Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

LUẬN VĂN: Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (774.17 KB, 129 trang )











LUẬN VĂN:

Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong tổ chức và hoạt động của Hải quan
Việt Nam







1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 (sửa đổi,
bổ sung năm 2001) khẳng định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (pháp chế XHCN).
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp luật.


Mọi hành động xâm phạm lợi ích nhà nước quyền và lợi ích hợp pháp của tập
thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật".
Để hiện thực hoá điều này của Hiến pháp trong thực tiễn, ngày nay giới khoa
học pháp lý Việt Nam không chỉ tiếp tục nghiên cứu khẳng định những giá trị của Học
thuyết Pháp chế XHCN, mà còn hướng đi sâu nghiên cứu pháp chế trong từng lĩnh vực
cụ thể. Đến nay, đã có một số công trình khoa học đã được công bố như: Pháp chế
XHCN trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, pháp chế XHCN trong
hoạt động lập pháp lập quy, pháp chế trong giao thông đường bộ Song chưa có công
trình nào nghiên cứu về pháp chế và vai trò của nó trong tổ chức và hoạt động của hải
quan Việt Nam.
Kể từ năm 1990 đến nay, hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hải
quan Việt Nam không ngừng được xây dựng, hoàn thiện. Từ Pháp lệnh Hải quan 1990,
Luật Hải quan 2001 đến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan ngày


2
26/5/2005 là một bước tiến to lớn về phương diện lập pháp đối với lĩnh vực hải quan.
Trên cơ sở các văn bản pháp luật này, tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam
ngày càng đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, góp phần thúc đẩy hội nhập nền
kinh tế và đảm bảo an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo nguồn thu
ngân khố quốc gia; đồng thời, góp phần củng cố, tăng cường pháp chế XHCN trong tổ
chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức
và hoạt động của Hải quan Việt Nam không ngừng được tăng cường nhằm bảo đảm
cho pháp luật hải quan đi vào đời sống kinh tế - xã hội và được tuân thủ nghiêm
chỉnh. Hàng loạt vụ buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế xuất nhập khẩu được
phát hiện và xử lý kịp thời; góp phần quan trọng cho việc thu ngân sách nhà nước và
giữ gìn an ninh kinh tế, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên, pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan còn nhiều
tồn tại không ít những yếu kém, khiếm khuyết, như:

- Hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam vẫn còn
có nhiều bất cập, thiếu tính ổn định, thiếu tính khả thi, chưa phù hợp, đáp ứng kịp thực
tiễn đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, chưa phù hợp với các điều ước quốc tế
mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Công tác rà soát, kiểm tra việc xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động hải quan vẫn còn thiếu chủ động,
chưa trở thành yếu tố góp phần tích cực vào việc hoàn thiện, đổi mới cơ cấu tổ chức,
hoạt động hải quan.
- Sự tuân thủ pháp luật và chấp hành pháp luật hải quan của một bộ phận cán
bộ, công chức hải quan và tổ chức, cá nhân hoạt động xuất nhập khẩu vẫn còn không
nghiêm dẫn đến phát sinh tiêu cực, phiền hà, tham nhũng, gian lận thương mại, buôn


3
lậu, trốn thuế, lừa đảo rút "ruột" ngân sách nhà nước điều này tác động không nhỏ đến
đời sống kinh tế - xã hội, kinh tế đối ngoại, đầu tư, du lịch, gây mất lòng tin của Đảng,
Nhà nước, nhân dân đối với hệ thống tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam.
- Cơ chế đảm bảo cho việc tuân thủ và chấp hành nghiêm minh pháp luật, pháp
chế hải quan còn thiếu rõ ràng, minh bạch, chưa hiệu quả, cũng như chưa đủ tính cưỡng
chế đảm bảo duy trì việc tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách thường xuyên, liên
tục và đồng bộ
Vì các lý do trên tôi chọn đề tài: "Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam" để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ
Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp chế XHCN là một trong những phạm trù pháp lý cơ bản có ý nghĩa cả về
mặt lý luận và thực tiễn của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Vì vậy được nhiều học
giả quan tâm nghiên cứu, xem xét trên nhiều bình diện và nhiều khía cạnh khác nhau.
Các công trình nghiên cứu về pháp chế XHCN tiêu biểu cả trong và ngoài nước
có thể chia thành hai nhóm:
Nhóm một là các công trình nghiên cứu về pháp chế nói chung:

Đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về pháp chế XHCN đề cập
đến những vấn đề lý luận chung về pháp chế như khái niệm các mối quan hệ, nguyên
tắc của pháp chế XHCN. Điều đó được thể hiện ở một số công trình khoa học như:


4
- GS.TS Trần Ngọc Đường, Suy nghĩ về một trong những luận điểm của
V.I.Lênin, Dân chủ và pháp luật, số 11, Hà Nội, 1997, tr.2-3.
- Hồ Chủ tịch và pháp chế, TP. Hồ Chí Minh, Nxb Hội Luật gia Việt Nam,
1985, 266 trang. Sách giới thiệu những nội dung tư tưởng và yêu cầu của pháp chế của
Hồ Chí Minh.
- Triệu Tử Bình (Trung Quốc), Học tập quán triệt văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XVI - "Nghiên cứu sâu sắc Luật học, đẩy mạnh xây dựng nền pháp chế
toàn diện", Tạp chí Luật học Trung Quốc số 1/2006 Bắc Kinh, Nxb Tạp chí Luật học
Trung Quốc.
Võ Khánh Vinh: "Pháp chế xã hội chủ nghĩa - một phương thức thể hiện và
thực hiện quyền lực của nhân dân", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/1991;
Hoàng Văn Hảo: "Vấn đề giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân chủ và pháp
chế trong quá trình đổi mới ở nước ta", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/1992;
Đào Trí úc: "Tăng cường tính thống nhất của pháp chế, nghiêm chỉnh tuân theo và
chấp hành pháp luật", Tạp chí Cộng sản, số 3/1995
Nhóm hai là các công trình tiêu biểu nghiên cứu pháp chế XHCN trên từng lĩnh
vực cụ thể gồm có:
- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của lực lượng công
an nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay", Luận án Phó
tiến sĩ luật học của Nguyễn Phùng Hồng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
1994;


5

- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong quản lý nhà nước nền
kinh tế thị trường định hướng pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Luận án
Phó tiến sĩ Luật học của Quách Sĩ Hùng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
1996;
- "Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện
nay", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2001;
- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà
Nội", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Chí Dũng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2003
Các công trình đều đưa ra khái niệm pháp chế XHCN nói chung và khái niệm,
đặc trưng vai trò và giải pháp tăng cường pháp chế XHCN trên từng lĩnh vực cụ thể.
Từ tình hình nghiên cứu trên cho thấy, đến nay chưa có công trình khoa học nào
trực tiếp nghiên cứu "Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt
động của Hải quan Việt Nam". Mặc dù vậy, các công trình đã công bố nêu trên là tài
liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và viết hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về đối tượng nghiên cứu của luận văn: trên cơ sở nghiên cứu vai trò của
pháp chế XHCN, luận văn nghiên cứu đặc điểm và nội dung vai trò của pháp chế
XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan. Nghiên cứu thực trạng, tìm hiểu


6
nguyên nhân của thực trạng vai trò pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của
Hải quan. Luận giải các giải pháp nhằm bảo đảm vai trò pháp chế trong tổ chức và
hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động
của toàn ngành Hải quan.

Thời gian từ năm 1990 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu:
Luận văn có mục đích nghiên cứu là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá
thực trạng vai trò của pháp chế XHCN trong lĩnh vực Hải quan, luận văn đề xuất các
giải pháp nhằm bảo đảm pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam
hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên nhiệm vụ của luận văn là:
- Xây dựng khái niệm, đặc trưng của pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động
của Hải quan.


7
- Phân tích vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động của Hải quan.
- Phân tích các yêu cầu đảm bảo vai trò pháp chế trong tổ chức và hoạt động
của Hải quan Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất giải pháp đảm bảo vai trò của pháp chế trong tổ chức và hoạt động
của Hải quan Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
pháp luật và pháp chế XHCN.
- Phương pháp nghiên cứu: dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp, kết hợp với phương pháp xã hội
học, thống kê, so sánh.
6. Những điểm mới của luận văn
Là luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện và hệ thống
"Vai trò pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt

Nam". Vì vậy, có những điểm mới cụ thể sau:
- Xác định khái niệm, nội dung vai trò của pháp chế trong tổ chức và hoạt động
của Hải quan Việt Nam.


8
- Chỉ ra được những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những ưu điểm, tồn
tại về vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan hiện hành.
- Xác lập hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo vai trò của pháp chế
XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam.
7. ý nghĩa của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về pháp chế
XHCN trong lĩnh vực cụ thể.
- Về thực tiễn: Kết quả luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan nghiên cứu; sinh viên các trường đại học, cao đẳng và những người quan tâm đến
lĩnh vực này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được
kết cấu thành 3 chương, 8 mục.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức
và hoạt động của Hải quan Việt Nam
Chương 2: Thực trạng vai trò pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt
động của Hải quan Việt Nam


9
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay



10
Chương 1
CƠ Sở Lý Luận Về VAI Trò Của Pháp Chế xã hội chủ nghĩa TRONG Tổ Chức Và
Hoạt Động Của Hải QUAN việt NAM

1.1. Vị trí, vai trò và đặc trưng về tổ chức và hoạt động của hải quan
1.1.1. Vị trí, vai trò về tổ chức và hoạt động của Hải quan
Nghiên cứu các di sản, di tích lịch sử cổ đại cho thấy, Hải quan và hoạt động hải
quan đã được thiết lập từ trước thiên niên kỷ thứ 2 (trước công nguyên) ở Ai Cập và ở
Lưỡng Hà Lúc đầu Hải quan chủ yếu tiến hành thu tiền cho ngân sách nhà nước từ các
hoạt động trao đổi, buôn bán giữa các lãnh địa. Khi nền kinh tế thị trường tư bản phát
triển, bên cạnh chức năng thu thuế truyền thống, Hải quan được giao nhiều chức năng
mới, quan trọng nhất là bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ lợi ích tư bản dân tộc". Đến
khi, nền thương mại toàn cầu và giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng phát triển, đòi hỏi
các quốc gia và lãnh thổ trên thế giới phải tìm cách hợp tác với nhau, nhằm tiêu chuẩn,
đơn giản và thống nhất hoá các thủ tục, luật lệ hải quan, tạo thuận lợi cho thương mại,
và có hiệu quả hơn trong phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại; phòng, chống vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đáp ứng đòi hỏi thực tế này, năm 1950, Hội đồng hợp tác
Hải quan (nay là Tổ chức Hải quan thế giới - WCO) được thành lập trước năm 1991,
khối các nước xã hội chủ nghĩa đã hợp tác hải quan trên. Ngày nay hầu hết các quốc gia
có chủ quyền hoặc lãnh thổ tự trị dù đã gia nhập hoặc chưa ra nhập các liên minh hải
quan đều thiết lập ra tổ chức hải quan của mình để kiểm soát hàng hoá. phương tiện


11
xuất- nhập khẩu, xuất- nhập cảnh, quá cảnh qua biên giới, thu thuế và thu khác cho ngân
khố của quốc gia, lãnh thổ tự trị đó.
Hệ thống luật lệ của các nước đều xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
nội dung hoạt động cũng như cơ cấu, tổ chức hải quan của Nhà nước đó. ở mỗi Nhà
nước, hải quan đã và đang trở thành một công cụ quan trọng, thiết yếu trong nhiệm vụ

thực thi chính sách về các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hoá với các nước khác, là công
vụ "đóng, mở" để đẩy mạnh sự giao lưu, hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích, chủ quyền an
ninh kinh tế và an ninh quốc gia.
Trong đời sống chính trị, kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, vị trí, vai trò của Hải
quan được thể hiện chủ yếu ở những phương diện sau đây:
Một là, mỗi quốc gia, lãnh thổ tự trị đều xác định Tổ chức Hải quan là một công
cụ quan trọng trong việc bảo hộ, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hoá
của nước mình. Thông qua hàng rào hải quan để kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hàng hoá,
phương tiện xuất - nhập khẩu, xuất - nhập cảnh, quá cảnh; đấu tranh, ngăn chặn, đấu
tranh mạnh mẽ với các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ,
qua biên giới. Tổ chức Hải quan đã góp phần đảm bảo cho nền kinh tế ổn định, bảo hộ
sản xuất. tiêu dùng trong nước. Mặt khác, Tổ chức Hải quan đã trở thành công cụ quan
trọng trong việc bảo vệ hàng rào thuế quan góp phần vào điều tiết các hoạt động kinh tế
mỗi quốc gia. cũng như thông qua thu, nộp thuế đã góp phần không nhỏ vào nguồn tài
chính tạo lên quốc khố.
Hai là, tổ chức Hải quan và hoạt động của Hải quan được xác định là một trong
những công cụ góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội của mỗi nước. Vai trò này của Hải quan được thể hiện ở những hoạt động phát hiện,
xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật lĩnh vực hải quan, đảm bảo các quy tắc quản lý


12
nhà nước về hải quan được tôn trọng, bảo vệ an ninh tư tưởng, văn hoá, an toàn vệ sinh
- dịch tễ môi trường, sức khoẻ của nhân dân, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, kịp thời
ngăn chặn những hành động đe doạ lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của
người kinh doanh.
Ba là, tổ chức Hải quan, hoạt động hải quan góp phần quan trọng đáng kể vào việc
cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, thúc đẩy và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
của mỗi quốc gia. Bởi vì, thông qua việc xây dựng, ban hành, thực thi luật lệ, chính sách
hải quan có liên quan đến đầu tư nước ngoài, Tổ chức Hải quan và hoạt động hải quan

ảnh hưởng trực tiếp không nhỏ đến quyền, lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài
1.1.2. Những đặc trưng về tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam
Một là, Hải quan Việt Nam là một thiết chế của Nhà nước. Thiết chế này được thành
lập để trực tiếp quản lý nhà nước các hoạt động hải quan, là cơ quan có chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền thực hiện hoạt động hải quan theo các quy định của hệ thống pháp luật. Địa vị
pháp lý Hải quan Việt Nam được xác định trong nhiều văn bản pháp luật thuộc hệ thống
pháp luật Việt Nam. Trước hết được ghi nhận ở trong các văn bản pháp luật quan trọng, như:
Luật Hải quan 2001 và Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan ngày
26/5/2005, Nghị định số 96/2002/NĐ-CP ngày của Chính phủ và Quyết định số
113/2002/QĐ-TTg ngày 4-9-2002 của Thủ tướng Chính phủ; đây là những văn bản xác định
đặc trưng chủ yếu địa vị pháp lý của hải quan Việt Nam. Bên cạnh các văn bản này, địa vị
pháp lý của Hải quan Việt Nam còn được khẳng định trong hàng loạt văn bản thuộc hệ thống
văn bản pháp luật quản lý nhà nước lĩnh vực chuyên ngành khác có liên quan, như các luật
thuế về hàng hoá xuất - nhập khẩu, Luật Thương mại và các văn bản chi tiết thi hành, Bộ luật
Tố tụng hình sự Pháp lệnh điều tra hình sự, các văn bản pháp luật quy định về xử lý, tố tụng
hành chính,


13
- Vị trí, vai trò và hệ thống tổ chức của Hải quan Việt Nam.
Theo ghi nhận trong hệ thống pháp luật hiện hành, Hải quan Việt Nam là cơ quan
giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hải quan trên toàn quốc. Mặt
khác, Hải quan Việt Nam là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, còn giúp Bộ trưởng Bộ
Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành về hải quan; thực thi
pháp luật hải quan trên phạm vi cả nước. Điểm này đã cho thấy, Hải quan Việt Nam là
cơ quan quản lý hành chính nhà nước, nên có hầu hết bản chất, đặc trưng của loại hình
cơ quan hành pháp, hành chính.
Tuy nhiên, do tính chất, đặc điểm đặc thù của quản lý nhà nước về hải quan, địa
vị pháp lý của hệ thống cơ quan hải quan cũng mang tính chất đặc thù, đó là Hải quan
Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, là cơ quan

của Bộ Tài chính; song Bộ Tài chính là thành viên Chính phủ và Chính phủ lại được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều này cho thấy, hệ thống các
cơ quan hải quan từ trung ương đến địa phương, vị trí của nó có tính đặc thù so với các
cơ quan quản lý hành chính nhà nước chuyên ngành khác. Theo các quy định pháp luật,
Tổng cục Hải quan trực thuộc Bộ Tài chính, Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh thành phố trực
thuộc Tổng cục Hải quan, Chi cục Hải quan cửa khẩu, và ngoài cửa khẩu trực thuộc Cục
Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố, không lệ thuộc vào chính quyền địa phương các cấp
về điều hành, tổ chức hoạt động.
Mặt khác, cũng cần phải thấy một cách rõ ràng là: vị trí pháp lý đặc biệt của Hải
quan các cấp mặc dù được hình thành trên cơ sở nguyên tắc tập trung thống nhất, nhưng
không phải là biệt lập, đóng kín, mà chỉ có tính độc lập tương đối, nó bị giám sát bởi
các cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương trong vai trò là các cơ
quan kiểm tra, giám sát các cơ quan hành pháp, hành chính nhà nước; và có mối quan
hệ phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành khác ở các cấp để thực hiện các chức


14
năng quản lý nhà nước; mối quan hệ phối hợp với Uỷ ban nhân dân các cấp trong hoạt
động phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại trên địa bàn khu vực thuộc địa giới
hành chính của từng địa phương.
- Chức năng, nhiệm vụ của Hải quan Việt Nam.
Cũng như hầu hết các cơ quan hành chính khác của Nhà nước, chức năng quản lý
nhà nước về hải quan đã được chính thể Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) hết sức quan tâm, coi trọng, kể từ ngay những
ngày đầu tiên khi nước Việt Nam (mới) được thành lập.
Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chức năng của Hải quan đã
có có nhiều thay đổi lớn, sâu sắc. Trước tiên, các chức năng được bổ sung, đổi mới và
ghi nhận trong nhiều văn bản có giá trị pháp lý cao, như Pháp lệnh Hải quan (ngày 20-
6-1990), Luật Hải quan (29-6-2001) và Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung một số điều
ngày 26/5/2005. Hải quan Việt Nam từ chức năng chuyên chính" là chủ yếu để "kiểm

soát ngoại thương", đã chuyển sang chức năng chủ đạo phục vụ hoạt động kinh tế đối
ngoại, bảo hộ, góp phần phát triển kinh tế trong nước, thực hiện các cam kết hợp tác
kinh tế quốc tế, phục vụ các hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế, là công cụ "gác
cửa", "mở cửa" để thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, để
thực hiện được chức năng quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đòi hỏi Hải quan Việt Nam chủ động phối hợp với các cơ quan chức
năng khác của Nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực hải
quan.
Xuất phát từ chức năng và yêu cầu của quản lý nhà nước và bối cảnh đối với nền
kinh tế thị trường mở cửa hội nhập quốc tế, Hải quan Việt Nam được giao đảm nhận,
thực hiện bốn nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu:


15
Thứ nhất, thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hoá xuất nhập khẩu, quá cảnh;
phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, quá cảnh qua biên giới Việt Nam. Đây là một trong
những nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu nhất, nói lên bản chất vai trò của Hải quan trong nền
kinh tế (nói chung), kinh tế đối ngoại nói riêng. Nhiệm vụ này đã được Nhà nước khẳng
định, ghi nhận vào pháp luật, thể hiện, nói lên ý nghĩa sâu sắc: Hải quan là công cụ "gác
cửa", "mở cửa", ngăn chặn đẩy lùi làn gió độc" để đến với thế giới, đón thế giới đến với
Việt Nam; là tuyến đầu' trên mặt trận an ninh kinh tế, an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội, bảo hộ sản xuất trong nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ hai, phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên
giới. Thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, không chỉ thời đại ngày nay mới có buôn lậu
vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, mà hoạt động này đã phát sinh cùng với sự
phát triển của nền sản xuất hàng hoá của xã hội loài người. Nhiệm vụ phòng, chống
buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới đã được Nhà nước trao cho Hải
quan Việt Nam, cùng với thời điểm ra đời, phát triển xuyên suốt hơn 60 năm qua của
ngành Hải quan.

Thứ ba, tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá xuất khẩu- nhập
khẩu. Nhiệm vụ này được hình thành ngay từ khi Nhà nước thành lập Sở Thuế quan và
Thuế gián thu và được kế thừa phát triển cho đến ngày nay. Nhiệm vụ này đảm bảo một
phần nguồn thu cho quốc khố từ nguồn thuế và thu khác từ các hoạt động xuất -nhập
khẩu quá cảnh hàng hoá, xuất -nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải.
Thứ tư, kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối
với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Phải nói rằng, nhiệm vụ này được phái sinh từ ba
nhiệm vụ nêu trên.


16
Hai là, tổ chức, hoạt động Hải quan Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với các
cơ quan khác.
- Mối quan hệ của Tổ chức Hải quan với cơ quan quản lý nhà nước cấp trên.
Hiện nay, Tổng cục Hải quan là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, Bộ Tài chính
nằm trong cơ cấu tổ chức Chính phủ, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, trong khi đó. Hải quan Việt Nam lại tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc "tập
trung, thống nhất". Đây là điềm hết sức đặc thù trong tổ chức bộ máy Chính phủ, cho
thấy dù về tổ chức có sự thay đổi, song vị trí. chức năng, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động, nhiệm vụ. quyền hạn của ngành Hải quan vẫn được khẳng định theo nguyên tắc
này.
- Mối quan hệ giữa Tổng cục Hải quan với các cấp, đơn vị hải quan trực thuộc.
Cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà
nước lĩnh vực hải quan là các cơ quan Hải quan, gọi chung là Hải quan Việt Nam. Theo
Luật Hải quan, "Hải quan Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung, thống nhất. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan thống nhất quản lý, điều hành
hoạt động của Hải quan các cấp; Hải quan cấp dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo của Hải
quan cấp trên".
Theo quy định trên. Hải quan Việt Nam-cơ quan hành chính được Nhà nước trao

thẩm quyền thực thi các hoạt động quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan được tổ chức
thành một hệ thống. ở Trung ương là Tổng cục Hải quan, ở địa phương (nơi có hoạt
động hải quan) có Cục Hải quan tỉnh. liên tỉnh thành phố trực thuộc Tổng cục Hải quan,
các Chi cục Hải quan cửa khẩu và Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu trực thuộc Cục Hải
quan tỉnh, liên tỉnh thành phố. Toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động quản lý của hệ


17
thống hải quan theo nguyên tắc tập trung, thống nhất chỉ đạo, điều hành quản lý từ
Trung ương xuống địa bàn, cơ sở.
- Mối quan hệ giữa Hải quan với các cơ quan, đơn vị hữu quan.
Luật Hải quan xác định rõ: "Tổng cục Hải quan là cơ quan giúp Chính phủ thực
hiện thống nhất quản lý nhà nước về hải quan"; các cơ quan khác của Nhà nước có trách
nhiệm phối hợp thực hiện quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan, như: Biên phòng, Cảnh
sát biển, Cảnh sát kinh tế, Kiểm dịch động vật, Kiểm dịch thực vật, Kiểm dịch y tế,
Kiểm tra văn hoá, uỷ ban nhân dân các cấp. Ngân hàng, Kho bạc, Tổ chức, cá nhân
thực hiện xuất - nhập khẩu, quá cảnh hàng hoá, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương
tiện vận tải là đối tượng quản lý có nghĩa vụ thực hiện các quyết định, yêu cầu phối hợp
thực hiện pháp luật của cơ quan hải quan.
Cơ quan hải quan trong địa vị, vai trò là cơ quan chủ trì trong các trường hợp
trên đây là nhằm đảm bảo cho các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tại cửa khẩu
một mặt, hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình, nhưng không được vi phạm thời
hạn "ấn định" thông quan cho một loại hình hàng hoá xuất-nhập khẩu đã được quy định
trong Luật, mặt khác, tránh được sự "tranh chấp", "chồng chéo" phi lý trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước không cần thiết, dẫn đến có thể tạo sơ hở cho buôn lậu,
trốn thuế, gian lận thương mại hoặc tình trạng lạm dụng quyền hạn để trục lợi, dây dưa
kéo dài xử lý vụ việc, gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước và nhân dân. Điều này đã được
Luật Hải quan khẳng định rõ: trong trường hợp hàng hoá, phương tiện vận tải chưa đưa
ra khỏi phạm vi địa bàn hoạt động hải quan mà cơ quan tổ chức, cá nhân phát hiện có
hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới thì cơ quan. tổ chức, cá

nhân đó báo ngay cho cơ quan hải quan để kiểm tra, xử lý". Song, để quy định này có
thể thực hiện được trên thực tế đòi hỏi sự tự giác hợp tác, tôn trọng nguyên tắc "vì lợi
ích quốc gia", "vì lợi ích của công dân" của các cơ quan chức năng chuyên ngành hữu


18
quan. ở ngoài địa bàn hoạt động hải quan, các cơ quan quản lý chuyên ngành khác của
Nhà nước và cơ quan hải quan tổ chức các hoạt động phối hợp phòng, chống buôn lậu,
gian lận thương mại, vận chuyển trái phép qua biên giới theo quy định của pháp luật.
Trong mối quan hệ này, các cơ quan hải quan đóng vai trò là cơ quan thực hiện chức
năng phối hợp.
- Mối quan hệ giữa Hải quan với một số cơ quan quyền lực nhà nước và hệ
thống chính trị.
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan, thực hiện thẩm quyền giám sát,
ngoài các cơ quan, tổ chức, cá nhân, như Quốc hội, Đại biểu Quốc hội theo Luật tổ chức
Quốc hội và Luật giám sát Quốc hội, và thêm vào đó còn gồm các cơ quan, tổ chức, cá
nhân được quy định trong Luật Hải quan, gồm: i) Hội đồng nhân dân các cấp trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ. quyền hạn của mình giám sát việc thi hành pháp luật hải
quan; ii) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận động viên
nhân dân nghiêm chỉnh thi hành pháp luật hải quan; giám sát việc thi hành pháp luật hải
quan theo quy định của pháp luật; iii) nhân dân, chủ thể thực hiện giám sát đối với các
hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về hải quan. Nhân dân thực hiện giám sát
thông qua các đại biểu của mình ở các cơ quan quyền lực Trung ương hoặc địa phương,
hoặc thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo các cơ quan, cán bộ. công chức đã vi phạm
hoặc cho là đã vi phạm pháp luật lĩnh vực hải quan.
Hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền lực giám sát đối với các
hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan nói chung, của các cấp
hải quan, cán bộ. công chức hải quan nhằm đảm bảo cho việc thực thi hệ thống pháp
luật hải quan có hiệu quả trên thực tế, ngăn chặn, hạn chế các trường hợp thực thi nhiệm
vụ vượt thẩm quyền, lạm quyền cũng như các tiêu cực khác.



19
1.2. Khái niệm, đặc trưng của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và
hoạt động của hải quan
1.2.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế XHCN là một khái niệm, một phạm trù pháp lý cơ bản của khoa học
pháp lý XHCN. Đây là vấn đề không phải là mới mẻ. Song, sau khi các nước XHCN ở
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các nước trong hệ thống XHCN đã đều tiến hành cải tổ đổi
mới theo những con đường phát triển riêng của mình, pháp chế được bàn đến trong một
điều kiện mới. Trong điều kiện của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, quá trình
xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập quốc tế và xây dựng xã hội
công dân, pháp chế XHCN (theo quan niệm cũ) không dễ gì có sự thống nhất về nội hàm
của nó. Vì vậy, để đưa ra được một khái niệm về pháp chế XHCN một cách tương đối hoàn
chỉnh, đúng với tên gọi của nó cần tiếp cận từ nhiều phương diện.
Thứ nhất, tiếp cận từ tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về
pháp chế XHCN, "pháp chế là một hiện tượng xã hội độc lập với tư cách là nhân tố của
quyền lực chính trị". Pháp trị (hay pháp chế" là một chế độ chính trị của một nước dựa
vào pháp luật để quản lý nhà nước và điều hành xã hội" [65, tr.1320]. Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật là phương pháp pháp trị của nhà nước pháp quyền. Trong "Bộ Tư
bản" C.Mác đã khái quát pháp chế là một chế độ thực hiện pháp luật của mọi tổ chức và
công dân.
Các nhà kinh điển Mác-Lênin qua các tác phẩm của mình đã quan niệm pháp chế
XHCN, là một hiện tượng xã hội tồn tại vận động theo các nguyên lý sau đây:
- Pháp chế là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị, kinh tế-xã hội trong đó
mọi thành viên quan hệ với nhau theo pháp luật;


20
- Pháp chế là một nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước xã hội

chủ nghĩa;
- Pháp chế là một phương pháp quản lý nhà nước, phương pháp thực hiện những
nhiệm vụ chuyên chính giai cấp, một bộ phận cấu thành của nền dân chủ chân chính.
- Pháp chế có quan hệ chặt chẽ với dân chủ, như là một bộ phận của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa.
- Pháp chế có mối liên hệ chặt chẽ với văn hoá, với ý thức tôn trọng, xử sự bằng
pháp luật, niềm tin vào giá trị, tác dụng của pháp luật đối với người dân, đối với Nhà
nước.
Thứ hai, tiếp cận từ quan điểm của Đảng ta về pháp chế XHCN trong các văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đến lần thứ X, Đảng ta đều coi pháp chế XHCN
là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của quản lý Nhà nước và phát huy dân chủ XHCN phương pháp chủ yếu, tổng thể, toàn
diện và thường xuyên là tăng cường pháp chế XHCN.
Có thể nói rằng các Nghị quyết của Đảng trong nhiệm kỳ khoá IX và X về xây
dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, về cải cách Tư pháp, về đẩy mạnh cải cách hành
chính là đỉnh cao tư duy pháp lý nói chung và tư tưởng, quan điểm nội dung về xây
dựng nền pháp chế XHCN ở nước ta nói riêng.
Nghị quyết của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết số 48 ngày
24/5/2005) tạo tiền đề cơ sở và "công cụ" hữu hiệu cho "quản lý Nhà nước bằng pháp


21
luật. Và đó cũng là cơ sở hình thành của pháp chế XHCN nói chung và pháp chế XHCN
trên các lĩnh vực xã hội, trong đó có lĩnh vực tổ chức hoạt động của Hải quan Việt Nam.
Tiếp theo chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 -
2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001
của Thủ tướng Chính phủ), Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW khoá X
về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà
nước, ngày 01 tháng 8 năm 2007. Trong Nghị quyết quan trọng này Đảng ta đã xác định

mục tiêu quan điểm yêu cầu và các chủ trương giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính.
Trong đó vấn đề thể chế, pháp luật thủ tục hành chính, tổ chức hoạt động của bộ máy
hành chính Nhà nước được Đảng ta quan tâm chỉ đạo rất cụ thể.
Nghị quyết của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, đến năm 2020 số 49
- NQ/TW ngày 02/6/2005, xác định mục tiêu, quan điểm phương hướng và nhiệm vụ
cải cách tư pháp cả về thể chế, bộ máy và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp:
cơ quan điều tra, cơ quan công tố, xét xử thi hành án và giám sát hoạt động tư pháp.
Các Nghị quyết của Đảng nêu trên hình thành "Bộ Nghị quyết" toàn diện, đầy đủ
nhất trong xây dựng nền pháp chế XHCN ở nước ta từ trước đến nay. Có thể coi đây là
cơ sở lý luận, nội dung và biện pháp bảo đảm cho vai trò của pháp chế XHCN tiếp tục
được tăng cường cũng như việc triển khai thực hiện Điều 12 của Hiến pháp năm 1992:
"Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng chống
và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp luật.


22
Mọi hành động xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập
thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật".
Thứ ba, tiếp cận từ khái niệm pháp chế của khoa học pháp lý.
Có thể thấy rằng khái niệm (hay phạm trù) pháp chế XHCN được sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Song cho đến nay định nghĩa về pháp
chế XHCN chưa phải là đồng nhất về nội dung của khái niệm này.
Theo V.N. Kyđriaxép: "pháp chế là chế độ nhất định của đời sống xã hội, là
phương pháp lãnh đạo của Nhà nước trong việc tổ chức các quan hệ xã hội bằng
phương thức ban hành và không giống thực hiện các đạo luật và các văn bản pháp luật
khác" [25, tr.4]. Nội dung của định nghĩa này pháp chế có nội dung rộng. Pháp chế là chế
độ của đời sống xã hội bao hàm cả việc ban hành pháp luật và thực hiện pháp luật, song nếu
có vi phạm pháp luật thì pháp chế có vai trò như thế nào? Và pháp luật nào để xử lý các vi

phạm pháp luật ấy?.
Một ý kiến khác của G.B Ataman Chúc, ông cho rằng "pháp chế là hệ thống các
quy tắc, quy phạm phương tiện và các bảo đảm pháp lý tương ứng với chúng mà các cơ
quan nhà nước thừa nhận đảm bảo thực hiện thực tế các đạo luật và các văn bản dưới
luật [3, tr.310]
ý kiến trên tác giả cũng cho rằng pháp chế bao gồm cả pháp luật, các bảo đảm
pháp lý và bảo đảm pháp luật được thực hiện trong thực tế.
ở Việt Nam có các định nghĩa về pháp chế đáng chú ý sau đây:


23
- GS - TSKH Đào Trí úc cho rằng: "pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống
pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật
tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và
hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan, đơn vị tổ chức và đối với công dân" [56,
tr.680].
- Trong tài liệu học tập nghiên cứu môn lý luận chung về nhà nước pháp luật,
Tập 1, được Bản lý luận chính trị, định nghĩa: "pháp chế XHCN là chế độ thực hiện
pháp luật nghiêm minh thống nhất và tự giác của các cơ quan nhà nước các tổ chức
chính trị - xã hội, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, các cán bộ công chức nhà nước và
mọi công dân" [24, tr.293].
"Pháp chế XHCN là một chế độ của đời sống chính trị xã hội, trong đó nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân, các
tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ
chức xã hội, các đơn vị kinh tế và mỗi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến
pháp, pháp luật.
Mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật XHCN được quy định tại Điều
12 Hiến pháp năm 1992. Đồng tình với các khái niệm trên, theo tôi có thể hiểu pháp chế
XHCN theo những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Pháp chế là chế độ của đời sống chính trị xã hội: pháp luật và pháp chế

là hai hiện tượng xã hội khác nhau, độc lập tương đối với nhau, nhưng có mối quan hệ
mật thiết với nhau: pháp luật với tư cách là hệ thống quy phạm pháp luật là tiền đề, cơ
sở của pháp chế. Đây mới là khả năng là căn cứ tạo ra hiện tượng "sống, lao động, học
tập theo Hiến pháp và pháp luật. Pháp chế là pháp luật hành vi, có đời sống thực của
pháp luật. Nhận biết pháp luật trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Nhận biết


24
pháp chế là ở trong đời sống chính trị - xã hội. Tức là hoạt động của nhà nước, của các
tổ chức và của mọi công dân.
Thứ hai: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Nội dung này dường như là "lẽ
thường tình" và nó không phải là nội hàm của pháp chế. Thực tế không phải như vậy.
Nhà nước phải quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, phải "pháp trị" mới là hiện tượng
pháp chế. Khác với nhà nước đức trị, văn trị, nhân trị, và các "quốc đạo".
ở nước ta Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng đường lối chủ trương. Nhưng
đường lối chủ trương ấy phải được thể chế hoá, cụ thể hoá bằng pháp luật. Pháp luật là
công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước và xã hội. Qua pháp luật mà tính công khai, minh
bạch được thể hiện - điều kiện bảo đảm cho pháp luật "ngự trị" trong đời sống xã hội.
Thứ ba: các chủ thể của quan hệ pháp luật như các cá nhân, các pháp nhân, các
hộ gia đình, tổ hợp tác được nhấn mạnh theo tính chất của chủ thể là cơ quan nhà nước,
các tổ chức Đảng, các đơn vị vũ trang nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội, xã hội
nghề nghiệp và xã hội thuần tuý cũng như các đơn vị kinh tế ở mọi thành phần kinh tế
và công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Nội dung này là
"trụ cột" "xương sống" là nội dung cơ bản nhất của pháp chế. Tôn trọng là ý thức pháp
luật, trình độ hiểu biết pháp luật nhất định tạo nên ý thức tự giác của sự thực hiện. Thực
hiện pháp luật phải bao hàm các dạng thực hiện pháp luật phải bao hàm các dạng thực
hiện pháp luật như: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng đúng pháp luật, và
áp dụng pháp luật: Các dạng thực hiện pháp luật này cấu thành chế độ thực hiện pháp
luật. Theo lý thuyết đây sẽ là chế độ pháp chế thống nhất đầy đủ.
Thứ tư: Nội dung của pháp chế còn là "mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo

pháp luật. Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội. Nhưng pháp chế được thể hiện
trong việc dùng pháp luật, căn cứ vào pháp luật, đối chiếu với pháp luật mà xử lý mọi

×