LUẬN VĂN:
Nghiên cứu, tìm giải pháp nâng cao chất lượng đấu tranh
tự phê bình và phê bình trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là Đảng duy nhất lãnh
đạo đất nước ta, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong suốt 76 năm qua xây dựng và trưởng thành
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng, giành độc lập tự do cho đất nước và nhân
dân ta. Mục tiêu của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước, sau 20
năm đã đưa đất nước ta thu được các thành tựu rất khả quan được thế giới công nhận.
Trong tình hình thế giới biến đổi không lường, công cuộc đổi mới đất nước ta có nhiều
thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn và thách thức. Để Đảng có vai trò, trình độ
ngang tầm lãnh đạo đất nước trong xu thế phát triển của thế giới và khu vực, Đảng ta phải
không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một trong những giải pháp quan trọng là thực
hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình.
Qua quá trình hoạt động, Đảng ta đã khẳng định: tự phê bình và phê bình là quy
luật phát triển của Đảng, là thuộc tính bản chất của một chính đảng cách mạng, là công
cụ sắc bén để giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên của Đảng và củng cố khối đoàn kết
thống nhất trong Đảng. Vì vậy, tự phê bình và phê bình luôn là việc làm không thể thiếu
trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng ta. Tự phê bình, phê bình giúp cho cán bộ, đảng
viên và tổ chức đảng thấy được những ưu điểm, khuyết điểm của mình, qua đó tìm cách
khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức đảng và cán bộ đảng viên. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
khẳng định: "Tiếp tục đưa tự phê bình, phê bình trong các cấp ủy và tổ chức đảng từ Trung
ương đến các cơ sở thành nền nếp thường xuyên và theo định kỳ, không làm qua loa chiếu
lệ hình thức" [11, tr. 140].
Chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp của
Đảng có vai trò quyết định chất lượng tự phê bình và phê bình trong các cấp bộ Đảng.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý có vai trò hết sức
quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của thành
phố. Việc thực hiện nghiêm túc, có chất lượng chế độ tự phê bình và phê bình của Đảng
trong đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng bộ Hà Nội nói chung, trong đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý nói riêng là biện pháp có ý nghĩa trực tiếp
quyết định việc nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng, tác phong và năng lực công tác
cho đội ngũ cán bộ quan trọng này.
Trong báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Ban chấp hành Đảng bộ
thành phố nhận định:
Qua hai năm thực hiện Nghị quyết, đại đa số cán bộ, đảng viên trong
toàn Đảng bộ nhận thức sâu sắc hơn tầm quan trọng đặc biệt có ý nghĩa sống
còn của công tác xây dựng Đảng hiện nay Qua đợt sinh hoạt tự phê bình, phê
bình đã có tác dụng răn đe, cảnh tỉnh, phòng ngừa những tiêu cực về chính trị,
đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ đảng viên; sự thông cảm, tính đồng chí
trong cơ quan và đoàn kết nội bộ được củng cố [36, tr. 3].
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện cuộc vận động
còn bộc lộ những thiếu sót khuyết điểm như:
Chất lượng kiểm điểm tự phê bình và phê bình chưa cao, nhất là kiểm
điểm phần tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống chưa sâu, chưa tự giác bộc lộ
những tồn tại, yếu kém khuyết điểm Hầu như không có trường hợp nào qua
tự phê bình và phê bình chỉ ra được những tập thể và cá nhân sai phạm đến
mức phải xem xét xử lý kỷ luật [36, tr. 3].
Trong báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6(2) khóa VIII trên lĩnh
vực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII
Đảng bộ thành phố nêu:
Tình trạng lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực, trong sử dụng
kinh phí, tài sản công trong sinh hoạt đang làm tha hóa một bộ phận cán bộ,
làm suy yếu bộ máy lãnh đạo, tổn thất đến lợi ích kinh tế, làm giảm sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp, làm nản lòng các nhà đầu tư và nghiêm trọng hơn
là ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng [39, tr.
7].
Nguyên nhân của những thiếu sót, khuyết điểm trên đây được Ban Chấp hành
Đảng bộ thành phố chỉ ra khá rõ, trên nhiều mặt, nhưng đáng chú ý nhận định sau:
Tính tự giác, gương mẫu, dũng cảm thành khẩn của một số ít đồng chí
cán bộ chủ chốt chưa cao; tinh thần đấu tranh, xây dựng của đội ngũ cán bộ
đồng cấp, của đảng viên thiếu mạnh dạn, thẳng thắn, còn né tránh Công tác
quản lý cán bộ lâu nay thiếu chặt chẽ, cấp ủy nắm cán bộ chưa chắc nên chưa
có gợi ý, yêu cầu kiểm điểm cụ thể và sâu sắc, tinh thần trách nhiệm, tính tiền
phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ,
đảng viên lợi dụng chức quyền và sơ hở trong cơ chế, chính sách để tham ô,
nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân. Tính chiến đấu, vai trò lãnh đạo ở
một số tổ chức đảng yếu, thậm chí có nơi bị tê liệt. Đấu tranh tự phê bình và
phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) của nhiều tổ chức
đảng, nhiều cán bộ, đảng viên còn yếu nên ít phát hiện được tham nhũng, tiêu
cực ở cơ quan, đơn vị, địa phương mình, cá biệt có nơi còn vi phạm nguyên
tắc của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, dẫn đến nội bộ mất
đoàn kết [39, tr. 7].
Vì vậy tiếp tục nghiên cứu, tìm giải pháp nâng cao chất lượng đấu tranh tự phê
bình và phê bình trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý là
một đòi hỏi bức thiết của công tác xây dựng Đảng bộ Hà Nội hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những quan điểm, chủ trương lớn và biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng tự phê bình và phê bình trong Đảng nói chung, trong đội ngũ cán bộ của Đảng nói
riêng được thể hiện khá rõ trong Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, trong "Báo cáo tổng kết thực hiện
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong Đảng" trình Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, và nhất là
trong "Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII" của Thành ủy Hà Nội ngày 13
tháng 7 năm 2001, Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII,
trên lĩnh vực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu của nhiệm kỳ Đại
hội lần thứ XIII Đảng bộ thành phố Hà Nội. Những văn kiện trên là định hướng và cơ sở
quan trọng để nghiên cứu đề tài.
Ngoài những văn kiện trên, những năm gần đây cũng đã có một số luận án tiến
sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài viết đề cập đến những mặt, những nội dung của việc nâng
cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong các cấp bộ đảng và đội ngũ đảng viên của
Đảng như: Trần Văn Bộ với: "Nâng cao chất lượng tự phê bình, phê bình ở tổ chức cơ sở
đảng trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ, (1999), Đức Lượng
với: "Thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng" (Báo Nhân dân, ngày 20-1-1999).
Tiến Hải với "Tự phê bình và phê bình trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng" Tạp chí
Cộng sản, số 13 (7-1999), Nguyễn Văn Biều với "Chất lượng tự phê bình và phê bình
của cán bộ lãnh đạo" (Báo Nhân dân, ngày 21-6-1996), Bùi Đức Lại: "Vì sao tự phê bình
và phê bình chưa được thực hiện có hiệu quả", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8, năm 2005;
Long Thanh Hùng: "Để tự phê bình và phê bình có hiệu quả", Tạp chí Xây dựng Đảng,
số 10, năm 2005.
Đề tài cấp bộ năm 2004-2005 "Chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ
lãnh đạo cấp quận ở thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay", cơ quan chủ trì Viện Xây
dựng Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Chủ nhiệm đề tài: Phó giáo sư,
tiến sĩ Nguyễn Văn Biều.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về chất lượng tự phê bình và phê bình
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý, nên tôi chọn
nội dung này để nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cơ bản lý luận và thực tiễn về chất lượng tự
phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội
quản lý hiện nay, đề xuất phương hướng, quan điểm và những giải pháp chủ yếu nâng
cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo thuộc diện Thành ủy
Hà Nội quản lý hiện nay.
Nhiệm vụ
- Dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng ta, Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội nêu ra các quan niệm và tiêu
chí đánh giá chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý từ năm 1999 đến nay, xác định
rõ nguyên nhân của những thực trạng trên. Qua đó nêu lên những kinh nghiệm và những
vấn đề đặt ra cần giải quyết trong tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất những phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà
Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý (căn cứ vào Quyết định số 135,
634-QĐ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy nhiệm kỳ XII, XIII Đảng bộ thành phố Hà
Nội về phân công, phân cấp quản lý cán bộ).
- Phạm vi nghiên cứu Đảng bộ thành phố Hà Nội thời gian từ năm 1999 đến nay
- từ khi có Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện
của Đại hội Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Đảng bộ Hà Nội, các luật, các văn bản
pháp quy của Nhà nước có liên quan đến chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
Luận văn được nghiện cứu theo phương pháp: Điều tra, khảo sát thực tế, nghe
báo cáo, tiếp xúc cá nhân. Sử dụng phương pháp lôgíc - lịch sử, phân tích, tổng hợp, coi
trọng công tác tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm quan niệm về chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng
tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà
Nội quản lý hiện nay.
- Nêu lên một số kinh nghiệm quan trọng và đề xuất những giải pháp chủ yếu có
tính khả thi nhằm nâng cáo chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ tích cực công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng bộ thành phố Hà Nội hiện nay.
- Làm tư liệu tham khảo trong việc giảng dạy xây dựng Đảng ở các trung tâm
chính trị quận, huyện và trường đào tạo cán bộ thành phố.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
CHẤT LƯỢNG TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN THÀNH ỦY
HÀ NỘI QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - QUAN NIỆM, TIÊU CHÍ
ĐÁNH GIÁ
1.1. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN THÀNH
ỦY QUẢN LÝ - QUAN NIỆM, VAI TRÒ
1.1.1. Quan niệm về đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy
Hà Nội quản lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm về
cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, đội ngũ cán bộ được thể hiện các nội
dung sau:
Cán bộ: Cán bộ là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất định, làm việc
trong các tổ chức, cơ quan của hệ thống chính trị; là người giữ chức vụ trong các tổ chức
của hệ thống chính trị.
Cán bộ lãnh đạo: Chỉ người đứng đầu của một tổ chức, một phong trào; là người
làm thức tỉnh hành vi của người khác.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt: Là người đứng đầu quan trọng nhất, có tác dụng chi
phối chính toàn bộ hoạt động của một tổ chức.
Đội ngũ cán bộ: Bao gồm toàn bộ cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ làm việc trong
các tổ chức, cơ quan của hệ thống chính trị.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt: Bao gồm toàn bộ người đứng đầu, quan trọng
nhất của các cơ quan, đơn vị và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ
của cả nước. Về hành chính, Hà Nội là thành phố trực thuộc Trung ương có ba cấp: cấp
thành phố, cấp quận, huyện và cấp phường, xã. Thành phố Hà Nội - Thủ đô của Việt
Nam, là trái tim của cả nước, có vị trí đặc biệt quan trọng đối với cả nước. Hệ thống
chính trị của thành phố gồm: Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân thành phố; Đảng bộ
thành phố; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng ở thành phố. Hệ thống chính trị
cấp thành phố là một cơ cấu tổ chức mà mỗi cơ quan của hệ thống đó có mối liên hệ bên
trong và bên ngoài chặt chẽ với nhau để cấu thành cả hệ thống. Những cán bộ hoạt động
trong hệ thống chính trị thành phố hợp thành đội ngũ cán bộ cấp thành phố.
- Đội ngũ cán bộ cấp thành phố
Khái niệm đội ngũ cán bộ cấp thành phố dựa vào pháp lệnh cán bộ công chức
năm 1998 của Ban Thường vụ Quốc hội dùng để chỉ tất cả những cán bộ công chức "là
công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước", bao gồm:
1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo từng thời kỳ các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội;
2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
3. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ, được
phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính,
sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn
nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng;
4. Thẩm phán Tòa án nhân dân, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; tham
gia công tác trực tiếp và thường xuyên trong các cơ quan của hệ thống chính trị cấp thành
phố hợp thành "đội ngũ cán bộ cấp thành phố".
Như vậy, tất cả các công chức, viên chức được bổ nhiệm, tuyển dụng theo quy
định của pháp luật; tất cả những cán bộ được bầu cử vào các cơ quan của Đảng, cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội cấp thành phố để giữ một chức trách, nhiệm vụ nào
đó trong các cơ quan nói trên đều thuộc đội ngũ cán bộ cấp thành phố. Tóm lại, đội ngũ
cán bộ cấp thành phố được tập hợp, tổ chức thành một lực lượng đông đảo thực hiện
nhiệm vụ được giao trong một tổ chức của hệ thống chính trị cấp thành phố với số lượng,
chất lượng và cơ cấu hợp lý.
- Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý
Theo Điều 4 của Hiến pháp nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh
đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội. Như vậy, Thành ủy Hà Nội là hạt nhân lãnh đạo
của hệ thống chính trị thành phố. Với tư cách là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị,
Thành ủy lãnh đạo mọi mặt hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị theo
nguyên tắc: lãnh đạo tập thể, phân công cá nhân phụ trách. Nghĩa là, toàn bộ các hoạt
động ở thành phố đặt dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, nhưng lãnh đạo bằng việc định ra
chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ công tác của hệ thống chính trị; bằng công tác tư
tưởng, công tác tổ chức và công tác kiểm tra của Đảng. Trên cơ sở Thành ủy ra quyết
định lãnh đạo, phân công cho cá nhân các đồng chí Thành ủy viên tổ chức thực hiện
quyết định lãnh đạo của Thành ủy.
Trên cơ sở nguyên tắc lãnh đạo này, hầu hết các đồng chí Thành ủy viên đều
được phân công hoặc giới thiệu ứng cử vào các chức vụ chủ chốt, trọng yếu trong các cơ
quan nhà nước, mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội ở thành phố theo luật định.
Những cán bộ này, trên cương vị Thành ủy viên, họ là thành viên ban lãnh đạo của đảng
bộ, thực hiện sự lãnh đạo chính trị ở thành phố. Nhưng trên cương vị người quản lý hay
phụ trách một cơ quan, đoàn thể quần chúng, họ phải hoạt động tuân theo pháp luật, điều
lệ của tổ chức quy định rõ chức trách, nhiệm vụ được giao. Khi nói tới cán bộ lãnh đạo
chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý là nói trước hết tới các đồng chí cán bộ lãnh đạo
chủ chốt hoạt động trong hệ thống chính trị ở thành phố. Những cán bộ này thường là
người đứng đầu, hoặc giữ vị trí chủ chốt trong các tổ chức, các cơ quan, có vai trò là
người định hướng, chi phối và quyết định sự phát triển của tổ chức, cũng như khả năng
hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của tổ chức đó.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý theo Quyết định 634-
QĐ/TU, ngày 05/11/2001 của Ban Thường vụ Thành ủy khóa XIII bao gồm chức danh
sau: Ủy viên thường vụ, Trưởng ban, Phó trưởng ban Đảng, Ủy viên Ủy ban kiểm tra
Thành ủy; Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân hành phố; Chủ tịch, Phó
chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, cấp trưởng, cấp phó các đoàn thể chính trị - xã hội thành phố;
Cấp trưởng, cấp phó các tổ chức: Liên minh hợp tác xã thành phố, Hội liên hiệp văn học
nghệ thuật Hà Nội, Hội luật gia Hà Nội, Hội nhà báo Hà Nội, Hội liên hiệp các hội khoa
học Hà Nội, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Hà Nội; Giám đốc, phó giám đốc
các sở, ban, ngành Thành phố và tương đương; Trưởng ban, phó trưởng ban Hội đồng
nhân dân thành phố; Bí thư, phó bí thư, Ủy viên thường vụ quận, huyện ủy và đảng bộ
cấp trên cơ sở trực thuộc Thành ủy; Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân quận huyện; Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng các trường trực thuộc thành phố
(Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, Cao đẳng sư phạm Hà Nội, Cao đẳng nghệ
thuật Hà Nội); Bí thư, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc
tổng công ty nhà nước và tương đương trực thuộc thành phố. Hiện nay số lượng cán bộ
lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý gần 700 đồng chí.
1.1.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy
quản lý
Theo quan niệm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - cán bộ giữ vai
trò quan trọng hàng đầu là một trong những nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại
của cách mạng. Từ rất sớm, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, để thực hiện một lý
tưởng cần phải có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn. Trong quá trình hoạt động
lý luận và chỉ đạo thực tiễn việc thành lập các chính đảng của giai cấp công nhân, C.Mác
và Ph.Ăngghen ý thức rất rõ vai trò các lãnh tụ cách mạng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động mỗi nước. Các ông luôn coi họ là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của phong
trào vô sản. Họ vừa là người tuyên truyền tư tưởng cộng sản trong quần chúng, vừa là người
tổ chức các phong trào đấu tranh cách mạng trên thực tiễn.
Phát triển sáng tạo những tư tưởng của Mác trong hoàn cảnh lịch sử mới, Lênin
khẳng định: Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó
không đào tạo ra trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào. Đặc biệt trong giai đoạn Đảng
lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội - Một sự nghiệp mới mẻ, rộng lớn, toàn diện và sâu
sắc chưa có tiền lệ trong lịch sử - Đảng phải đào tạo ra những cán bộ lãnh đạo chính trị
tài giỏi, những nhà chính trị chuyên nghiệp thực sự của mình không thua kém các nhà
chính trị của giai cấp tư sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ví cán bộ như dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền
không tốt, thì động cơ dù tốt, toàn bộ máy cũng bị tê liệt. Người khẳng định, vấn đề cán
bộ là một vấn đề rất trọng yếu và rất cần kíp; cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vai trò của người cán bộ thể hiện qua
bốn mối quan hệ: Một là, cán bộ với đường lối chính sách của Đảng; hai là, cán bộ với tổ
chức; ba là, cán bộ với công việc; bốn là, cán bộ với quần chúng. Người cán bộ cách
mạng không chỉ là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, với Nhà nước, mà cán bộ vừa là
người lãnh đạo, người tổ chức, vừa phải là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong 76 năm cầm quyền Đảng ta luôn coi trọng vai trò của cán bộ và công tác
cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo các cấp. Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ: đội ngũ cán
bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy
những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Đảng chỉ rõ: tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra rất nhiều yêu cầu cho công
tác cán bộ, vì vậy toàn Đảng phải chăm lo xây dựng thật tốt đội ngũ cán bộ. Nhìn tổng
quát, vai trò đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý gắn
liền với vai trò hết sức quan trọng của hệ thống chính trị của thành phố, thể hiện trên
những mặt sau:
Một là, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý giữ vai trò
quyết định trong việc hiện thực hóa sự lãnh đạo, của Ban Chấp hành Trung ương, của
Thành ủy, đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên địa bàn thành phố.
Là người trực tiếp lãnh đạo và tổ chức quần chúng thực hiện sáng tạo các nghị
quyết của Trung ương và Thành ủy, chủ trương biện pháp của chính quyền thông qua các
phong trào cách mạng của quần chúng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện
Thành ủy quản lý tạo nên những thành tựu, cung cấp những bài học kinh nghiệm có giá
trị, góp phần rất quan trọng vào sự phát triển toàn diện ở thành phố. Vai trò này không
những thể hiện chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị và chức
trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý được
giao, mà trong thực tế cũng cho thấy, mọi chủ trương nghị quyết của Trung ương Đảng,
Thành ủy, các quyết định quản lý của Chính phủ, chính quyền, cuối cùng đều do đội ngũ
này cụ thể hóa và tổ chức thực hiện.
Nhiệm vụ chính trị quan trọng của hệ thống chính trị thành phố Hà Nội hiện nay
là: coi trọng phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, văn
hóa là nền tảng tinh thần, chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị hướng vào
phục vụ nhân dân, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của
Trung ương cũng như của Hà Nội đến mọi người dân và tổ chức thực hiện tốt trên địa
bàn thành phố, phản ánh và giải đáp mọi tâm tư nguyện vọng của nhân dân, khơi dậy trí
tuệ và nguồn lực của dân, không ngừng nâng cao trình độ dân sinh, dân trí, dân chủ trên
địa bàn thành phố.
Căn cứ vào các nghị quyết của Đảng (từ nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc,
đến Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ thành phố), căn cứ vào luật pháp, các chính sách và
văn bản chỉ đạo của Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, bộ, ngành và Ủy ban nhân dân
thành phố); căn cứ vào tình hình cụ thể và những vấn đề đặt ra trên địa bàn thành phố,
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý xây dựng các chủ trương,
nghị quyết, kế hoạch và biện pháp công tác phù hợp. Sau khi đã có quyết định, đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt sẽ tùy theo chức trách được phân công, tổ chức thực hiện thắng
lợi các quyết định đó.
Hai là, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý giữ vai trò
quyết định trong việc xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và phong trào cách mạng
của quần chúng trên địa bàn thành phố.
Thực tiễn cho thấy, sự mạnh, yếu của hệ thống chính trị và phong trào cách mạng
của quần chúng gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở đây. Đối với các tổ
chức, bộ máy của hệ thống chính trị, họ là nòng cốt, là trung tâm đoàn kết, là linh hồn của
các tập thể trong việc tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực lượng. Họ tác động quyết định đến
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy, năng lực và hiệu quả quản lý của chính
quyền, lực lượng vũ trang, hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội ở địa phương. Hệ thống chính trị của thành phố hoạt động tốt hay không tốt, có hoàn
thành được nhiệm vụ của mình hay không trước hết phụ thuộc vào các thành viên chủ
chốt cấu thành hệ thống chính trị đó. Các thành viên chủ chốt ấy chính là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý. Vì vậy cần phải thường xuyên chăm lo
xây dựng, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo mới có thể
tăng cường khả năng lãnh đạo, quản lý của cấp ủy và chính quyền, đẩy mạnh công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên địa bàn thành phố trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên đất nước ta nói chung, ở Thủ đô Hà Nội nói riêng là sự nghiệp cách mạng vĩ đại, vô
cùng khó khăn gian khổ, do quần chúng thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong.
Sự nghiệp ấy không thể thực hiện tốt được nếu quần chúng không cảm thấy là sự nghiệp
của chính họ, nếu quần chúng không nỗ lực sáng tạo thực hiện nó. Nhưng để quần chúng
giác ngộ thực hiện, để tổ chức và lôi cuốn quần chúng vào các hoạt động cách mạng ở
thành phố không ai khác ngoài đội ngũ đảng viên của Đảng bộ, mà trước hết là đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý.
Cho nên, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành
ủy quản lý là mắt xích quan trọng nhất để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách
mạng trên địa bàn Thủ đô hiện nay.
Ba là, cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý là tấm gương về
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và phong cách làm việc để những người dưới
quyền, tập thể cơ quan đơn vị và nhân dân noi theo, có ảnh hưởng quan trọng tới uy tín
của cán bộ lãnh đạo Thủ đô.
Nhân dân coi Đảng là người lãnh đạo của mình, vì vậy nhân dân luôn đòi hỏi
người cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý phải luôn luôn là những
người gương mẫu, tiêu biểu về phẩm chất, đạo đức, lối sống và năng lực công tác thực
tiễn. Với vai trò đó, cán bộ lãnh đạo càng giữ vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị thì
càng phải gương mẫu, liêm khiết, chí công vô tư, có trách nhiệm trước nhân dân hơn
những cán bộ dưới quyền. Nếu cán bộ lãnh đạo không nêu gương tốt, chỉ chăm lo thu vén
lợi ích cá nhân và cục bộ, thì trên thực tế họ không còn là đại biểu của Đảng trước nhân
dân, và vì vậy uy tín của người lãnh đạo trước dân, trước cấp dưới không còn nữa. Nếu
nhân dân và cấp dưới có phải phục tùng các quyết định lãnh đạo do họ đại biểu, thì chỉ là
phục tùng ý chí của Đảng, mà họ còn đặt niềm tin vào, chứ bản thân những cán bộ lãnh
đạo đó không còn uy tín trước nhân dân.
Vì vậy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý nhất thiết phải là
người có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực công tác, được quần chúng tín nhiệm, có
lòng trung thành với đường lối và phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Những cán bộ lãnh
đạo được phân công phụ trách công tác chính quyền, là những người thường xuyên và
trực tiếp giải quyết những công việc liên quan giữa công dân và Nhà nước, giữa nghĩa vụ
và quyền lợi công dân, do đó năng lực lãnh đạo của Đảng ở đây, được thể hiện ở năng lực
giải quyết các công việc về mặt Nhà nước và xây dựng bộ máy nhà nước vững mạnh.
Chính điều này quy định cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý phải là
người có tính đảng cao, biết tôn trọng và thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có phong cách làm việc dân chủ, khoa học, có tri thức văn hóa, năng
lực hoạt động thực tiễn phong phú và là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Để phát triển những nhóm phẩm chất và năng lực thiết yếu đó, đòi hỏi đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý phải thường xuyên tự rèn
luyện, tự phấn đấu, khổ luyện để hoàn thiện bản thân mình. Trên con đường phấn đấu đó,
tự phê bình và phê bình trong Đảng là biện pháp sắc bén nhất giúp cho từng người cán bộ
và cả đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý trưởng thành nhanh
chóng và vững chắc. Chính vì vai trò to lớn của tự phê bình và phê bình trong xây dựng
Đảng nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn
dặn: Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, Đảng cần tự phê bình và
phê bình như con người cần có cơm ăn, nước uống, không khí để thở, không thường
xuyên tự phê bình và phê bình thì Đảng sẽ hỏng. Nếu thiếu tự phê bình và phê bình thì
không một cán bộ lãnh đạo nào có thể tiến bộ được.
Từ những trình bày trên cho thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện
Thành ủy quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng đối với thành phố Hà Nội hiện nay, việc
tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ này có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành bại
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Thủ đô, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Hà Nội phấn đấu đi trước cả nước 5 năm, góp phần thực hiện mục tiêu tới
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
1.2. CHẤT LƯỢNG TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH CỦA ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ LÃNH ĐẠO CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN THÀNH ỦY QUẢN LÝ HIỆN NAY-
MỤC ĐÍCH, QUAN NIỆM VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
1.2.1. Mục đích tự phê bình và phê bình của cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc
diện Thành ủy quản lý
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh - tự phê bình
và phê bình là thuộc tính bản chất của chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân.
Đảng của giai cấp công nhân vận động và phát triển trong điều kiện xã hội còn có giai
cấp và đấu tranh giai cấp thì những mâu thuẫn nảy sinh trong Đảng là khó tránh khỏi.
Song đây là mâu thuẫn trong nội bộ đội tiên phong. Việc đấu tranh để giải quyết những
mâu thuẫn trong Đảng làm cho Đảng không ngừng lớn mạnh là cần thiết và tất yếu.
Nhưng đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn trong Đảng, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã
từng chỉ rõ, tuyệt đối không được dùng biện pháp bạo lực thanh trừng lẫn nhau, loại bỏ
lẫn nhau, mà phải đấu tranh bằng phê bình và tự phê bình. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh:
"Tự phê bình và phê bình là việc tuyệt đối cần thiết cho hết thảy mọi chính đảng sống và
đầy sức sống. Không gì tầm thường bằng chủ nghĩa lạc quan tự mãn" [20, tr. 395-396].
Người còn chỉ rõ:
Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay đều bị
tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của
mình và sợ không dám nói lên những nhược điểm của mình. Còn chúng ta,
chúng ta sẽ không bị tiêu vong, vì chúng ta không sợ nói lên những nhược
điểm của chúng ta, và từ những nhược điểm đó, chúng ta sẽ học được cách
khắc phục [22, tr. 141].
Theo V.I Lênin, thái độ của một chính đảng trước sai lầm, khuyết điểm của mình
là một trong những tiêu chuẩn quan trọng và chắc chắn nhất để xem xét đảng ấy có
nghiêm túc không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ của mình đối với giai cấp mình và đối
với quần chúng lao động không. Một đảng "công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên
nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để
sửa chữa sai lầm ấy, đó là dấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm túc, đó là đảng làm tròn
những nghĩa vụ của mình" [21, tr. 51].
Người còn nhấn mạnh, trách nhiệm của những người cộng sản không phải là
giấu giếm những nhược điểm trong phong trào của mình, mà là công khai phê phán
những nhược điểm đó, để khắc phục được chúng một cách nhanh chóng và triệt để hơn.
Nếu cứ giữ mãi sai lầm, đi sâu thêm để bào chữa cho nó, "đưa nó đến chỗ tột cùng" thì từ
một sai lầm nhỏ, người ta luôn luôn có thể làm cho nó trở thành một sai lầm lớn ghê
gớm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta luôn coi tự
phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt Đảng, là quy luật phát triển của Đảng.
Người nói:
Ngừng phê bình và tự phê bình tức là ngừng tiến bộ, tức là thoái
bộ. Người ta luôn cần không khí để sống. Người cách mạng và đoàn thể
cách mạng cần phê bình và tự phê bình thiết tha như người ta cần không
khí. Cách mạng sở dĩ phát triển mãi, tiến bộ mãi, càng gặp nhiều gian khổ,
càng mạnh mẽ thêm, là do có phê bình và tự phê bình [25, tr. 242].
Người còn nhấn mạnh:
Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ vì đâu mà có
khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó rồi tìm cách để sửa
chữa khuyết điểm. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn,
chân chính [25, tr. 243].
Do vậy, để giúp cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu cao, đủ khả năng lãnh đạo thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng
trong mỗi thời kỳ, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở và từng cán
bộ, đảng viên của Đảng phải thường xuyên nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình.
Thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng chính là để khắc phục, sửa chữa
những hạn chế, yếu kém, những sai lầm, khuyết điểm của Đảng, đồng thời là để phát huy
những thành tựu, ưu điểm, những nhân tố mới tiến bộ, tích cực của các tập thể, cá nhân
cán bộ, đảng viên trong các cấp ủy, tổ chức đảng, làm cho Đảng "phát triển mãi, tiến bộ
mãi" như lời Bác Hồ đã dạy.
Để tự phê bình và phê bình có hiệu quả, trở thành nề nếp thường xuyên trong
sinh hoạt Đảng thì các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải nhận thức và thực
hiện đúng vai trò, tính chất, qui trình, phương pháp của tự phê bình và phê bình trong
Đảng. Cấp ủy cấp trên phải tự giác gương mẫu tự phê bình và phê bình trước cấp dưới,
sau đó chỉ đạo cho cấp ủy cấp dưới tự phê bình và phê bình trước đảng viên và quần
chúng. Đây là những tổng kết kinh nghiệm sâu sắc của Đảng ta trong thực hiện chế độ tự
phê bình và phê bình qua các thời kỳ cách mạng.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý có vị trí, vai trò
hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Thành ủy trên các lĩnh vực, các
mặt công tác, trong đó có công tác xây dựng nội bộ Đảng. Chất lượng và hiệu quả của
hoạt động tự phê bình và phê bình trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện
Thành ủy quản lý không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của đảng bộ thành phố, của Thành ủy, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng,
hiệu quả tự phê bình và phê bình và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức
đảng trực thuộc Đảng bộ thành phố
Mục đích chung nhất của tự phê bình và phê bình là nhằm phát hiện những ưu
điểm và khuyết điểm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý
trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đảng bộ;
trong hoạt động xây dựng nội bộ và củng cố mối quan hệ đảng với nhân dân. Từ đó, đề ra
những chủ trương, biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục, sửa chữa khuyết điểm của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý, làm cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý đủ phẩm chất, năng lực thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ chính trị, các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng
trên địa bàn thành phố, đồng thời thắt chặt mối quan hệ Đảng với quần chúng nhân dân.
- Mục tiêu cụ thể của tự phê bình và phê bình trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt thuộc diện Thành ủy quản lý là:
Thứ nhất, đối với hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
thuộc diện Thành ủy quản lý và các Thành ủy viên.
Thực hiện tự phê bình và phê bình trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc
diện Thành ủy quản lý chính là hoạt động để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Thành ủy, củng cố và tăng cường khối đoàn kết thống nhất nội bộ đảng, cụ thể là:
- Nâng cao chất lượng các nghị quyết của Thành ủy, xác định đúng và trúng
nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ thành phố. Thực tế cho thấy, việc ra các quyết định, các
nghị quyết lãnh đạo đúng đắn của Thành ủy luôn luôn phụ thuộc vào chất lượng của đội
ngũ Thành ủy viên, nhất là cán bộ chủ chốt. Thực tiễn luôn không ngừng vận động, phát
triển, nếu Thành ủy và từng Thành ủy viên không bám sát thực tế, không năng động sáng
tạo, không thường xuyên xem xét đánh giá đúng tình hình thực tế và đánh giá đúng chính
bản thân mình thì rất dễ dẫn đến quan liêu, xa rời thực tế, từ đó sẽ dẫn đến việc định ra
các nghị quyết và quyết định lãnh đạo càng xa rời thực tế, không đi vào cuộc sống. Qua
thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, tập thể Thành
ủy không chỉ thấy rõ những điểm mạnh, những điểm phù hợp của các quyết định lãnh
đạo, mà còn thấy rõ cả những điểm hạn chế, yếu kém, thiếu sót trong các quyết định lãnh
đạo của mình, từ đó bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa các nghị quyết sao cho đúng và trúng.
- Nâng cao chất lượng xây dựng các chương trình, kế hoạch công tác và chất
lượng tổ chức thực hiện nghị quyết Thành ủy.
Nghị quyết và quyết định lãnh đạo của Thành ủy là sản phẩm trí tuệ của tập thể
những cán bộ gương mẫu, uy tín và trí tuệ trong đảng bộ. Tuy nhiên, nghị quyết tự nó
không trở thành hiện thực được. Để đưa nghị quyết vào cuộc sống, biến nó thành hiện
thực của đời sống kinh tế - xã hội, cần phải xây dựng nhiều chương trình, kế hoạch, đề án
công tác triển khai thực hiện nghị quyết, đồng thời mỗi cấp ủy viên, mỗi cán bộ lãnh đạo
chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý, theo chức trách được phân công, tổ chức thực hiện
các chương trình, kế hoạch, đề án công tác đó.
Quá trình xây dựng kế hoạch và đề án công tác, quá trình tổ chức thực hiện kế
hoạch đòi hỏi tập thể cán bộ lãnh đạo, cũng như mỗi cá nhân cán bộ lãnh đạo phải dân
chủ thảo luận, đề cao trách nhiệm cá nhân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong tập thể lãnh đạo để phát huy ưu điểm, khắc
phục khuyết điểm. Thực tiễn cho thấy, những vấn đề phức tạp nảy sinh trong hoạt động
lãnh đạo thường không diễn ra trong quá trình ra nghị quyết lãnh đạo, mà chủ yếu nảy
sinh trong tổ chức thực hiện nghị quyết. Chính quá trình tổ chức thực hiện mới nảy sinh
nhiều mâu thuẫn phức tạp. Đó là những mâu thuẫn trong giải quyết quan hệ lợi ích của
cán bộ, đảng viên, quần chúng; mâu thuẫn giữa nói và việc làm; giữa nhận thức và hành
động; giữa hữu khuynh và tả khuynh Do vậy rất cần có tự phê bình và phê bình trong
tập thể Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy, cũng như các cấp ủy đảng ở cơ sở để kịp
thời uốn nắn sai lầm, lệch lạc, khắc phục sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm và
nhân tố tích cực.
- Nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng nội bộ cấp ủy, tổ chức đảng. Mục
đích của tự phê bình và phê bình là một trong những hoạt động xây dựng nội bộ, tổ chức
đảng, được tiến hành thường xuyên, trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, các mặt công tác của
tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, nhằm làm cho Đảng ngày càng lớn mạnh, ngày càng "tiến
bộ mãi, phát triển mãi". Do vậy, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình sẽ có tác dụng tích
cực, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các mặt hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng.
Thứ hai, đối với cá nhân cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý.
Qua tự phê bình và phê bình, mỗi đồng chí cán bộ thấy được những ưu điểm,
khuyết điểm và hạn chế thiếu sót của mình, cũng như của đồng chí mình về nhận thức,
lập trường tư tưởng chính trị, về năng lực trình độ công tác. Qua đấu tranh tự phê bình và
phê bình, mỗi cán bộ lãnh đạo tự thấy được những ưu điểm và nhược điểm của mình.
Những khuyết điểm được phân tích, đánh giá thấu tình, đạt lý trong tập thể sẽ làm cho
người có khuyết điểm tự tin hơn, có quyết tâm cao hơn trong việc sửa chữa khuyết điểm.
Những ưu điểm sẽ là kinh nghiệm tốt để các đồng chí cán bộ lãnh đạo khác học tập, noi
gương làm theo. Nhờ có tinh thần, thái độ thẳng thắn trong đấu tranh tự phê bình và phê
bình mà những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, chủ quan duy ý chí, hoặc hữu khuynh, tả
khuynh, cơ hội, được nhận diện, lên án và phê phán.
Tự phê bình và phê bình không chỉ thuần túy là nêu ưu điểm để phát huy, vạch
khuyết điểm để khắc phục sửa chữa. Tự phê bình và phê bình là trường học của những
đảng viên của Đảng. Nhờ có tự phê bình và phê bình mà cán bộ, đảng viên không ngừng
nâng cao trình độ nhận thức, năng lực và tác phong công tác. Môi trường hoạt động thực
tiễn của đảng viên và đời sống sinh hoạt đảng luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Vào Đảng
và trở thành cán bộ lãnh đạo, đảng viên ấy là người của tổ chức, chịu sự tác động giáo
dục rèn luyện của tổ chức, mà biện pháp thường nhật, sắc bén để tổ chức giáo dục đảng
viên đó là vũ khí tự phê bình và phê bình.
Thứ ba, đối với các tổ chức đảng và cán bộ đảng viên ở cơ sở.
Mỗi đồng chí cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý, trước hết là các
đồng chí thành ủy viên một mặt họ là ban lãnh đạo của Đảng bộ thành phố, nhưng mặt khác
họ là cán bộ chủ chốt là đảng viên tham gia sinh hoạt ở một tổ chức cơ sở đảng nhất định. Do
vậy, quá trình tiến hành tự phê bình và phê bình đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện
Thành ủy quản lý vừa phải tự phê bình và phê bình trong tập thể Thành ủy (hoặc Ban thường
vụ Thành ủy) vừa phải tự phê bình và phê bình trong chi bộ mà bản thân tham gia sinh hoạt.
Hơn nữa là người cán bộ lãnh đạo cấp trên của các tổ chức đảng cấp dưới, họ còn phải tự phê
bình và phê bình trước cấp ủy cấp dưới nữa. Đảng ta đòi hỏi, cán bộ lãnh đạo cấp trên phải tự
giác, gương mẫu tự phê bình và phê bình trước cấp dưới, sau đó chỉ đạo cho cấp dưới phê
bình cấp trên và tự phê bình trước quần chúng. Thực tế chỉ rõ cấp trên càng nghiêm túc tự
giác tự phê bình và phê bình tốt bao nhiêu thì càng làm cho cấp dưới tự phê bình và phê bình
tốt bấy nhiêu. Hơn nữa nội dung tự phê bình và phê bình của cấp trên góp phần làm rõ và
toàn diện hơn đối với nội dung tự phê bình và phê bình của cấp dưới.
Từ cơ sở trên cho thấy, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình trong đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý trước hết là các đồng chí thành ủy viên
không những nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Thành ủy, Ban thường vụ
Thành ủy, nâng cao phẩm chất, năng lực, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý mà còn góp phần nâng cao chất lượng tự phê bình
và phê bình, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên ở
các tổ chức của hệ thống chính trị ở thành phố.
1.2.2. Quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng tự phê bình và phê bình
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà nội quản lý hiện nay.
1.2.2.1. Quan niệm về chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý
Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình;
tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình. Tự phê bình và
phê bình phải đi đôi với nhau, tạo điều kiện cho nhau. Mục đích của tự phê
bình và phê bình là để cho mọi người học ưu điểm của nhau và giúp nhau
sửa chữa khuyết điểm, giúp nhau tiến bộ, hoàn thành nhiệm vụ [24, tr. 267].
"Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của đảng cộng sản" [14, tr. 49].
"Tự phê bình và phê bình là biện pháp căn bản để giáo dục, rèn luyện đảng viên, củng cố
đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đảng ta yêu cầu phải thường xuyên thực hiện nghiêm
túc và có chất lượng chế độ tự phê bình và phê bình" [9, tr. 12].
Khái niệm chất lượng tự phê bình và phê bình:
Từ điển Tiếng Việt chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con
người, một sự vật, sự việc [42, tr. 139]; theo quan điểm triết học, chất lượng là các mối
quan hệ bản chất, ở bên trong của sự vật, hiện tượng được biểu hiện ra bên ngoài bằng
các thuộc tính bản chất của nó.
Nói đến chất lượng là phải nói tới hai yếu tố: thứ nhất, đó là tổng hợp những
phẩm chất, tính chất (thuộc tính) tạo nên cái giá trị của một con người, một sự vật, hiện
tượng; thứ hai, những phẩm chất đó đáp ứng đến đâu những yêu cầu đã đặt ra. Nói đến
chất lượng là nói đến tốt hay xấu, đạt hay không đạt một chuẩn mực nào đó do con người
và tổ chức xã hội xem xét đánh giá.
Do vậy, khi xem xét chất lượng hoạt động tự phê bình và phê bình của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý chúng ta phải xem xét đến
hai nhóm yếu tố cấu thành chất lượng của hoạt động này.
Thứ nhất, nhóm yếu tố cấu thành những thuộc tính bản chất của tự phê bình và
phê bình trong Đảng Cộng sản Việt Nam, bao gồm: Mục đích, tính chất, nội dung,
phương pháp, và mức độ đúng, sai của tự phê bình và phê bình. Bản thân hoạt động tự
phê bình và phê bình nói chung chỉ là hoạt động phân tích xem xét đánh giá những ưu
điểm và khuyết điểm của cá nhân hay tổ chức nhằm nêu rõ ưu điểm để phát huy, vạch rõ
khuyết điểm để khắc phục, sửa chữa. Nhưng do mục đích, tính chất, nội dung phương
pháp tự phê bình và phê bình của các chủ thể nhận thức và hoạt động khác nhau mà có sự
khác nhau về bản chất. Đối với tự phê bình và phê bình trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý, trước hết, đây là chế độ sinh hoạt đảng của những
đảng viên của Đảng, lại là những đảng viên uy tín, gương mẫu có trách nhiệm cao trong
các đảng bộ thành phố.
Do vậy, hoạt động tự phê bình và phê bình phải tuân thủ đúng mục đích, tính
chất, nội dung, phương pháp tự phê bình và phê bình theo các quy định của Đảng. Mục
đích chủ yếu của tự phê bình và phê bình trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc
diện Thành ủy Hà Nội quản lý là giúp người lãnh đạo nhận rõ những ưu điểm, những mặt
mạnh để phát huy, thấy được những khuyết điểm, những hạn chế để khắc phục, sửa chữa.
Bằng cách như vậy, những người lãnh đạo không ngừng giáo dục rèn luyện lẫn nhau, bồi
dưỡng cho nhau về phẩm chất và năng lực công tác, qua đó nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của đảng bộ, củng cố đoàn kết thống nhất trong cấp ủy và tổ chức đảng.
Để thực hiện mục đích nói trên, hoạt động tự phê bình và phê bình phải thể hiện
đầy đủ bốn tính chất cơ bản của tự phê bình và phê bình trong Đảng, đó là: tính đảng,
tính giáo dục, tính chân thành công khai, tính thiết thực hiệu quả. Tính đảng yêu cầu
những cán bộ lãnh đạo, khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải đứng trên lập trường
của Đảng, phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của Đảng và tổ chức đảng, phải căn cứ
vào các quy định của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước để xem xét, đánh giá
những ưu điểm, khuyết điểm của đồng chí mình. Tuyệt đối không được xuất phát từ
những động cơ và lợi ích của cá nhân mình. Tính giáo dục đòi hỏi, trong quá trình tự phê
bình và phê bình, những người cán bộ lãnh đạo phải xuất phát từ động cơ mong muốn
đồng chí mình không ngừng tiến bộ trưởng thành để phê bình, góp ý, chỉ rõ những ưu
điểm để phát huy, vạch rõ khuyết điểm để khắc phục. Phê bình không phải để đả kích, hạ
thấp uy tín của đồng chí mình. Tính chân thành công khai trong tự phê bình và phê bình
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý chỉ ra rằng: trên tình
thương yêu đồng chí, thẳng thắn chân tình xem xét đánh giá những ưu điểm và khuyết
điểm của đồng chí mình một cách dân chủ, trong tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và đảng
viên. Không né tránh, không "dĩ hòa vi quý", không phân biệt chức vụ, ngôi thứ trong
ban lãnh đạo. Đây là một đòi hỏi rất cao trong điều kiện hiện nay, tuy nhiên nếu không
bảo đảm tính chất này thì tự phê bình và phê bình trong ban lãnh đạo cũng không có ý
nghĩa gì nhiều. Tính thiết thực hiệu quả chỉ rõ rằng, tự phê bình và phê bình trong đội
ngũ cán bộ lãnh đạo phải chỉ rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ biện pháp khắc phục.
Tránh tình trạng chung chung, tự phê bình và phê bình nhiều lần, cùng một khuyết điểm,
nhưng không được sửa chữa nghiêm túc. Hoặc, thậm chí, rõ người, rõ việc nhưng sau tự
phê bình và phê bình tình hình vẫn không có chuyển biến tiến bộ.
Về nội dung của tự phê bình và phê bình, có thể nói tất cả các hoạt động lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức thực tiễn, rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống, vận động quần
chúng và người thân chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý, đều
cần được phân tích xem xét đánh giá để chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và
biện pháp khắc phục.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, cần tập trung tự phê bình và phê bình về
nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị; chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật Nhà nước; chấp hành nguyên tắc đảng; mức độ hoàn thành nhiệm vụ chức
trách được giao; rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống, chống quan liêu tham nhũng; giữ
gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng và tinh thần thái độ phục vụ nhân dân.
Về phương pháp tự phê bình và phê bình cần thể hiện rõ trên những mặt sau đây:
- Phải đúng quy trình tự phê bình và phê bình theo quy định chung:
+ Cá nhân đảng viên, cán bộ lãnh đạo và cấp ủy phải tự phê bình nghiêm túc, có thể
bằng văn bản nhưng cũng có thể bằng lời trước tập thể đảng.
+ Tập thể đảng viên, cấp ủy xem xét, đánh giá, góp ý và kết luận nội dung tự phê
bình và phê bình của đảng viên, cán bộ và tổ chức đảng một cách dân chủ, công khai
trong tập thể đảng.
+ Cấp ủy và lãnh đạo cấp trên gợi ý, chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới tự phê bình và
phê bình những nội dung cần tập trung làm rõ.
+ Cán bộ lãnh đạo được cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên phê bình có quyền bảo
lưu ý kiến của mình về những kết luận của tập thể, nhưng phải chấp hành ý kiến của tập thể đảng
viên và tổ chức đảng cho đến khi có những đánh giá lại.
- Phải có phương pháp phù hợp, đúng quan điểm:
+ Phê bình từ trên xuống, từ dưới lên: cấp ủy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt tự phê
bình và phê bình trước cấp dưới, sau đó chỉ đạo cấp dưới phê bình cấp trên và tự phê bình
trước quần chúng, đảng viên.
+ Phê bình việc làm, không phê bình người: tập trung làm rõ ưu điểm và khuyết
điểm của cán bộ lãnh đạo trong hoạt động theo chức trách, nhiệm vụ được phân công;
phải tôn trọng những tính cách cá nhân, những cái riêng của cán bộ lãnh đạo, không lẫn
lộn phong cách chung của người lãnh đạo với cái riêng có của mỗi người cán bộ.
+ Gắn phê bình với tự phê bình, tự phê bình và phê bình với sửa chữa khuyết
điểm. Nếu người cán bộ lãnh đạo chỉ chú ý phê bình tốt đối với người khác mà không tự
phê bình mình thì chẳng khác nào - như Chủ tịch Hồ Chí Minh thường ví - người thầy
thuốc giỏi chỉ quen chữa cho người khác, còn bệnh tật của mình thì quên không chữa.
Sau khi có tinh thần, thái độ tự phê bình và phê bình tốt, người cán bộ lãnh đạo còn phải
kiên quyết sửa chữa khuyết điểm. Chỉ có như vậy thì việc tự phê bình và phê bình của
cán bộ lãnh đạo mới trở thành tấm gương cho cấp dưới và quần chúng noi theo.
- Phải bảo đảm khách quan, công tâm, chỉ rõ đúng sai, không thiên vị, thêm, bớt.
Thứ hai, nhóm yếu tố nói lên tác dụng xây dựng tổ chức và xây dựng người cán
bộ của hoạt động tự phê bình và phê bình.
Mỗi một thời kỳ cách mạng có những đòi hỏi mới về tác dụng của hoạt động tự
phê bình và phê bình trong xây dựng tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ và phục vụ
hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trong điều kiện hiện nay hoạt động tự phê bình và phê
bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý được
xem là có chất lượng tốt nếu nó đáp ứng được những đòi hỏi sau đây: