Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

LUẬN VĂN: Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ 1996 đến 2005 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 128 trang )





LUẬN VĂN:

Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
từ 1996 đến 2005









Mở ĐầU
1. Lý do chọn đề tài
Thành tựu của công cuộc đổi mới là một trong ba thắng lợi vĩ đại của cách
mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
hoàn thành chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH và bước vào thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việt Nam đã phá được thế bao vây,
cấm vận của các thế lực thù địch, tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội
nhập quốc tế, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh. Kinh tế tăng
tưởng, đời sống của nhân dân được cải thiện, vị thế Việt Nam được nâng cao trên
trường quốc tế. Đất nước ta có được thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, là nhờ đường
lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Trong 20 năm đổi mới (1986 - 2006),
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách thể hiện rõ sự đổi mới


trong tư duy kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một chủ trương lớn của Đảng ta.
Đây chính là một trong những nội dung quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế
thời kỳ đẩy mạnh công hiện hoá, hiện đại hoá đất nước, với mục tiêu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân các tỉnh, thành
phố trong cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng, trong nhiều năm qua đã phát huy
nội lực và thuận lợi, khắc phục mọi khó khăn, thách thức, từng bước thực hiện có
hiệu quả chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực tiễn những năm qua đã chứng
minh chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, phù
hợp với quy luật phát triển kinh tế khách quan, phù hợp sự phát triển không đồng
đều của lực lượng sản xuất và phù hợp với lòng dân. Nhờ có chủ trương chuyển
dịch cơ cấu kinh tế mà cơ cấu kinh tế có nhiều thay đổi và đạt kết quả to lớn, góp
phần làm thay đổi bộ mặt địa phương, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần vào sự
nghiệp chung: Xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Hà Nội, Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo và giao dịch quốc
tế. Hà Nội có vị trí địa lý thuận lợi, nơi hội tụ nhiều tiềm năng cho sự phát triển so

với nhiều thành phố khác. Vì vậy, Nghị quyết Bộ chính trị (15-12-2000) về phương
hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô, giai đoạn 2001-2010, nhấn mạnh Hà Nội “là
trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn
hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế" [8, tr.3].
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã nhận
thức sâu sắc về tầm quan trọng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với sự
phát triển kinh tế của Thủ đô. Do vậy, Đảng bộ đã phát huy truyền thống năng
động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của người dân Hà Nội, đồng thời đẩy mạnh khai
thác tiềm năng của thành phố. Sau 20 năm tiến hành đổi mới, kinh tế - xã hội Thủ
đô đạt được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế có
nhiều chuyển biến tích cực, góp phần to lớn vào sự phát triển chung của Thành phố
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bộ mặt Thủ đô có nhiều

thay đổi; đời sống của nhân dân không ngừng nâng cao; an ninh, chính trị, trật tự an
toàn xã hội ổn định.Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ được củng cố, tăng cường, đáp
ứng nhu cầu phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu. Đạt được kết quả trên là do Đảng
bộ Hà Nội luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng, “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng
tâm, xây dựng Đảng là khâu then chốt” [4, tr.58], quan tâm lãnh đạo chuyển dịch cơ
cấu kinh tế Thủ đô phù hợp với định hướng của Trung ương, phù hợp điều kiện cụ
thể của Hà Nội. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn được Đảng bộ Hà Nội
chú ý tổng kết, hoàn thiện, đổi mới trong thực tiễn các giai đoạn phát triển kinh tế
của thành phố.
Việc đánh giá đầy đủ, khách quan, khoa học qúa trình lãnh đạo thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ Hà Nội và việc khẳng định tính đúng đắn
của chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng ta, là một vấn đề có ý nghĩa
chiến lược để xây dựng và phát triển nền kinh tế Thành phố Hà Nội. Mặt khác,
thành tựu, khuyết điểm, thuận lợi và khó khăn, kinh nghiệm thành công và chưa
thành công… trong sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội về chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cũng là những vấn đề của một số tỉnh, thành phố khác có đặc điểm, vị trí, điều kiện
tương tự, cần được nghiên cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm, để thực hiện thành công
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ đó tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh về lý luận, phát

triển về thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa việc cụ thể hoá đường lối của Đảng
đối với từng địa phương, trong đó có Thành phố Hà Nội.
Vì thế, tôi chọn đề tài "Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ 1996 đến 2005" làm đề tài
luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
chuyển dịch CCKT ở Việt Nam như: GS. Đỗ Đình Giao: Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, NXB Chính trị
Quốc gia, H, 1994; PGS. Đỗ Hoài Nam: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát
triển mũi nhọn, NXB KHXH, H, 1996; Lê Du Phong: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

công - nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, thực trạng và triển vọng, NXB Chính
trị Quốc gia, H, 2003; Trần Ngọc Hiên: Mối quan hệ công - nông nghiệp - dịch vụ
trong sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, H, 1997; PGS.TS. Nguyễn Văn Khanh: Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế
nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị
Quốc gia, H, 2003; Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương và Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn: Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, H, 2003; Davit Dapice: Việt Nam cải cách
kinh tế theo hướng rồng bay, NXB Chính trị Quốc gia, H, 1994…
ở Trung ương và địa phương có nhiều đề tài nghiên cứu, về chuyển dịch
CCKT: Đề tài KX- 08 “Phát triển tổng thể kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam”, 1995.
Thành uỷ Hà Nội có Chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm 01X13 và kết quả
nghiên cứu đã in thành sách: Hai mươi năm đổi mới ở Thủ đô Hà Nội định hướng phát
triển đến năm 2010, NXB Hà Nội, 2005. Cuốn sách là công trình nghiên cứu công phu,
nội dung phong phú, đề cập đến hầu hết các vấn đề cơ bản của quá trình đổi mới ở Thủ
đô, trong đó có vấn đề CCKT và chuyển dịch CCKT. Đây cũng là công trình tổng kết
thực tiễn của Hà Nội.

Đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, viết về lĩnh vực này và đã bảo vệ thành công như: Đào Thị
Vân, “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 1997 - 2003”. Luận văn thạc sĩ chuyên
ngành lịch sử Đảng, đã bảo vệ thành công tại ĐHQG, Hà Nội, năm 2004; Nguyễn
Ngọc Thanh, “Đảng bộ huyện Gia Lâm (Hà Nội) lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế (1991 - 2000)”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng, đã bảo vệ
thành công tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội 2004; Đặng Thị Kim Oanh,
“Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1997 đến năm
2003”. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng, đã bảo vệ thành công tại ĐHQG,
Hà Nội, năm 2005
Ngoài ra cũng có nhiều bài viết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế đăng trên các

tạp chí chuyên ngành.
Các công trình nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế ở đồng bằng sông Hồng hoặc cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn ở nước ta… Một vài công trình có đề cập đến sự
lãnh đạo của Đảng bộ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở một số tỉnh. ở Hà Nội mới chỉ có một công trình nghiên cứu về Đảng
bộ Gia Lâm lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Huyện Gia Lâm. Chưa có một
công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về: Đảng bộ
thành phố Hà Nội lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, từ 1996 đến 2005.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
+ Làm rõ quá trình vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối, chủ trương của
Trung ương trong lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương của
Đảng bộ Thành phố Hà Nội, từ 1996 đến 2005.
+ Đánh giá bước đầu thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở Hà Nội, từ 1996 đến 2005.

+ Nêu lên một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, từ 1996 đến 2005.
- Nhiệm vụ:
+ Trình bày một cách có hệ thống đường lối, chủ trương của Đảng về phát
triển kinh tế, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ 1996 đến 2005.
+ Trình bày quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội vận dụng đường lối, chủ
trương của Trung ương, lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thủ đô Hà
Nội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ 1996 đến 2005.
+ Phân tích kết quả quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của Đảng bộ Hà Nội.
+ Tổng kết những kinh nghiệm trong lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của Đảng bộ Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Là sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội, là nghiên cứu những chủ trương, giải pháp
của Đảng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ 1996 đến 2005.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Địa bàn nghiên cứu là Thành phố Hà Nội. Thời gian nghiên cứu từ tháng 5
- 1996 (Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XII) đến tháng 12 - 2005 (Đại
hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIV)
+ Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế có một số nội dung chính: chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vùng, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Luận văn tập trung nghiên cứu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được tiến hành trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng một số phương pháp chuyên ngành như: Phương pháp lịch
sử và phương pháp lôgic, ngoài ra còn kết hợp các phương pháp như phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn…
- Nguồn tư liệu:
+ Các văn kiện Đại Hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X và nghị quyết Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khoá VI, VII, VIII, IX về phát triển kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Tác phẩm của Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo kinh tế.
+ Các văn kiện Đại hội, hội nghị của Đảng bộ Thành phố Hà Nội các khoá
IX, X, XI, XII, XIII, XIV, các nghị quyết chỉ thị một số Quận uỷ, Huyện uỷ tiêu

biểu về kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Báo cáo hàng năm của Thành uỷ,
UBND thành phố, Báo cáo của Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Công nghiệp, Sở Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Sở du lịch - Thương mại. Niên giám thống kê thành
phố, tài liệu khảo sát thực tế…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá chủ trương, giải pháp của Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong
lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương, từ 1996 đến 2005.
- Phân tích đánh giá một cách khách quan, khoa học thành tựu và hạn
chế trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp
phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở thủ đô Hà Nội, từ 1996 đến
2005.
- Rút ra một số kinh nghiệm của Đảng bộ Hà Nội về lãnh đạo, chỉ đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng tham khảo trong nghiên cứu
và giảng dạy lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 7 tiết.

Chương 1
Những chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ Hà Nội thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(1996 - 2000)

1.1. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế
1.1.1.Một số khái niệm về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế, đặc biệt trong đường lối đổi mới
đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức sâu sắc việc chuyển dịch CCKT,

và coi đây là một trong những nội dung cốt lõi quan trọng nhất trong chiến lược
phát triển kinh tế theo định hướng XHCN. Vì thế, việc xác định được một CCKT
hợp lý sẽ thúc đẩy việc xây dựng cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cơ cấu
lao động, tạo cơ sở vững chắc cho quá trình phân công lao động, xã hội hóa lực
lượng sản xuất, đổi mới quan hệ sản xuất, đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, tạo động lực to lớn thúc đẩy nhằm đạt mục tiêu kinh tế - xã hội.
Mặt khác, chuyển dịch CCKT còn có vai trò đặc biệt quan trọng để đưa nước ta từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo công cuộc
đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương và kiên quyết lãnh đạo thực
hiện chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH.
C.Mác khi phân tích quá trình phân công lao động xã hội đã chỉ rõ: “chuyển
dịch cơ cấu kinh tế xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với quá trình
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất” [59, tr.70].
Khi xét CCKT là nói đến tổng thể cấu trúc của nền kinh tế với các bộ phận
hợp thành, với tỷ trọng tương ứng của mỗi bộ phận và quan hệ tương tác giữa các
bộ phận ấy trong quá trình sản xuất xã hội. CCKT chỉ ổn định tương đối theo thời
gian và không gian nhất định, nó thay đổi và phát triển theo sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Trong từng thời kỳ nhất định của quá trình tăng trưởng kinh tế, nhà

nước phải thông qua việc nhận thức các quy luật kinh tế khách quan, phân tích đánh
giá các xu thế của nền kinh tế, tìm ra phương án tối ưu để điều chỉnh CCKT trong
những điều kiện cụ thể của đất nước.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, xuất bản năm 2003: “cơ cấu kinh tế là
tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định
hợp thành” [108, tr. 610].
CCKT giữ vai trò cốt lõi của nền kinh tế - xã hội, thể hiện trình độ phát triển
chuyên môn hóa các ngành kinh tế trong từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử. CCKT
phản ánh nội dung kinh tế của một xã hội, một vùng nên nó có lịch sử không ngừng
vận động, phát triển. CCKT không phải là hệ thống tĩnh mà là hệ thống động, các
nhân tố của CCKT vận động trong mối quan hệ hữu cơ tác động lẫn nhau, ràng

buộc chặt chẽ với nhau; giai đoạn sau cao hơn, hoàn thiện hơn so với giai đoạn
trước.
CCKT mang tính khách quan, được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội, sự tăng trưởng của các yếu
tố cấu thành nền kinh tế.
CCKT có các loại khác nhau; có thể nghiên cứu chuyển dịch CCKT dưới
nhiều trình độ, lĩnh vực nhưng về cơ bản nội dung đó gồm: cơ cấu nền kinh tế quốc
dân, cơ cấu theo ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu theo vùng, cơ cấu theo đơn vị hành
chính - lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế.
Trong những nội dung chủ yếu của CCKT, CCKT ngành là nội dung cơ bản
nhất quyết định phản ánh sự phát triển theo quan hệ cung cầu của thị trường, theo
tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Cơ cấu các thành phần kinh tế chỉ rõ thành
phần quan trọng thực hiện CCKT ngành, theo hướng của cơ cấu ngành, các thành
phần kinh tế được tổ chức thực hiện. Nhưng cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần
kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên từng lãnh thổ, địa phương dựa
trên cơ sở sự phân bố lãnh thổ một cách hợp lý để phát triển các ngành và các thành
phần kinh tế, đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân.

Để có CCKT hợp lý phải thỏa mãn được một số tiêu chí cơ bản sau: Thứ
nhất, CCKT phải phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, trước hết là quy luật
kinh tế cơ bản. Thứ hai, CCKT phải khai thác hợp lý và phát huy được nguồn lực,
tiềm năng của đất nước, từng vùng, từng địa phương, vận dụng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Thứ ba, CCKT phải tạo nên sự phát triển cân
đối, phát huy lợi thế của các vùng các ngành kinh tế. Thứ tư, CCKT phải tạo lên sự
gắn kết giữa các loại thị trường trong nước và ngoài nước, mở rộng quan hệ hợp tác
kinh tế quốc tế. Thứ năm, CCKT phải tạo được tích lũy ngày càng tăng cho nền
kinh tế quốc dân, cùng với xã hội phát triển lành mạnh, giữ vững quốc phòng an
ninh.
Những nội dung chủ yếu của CCKT quốc dân có thể nghiên cứu dưới nhiều

góc độ, lĩnh vực, nhưng về cơ bản gồm: CCKT ngành kinh tế, CCKT thành phần
kinh tế, CCKT theo đơn vị hành chính lãnh thổ:
Cơ cấu kinh tế theo ngành kinh tế:
CCKT ngành là bộ phận cấu thành cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là nòng
cốt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế.
Có nhiều cách phân loại ngành trong mỗi nền kinh tế. Có thể dựa vào đặc
điểm kinh tế kỹ thuật của mỗi ngành mà phân thành 3 ngành chủ yếu một cách khái
quát nhất là: công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trong CCKT ngành, lĩnh vực quan
trọng nhất là nông nghiệp và công nghịêp, nhưng nông nghiệp và công nghiệp muốn
phát triển mạnh phải thông qua hệ thống dịch vụ.
Nông nghiệp, bao gồm nông - lâm - ngư nghiệp gắn liền với phát triển toàn
diện nông nghiệp nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Nông nghiệp là ngành trực
tiếp sản xuất ra các sản phẩm vật chất trực tiếp phục vụ nhu cầu thiết yếu cho sự tồn
tại phát triển của xã hội loài người, là nơi cung cấp sức lao động, nguyên liệu và là
thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm cho ngành công nghiệp và dịch vụ.
Công nghiệp, bao gồm công nghịêp chế tạo, công nghiệp khai khoáng và
luyện kim, công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu, công nghiệp nguyên liệu, công nghiệp điện tử tin học…Công

nghiệp đóng vai trò quan trọng quyết định sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng. Do vậy, công nghiệp được xếp vào vị trí hàng đầu của quá trình CNH, HĐH.
Dịch vụ, là cầu nối giữa sản xuât nông nghiệp với công nghiệp, giữa sản
xuất với tiêu dùng; thể hiện quá trình trao đổi giữa các vùng, miền, giữa thành thị
với nông thôn, giữa trong nước với ngoài nước. Trong quá trình sản xuất, dịch vụ có
vai trò đáp ứng đầy đủ các nhu cầu đầu vào và đầu ra cho sản phẩm. Dịch vụ thực
hiện mối tương tác giữa các bộ phận hợp thành CCKT. Khi trình độ phát triển kinh tế
hàng hóa ngày càng cao, sự phân công lao động hóa ngày càng nhanh, càng sâu rộng
thì tỷ lệ dịch vụ trong CCKT ngày càng lớn.
Việc phân tích cơ cấu ngành kinh tế không chỉ phân tích về mặt lượng, (số
lượng, tỷ trọng…) mà điều quan trọng phải phân tích cho được mặt chất của cơ cấu

ngành: vị trí, vai trò, xu hướng vận động, sự tương tác giữa các ngành hoặc phân
ngành trong mối liên hệ phát triển chung với toàn bộ nền kinh tế, khả năng hướng
ngoại, khả năng chiếm lĩnh thị trường và đáp ứng nhu cầu xã hội, quan hệ giữa cơ
cấu ngành với cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế v.v.
Cơ cấu ngành luôn vận động và biến đổi phát triển không ngừng, nhất là
trong điều kiện cơ chế thị trường. Do vậy, khi phân tích cơ cấu ngành, phải làm rõ
tính quy luật của sự vận động, tìm ra phương hướng chuyển dịch CCKT ngành phù
hợp với CCKT khác và đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân
trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Thông thường, một nền kinh tế có ba
ngành kinh tế cơ bản: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Việc sắp xếp thứ tự ưu
tiên như thế nào là phụ thuộc vào lợi thế của từng ngành và của mỗi nước trong
từng thời kỳ khác nhau của đất nước. Cơ cấu ngành còn quyết định cơ cấu đầu tư
vào mỗi ngành trong từng thời kỳ để từ đó đánh giá được hiệu quả đầu tư cho mỗi
ngành, tính toán được cơ cấu sản phẩm và khả năng thỏa mãn nhu cầu thị trường
của từng loại sản phẩm.
Chuyển dịch CCKT ngành là quá trình làm thay đổi cấu trúc các mối liên hệ
của các ngành hoặc các phân ngành trong một ngành theo xu hướng, mục tiêu và
phương hướng nhất định. Đó là sự thay đổi có mục đích, có định hướng và lựa chọn
trên cơ sở phân tích đầy đủ, có cơ sở lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng

đồng bộ các giải pháp để chuyển dịch cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái
khác một cách hợp lý và có hiệu quả hơn.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH là quá trình làm
thay đổi nền kinh tế từ chỗ có cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, sang
cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại, đó là quá trình làm tăng tốc độ
và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế gắn với sự biến đổi của công nghệ và
năng suất lao động, tạo lên sự phát triển nhanh và bền vững trong nền kinh tế quốc
dân. Trong quá trình ấy cơ cấu phân ngành trong nội bộ ngành cũng có những biến
đổi đáng kể cả về chất và lượng. Vì thế, yêu cầu đặt ra là phải xác định được CCKT
hợp lý và có hiệu quả, xác định được các ngành mũi nhọn, các ngành trọng điểm,

những ngành có tương lai phát triển và đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước,
ngoài nước và những vấn đề kinh tế xã hội đặt ra trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất
nước.
Cơ cấu kinh tế vùng thể hiện sự phân công lao động trên lãnh thổ với lợi
thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi vùng hình thành chuyên môn hóa,
đa dạng hóa nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực và tiềm năng kinh tế trong vùng
mang lại giá trị kinh tế. CCKT vùng gắn chặt chẽ với cơ cấu ngành kinh tế, hợp
thành hai mặt của quá trình phát triển.
Cơ cấu thành phần kinh tế đòi hỏi phải tạo được mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ
giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân nhằm khai thác tiềm năng
nhân lực vật lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đai Hội X chỉ rõ: nước ta
hiện nay có năm thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư
nhân (kinh tế cá thể, tiểu chủ); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Trong quá trình phát triển kinh tế, lực lượng sản xuất luôn biến động trong quá
trình phát triển sản xuất và tái sản xuất. Vì vậy để phù hợp với quy luật phát triển kinh
tế khách quan CCKT cũng thường xuyên biến đổi, chuyển dịch.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, xuất bản năm 2003:

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình cải biến kinh tế xã hội từ
trạng thái lạc hậu, mang nặng tính chất tự cấp tự túc từng bước chuyên môn
hóa hợp lí, trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở đó tạo ra năng
xuất lao động cao, hiệu quả kinh tế cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh, cho
nền kinh tế nói chung. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm việc chuyển
biến cơ cấu kinh tế theo ngành, theo vùng lãnh thổ và các thành phần kinh tế
[108, tr.535].
Việt Nam là một nước có nền kinh tế kém phát triển so với các nước trên thế
giới và khu vực. Vì thế, việc chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH vừa là vấn

đề mang tính tất yếu khách quan, đồng thời là quá trình đi lên từng bước dựa trên sự
kết hợp mật thiết của các điều kiện chủ quan, các lợi thế kinh tế - xã hội tự nhiên
trong nước, trong vùng, đơn vị kinh tế với các khả năng đầu tư, hợp tác liên kết, liên
doanh về sản xuất, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm của các nước, các vùng, đơn vị kinh tế
khác nhau.
Chuyển dịch CCKT phải được coi là điểm chủ yếu, nội dung cơ bản lâu
dài trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Nếu xác định được phương hướng và
phương pháp chuyển dịch CCKT đúng, sẽ có hiệu quả kinh tế xã hội cao trong
sự phát triển; ngược lại, sẽ phải trả giá đắt cho tương lai. Trong thời đại ngày
nay - thời đại của sự bùng nổ cách mạng khoa học - công nghệ và xu hướng quốc
tế hóa sản xuất - không nước nào không phải tính đến sự chuyển dịch CCKT.
Do điều kiện thực tế của nền kinh tế nước ta từ một nền kinh tế nông nghiệp
nghèo nàn lạc hậu, cùng với sự tàn phá khốc liệt của nhiều năm chiến tranh giành
độc lập và bảo vệ Tổ quốc, vì thế, để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển kịp và
bằng nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới, không bị tụt hậu, đói
nghèo, điều tất yếu phải thực hiện CNH, HĐH. Trên cơ sở đó ĐCS Việt Nam đã
khẳng định quan điểm nhất quán CNH, HĐH là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời
kỳ quá độ lên CNXH.
Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khóa VII (7-1994), đã xác
định rõ: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản

xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.
Mục tiêu chủ yếu của CNH, HĐH là biến nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất kỹ - thuật hiện đại, CCKT hợp lý, quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lượng sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, hưởng
thụ văn hóa tinh thần của nhân dân, đảm bảo quốc phòng an ninh vững chắc, dân

giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Đặc điểm lớn của CNH, HĐH ở nước ta là vì mục tiêu xây dựng thành công
CNXH. Đảng ta đã xác định CNH, HĐH trước hết là CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn tạo cho nông nghiệp nông thôn những điều kịên thực tiễn về cơ sở vật
chất kỹ thuật, con người, khoa học công nghệ.
Nước ta tất yếu phải tiến hành CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân. Bởi vì, Thứ
nhất, chỉ có CNH, HĐH mới có thể xây dựng được cơ sở vật chất cho chế độ mới.
Văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994), chỉ rõ: “CNH, HĐH
là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung quanh, giữ
vững được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng
XHCN” [29, tr.27]. Thứ hai, CNH, HĐH còn tạo ra lực lượng sản xuất mới về chất
tạo tiền đề cho sự hình thành những mối quan hệ mới về kinh tế - xã hội, chính trị
trong toàn xã hội. Thứ ba, CNH, HĐH còn đáp ứng yêu cầu khách quan của việc
củng cố và tăng cường khả năng quốc phòng, của sự thống nhất giữa sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN. CNH, HĐH tạo điều kiện mở rộng kinh tế đối
ngoại, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế [54, tr. 82-84].
Một trong những nội dung cơ bản của CNH, HĐH là xác lập CCKT mới,
hợp lý tương ứng với cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của CNXH. CCKT mới là
CCKT công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Quá trình chuyển dịch CCKT trong thời kỳ quá độ là quá trình chuyển từ nền
kinh tế có cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu công nghiệp -
dịch vụ - nông nghiệp. Đặc trưng cơ bản của quá trình chuyển dịch là giá trị sản

xuất của ba ngành trên đều tăng qua các giai đoạn, nhưng tỷ trọng của ngành nông
nghiệp giảm dần, tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng lao động trong
nông nghiệp giảm, tỷ lệ lao động trong công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
ở nước ta quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình
phức tạp kéo dài trong suốt thời kỳ quá độ, điều đó đòi hỏi Đảng và nhà nước, các
cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở từng địa phương phải quan tâm lãnh đạo, tìm tòi,
sáng tạo, năng động để xây dựng một CCKT hợp lý theo hướng CNH, HĐH.

Để đẩy mạnh chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, cần dựa vào một
số quan điểm sau:
- Chuyển dịch CCKT phải nhằm thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, phù
hợp với mô hình định hướng XHCN.
- Chuyển dịch CCKT phải khai thác được tối ưu khả năng và thế mạnh của
từng vùng kinh tế trong cả nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần
kinh tế, tập trung đầu tư đúng mức cho một số vùng kinh tế trọng điểm, có khả năng
thu hồi vốn nhanh, đem lại hiệu quả kinh tế.
- Chuyển dịch CCKT phải đảm bảo các quy mô và bước đi thích hợp, chú
trọng quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, tạo được nhiều việc làm cho người lao
động, đặc biệt chú ý hình thành và phát triển các ngành kinh tế trọng điểm, ngành
kinh tế mũi nhọn có công nghệ kỹ thuật tiên tiến hiện đại.
- Chuyển dịch CCKT phải đảm bảo được nền kinh tế có hiệu quả, có môi
trường sinh thái bền vững, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế, gắn tăng cường ổn
định chính trị - xã hội và an ninh quốc phòng.
- Chuyển dịch CCKT phải phù hợp với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác
kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tranh thủ khả năng thu hút vốn đầu tư
và công nghệ hiện đại của nước ngoài nhằm phát triển kinh tế thúc đẩy mạnh quá
trình chuyển dịch CCKT trong nước.
Có thể thấy vấn đề xuyên suốt là:
Quá trình chuyển dịch CCKT được hoạt động thông qua hoạt động đầu tư và
sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế dưới tác động của cơ chế thị trường
được nhà nước hướng dẫn và thúc đẩy bằng công cụ quản lý vĩ mô và chương trình
đầu tư dựa vào nguồn vốn tập trung [31, tr.12].

Nội dung cơ bản của CNH, HĐH bao gồm hai vấn đề cốt lõi là áp dụng rộng rãi
thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và các ngành kinh tế,
xây dựng CCKT phát triển hợp lý có hiệu quả và ngày càng hiện đại. Vì vậy, chuyển dịch
CCKT và CNH, HĐH có mối quan hệ biện chứng, gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Chuyển dịch CCKT theo hướng hiện đại sẽ tạo điều kiện thuận lợi và là nội

dung cốt lõi của CNH, HĐH đất nước. Cho nên, qúa trình chuyển dịch CCKT vừa là
nguyên nhân vừa là kết quả của qúa trình CNH, HĐH và ngược lại CNH, HĐH nền kinh
tế sẽ tạo tiền đề vật chất - kỹ thuật và là con đường phương hướng, mục tiêu thúc đẩy
chuyển dịch CCKT phổ biến là sản xuất nhỏ mà chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lên một
nền kinh tế công nghiệp ngày càng hiện đại, có năng xuất cao, thúc đẩy sự phát triển đồng
bộ nền kinh tế quốc dân.
Đối với nước ta hiện nay, chuyển dịch CCKT tất yếu phải gắn liền và phải
phát triển theo hướng CNH, HĐH. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là
nội dung là điều kiện cho sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế quốc
dân và thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp.
Chuyển dịch CCKT là chiến lược kinh tế tổng quát nhằm khai thác lợi thế tối
ưu của các vùng, các ngành, các lĩnh vực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo nên sự
gắn kết giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế, xuất hiện những yêu cầu
đòi hỏi lớn hơn để các yếu tố thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Để phát triển kinh tế đất nước, ở nước ta có thể đẩy mạnh chuyển dịch
CCKT theo hướng CNH, HĐH mới có thể khắc phục được nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với các nước trên thế giới và khu vực, tạo điều kiện mở rộng thị
trường trong và ngoài nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút các nguồn
vốn đầu tư, kế thừa có chọn lọc kinh niệm quản lý, chuyển giao công nghệ tiên tiến
trên thế giới.
Sự chuyển dịch CCKT từ lạc hậu, ít hiệu quả sang cơ cấu hợp lý tối ưu, có
hiệu quả cao gắn với bước tăng trưởng cơ sở vật chất kỹ thuật do quá trình CNH,
HĐH tạo ra sẽ góp phần quan trọng tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị
XHCN, từ đó thúc đẩy sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, phát triển

văn hóa xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững an ninh quốc phòng,
rút ngắn khoảng cách chênh lệch về kinh tế giữa các vùng miền, nhất là vùng núi,
vùng sâu, vùng xa, nông thôn với thành thị, tạo động lực cho phát triển toàn diện
đất nước.

Do vậy, có thể thấy chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là một trong
những nội dung kinh tế cốt lõi trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
1.1.2. Đường lối của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ
đổi mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo lý luận cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin về CNXH và con đường tiến lên CNXH. Người chỉ rõ mối quan
hệ gắn bó hữu cơ, tác đông biện chứng thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển giữa hai
ngành kinh tế cơ bản: công nghiệp và nông nghiệp. Tháng 4-1962, trong bài nói
chuyện tại hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam (khóa
III), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền
kinh tế. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng phát
triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiếp bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến
mục đích” [55, tr.544-545].
Nước ta là một nước nông nghiệp truyền thống do vậy việc phát triển nông
nghiệp luôn được chú trọng hàng đầu trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ lên CNXH. Người khẳng định: “phải lấy nông nghiệp làm chính, phải toàn diện
phải chú ý các mặt công nghiệp, thương nghiệp tài chính, ngân hàng, giao thông,
kiến trúc, văn hóa, giáo dục, y tế các ngành này phải lấy nông nghiệp làm trung
tâm” [56, tr.396]. Nông thôn phải tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm thì mới
giàu có. Nông thôn giàu sẽ mua nhiều hàng hóa do công nghiệp sản xuất ra. Đồng
thời nông nghiệp cung cấp đầy đủ nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và
thành thị. Như thế là nông thôn giàu có giúp cho công nghiệp phát triển. Công
nghiệp lại thúc đẩy nông nghiệp phát triển mạnh hơn nữa. Công nghiệp, nông
nghiệp phát triển thì dân giàu nước mạnh. Khi đánh giá vai trò của nông nghiệp, Hồ
Chí Minh chỉ rõ:

Vì nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu, đồng thời là
nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ to nhất hiện nay, cho
nên cần cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát trển các ngành

kinh tế khác. Phải cải tạo và phất triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công
nghiệp hóa nước nhà [55, tr.14-15].
Những tư tưởng trên của Hồ Chí Minh đã đặt nền móng quan trọng cho việc
xác định một CCKT hợp lý giữa công nghiệp và nông nghiệp trong xây dựng
CNXH ở nước ta. Vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn tiến lên CNXH thì phải phát
triển kinh tế công nghiệp và nông nghiệp vì hai ngành đó có quan hệ khăng khít, hỗ
trợ, tác động, thúc đẩy nhau cùng phát triển trong nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, cơ sở quan trong để xây dựng chủ
trương, đường lối về phát triển các ngành kinh tế, CCKT hợp lý phù hợp với nhiệm
vụ xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở nước ta .
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH ở miền Bắc từ năm 1954 - 1975
và trên cả nước từ 1975 - 1985, căn cứ vào tình hình lịch sử cụ thể, Đảng ta đã có
nhiều chủ trương để phát triển kinh tế, trong đó nhấn mạnh vai trò và mối quan hệ
giữa công nghiệp và nông nghiệp. Tuy nhiên do nhiều lý do khách quan, chủ quan,
có lúc còn nóng vội trong việc xác định mô hình kinh tế, vì thế việc xác định
CCKT, chuyển dịch CCKT có những yếu tố không hợp lý. CCKT của cả nước và
các địa phương suốt trong một thời gian dài chuyển dịch không đáng kể, kinh tế
tăng trưởng chậm, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống của
nhân dân vô cùng khó khăn.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12 - 1986) đã tổng kết nêu lên bốn bài học kinh
nghiệm lớn, trong đó có bài học: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế và hành
động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng” [26,
tr.20]. Bài học này có ý nghĩa to lớn, nhưng quan trọng nhất là trên lĩnh vực kinh tế.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, quan điểm, chủ trương về
CCKT và chuyển dịch CCKT của Đảng là nhất quán, xuyên suốt và ngày càng hoàn

thiện qua các kỳ Đại hội, các Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị các khóa VI, VII,
VIII, IX, X.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986), với tinh thần đổi mới toàn diện,

bắt đầu đổi mới từ tư duy kinh tế, để phát triển kinh tế Đảng ta chỉ rõ:
Muốn đưa nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân
đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý,
trong đó các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại sản xuất có
quy mô và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối, liên kết
với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế, đảm bảo nền kinh tế phát triển
ổn định [26, tr.47].
Trong bố trí lại CCKT, Đại hội chủ trương phải đưa nông nghiệp lên mặt
trận hàng đầu, đưa nông nghiệp tiến một bước theo hướng sản xuất lớn; ra sức phát
triển công nghiệp nhẹ. Đây là sự cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa
XHCN trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH, là bước đột phá
trong tư duy và nhận thức đổi mới về chuyển dịch CCKT trong thời kỳ mới của
Đảng. Đại hôi chỉ rõ: Bố trí lại CCKT, phải điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư xây dựng
cơ bản của nhà nước nhằm tập trung cho việc thực hiện ba chương trình kinh tế lớn:
“lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu” [26, tr. 47].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6-1991), đã tổng kết 5 năm đổi mới,
khẳng định một trong những thành tựu đầu tiên là trên lĩnh vực kinh tế đã đạt được
những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện mục tiêu của ba chương trình kinh tế. Đại
hội chỉ rõ: “Những kết quả thực hiện các mục tiêu gắn liền với những chuyển biến
tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố trí lại cơ cấu kinh tế” [28, tr. 19-
20].
Đại hội lần thứ VII đã đề ra những định hướng trong chính sách kinh tế trong
đó có quan điểm đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn liền với quá trình xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật, chuyển dịch CCKT theo hướng từng bước công nghiệp hóa,
thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu. Quan điểm về chuyển dịch CCKT được
hiểu: Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng

nông thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu nhằm ổn định tình hình kinh tế xã hội; tăng tốc
độ và tỷ trọng của công nghiệp, mở rộng kinh tế dịch vụ theo hướng huy động triệt
để các khả năng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; đẩy mạnh thăm dò,

khai thác, chế biến dầu khí và một số loại khoáng sản; lựa chọn để phát triển một số
ngành công nghiệp.
Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh chỉ rõ: “Khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ
bản nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với
phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng” [31, tr.12]. Trong quá
trình chuyển đổi nền kinh tế quốc dân sẽ gồm nhiều ngành, nghề, nhiều quy mô,
nhiều trình độ công nghệ. Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp
chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đẩy mạnh
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại,
phát triển kinh tế dịch vụ, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng. Xây dựng nền công
nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước hết là ngành trực tiếp phục vụ nông
nghiệp. Thực hiện chuyên môn hóa và liên kết kinh tế giữa các vùng, các địa
phương. Xây dựng các trung tâm kinh tế của từng vùng để tạo điều kiện liên kết
giữa công nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn.
Đến năm 1996, con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định
rõ hơn. Trên thế giới cuộc cách mạng khoa học - công nghệ ngày càng phát triển
cao, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa nền kinh tế. Nước ta cũng như những
nước đang phát triển khác trên thế giới đều có thời cơ và vận hội mới để đẩy mạnh
phát triển kinh tế trong nước. Trên cơ sở đánh giá thực tế thành tựu đạt được sau 10
năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6-1996), đã khẳng định những
nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho
CNH, HĐH đã cơ bản hoàn thành, cho phép nước ta chuyển sang một thời kỳ mới,
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH với những nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể. Đại hội
khẳng định:
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan
hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống

vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã

hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp [34, tr.80].
Đại hội VIII nhấn mạnh: “Đặc biệt coi trọng Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn”, chỉ rõ nội dung cơ bản của CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn những năm còn lại của thập kỷ 90 là:
- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập trung
chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều
về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng
được yêu cầu của công nghiệp chế biến và thị trường trong và ngoài nước
- Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa…
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ ngày càng
cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.
- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới
bao gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp,
các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông
thôn mới văn minh hiện đại [34, tr.87].
Phát triển công nghiệp, ưu tiên các ngành chế biến lương thực - thực phẩm,
sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ thông
tin. Phát triển có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng (năng lượng - nhiên liệu,
vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, đóng và sửa tàu thủy, luyện kim, hóa chất), tăng
thêm năng lực sản xuất tương ứng với yêu cầu tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả
năng độc lập về kinh tế [34, tr.88].
Phát triển nhanh du lịch và các dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính -
viễn thông, thương mại, vận tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm công
nghệ, pháp lý, thông tin…và các dịch vụ phụ vụ cuộc sống nhân dân. “Từng bước
đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong
khu vực”.


Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ. Chuyển dịch CCKT lãnh thổ trên cơ sở
khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho
tất cả các vùng đều phất triển. Đầu tư ở mức cần thiết cho các vùng kinh tế trọng
điểm để thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế [34, tr.89].
Mở rông và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đẩy mạnh xuất khẩu, coi
xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng mức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường.
Chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các
định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp [34, tr.91].
Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa VIII (12-1997), chỉ rõ: Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải mở rộng kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, công nghệ
và ra nhập thị trường quốc tế. Nhưng trên cơ sở độc lập tự chủ, phát huy đầy đủ các
yếu tố nội lực, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, bao gồm nguồn lực con người,
đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống lịch sử [37, tr.8]. Hội nghị đã ra nghị quyết
“Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu
kinh tế xã hội đến năm 2000” [37, tr.27].
Hội nghị nhấn mạnh cần tập trung thực hiện tốt chủ trương: “Thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư”. Nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế là định hướng cơ bản cho sự chuyển dịch CCKT, điều
chỉnh cơ cấu đầu tư. Muốn vậy phải phát triển nhanh, mạnh, vững chắc các ngành
công nghiệp, trước hết là ngành công nghiệp chế biến có khả năng cạnh tranh cao
[37, tr.54-55]. Nghị quyết xác định những việc cần tập trung thực hiện là “Đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động ở nông
thôn” [37, tr.62]. “Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản” [37, tr.66]. “Phát
triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc
doanh trong nông nghiệp và nông thôn, phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu,
vùng xa” [37, tr.67].
Cụ thể hóa hơn nữa chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn
theo hướng CNH, HĐH, tháng 4-1998, Bộ Chính trị ra nghị quyết 10

“Về vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nghị quyết nhấn mạnh việc chuyển dịch CCKT nông
nghiệp - nông thôn theo hướng CNH, HĐH là phải tạo ra những chuyển hướng
mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hóa với cơ cấu đa dạng vừa để xuất khẩu với
sức cạnh tranh cao, vừa khai thác lợi thế tiềm năng của từng vùng sinh thái, tăng
nhanh năng xuất chất lượng và hiệu quả của nông nghiệp. Chuyển dịch CCKT nông
nghiệp - nông thôn theo hướng CNH, HĐH nghĩa là từ chỗ nặng về trồng trọt, chủ
yếu là cây lương thực sang sản xuất các cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hóa cao;
từ chỗ chủ yếu làm nông nghiệp sang phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ. Trong đó giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản giữa trồng
trọt với chăn nuôi, giữa nông nghiệp với lâm nghiệp, giữa nông - lâm nghiệp với
công nghiệp và dịch vụ…
Ngày 10-11-1998, BCT khóa VIII ra Nghị quyết 06-NQ/TW: " Về một số
vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn". Nghị quyết khẳng định bốn quan điểm
phát triển nông nghiệp - nông thôn:
Một là, coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp (gồm cả
nông nghiệp, ngư nghiệp ) và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế
nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là
cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước theo định hướng XHCN.
Hai là, đẩy mạnh chuyển dịch CCKT, gắn phát triển nông nghiệp với công
nghiệp chế biến, ngành nghề, gắn sản xuất với thị trường để hình thành sự liên kết
nông - công nghiệp - dịch vụ và thị trường trên địa bàn nông thôn và trên phạm vi
cả nước, gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới; gắn công nghiệp
hóa với thực hiện dân chủ hóa và nâng cao dân trí đào tạo nhân lực ở nông thôn, tạo
ra sự phân công lao động xã hội mới, giải quyết việc làm nâng cao đời sống, xóa
đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống giữa thành thị và nông thôn.
Ba là, phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các tiến bộ

khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng, đáp ứng ngày
càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp, hướng mạnh ra
xuất khẩu.

Bốn là, phát triển nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế HTX dần trở thành nền tảng hợp tác
và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng pháp luật.Tiếp tục phát triển
nhiều hình thức kinh tế hợp tác; các loại hình HTX dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân,
từng bước xây dựng hợp tác xã nông nghiệp theo luật hợp tác xã; chú trọng liên kết
kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác. Tạo điều kiện và khuyến khích
mạnh mẽ hộ nông dân và những người có khả năng đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
Tuy nhiên, chuyển dịch CCKT nông nghiệp trước hết phải giữ vững mục tiêu
bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống. Nghị quyết đề ra một số
biện pháp để chuyển dịch CCKT nông nghiệp: đẩy mạnh thâm canh lúa, từng bước
hình thành các vùng tập trung sản xuất lúa năng suất, chất lượng cao gắn với chế
biến; hình thành các vùng sản xuất tập trung cây công nghiệp, rau, hoa quả; khuyến
khích kinh tế hộ, HTX và trang trại chăn nuôi quy mô vừa và lớn…đưa chăn nuôi
trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp.
Cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về đẩy mạnh chuyển dịch
CCKT nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, ngày 15-6-2000, Chính phủ ra Nghị
quyết 09 về một số chủ trương và chính sách chuyển đổi CCKT và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp. Nghị quyết 09 của Chính phủ cho phép giảm diện tích lúa cả
nước từ 3,4 triệu ha xuống còn khoảng 4 triệu ha, tập trung sản xuất lúa ở những
vùng trọng điểm thích hợp nhất với cây lúa; các địa phương chuyển những vùng
trồng lúa bấp bênh sang sản xuất những sản phẩm khác phù hợp và có giá trị kinh tế
cao.
Đường lối và những quan điểm chỉ đạo về CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn của Đảng thể hiện sự đổi mới ngày càng rõ, trong nhận thức và tư duy lý luận
của Đảng về CNH, HĐH và chuyển dịch CCKT ở nước ta nhằm thực hiện tốt mục

tiêu phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về chuyển dịch CCKT và
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã được cấp ủy Đảng các địa phương quán
triệt, thực hiện một cách đúng đắn, sáng tạo phù hợp với tiềm năng và lợi thế của

từng địa phương trên phạm vi cả nước. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng bộ Thành
phố Hà Nội đề ra chủ trương, biện pháp, lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH, HĐH ở Thành phố Hà Nội, từ 1996 đến 2005.
1.2. Cơ cấu kinh tế ở Thành phố Hà Nội trước năm 1996
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Hà Nội
Hà Nội, Thủ đô của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nằm ở trung tâm Bắc
Bộ, giới hạn trong khoảng từ 20
0
53' đến 21
0
23' vĩ độ Bắc và từ 105
0
44' đến 106
0
02'
kinh độ Đông, tiếp giáp với 5 tỉnh: phía Bắc giáp Thái Nguyên; phía Đông giáp Bắc
Ninh, Hưng Yên; phía Tây và Tây Nam giáp Hà Tây, Vĩnh Phúc. Hà Nội có diện
tích 920,97 km
2
, bằng 0,28% diện tích tự nhiên của cả nước.

Khoảng

cách dài nhất

từ phía Bắc xuống phía Nam Thành phố trên 50 km, chỗ rộng nhất từ Tây sang
Đông 30 km. Dân số 3.118,200 người (tính đến hết năm 2004), chiếm 3,6% dân số
cả nước. Thành phố Hà Nội có 9 quận nội thành: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ,
Long Biên, Cầu Giấy, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Thanh Xuân, Hoàng Mai và 5
huyện ngoại thành: Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì,Từ Liêm [9, tr.9].
Hà Nội nằm ở châu thổ sông Hồng, trên vùng đồng bằng cao giới hạn ở phía
Bắc bởi bậc thềm Tam Đảo; phía Tây là bậc thềm Ba Vì; phía Đông và phía Nam là
vùng đồng bằng thấp được tạo thành về sau ở hạ lưu sông Hồng [9, tr.9-10].
Hà Nội có khí hậu mang đặc trưng của khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa ẩm,
với hai mùa chủ yếu trong năm: mùa nóng và mùa lạnh. Nhiệt độ không khí trung
bình năm của Hà Nội khá cao 24,4
o
C, chệnh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong năm
lên tới 12,5
o
C, nhiệt độ tối đa có thể lên tới 40
o
C, nhiệt độ tối thiểu có thể xuống 5
- 7
o
C, kéo dài 7 - 12 ngày. Độ ẩm trung bình các tháng trong năm dao động từ 71%
đến 82%, độ ẩm không khí trung bình có thể xuống 10% vào tháng 12 và tháng 1
[100, tr.10].
Sơ đồ 1.1: Dân số trung bình qua các năm [21, tr.19]

×