghệ cũng được Đảng bộ thành phố

chú trọng.
Với vị trí địa lý và đặc điểm về điều kiện tự nhiên, dân số, nguồn lực, Hải
Phịng có lợi thế đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng
nghiệp hố và dịch vụ. Đặc biệt với ưu thế cảng biển hiện nay và trong tương
lai, thành phố giữ vai trò to lớn đối với xuất khẩu của vùng Bắc Bộ, có điều
kiện tiếp nhận và ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học và công nghệ hiện
đại. Như vậy, do có sự quan tâm phát triển khoa học và công nghệ của Đảng
bộ thành phố, cùng với ưu thế sẵn có, ngành khoa học và cơng nghệ Hải
Phịng ngày càng có sự khởi sắc, song cũng gặp khơng ít những khó khăn, hạn
chế. Mặc dù Hải Phịng là nơi có tiềm năng chất xám khá dồi dào nhưng cịn
thiếu nguồn nhân lực khoa học cơng nghệ chất lượng cao, là nơi tiếp nhận
nhanh những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại nhưng những hoạt động
khoa học và công nghệ chưa thực sự là những cơ quan tư vấn mạnh về khoa
học và công nghệ, chưa thực sự là cầu nối giữa khoa học và cơng nghệ với sản
xuất và đời sống...
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, rút ra những kinh nghiệm về phát triển khoa
học và công nghệ là vô cùng cần thiết, giúp chúng ta thấy được những thành
tựu cũng như hạn chế và đưa ra các giải pháp cụ thể cho việc phát triển tiềm
lực khoa học và công nghệ ở Hải Phịng trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện
đại hố và trong xu thế hội nhập quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, vấn đề khoa học
và công nghệ đã được Đảng ta coi trọng, từ đó đã trở thành vấn đề nghiên cứu
của nhiều tác giả.
Nhằm cung cấp bức tranh toàn cảnh về khoa học và công nghệ Việt Nam
trong giai đoạn 1996 – 2000, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã tiến
hành tổ chức biên soạn và xuất bản một số sách: Khoa học và Công nghệ Việt
Nam 1996-2000, Hà Nội, 2001; Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2001, Hà



Nội, 2002; Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2002, Hà Nội, 2003; Khoa học
và Công nghệ Việt Nam 2003, Hà Nội, 2004; Khoa học và Công nghệ Việt
Nam 2004, Hà Nội, 2005.
Nội dung cơ bản của các cuốn sách đề cập tới là những chuyển biến và thành
tựu quan trọng trong hoạt động khoa học và công nghệ từng năm. Đồng thời
trình bày một cách khái quát phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trong năm
tới. Từ đó gợi mở viễn cảnh phát triển khoa học và công nghệ trong thời gian
5 năm tiếp theo.
Cùng nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả như: V.V. Đênixốp, Nguyễn
Duy Thông, Nguyễn Trọng Chuẩn, Cách mạng khoa học kỹ thuật và công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Tiến bộ, 1986; Đặng Ngọc Dinh,
Công nghệ năm 2000 đưa con người về đâu; Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội, 1992; Vũ Đình Cự, Khoa học và cơng nghệ - lực lượng sản xuất hàng đầu,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1996; PTS. Danh Sơn, Quan hệ giữa phát triển
khoa học và công nghệ với phát triển kinh tế – xã hội trong cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999.v.v…
Bên cạnh đó, đã có nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về khoa học và cơng
nghệ, trong đó các tác giả tập trung vào việc nghiên cứu ứng dụng khoa học
và công nghệ đối với các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Đồng thời, một số
cơng trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với khoa học và công nghệ
của cả nước và một số tỉnh như: Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Đức Lợi
nghiên cứu về "Vận dụng tiến bộ khoa học – công nghệ trong sự phát triển
nông nghiệp nước ta", Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
2000; Luận văn thạc sĩ kinh tế của Cao Quang Xứng: "Tiến bộ khoa học và
cơng nghệ và tiến trình hình thành kinh tế tri thức ở Việt Nam", Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003; Luận Văn Thạc sĩ Lịch sử của
Nguyễn Văn Vinh: "Đảng bộ tỉnh Thanh Hố lãnh đạo phát triển khoa học và
cơng nghệ từ 1986 đến 2002", Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2003; Gần đây nhất là Luận văn thạc sĩ Lịch sử của Nguyễn Thị Bích



Liên nghiên cứu đề tài: "Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo phát triển khoa
học và công nghệ từ năm 1996 đến năm 2006", Học viện Chính trị – Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008.
Cùng với các sách, luận văn, luận án nghiên cứu về khoa học và cơng nghệ,
các tạp chí nghiên cứu khoa học cũng có nhiều bài viết bàn về vấn đề này như:
"Tạo lập và phát triển thị trường khoa học – công nghệ ở nước ta" của tác giả
Nguyễn Văn Tuấn, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 11-2004; "Đóng góp của
khoa học – công nghệ vào nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam: thực trạng và giải
pháp" của Nguyễn Thị Hường, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 2-2005; "Quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của khoa học đối với sự phát triển
kinh tế – xã hội" của Ngơ Ngọc Thắng, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 11-2007;
"Khoa học và công nghệ đang thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế –
xã hội" của tác giả Minh Đường, Tạp chí Cộng Sản số 789 (tháng 7-2008).
Bên cạnh đó, đã có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết về vai trò của khoa
học và công nghệ cũng như việc nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học và
công nghệ đối với sản xuất ở Hải Phòng: "Kỷ yếu hoạt động nghiên cứu ứng
dụng khoa học và cơng nghệ thành phố Hải Phịng giai đoạn 1996 – 2000" của
Sở Khoa học, công nghệ và Mơi trường thành phố Hải Phịng, tháng 12/2001;
"45 xây dựng và phát triển (1959-2004)" của Sở Khoa học và công nghệ thành
phố Hải Phòng, năm 2004; "Những giải pháp để phát triển và thu hút nhân lực
khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố" của TS. Bùi Thanh
Tùng, Tạp chí Khoa học và kinh tế, số 80, tháng 4+5/2008 ; "Ứng dụng khoa
học công nghệ trong nơng nghiệp Hải Phịng năm 2008: Bước đột phá mới"
của Văn Huy, Thông tin Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Số 1 – 2009...
Như vậy, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về khoa học và cơng nghệ, tuy
nhiên, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ
thành phố Hải Phòng đối với công tác khoa học và công nghệ trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài
“Đảng bộ thành phố Hải Phịng lãnh đạo cơng tác phát triển khoa học và

công nghệ từ năm 1996 đến năm 2005” để nghiên cứu.


3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
- Mục tiêu:
Luận văn nghiên cứu về qúa trình Đảng bộ thành phố Hải Phịng lãnh đạo
cơng tác phát triển khoa học và công nghệ từ năm 1996 đến năm 2005. Từ đó,
rút ra những kinh nghiệm về cơng tác phát triển khoa học và công nghệ trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ đường lối phát triển khoa học và công nghệ của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong giai đoạn 1996 – 2000.
+ Làm rõ những chủ trương, chính sách của thành phố Hải Phịng về cơng tác
phát triển khoa học và cơng nghệ.
+ Làm rõ thực trạng khoa học và công nghệ của thành phố Hải Phịng trong
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Phân tích những kết quả đạt được về công tác phát triển khoa học và công
nghệ do Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo.
+ Nêu lên những kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo của Đảng bộ thành phố
Hải Phịng để từ đó góp phần tăng cường, nâng cao chất lượng khoa học và
công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Hệ thống những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ
trương, chính sách của Đảng bộ thành phố Hải Phịng đối với cơng tác phát
triển khoa học và công nghệ.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học trên các lĩnh vực: khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học tự nhiên; khoa học kỹ thuật và cơng nghệ ở Hải Phịng.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình Đảng bộ thành
phố Hải Phòng lãnh đạo, chỉ đạo phát triển khoa học và công nghệ trong giai

đoạn từ năm 1996 đến năm 2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:


- Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đường lối, chính sách của Đảng về cơng tác khoa học và công nghệ.
* Nguồn tài liệu:
- Các tác phẩm kinh điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh bàn
về vấn đề khoa học.
- Các văn kiện, các Nghị quyết Đại hội và Nghị quyết Hội nghị, các Chỉ thị,
các Chương trình hành động của Trung ương Đảng, các văn bản pháp luật của
Nhà nước.
- Các Nghị quyết, Chương trình hành động, Chỉ thị của Thành uỷ, các báo cáo
tổng kết của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và Sở Khoa học và cơng
nghệ Hải Phịng.
- Các cơng trình nghiên cứu, luận án, luận văn của tập thể, cá nhân đã được
công bố liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử và lôgic
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hố tồn bộ những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng bộ
thành phố Hải Phịng về cơng tác phát triển khoa học và công nghệ.
- Làm rõ hơn về những kết quả đạt được trong công tác phát triển khoa học
và cơng nghệ thành phố Hải Phịng giai đoạn 1996 – 2005.
- Cung cấp những luận cứ khoa học, góp phần vào việc hoạch định đường lối,
chính sách nhằm nâng cao chất lượng khoa học và công nghệ cuả thành phố
Hải Phịng trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn

Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết.



Chương 1
Q TRÌNH LÃNH ĐẠO CƠNG TÁC PHÁT TRIỂN
KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CỦA ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN 2000
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HẢI
PHỊNG

1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Hải Phòng là thành phố trẻ, song là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng.
Là một trung tâm công nghiệp lớn của đất nước, lại là nơi đầu sóng ngọn gió,
Hải Phịng có những đóng góp khơng nhỏ trong quá trình xây dựng đất nước,
đặc biệt trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
* Về vị trí địa lý:
Hải Phịng là thành phố ven biển, nằm ở phía Đơng miền Dun hải Bắc Bộ,
cách thủ đơ Hà Nội 102 km, có tổng diện tích tự nhiên là 152.318,49 ha,
chiếm 0,45% diện tích tự nhiên của cả nước.
Hải Phòng nằm ở toạ độ địa lý: 20 030’39” – 21001’15” vĩ độ Bắc và
106023’39” – 107008’39” kinh tuyến đơng. Ranh giới hành chính Hải Phịng
giáp 3 tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bắc Bộ và châu thổ sông Hồng. Phía Bắc
giáp Quảng Ninh – khu cơng nghiệp than lớn nổi tiếng của cả nước; Phía Tây
giáp Hải Dương; Phía Nam giáp Thái Bình gần 40 km theo dịng sơng Hố một nhánh của sơng Luộc. Phía Đơng là 125 km đường bờ biển chạy hướng
Đông Bắc - Tây Nam từ cửa Lạch Huyền đến cửa Thái Bình, mở rộng đón gió
Vịnh Bắc Bộ.
Hải Phịng nằm ở vị trí giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong nước và quốc tế
thông qua hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sơng

và đường hàng khơng.
* Về địa hình, địa mạo: Địa hình Hải Phịng thay đổi rất đa dạng phản ánh
một quá trình lịch sử địa chất lâu dài và phức tạp. Phía Bắc Hải phịng có dáng
dấp của một vùng trung du với những đồng bằng xen đồi trong khi phần phía


nam thành phố lại có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng
bằng thuần tuý nghiêng ra biển.
Ở Hải Phịng, đồi núi chiếm 15% diện tích của thành phố, chủ yếu là các dải
đồi núi sót lại, di tích của nền móng uốn nếp cổ bên dưới, nơi trước đây đã
xảy ra quá trình sụt võng với cường độ nhỏ. Cấu tạo địa chất gồm các loại đá
cát kết, phiến sét và đá vơi có tuổi khác nhau được phân bố thành từng dải liên
tục theo hướng tây bắc - đông nam từ đất liền ra biển.
* Biển, bờ biển và đảo Hải Phịng:
Hải Phịng có bờ biển dài trên 125 km kể cả bờ biển chung quanh các đảo
khơi. Bờ biển có hướng một đường cong lõm của bờ vịnh Bắc Bộ, thấp và khá
bằng phẳng, cấu tạo chủ yếu là cát bùn do 5 cửa sơng chính đổ ra. Trên đoạn
chính giữa bờ biển, mũi Đồ Sơn nhô ra như một bán đảo, đây là điểm mút của
dải đồi núi chạy ra từ trong đất liền, có cấu tạo đá cát kết tuổi Đevon, đỉnh cao
nhất đạt 125m, độ dài nhô ra biển 5 km theo hướng tây bắc - đơng nam.
Vùng biển Hải Phịng có nhiều đảo lớn nhỏ, nối liền với vùng đảo và quần đảo
Hạ Long – Quảng Ninh nổi tiếng. Lớn nhất là đảo Cát Bà, đồng thời đây cũng
là đảo lớn thứ hai trong Vịnh Bắc Bộ, sau đảo Cái Bầu thuộc tỉnh Quảng
Ninh. Ngồi Cát Bà, Hải Phịng cịn có những đảo nhỏ như Cát Hải, Hịn Dáu,
Long Châu. Xa nhất là đảo Bạch Long Vĩ - một vị trí tiền tiêu, nơi đầu sóng
ngọn gió trong Vịnh Bắc Bộ, cách thành phố 136 km về phía Tây Bắc, đảo chủ
yếu là đồi thấp dưới 50m. Biển là yếu tố địa lý tự nhiên đặc sắc nhất của Hải
Phòng, là nhân tố tác động thuờng xuyên đến nhiều quá trình xảy ra trong thiên
nhiên và ảnh hưởng quan trọng đến nhiều hoạt động trong xã hội. Đồng thời,
biển, bờ biển và hải đảo đã tạo nên cảnh quan thiên nhiên đặc sắc của thành phố

duyên hải. Đây cũng là một thế mạnh tiềm năng của nền kinh tế địa phương.
* Về khí hậu: Hải Phịng nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới Bắc bán cầu,
gần chí tuyến Bắc với đặc điểm của một thành phố đồng bằng ven biển có
nhiều hải đảo nên khí hậu Hải Phịng chịu sự chi phối trực tiếp của biển và
phân hoá thành khí hậu ven biển của vùng đất liền và khí hậu biển của vùng
đảo ngoài khơi. Riêng tại đảo Cát Bà cịn có sự phân hố tiểu khí hậu từ khu
vực bến bãi ven biển và các thung áng, núi đá vơi có rừng ngun sinh. Nhưng


khí hậu Hải Phịng chủ yếu vẫn là nóng và ẩm, với chế độ khí hậu nhiệt đới
thuần tuý.
Do ảnh hưởng của hồn lưu gió mùa, nhất là sự xâm nhập mạnh của khơng
khí cực đới trong mùa đơng nên khí hậu Hải Phịng bị phân hố thành hai
mùa: mùa hạ nóng và mùa đơng lạnh. Tuy nhiên, gió biển thường thổi sâu vào
đất liền từ 20 đến 30 km nên ở Hải phịng ít có hiện tượng lạnh q hoặc khơ
nóng q như các tỉnh đồng bằng và trung du khác.
* Sơng Hải Phịng:
Hải Phịng có hệ thống sơng phong phú, dày đặc, mật độ trung bình 0,6 – 0,8
km trên 1 km2. Với 16 sơng chính tỏa rộng khắp địa bàn thành phố với tổng
độ dài 300 km, trong đó bao gồm sơng Thái Bình, dài 35 km, Sông Cấm dài
trên 30 km, Sông Đá Bạch - Bạch Đằng, dài hơn 32 km, sơng Hàn nằm ở phía
Đơng Bắc huyện Thuỷ Nguyên, … Từ Phả Lại - nơi hợp lưu giữa sông Cầu,
sông Thương và sông Lục Nam (sông Thương và sông Lục Nam là nguồn của
sông Thái Bình), các dịng sơng chảy trên độ dốc ngày càng nhỏ và sơng Thái
Bình đã tạo ra mạng lưới chi lưu các cấp như sông Kinh Môn, Lạch Tray,
Kinh Thầy, Văn Úc, Đa Độ… đổ ra biển bằng 5 cửa sơng chính.
* Về tài ngun thiên nhiên và khống sản:
Do đặc điểm lịch sử địa chất Hải Phịng ít có dấu vết hoạt động macma nên
cho đến nay chưa phát hiện thấy những mỏ khống sản lớn ở Hải Phịng. Tuy
nhiên, cũng có một số mỏ cỡ vừa và nhỏ có giá trị phục vụ cho nhu cầu cơng

nghiệp địa phương.
Các loại khoáng sản kim loại: Sa khoáng ven biển là nét đặc trưng cho sắc thái
biển, được phát hiện ở khu bờ biển Cát Hải và Tiên Lãng, thuộc loại hình sa
khống tổng hợp của các ngun tố biển, chủ yếu là Titan và Ziacơn. Ngồi ra
cịn có những biểu hiện khoáng hoá trên đảo Bạch Long Vĩ gặp dưới dạng kết
hạch Xiđêrit, mỏ sắt ở Dưỡng Chính thuộc xã Chính Mỹ, Thuỷ Ngun.
Khống sản phi kim loại có mỏ Cao Lanh ở Doãn Lại (Thuỷ Nguyên); Mỏ sét ở
Tiên Hội, Chiến Thắng (Tiên Lãng); Đá vôi phân bố chủ yếu ở Cát Bà, Tràng


Kênh, Phi Liệt, phà Đụn; Mỏ quaczit và tectit ở một số núi thuộc Đồ Sơn; phốt
phát ở đảo Bạch Long Vĩ; Nước khoáng ở xã Bạch Đằng (Tiên Lãng)…
Tài nguyên biển là một trong những nguồn tài nguyên quý hiếm của Hải
Phịng với gần 1000 lồi tơm, cá và hàng chục lồi rong biển có giá trị kinh tế
cao như tơm rang, tơm he, cua bể, đồi mồi, sị huyết, cá heo, ngọc trai, tu hài,
bào ngư… là những hải sản được thị trường thế giới ưa chuộng. Nguồn nước
biển mặn cao và ổn định ở một số vùng biển Cát Hải, Đồ Sơn dùng để sản
xuất muối phục vụ cho cơng nghiệp hố chất địa phương và Trung ương cũng
như đời sống của nhân dân. Biển Hải Phòng có nhiều bãi cá, lớn nhất là bãi cá
quanh đảo Bạch Long Vĩ với độ rộng trên 10.000 hải lý vuông, trữ lượng cao
và ổn định. Tại các vùng triều ven bờ, ven đảo và các vùng bãi triều ở các
vùng cửa sơng rộng tới trên 12.000 ha vừa có khả năng khai thác, vừa có khả
năng ni trồng thuỷ sản nước mặn và nước lợ có giá trị kinh tế cao.
Tài ngun đất của Hải Phịng có trên 57.000 ha đất canh tác, hình thành từ
phì sa của hệ thống sơng Thái Bình và nằm ven biển nên phần lớn mang tính
chất đất phèn và phèn mặn, địa hình cao cấp xen nhau và nhiều đồng trũng.
Bên cạnh đó, do những biến động của thời tiết có ảnh hưởng khơng tốt đến đất
đai, cây trồng gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, nhất là nghề trồng trọt.
Tài nguyên rừng của Hải Phịng phong phú và đa dạng, có rừng nước mặn,
rừng cây lấy gỗ, cây ăn quả, tre, mây… Khu rừng nguyên sinh Cát Bà có

nhiều loại thảo mộc quý hiếm được xếp loại thực vật cần bảo vệ và nhiều loại
cây dược liệu được giới y học trong nước và nước ngồi quan tâm. Rừng cịn
có nhiều loại chim như hoạ mi, khiếu, vẹt, hải âu… Thú quý trên đảo có khỉ
mặt đỏ, khỉ mặt vàng, sơn dương, hoẵng, rái cá, sóc đi đỏ, sóc bong đỏ,
mèo rừng, nhím… đặc biệt là khỉ voọc đầu trắng sống từng đàn, là loài thú
quý hiếm trên thế giới chỉ mới thấy ở Cát Bà.
Có thể nói, với ưu thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đã tạo cho mảnh
đất Hải Phòng những cơ hội phát triển thuận lợi, góp phần đưa Hải Phịng trở
thành một thành phố công nghiệp, đô thị loại I của đất nước, một cục tăng


trưởng của vùng kinh tế động lực phía Bắc; một trọng điểm phát triển kinh tế
biển – đảo, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế và quốc phịng – an ninh.
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Hải Phịng là thành phố cảng, trung tâm kinh tế, cơng nghiệp, thương mại,
dịch vụ, du lịch của vùng Duyên hải Bắc bộ, cửa chính ra biển của các tỉnh
phía Bắc, đầu mối giao thông quan trọng của miền Bắc và cả nước, đồng thời
là một đơ thị có vị trí quốc phòng trọng yếu; một trong các cực tăng trưởng
của vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Đặc biệt,
năm 2003, Hải Phịng được Chính phủ công nhận là đô thị loại 1 cấp quốc gia.
Từ đó, vị thế, vai trị của Hải Phịng tiếp tục được củng cố và nâng cao. Ngày
05/8/2003, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 32/NQ–TƯ về xây dựng và phát
triển thành phố Hải Phịng trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất
nước. Đây là một văn kiện có tính cương lĩnh, định hướng bước đi của thành
phố Hải Phòng trong thế kỷ XXI.
Ngay từ đầu những năm 1990, Hải Phòng được Trung ương xác định là một
cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Nền kinh tế Hải Phòng
chuyển dịch theo hướng lấy kinh tế đối ngoại làm mũi nhọn đã vượt qua khó
khăn và có những khởi sắc về cơng nghiệp, nơng nghiệp, đầu tư và xuất khẩu.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng được tăng cao, lạm phát được đẩy lùi.

Đời sống nhân dân được cải thiện, quốc phòng, an ninh, trật tự, trị an được
đảm bảo. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp được thay thế bằng cơ chế thị
trường có sự định hướng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó,
thành phố sắp xếp lại sản xuất, đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực sản xuất
và chất lượng sản phẩm; các lĩnh vực: công nghiệp nặng, công nghiệp chế
biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng được ưu tiên đầu tư. Từ năm 1996
đến năm 2000, giá trị sản xuất cơng nghiệp tăng bình qn 23,45%/năm, cơng
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi chiếm tới 50% giá trị sản xuất công nghiệp
của thành phố. Bên cạnh đó, nơng nghiệp, thuỷ sản cũng bắt đầu có bước phát


triển khá. Nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch cơ cấu theo hướng cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, tăng tỉ trọng cơng nghiệp và dịch vụ.
Tình hình đầu tư trực tiếp của nước ngồi vào Hải Phịng phát triển hơn trước.
Đến năm 2000 có 87 dự án có hiệu lực, với số vốn đăng ký trên 1,3 tỷ đô la
Mỹ. Hoạt động sản xuất tăng gấp 3 lần thời kỳ 1991 – 1995. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân trong 10 năm 1996 – 2000 đạt 10,3%, cơ cấu kinh tế
của thành phố đã chuyển dịch đúng hướng. Bên cạnh sản xuất nông nghiệp,
thế mạnh của công nghiệp, thương mại, du lịch ngày càng được phát huy, hoạt
động hướng vào xuất khẩu. Cơ sở hạ tầng, đô thị, nông thôn và hải đảo được
xây dựng và cải tạo rõ rệt.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) của Đảng Cộng sản
Việt Nam đề ra phương hướng phát triển kinh tế – xã hội đất nước, đây là
bước mở đầu quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội 10 năm – Chiến lược đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng đến năm 2010 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp. Đồng thời, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần
thứ XII của Đảng bộ thành phố Hải Phòng, Đảng bộ, qn và dân Hải Phịng
đồn kết, phát huy tốt tiềm năng lợi thế, đổi mới công tác lãnh đạo, điều hành,
khắc phục những khó khăn và giành được những kết quả khá tồn diện. Kinh

tế Hải Phịng có sự tăng trưởng với tốc độ khá cao, lớn hơn mức tăng trưởng
bình quân chung của cả nước. Tốc độ GDP hàng năm tăng, bình quân trên
10%/năm. Năm 2005 đạt 11%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng
hướng, tỷ trọng nhóm ngành nơng nghiệp giảm dần, tỷ trọng nhóm ngành
cơng nghiệp, xây dựng, thủy sản, dịch vụ tăng nhanh. Ngành công nghiệp
ngày càng phát triển nhanh và đồng đều, giá trị sản xuất liên tục tăng. Các
ngành công nghiệp mũi nhọn như: đóng mới và sửa chữa tàu thủy, cán thép, xi
măng, cấu kiện thép, giày dép, sơn, chế biến thủy sản được quan tâm đầu tư
và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Các khu công nghiệp


Nomura, Đình Vũ, cụm cơng nghiệp Vĩnh Niệm có nhiều chuyển biến tích
cực.
Cảng là một trong những thế mạnh của Hải Phòng được đầu tư nâng cấp, mở
rộng, sản lượng hàng hóa thơng qua cảng tăng nhanh. Năm 2001 sản lượng đạt
8,75 triệu tấn, năm 2002 đạt 10,3 triệu tấn, năm 2003 đạt 10,5 triệu tấn.
Nông nghiệp, nông thôn phát triển tương đối tồn diện, các ngành chăn ni
và dịch vụ, giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích canh tác không ngừng tăng
nhanh. Kinh tế trang trại khá phổ triển, xuất hiện nhiều mơ hình mới, cách làm
mới đem lại hiệu quả kinh tế cao. Một số vùng chăn ni rau quả được hình
thành. Hầu hết các hộ dân sống ở vùng nông thôn được sử dụng điện lưới, đời
sống văn hóa, tinh thần khơng ngừng nâng cao.
Kinh tế du lịch được thành phố quan tâm, đảo Cát Bà và Đồ Sơn được tăng
cường đầu tư, nâng cấp từng bước, đã trở thành trung tâm du lịch lớn. Công tác
quản lý và phát triển đô thị được tăng cường, bộ mặt đơ thị Hải Phịng có sự
chuyển biến rõ rệt, cơng tác quy hoạch của thành phố có nhiều tiến bộ. Quản lý
và bảo vệ môi trường được tăng cường, góp phần giảm bớt tình trạng ơ nhiễm và
suy thối mơi trường.
Hải Phịng có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển. Đây là lợi thế cơ
bản của Hải Phòng gồm cảng, nguồn lợi biển và du lịch. Kinh tế biển của Hải

Phòng phát triển khá toàn diện, hơn hẳn các địa phương ven biển khác ở miền
Bắc. Đặc điểm này đã, đang và sẽ là một trong những yếu tố quan trọng chi
phối định hướng phát triển khoa học và công nghệ của thành phố trên nhiều
lĩnh vực.
Công tác quản lý và phát triển đô thị có những chuyển biến rõ nét. Sự nghiệp
phát triển văn hóa – xã hội, đào tạo nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo, giải
quyết việc làm, phịng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, bảo đảm thực hiện
các chính sách xã hội được quan tâm. Trong 5 năm 2001 – 2005, thành phố
giải quyết cho gần 19 vạn lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống còn 5,9% vào
năm 2005. Tỉ lệ sử dụng thời gian lao động trong khu vực nông nghiệp, nông


thơn đạt gần 80%, hạ tỉ lệ đói nghèo xuống còn 3%, vượt kế hoạch 0,5%, xây
dựng 6.500 nhà tranh vách đất. Mặt bằng dân trí, đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân được nâng lên một bước, bộ mặt nơng thơn ngoại thành và hải
đảo có nhiều khởi sắc.
Chính trị xã hội ổn định, an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, thế
trận quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân và việc xây dựng phịng thủ được
củng cố một bước vững chắc.
Cơng tác giáo dục – đào tạo có những chuyển biến tích cực. Quy mô giáo dục
– đào tạo tiếp tục ổn định và phát triển, số học sinh các cấp, các bậc học đều
tăng. Ngoài trường quốc lập, thành phố mở rộng các mơ hình đào tạo: bán
cơng, dân lập, tư thục. Năm 2001, thành phố đã hoàn thành phổ cập trung học
cơ sở. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giáo dục ngày càng được tăng
cường, gần 100% số xã có trường học cao tầng, trên 30% số trường đạt chuẩn
quốc gia, khơng cịn tình trạng học 3 ca. Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo
viên được triển khai mạnh mẽ ở các cấp học, bậc học đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tính đến năm
2005, thành phố có gần 3 vạn giáo viên, trong đó có trên 100 tiến sĩ, trên 1000
thạc sĩ, 20 giáo sư, phó giáo sư. Cơng tác đào tạo nghề được đầu tư phát triển,

chất lượng nguồn nhân lực không ngừng nâng lên. Cơng tác xã hội hố phát
triển mạnh và đúng hướng. Các hoạt động văn hoá, y tế, thể dục thể thao phát
triển khá vững về quy mô và chất lượng. Các chương trình y tế quốc gia phát
huy tác dụng, công tác y tế cơ sở được tăng cường đầu tư, chất lượng chăm
sóc sức khỏe nhân dân được cải thiện.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được coi trọng và tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ và các tổ
chức cơ sở đảng được củng cố và nâng cao; công tác kiểm tra, công tác tổ
chức và cơng tác cán bộ có tiến bộ; đội ngũ cán bộ có bước trưởng thành về
chất lượng chính trị và năng lực...
Những thành tựu về kinh tế - xã hội chính là nguồn lực quan trọng để khoa
học và cơng nghệ có điều kiện phát triển. Cùng với việc thực hiện đường lối


lãnh đạo của Đảng về công tác phát triển khoa học và cơng nghệ, Đảng bộ
thành phố Hải Phịng đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm đưa
khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, đáp ứng được những nhu cầu
bức thiết của thành phố.
1.1.3. Thực trạng khoa học và cơng nghệ thành phố Hải Phịng những
năm 1986 - 1996
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Hải Phịng bước vào thực hiện cơng cuộc đổi mới
tồn diện về kinh tế, văn hóa và xã hội.
Tháng 10/1986, Hải Phòng tiến hành Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX đề
ra phương hướng và nhiệm vụ phát triển thành phố trong thời kỳ mới, đó là
cần phải đẩy mạnh đổi mới tư duy, đổi mới mạnh mẽ cách nghĩ, cách làm, đổi
mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền đối với mọi ngành, mọi
lĩnh vực. Trong đó, Đảng bộ thành phố quan tâm đến đổi mới phát triển khoa
học và công nghệ. Do đó, trong 10 năm đổi mới (1986 – 1996), khoa học và
công nghệ thành phố đã đạt được những thành tựu ban đầu:

Về khoa học xã hội và nhân văn: thành phố đã lựa chọn một số vấn đề mang
tính cấp bách, qua đó đã bước đầu đóng góp luận cứ khoa học cho việc hoạch
định một số chủ trương phát triển kinh tế – xã hội.
Công tác nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn được tổ chức chặt chẽ, từ
năm 1986 đến năm 1996, thành phố thực hiện Chương trình xây dựng con
người mới, đồng thời tiến hành nghiên cứu các đề tài khoa học, trong đó tập
trung đề xuất một số mơ hình, giải pháp đổi mới hoạt động trong các lĩnh vực
văn hoá - tư tưởng, quản lý nhà nước, giáo dục - đào tạo, quốc phịng an ninh,
cơng tác tơn giáo. Các đề tài nghiên cứu liên quan đến các lĩnh vực như: giáo
dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề, hoạt động văn hóa, xã
hội, nghiên cứu lịch sử, giáo dục thanh, thiếu niên, phòng chống tội phạm...
Năm 1986, Ủy ban khoa học và kỹ thuật (nay được đổi tên thành Sở Khoa học
và cơng nghệ) đã hình thành 3 tổ chuyên viên quản lý các hoạt động nghiên
cứu, triển khai khoa học và kỹ thuật, trong đó có một tổ chuyên quản lý các


hoạt động về khoa học xã hội. Do vậy, từ năm 1987, nhiều Ban, ngành, bộ
phận trong cơ quan Đảng và Chính quyền thành phố như Hội đồng Lịch sử,
Cục Thống kê, Sở Tư pháp, Sở Văn hóa, Ban Tổ chức Thành ủy, ... đều tham
gia đăng ký các đề tài nghiên cứu khoa học với nội dung phong phú hơn,
chuyên sâu hơn.
Năm 1988, Ủy ban khoa học và kỹ thuật thành phố được đổi tên thành Ban
Khoa học và kỹ thuật và thành lập phòng Khoa học xã hội với chức năng giúp
Trưởng Ban Khoa học và kỹ thuật quản lý các hoạt động khoa học xã hội toàn
thành phố. Trong đó tập trung nghiên cứu đề xuất phương hướng, nhiệm vụ,
biện pháp đẩy mạnh công tác khoa học xã hội, hướng dẫn xây dựng, tổng hợp
và quản lý các hoạt động khoa học xã hội về các mặt, đóng góp ý kiến và đơn
đốc thực hiện các biện pháp nhằm củng cố, phát triển đội ngũ cán bộ và tổ
chức quản lý công tác khoa học xã hội ở các ngành, tham gia quản lý, quy
hoạch đội ngũ cán bộ khoa học xã hội.

Các hoạt động khoa học xã hội và nhân văn ngày càng khởi sắc và có bước
tiến rõ rệt. Các đề tài nghiên cứu, thực nghiệm khoa học xã hội đã được nâng
lên về quy mô, phạm vi tác động với nhiều nội dung như: Xây dựng mơ hình
phịng thủ vững chắc về quốc phịng và an ninh, mơ hình tổ chức và hoạt động
văn hóa trên địa bàn xã. Cùng nhiều sách được xuất bản về khoa học xã hội
nhân văn: Địa chí Hải Phòng (tập I), Lược khảo đường phố Hải Phòng...
Về khoa học tự nhiên: thành phố tổ chức nghiên cứu, điều tra về điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên và mơi trường Hải Phịng, góp phần tạo cơ sở
khoa học, cung cấp dữ liệu xây dựng chiến lược, quy hoạch và các dự án phát
triển kinh tế – xã hội. Công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ trong 10
năm 1986 - 1996 chú trọng vào việc nghiên cứu ứng dụng, tập trung giải
quyết một số vấn đề do thực tế đặt ra, góp phần quan trọng vào việc nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu quả trong các ngành sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, xây dựng, thủy sản, năng lượng, bưu chính – viễn thơng và y tế.
Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nhiều đề tài khoa học nghiên cứu hiện
trạng môi trường, các hệ sinh thái chính ở Hải Phịng, thẩm định báo cáo tác


động môi trường của các dự án sản xuất kinh doanh, đề ra một số chính sách,
giải pháp để kiểm sốt và xử lý ơ nhiễm mơi trường: Thu thập hệ thống số liệu
điều tra cũ về nguồn lợi biển và ven biển, đất, khống sản, điều kiện khí hậu,
thủy văn; Nghiên cứu tình hình xói lở vùng cửa sơng Văn Úc; Triển khai một
phần việc xây dựng bản đồ gốc địa hình, địa chất cơng trình thành phố...
Cơng tác xây dựng và phát triển nguồn lực khoa học và công nghệ bước đầu
được quan tâm. Một bộ phận cán bộ khoa học công nghệ và công nhân kỹ
thuật được bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề, ngoại ngữ, tin học. Hệ thống
nghiên cứu – triển khai, dịch vụ – tư vấn khoa học và công nghệ, kiểm định,
kiểm nghiệm đang dần được kiện tồn. Thơng tin khoa học và cơng nghệ đã
góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu thông tin khoa học và công nghệ
đa dạng, đồng thời tích cực chuẩn bị xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin khoa

học và công nghệ của thành phố.
Quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ được kiện toàn về hệ thống tổ
chức và hoàn thiện một bước về cơ chế quản lý, tạo sự chuyển biến tích cực
và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ trong điều kiện kinh tế
thị trường.
Về quản lý tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng: Trong giai đoạn bắt đầu công
cuộc đổi mới, thành phố ở trong tình trạng khủng hoảng cho nên thị trường tự
do phát triển mạnh, các hoạt động của Chi cục Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất
lượng bị ảnh hưởng nhiều, song vẫn thu được một số kết quả, đó là mở rộng
phạm vi kiểm tra đo lường sang các lĩnh vực giao nhận lớn, các điểm mua bán
vàng bạc tư nhân, các điểm bán xăng dầu, đo lường điện. Đồng thời, số sản
phẩm quản lý chất lượng sản phẩm hàng năm có từ 50 đến 80 sản phẩm, thông
qua các đợt kiểm tra các sản phẩm thuộc diện quản lý chất lượng sản phẩm
của thành phố, tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng trên thị trường có
phần giảm bớt.
Về quản lý sở hữu công nghiệp, đặc biệt là về bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu
ích được duy trì. Hoạt động quản lý sáng kiến hướng vào việc nghiên cứu, phổ
biến triển khai các sáng kiến có giá trị qua tổng kết của Bộ, ngành Trung ương


như: giải pháp tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu đạt giải cao trong các Hội thi
Sáng tạo kỹ thuật toàn quốc.
Đạt được kết quả trên, trước hết là do đường lối đúng đắn của Đảng và việc
triển khai có kết quả một số chủ trương, chính sách của Trung ương về phát
triển khoa học và công nghệ của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành
phố. Cơ chế quản lý kinh tế, quản lý khoa học và công nghệ bước đầu được
đổi mới tạo nhu cầu bức thiết phải triển khai, ứng dụng các tiến bộ khoa học
và công nghệ vào sản xuất và đời sống. Các nguồn lực khoa học – cơng nghệ
tuy nhỏ bé và cịn nhiều hạn chế nhưng đã bước đầu phát huy tác dụng tích
cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của thành phố.

Tuy nhiên, khoa học và công nghệ ở Hải Phòng trong 10 năm 1986 – 1996
còn những yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của địa phương, đó là
trình độ cơng nghệ thấp, tốc độ đổi mới chậm, ứng dụng tiến bộ khoa học –
công nghệ cịn mang nặng tính tự phát, cơng tác kiểm tra, giám sát, giám định
công nghệ nhập bất cập, ảnh hưởng không tốt đến năng suất, chất lượng sản
phẩm và môi trường. Nhiều vấn đề nảy sinh trong công cuộc đổi mới ở địa
phương chưa có luận cứ khoa học vững chắc để giải đáp. Còn thiếu những dự
báo khoa học cho nhiều vấn đề kinh tế – xã hội bức xúc. Công tác quản lý môi
trường yếu kém cả về năng lực lẫn điều kiện triển khai. Ý thức bảo vệ môi
trường chung của các tầng lớp nhân dân cịn thấp; Đội ngũ cán bộ khoa học –
cơng nghệ còn nhiều bất cập về kiến thức năng lực thực tiễn, nhất là phương
pháp luận khoa học, thông tin công nghệ, ngoại ngữ chuyên ngành, còn thiếu
nhiều cán bộ đầu ngành, chuyên gia giỏi về khoa học quản lý, về lập và thẩm
định dự án, về pháp luật, công nghệ và nhiều lĩnh vực khác. Công tác đào tạo
bồi dưỡng cán bộ khoa học – cơng nghệ cịn nhiều mặt yếu kém, tình trạng
hẫng hụt là phổ biến. Cơ cấu và phân bố cán bộ khoa học – công nghệ cịn mất
cân đối và chưa hợp lý. Đội ngũ cơng nhân kỹ thuật thiếu cả về số lượng và
chất lượng, nhất là trước yêu cầu phát triển các khu công nghiệp mới và các
liên doanh với nước ngoài.
Lý giải về nguyên nhân yếu kém, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng
bộ thành phố lần thứ 4 (khóa XI) thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2


(khóa VIII) về phát triển khoa học - cơng nghệ thành phố đến năm 2000 ban
hành ngày 18 tháng 3 năm 1997 nêu rõ:
Nhiều cấp uỷ Đảng và chính quyền chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của
khoa học – cơng nghệ trong q trình xây dựng, phát triển thành phố; chưa tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác khoa học – công nghệ, việc tổ chức thực hiện
các chủ trương, chính sách về khoa học và cơng nghệ chưa nghiêm túc.
Đầu tư tài chính của thành phố cho khoa học – cơng nghệ cịn thấp, chưa đạt

mức tối thiểu 2% tổng chi ngân sách như Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị
(khóa VI) và Chỉ thị 33 của Ban Thường vụ Thành uỷ (khoá IX) quy định.
Những năm gần đây mức đầu tư cho khoa học – công nghệ thường dưới 1%,
năm 1996 có 0,57% tổng chi ngân sách. Các cơ sở sản xuất chưa đầu tư đúng
mức kinh phí cho nghiên cứu ứng dụng và đổi mới công nghệ.
Việc tổ chức nghiên cứu và xây dựng chiến lược khoa học – công nghệ, chiến
lược bảo vệ môi trường còn chậm. Do thiếu nhiều điều kiện cơ bản như
phương pháp luận, tiền vốn, thông tin, kinh nghiệm, nên việc đánh giá, lựa
chọn, tiếp nhận chuyển giao công nghệ còn lúng túng. Vai trò giám định, phản
biện trong khoa học – cơng nghệ cịn bị xem nhẹ.
Cơ chế quản lý và chính sách phát triển khoa học – cơng nghệ chưa phù hợp,
thiếu đồng bộ. Mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng. Chưa có cơ chế khuyến
khích cán bộ khoa học, thu hút nhân tài, huy động mọi nguồn lực cho phát
triển khoa học – công nghệ.
Quản lý khoa học – cơng nghệ cịn yếu kém. Quản lý các đề tài, chương trình
nghiên cứu khoa học cịn mang tính hành chính, dàn trải; nhiều đề tài khoa
học – công nghệ chưa thiết thực. Việc áp dụng kết quả của các đề tài, chương
trình chưa được quan tâm. Chưa gắn chặt nghiên cứu triển khai, ứng dụng tiến
bộ khoa học – công nghệ với sản xuất, kinh doanh [52,tr.3].
Mặc dù vẫn cịn nhiều hạn chế, song cơng tác phát triển khoa học và cơng
nghệ của Hải Phịng bước đầu khắc phục khó khăn của tình trạng của cơ chế
cũ – quan liêu, bao cấp. Từ đó từng bước đưa khoa học và công nghệ thành
phố ngày càng đáp ứng được yêu cầu đổi mới của đất nước.


1.2. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ
CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG TRONG GIAI ĐOẠN 1996 - 2000

1.2.1. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác phát triển khoa
học và công nghệ từ năm 1996 đến 2000

Theo quan điểm của các nhà kinh điển: khoa học, kỹ thuật và công nghệ bắt
nguồn từ sản xuất, từ đấu tranh xã hội, từ nhu cầu khám phá và cải tạo thế giới
của con người. Khoa học chân chính bắt nguồn từ những nhu cầu của đời sống
xã hội và có sứ mệnh phục vụ con người, phục vụ xã hội. Nhu cầu thực tiễn
chính là động lực thúc đẩy khoa học phát triển. Mục tiêu của khoa học là đi
tìm chân lý khách quan, tìm ra bản chất của sự vật, chỉ ra những thuộc tính,
bản chất bên trong của sự vật. Trong tác phẩm "Lược thảo phê phán khoa học
kinh tế chính trị” viết năm 1843 – 1844, Ph.Ăngghen cho rằng: "khoa học thì
ngày càng lại càng làm cho các lực lượng tự nhiên phải phục tùng loài người”
[38,tr.774]. V.I.Lênin chỉ rõ: phải làm cho những người có kiến thức khoa học
hiểu hết được sự đê tiện của việc dùng khoa học để làm giàu cho cá nhân, để
bóc lột người khác và hiểu được rằng cịn có một nhiệm vụ cao cả hơn, tức
nhiệm vụ dùng khoa học để cho tất cả quần chúng lao động hiểu biết khoa học
[35,tr.121-122].
Kế thừa và phát huy những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời
xuất phát từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú của mình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhận thức một cách sâu sắc về ý nghĩa và vai trò to lớn của khoa
học, kỹ thuật đối với sự phát triển của đất nước, Người cho rằng: thời đại của
chúng ta là thời đại của khoa học phát triển. Khoa học là tài sản chung của toàn
dân chứ khơng phải của riêng một nhóm người nào. Sự tiến bộ của khoa học và
kỹ thuật hướng tới mục đích là giải phóng con người, những thành tựu của khoa
học, kỹ thuật được sử dụng vì sự tiến bộ xã hội và vì lợi ích của nhân dân lao
động: "Chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự phát triển khoa học kỹ thuật, với sự phát
triển của văn hóa của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn
sẽ đưa lồi người đến hạnh phúc vơ tận" [45,tr.456].


Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra đường lối phát triển khoa học và cơng
nghệ một cách tồn diện và sâu sắc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm

1996) xác định: "Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của
thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hố đất nước.
Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt
qua thách thức, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ,
tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao
và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ
nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ
sau” [19,tr.20]. Cùng với việc đề ra đường lối phát triển kinh tế – xã hội trong
thời kỳ mới, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nêu rõ phương hướng phát triển
khoa học và cơng nghệ trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đó là:
- Vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; phát triển và kết hợp chặt chẽ các ngành khoa học xã hội và nhân văn,
khoa học tự nhiên và công nghệ... làm chỗ dựa khoa học cho việc triển khai
thực hiện Cương lĩnh, Hiến pháp, xác định phương hướng, bước đi của cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng pháp luật, các chính sách, kế hoạch và
chương trình kinh tế – xã hội.
- Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học tự nhiên và công
nghệ tiên tiến trong tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý và
quốc phòng - an ninh. Nắm bắt các công nghệ cao như công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, những cơng nghệ mới trong chế
tạo máy... để có thể đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định. Đồng
thời, đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, từ đó đề xuất một chiến lược
đúng đắn về khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên. Bảo đảm cơ sở khoa học



×